Triết lý âm dương ngũ hành trong ẩm thực Việt
Mang màu sắc văn hóa nông nghiệp lúa
nước,
cư
dân
người
Việt
Người xưa thường nói “có thực mới vực được đạo”. Trong các nhu cầu của con người: thực, y
tự nhiên.
Nguồn ảnh: xinhxinh.com.vn
Ẩm thực phải bảo đảm hài hòa âm dương. Để tạo nên các món ăn có sự c
Khi chế biến thức ăn, người Việt luôn thủ nghiêm ngặt luật âm dương bù trừ và chuyển hóa k
thì ăn rất thơm, ngon.
Nguồn ảnh: tapchiamthuc.vn
Triết lý âm dương ngũ hành trong ẩm thực Việt còn thể hiện ở việc bảo đảm sự quân bình âm
n
h
ã
n
,
t
á
o
,
V
ì
v
ậ
y
,
n
ế
u
n
g
ư
ờ
i
Một trong những triết lý âm dương nữa trong văn hóa ẩm thực Việt là bảo đảm sự quân bình
Nguồn ảnh: vnthuquan.net
Trong chế biến thức ăn, phải đảm bảo đủ ngũ chất gồm: bột, nước, khoáng, đạm, béo; đủ ngũ
đ
ậ
m
,
v
ị
c
h
u
a
t
h
a
Tóm lại có thể khẳng định, văn hóa ẩm thực Việt chính là sự hòa quyện
ẨM THỰC VÀ ẨM THỰC VIỆT NAM
TỪ GÓC NHÌN TRIẾT LÝ ÂM DƯƠNG
GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm
(Trường Đại học KHXH-NV,
Đại học Quốc gia Tp. HCM)
Triết lý âm dương là nguyên lý điều phối mọi mặt của cuộc sống, trong đó
rõ rệt nhất là lĩnh vực ẩm thực và giữ gìn sức khoẻ. Trong lĩnh vực ẩm thực và
y dược Đông-Tây, mọi sai lầm đã mắc phải lâu nay đều có nguyên nhân chủ
yếu là do hữu thức hoặc vô thức không tuân thủ các quy luật của triết lý âm
dương, không coi trọng đúng mức vai trò của nó. Bài viết nói về một số sai lầm
nghiêm trọng thường mắc phải trong các tài liệu viết về ẩm thực và giữ gìn
sức khoẻ. Đồng thời đi sâu vào năm phương diện liên quan mật thiết với nhau
của sự hài hòa âm dương trong ẩm thực Việt Nam là: (a) Sự hài hòa âm
dương của khách thể (thức ăn); (b) Sự hài hòa âm dương của chủ thể (con
người); (c) Sự hài hòa âm dương giữa chủ thể với không gian (con người với
môi trường tự nhiên); (d) Sự hài hòa âm dương giữa chủ thể với thời
gian (con người với mùa); (e) Sự hài hòa âm dương giữa chủ thể với hoạt
động (con người với công việc).
Từ khoá: triết lý âm dương, ẩm thực, ẩm thực Việt Nam, hài hòa âm
dương.
I- TƯ DUY ĐÔNG-TÂY VÀ TRIẾT LÝ ÂM DƯƠNG
1.1. Triết lý âm dương là nguyên lý điều phối mọi mặt của cuộc sống, trong đó
rõ rệt nhất là lĩnh vực ẩm thực và giữ gìn sức khoẻ.
Trên thế giới có hai lối tư duy chủ yếu là tổng hợp và phân tích (hay "chủ
toàn" và "chủ biệt" theo thuật ngữ của GS. Cao Xuân Huy [1]). Tư duy tổng hợp đặc
thù cho truyền thống phương Đông và tư duy phân tích đặc thù cho truyền thống
phương Tây. Sản phẩm của tư duy phân tích là "khoa học", còn sản phẩm của tư
duy tổng hợp là "đạo học". Ưu điểm của khoa học là năng lực chuyên sâu; còn ưu
điểm của đạo học là khả năng bao quát. Do quá chuyên sâu nên khoa học có nhược
điểm là thiếu bao quát, quá lệ thuộc vào thực nghiệm và con số, dẫn đến thường
xuyên mắc sai lầm; còn đạo học thì do quá bao quát nên có nhược điểm là trừu
tượng mơ hồ, quá lệ thuộc vào cảm tính và kinh nghiệm, dẫn đến thường xuyên
thiếu sức thuyết phục.
Trong đạo học thì nguyên lý cốt lõi là luật âm dương, còn trong khoa học thì
nguyên lý cốt lõi là luật lô-gic. Luật lô-gic phân tích các đặc tính của vạn vật trong
trạng thái tĩnh tại, còn luật âm dương tổng hợp các quan hệ của vạn vật trong
trạng thái vận động. Tĩnh chỉ là một trường hợp cá biệt của động, cho nên chúng
tôi có cơ sở để khẳng định rằng triết lý âm dương - chứ không phải luật lôgic - mới chính là nguyên lý điều phối mọi mặt của cuộc sống.
Sản
phẩm
Ưu điểm
Nhược
điểm
Nguyên
lý cốt lõi
Đặc
điểm
PHƯƠNG ĐÔNG:
TƯ DUY TỔNG HỢP
Đạo học
PHƯƠNG TÂY:
TƯ DUY PHÂN TÍCH
Khoa học
Khả năng bao quát
Trừu tượng mơ hồ, quá lệ
thuộc vào cảm tính và
kinh nghiệm, dẫn đến
thường xuyên thiếu sức
thuyết phục
Luật âm dương
Năng lực chuyên sâu
Thiếu bao quát, quá lệ
thuộc vào thực nghiệm và
con số, dẫn đến thường
xuyên mắc sai lầm
Luật lô-gic
Tổng hợp các quan hệ của Phân tích các đặc tính
vạn vật trong trạng thái
của vạn vật trong trạng
vận động
thái tĩnh tại
1.2. Trong lĩnh vực ẩm thực và y dược Đông-Tây, mọi thành tựu có được lâu
nay là sản phẩm của cả khoa học lẫn đạo học, còn mọi sai lầm đã mắc phải thì đều
có nguyên nhân chủ yếu và cuối cùng là do hữu thức hoặc vô thức không tuân thủ
các quy luật của triết lý âm dương, không coi trọng đúng mức vai trò của nó.
Trong quá trình tồn tại lâu dài của mình, hầu hết mọi dân tộc đều vô thức
hoặc hữu thức tích luỹ được một truyền thống văn hoá ẩm thực phù hợp với các
quy luật của triết lý âm dương. Các nền văn hoá phương Đông, do hiểu biết về triết
lý âm dương, nên truyền thống văn hoá ẩm thực ở đây lại càng phong phú và giá
trị.
Tuy nhiên, do triết lý âm dương nói riêng và đạo học nói chung có nhược điểm
là trừu tượng mơ hồ, nên sách vở viết về vấn đề này là quá ít, và trong những sách
vở ít ỏi đó thì lại có khá nhiều sai lầm. Trách nhiệm của chúng ta hiện nay là với sự
hỗ trợ của tư duy khoa học, xây dựng những lý thuyết tường minh về triết lý âm
dương và áp dụng chúng vào các lĩnh vực, trong đó có ẩm thực.
II- TRIẾT LÝ ÂM DƯƠNG TRONG ẨM THỰC
2.1. Trên cơ sở cái gốc là triết lý âm dương, người xưa đã cụ thể hoá và phát
triển lên thành các mô hình tam tài và ngũ hành, tứ tượng và bát quái. Trong lĩnh
vực ẩm thực và giữ gìn sức khoẻ, quan trọng nhất là âm dương và ngũ hành.
Trong các sách của mình [3,4,5], chúng tôi đã nói đến hai quy luật của triết lý
âm dương. Nay xin điều chỉnh lại là luật âm dương có ba đặc tính và ứng với
chúng là ba quy luật:
(a)
Tính phổ biến ứng với luật thành tố: trong âm có dương, trong dương
có âm
(b) Tính bù trừ ứng với luật quan hệ: âm dương chuyển hoá cho nhau
(c) Tính cân bằng ứng với luật khuynh hướng: vạn vật hướng tới âm
dương hài hòa.
2.2. Do chưa hiểu đến cội nguồn ba đặc tính và ba quy luật này nên trong các
tài liệu viết về ẩm thực phương Đông xưa nay mắc một số sai lầm nghiêm trọng. Ơ
đây chỉ đề cập đến hai trong số ấy.
Sai lầm thứ nhất là khi "phân loại thức ăn theo âm dương", các sách thường
gắn chết đặc tính âm/dương cho từng loại nguyên liệu để người đọc theo đó mà
tra cứu, sử dụng. Ngay cả tiên sinh Ohsawa [2] cũng phạm phải sai lầm này. Chẳng
hạn, họ khẳng định như đinh đóng cột rằng củ cà rốt là dương, quả cà là âm. Trong
khi thực ra theo luật thành tố thì vạn vật đều vừa âm vừa dương, do vậy muốn xác
định một vật là âm hay dương thì phải đặt trong quan hệ so sánh. Người đàn bà là
âm so với người đàn ông nhưng lại là dương so với con mèo. Quả cà là âm so với
quả ớt nhưng sẽ là dương so với, chẳng hạn, quả dừa.
Trong một số ngữ cảnh, ta vẫn có thể nói rằng người đàn bà là âm, quả ớt là
dương, nhưng luôn phải hiểu ngầm rằng điều đó chỉ đúng trong những quan hệ so
sánh nhất định. Khi đặt chúng vào những ngữ cảnh khác, quan hệ so sánh khác,
bản chất âm dương của chúng hoàn toàn có thể thay đổi. Đó chính là lý do vì sao
cùng một thứ nguyên liệu nấu ăn mà sách này khẳng định là dương trong khi sách
khác lại bảo là âm, gây nên sự hoang mang triền miên cho người dùng.
Sai lầm thứ hai là coi năm vị mặn-đắng-chua-cay-ngọt là thuộc tính của năm
hành thuỷ-hoả-mộc-kim-thổ, giống như, chẳng hạn, năm tạng thận-tâm-can-phếtỳ. Đúng là tất cả các bộ năm tương ứng với ngũ hành đều là những thuộc tính của
chúng, duy nhất chỉ có ngũ vị thì không phải. Quan hệ giữa ngũ vị với ngũ hành và
các thuộc tính khác của chúng là quan hệ bổ túc theo luật âm dương chuyển hoá:
NGŨ HÀNH
NGŨ TẠNG
NGŨ VI
Thuỷ
Hoả (+) Mộc (+) Kim (- Thổ (-/+)
(-)
)
Thận ( Tâm (+ Can (+) Phế (- Tỳ (-/+)
-)
)
)
Mặn
Đắng (- Chua (Cay
Ngọt (+/
(+)
)
)
(+)
-)
Chính nhờ quan hệ bổ túc này mà y học cổ truyền mới nói rằng "vị mặn đi
thẳng vào thận, vị đắng đi thẳng vào tâm, v.v.".
III- SỰ CÂN BẰNG ÂM DƯƠNG TRONG ẨM THỰC VIỆT NAM
3.0. Trong các sách của mình [3,4,5], chúng tôi đã nói đến ba phương diện của
sự hài hòa âm dương trong ẩm thực Việt Nam là: (a) sự hài hòa âm dương của
thức ăn, (b) sự hài hòa âm dương trong cơ thể, và (c) sự hài hòa âm dương giữa
con người với môi trường tự nhiên.
Nay chúng tôi bổ sung và khái quát lên thành năm phương diện liên quan mật
thiết với nhau như sau:
(a) Sự hài hòa âm dương của khách thể (thức ăn)
(b) Sự hài hòa âm dương của chủ thể (con người)
(c) Sự hài hòa âm dương giữa chủ thể với không gian (con người với môi
trường tự nhiên)
(d) Sự hài hòa âm dương giữa chủ thể với thời gian (con người với mùa)
(e) Sự hài hòa âm dương giữa chủ thể với hoạt động (con người với công
việc).
3.1. Sự hài hòa âm dương của khách thể: thức ăn
Để tạo nên những món ăn có sự hài hòa âm dương, người Việt Nam phân
biệt thức ăn theo năm mức âm dương, ứng với ngũ hành: hàn (lạnh, âm nhiều =
thủy); nhiệt (nóng, dương nhiều = Hỏa); ôn (ấm, dương ít = mộc);lương (mát, âm
ít = kim), và bình (trung tính = thổ). Theo đó, người Việt có truyền thống tuân thủ
nghiêm nhặt luật âm dương bù trừ và chuyển hóa khi chế biến.
Việt Nam có tập quán dùng gia vị rất phát triển. Gia vị, ngoài tác dụng kích
thích dịch vị, làm dậy mùi thơm ngon của thức ăn, chứa các kháng sinh thực vật có
tác dụng bảo quản thức ăn, hạn chế sự phát triển của vi sinh vật, còn có tác dụng
đặc biệt là điều hòa âm dương, hàn nhiệt của thức ăn.
Chẳng hạn, gừng tính nhiệt (dương), cho nên thường dùng kèm theo với
những thực phẩm có tính hàn (âm hơn so với gừng) như bí đao, rau cải, cải bắp,
cá, thịt vịt... (rau cải nấu canh với gừng, thịt vịt chấm với nước mắm
gừng...). Ớt cũng thuộc loại nhiệt (dương), cho nên được dùng nhiều trong các loại
thức ăn thủy sản (cá, tôm, cua, mắm...) là những thứ vừa hàn (âm hơn so với ớt),
lại có mùi tanh. Lá lốt thuộc loại hàn (âm) đi với mít thuộc loại nhiệt (dương). Rau
răm thuộc loại nhiệt (dương) đi với trứng lộn thuộc loại hàn (âm), v.v. Những tri
thức kiểu này đã đi vào những câu ca dao nổi tiếng như: Con gà cục tác lá chanh;
Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi; Con chó khóc đứng khóc ngồi, Mẹ ơi đi chợ mua
tôi đồng riềng; Con trâu ngó ngó nghiêng nghiêng, Mình đã có riềng, để tỏi cho
tôi...
Sự hài hoà âm dương trong thức ăn cũng thể hiện ở việc người Việt đặc biệt
ưa thích các món ăn dạng bao tử đang trong quá trình âm dương chuyển hoá, nên
chúng cũng là những thức ăn giàu chất dinh dưỡng: Động vật cótrứng lộn, nhộng,
lợn sữa, chim ra ràng, ong non, ve non, dế non...; người Nam Bộ có món đuông một loại ấu trùng của kiến dương, sống trong ngọn cây dừa, cây cau, cây chà là - là
món ăn được dùng để tiến vua. Thực vật có giá, cốm, măng... Đánh giá cao loại
thức ăn này, tục ngữ có câu: Cốm hoa vàng, chim ra ràng, gái mãn tang, cà cuống
trứng. Không phải ngẫu nhiên mà nhau sản phụ được sử dụng làm loại nguyên liệu
đặc biệt để sản xuất thuốc bổ.
Thói quen ưa thích các món ăn dạng bao tử của người Việt là điều không thể
hiểu được đối với người phương Tây. Năm 1821 có hai nhà du lịch người Anh tên
là Crawfurd và Finlayson từ Ấn Độ đến Việt Nam, hai ông đã viết: "Một người châu
Âu chắc khó mà tin được rằng ở vùng này người ta coi thường trứng tươi, trong
khi những quả trứng đã để ung (!) đến một mức độ nào đó thì rất được giá, chúng
đắt hơn các quả kia tới một phần ba giá. Những quả chứa vịt con lại còn đắt hơn,
và trong vô số thức ăn mà nhà vua đã gởi đến ban cho chúng tôi, có ba đĩa đầy
trứng không những chỉ ung mà còn chứa những con vịt con đã có lông. Người ta
khẳng định rằng chúng tôi phải xem việc ban món ăn này là một dấu hiệu quý
trọng đặc biệt. Trong bụng còn nghi ngờ, chúng tôi sai đem trứng cho một lính
canh, thì thấy anh ta ăn một cách rất ngon lành" [6].
Âm dương mới nhìn tưởng như tương khắc, nhưng biết dùng lại trở nên
tương hợp với nhau. Người phương Tây sẽ không hiểu nổi tại sao khi ăn chè, ăn
dưa hấu... là những thứ ngọt mà người Việt Nam lại nêm thêm muối, chấm muối?
Là bởi vì dưa hấu ngọt, chè ngọt là âm (ngọt trong ngũ vị thuộc hành thổ trung
hoà, nhưng so với mặn thì là âm), có thêm chút muối mặn (dương) sẽ làm cho cái
ngọt trở nên đậm đà hơn. Ngược lại, những món như cá kho, thịt kho... mà khi nấu
trót cho mặn quá thì cách chữa tốt nhất chính là cho thêm chút đường cho âm
dương tương hợp.
Việc phối hợp nhiều nguyên liệu khác nhau sao cho đạt độ quân bình âm
dương là điều rất khó, chính vì vậy mà bệnh tật thường đến qua đường mồm. Phát
hiện quan trọng của Ohsawa [2] là việc tìm ra rằng trong một món ăn duy nhất là
gạo lứt đã có đủ sự quân bình âm dương cần thiết cho cơ thể rồi. Cho nên, trái với
khẩu hiệu của khoa học dinh dưỡng phương Tây là đa dạng hoá thức ăn, Ohsawa
khuyên rằng tốt cho sức khoẻ nhất là giữ mồm giữ miệng chỉ ăn một thứ gạo lứt
muối mè.
Cách đánh giá giá trị thức ăn của khoa học dinh dưỡng phương Tây theo số
năng lượng (calo) mà nó có khả năng cung cấp cho cơ thể và theo thành phần hoá
học - chất đạm (protit), chất béo (lipit), chất ngọt (gluxit)... - mà nó chứa đựng
chính là sản phẩm của truyền thống văn hoá thiên về định lượng và tư duy phân
tích mổ xẻ đối tượng. Còn cách đánh giá giá trị thức ăn của Việt Nam và phương
Đông theo mức độ hài hoà âm dương chính là sản phẩm của truyền thống văn hoá
thiên về định tính và tư duy tổng hợp coi trọng các mối quan hệ. Hai cách đánh giá
này, hai lối tư duy này phải bổ sung hỗ trợ cho nhau.
3.2. Sự hài hòa âm dương của chủ thể: con người
Để tạo nên sự hài hòa âm dương trong cơ thê, ngoài việc ăn các món đã
được chế biến có tính đến sự quân bình âm dương, người Việt Nam còn sử dụng
các thức ăn như những vị thuốc để điều chỉnh sự mất quân bình âm dương trong
cơ thể. Mọi bệnh tật đều xuất phát từ nguyên nhân gốc là sự mất quân bình âm
dương trong cơ thể; vì vậy, một người bị ốm do thái âm cần được cho ăn đồ dương
và ngược lại, ốm do thái dương sẽ được cho ăn đồ âm để khôi phục lại sự cân bằng
đã mất.
Ví dụ, đau bụng nhiệt (dương) thì cần ăn những thức hàn (âm) như chè đậu
đen, nước sắc đậu đen (màu đen là âm), trứng gà, lá mơ... Đau bụng hàn (âm) thì
dùng các thứ nhiệt (dương) như gừng, giềng... Bệnh sốt cảm lạnh(âm) thì ăn cháo
gừng, tía tô (dương); còn sốt cảm nắng (dương) thì ăn cháo hành (âm)... Danh
mục đồ ăn với tính năng chữa bệnh của người Việt Nam vô cùng phong phú. Trong
cuốn Vệ sinh yếu quyết [7], Hải Thượng Lãn Ông (1724-1791) đã nêu ra, chẳng
hạn, tới 36 loại cháo, 20 loại rượu... với những khả năng chữa bệnh khác nhau.
Tổng kết kinh nghiệm dân gian, ông khuyên:
Nên dùng các thứ thức ăn,
Thay vào thuốc bổ có phần lợi hơn.
Truyền thống này không có trong văn hoá phương Tây. Phương Tây chủ yếu
chữa bệnh bằng thuốc, và phòng bệnh cũng bằng thuốc.
3.3. Sự hài hòa âm dương giữa chủ thể với không gian: con người với
môi trường tự nhiên
Để bảo đảm sự hài hòa âm dương giữa con người với môi trường tự
nhiên, người Việt có tập quán ăn uống theo vùng. Mỗi vùng có địa hình, khí hậu
khác nhau sẽ tạo nên môi trường có tính âm/dương khác nhau và do vậy đòi hỏi
đồ ăn cũng phải mang tính âm/dương phù hợp.
Việt Nam là xứ nóng (dương) cho nên, để tạo nên sự cân bằng giữa con người
với môi trường, phần lớn thức ăn của người Việt Nam thuộc loại hàn, lương (âm).
Người Việt rất thích ăn đồ chua, đắng là những thứ âm - cái chua của dưa cà, của
quả khế, quả sấu, quả me, quả chanh, quả chay, lá bứa; cái đắng của rau đắng,
mướp đắng (khổ qua). Trong cuốn Nữ công thắng lãm [8] hoàn thành năm 1769,
Hải Thượng Lãn Ông kể ra khoảng 120 loại thực phẩm của người Việt thì trong đó
chúng tôi thống kê thấy đã có tới khoảng 100 loại là mang tính hàn, lương rồi. Vì
vậy, cơ cấu ăn truyền thống của người Việt Nam "cơm-rau-cá-thịt" thiên hẳn về
thức ăn thực vật (cơm-rau) và thức ăn có nguồn gốc nước (cơm-rau-cá) - tức là
thức ăn âm tính - là hoàn toàn hợp lý, nó đã góp phần quan trọng trong việc tạo
nên sự cân bằng giữa con người với môi trường.
Đông Nam Á là xứ nóng (dương), phù hợp cho việc phát triển mạnh các loài
thực vật và thủy sản (âm). Phương Tây là xứ lạnh (âm), phù hợp cho việc chăn
nuôi các loài động vật, tạo nguồn thức ăn thịt, mỡ, bơ sữa (dương). Điều đó cho
thấy chính tự thân thiên nhiên đã có sự cân bằng rồi. Và tuy rằng phương Tây
không nhận thức được quy luật âm dương, nhưng cách ăn truyền thống của họ đã
tuân theo luật âm dương một cách vô thức.
Do vậy, ăn uống theo vùng - mà chúng tôi gọi là địa văn hoá ẩm thực - chính
là cách tận dụng tối đa môi trường tự nhiên để phục vụ con người, là cách hòa
mình vào tự nhiên, tạo nên sự cân bằng biện chứng giữa con người với môi trường
tự nhiên.
Ngay trong phạm vi một quốc gia thì các vùng khác nhau cũng có truyền
thống ẩm thực khác nhau - sự khác biệt này chủ yếu không phải do thói quen mà
chính là bị chi phối bởi sự khác biệt về môi trường sống. Miền Bắc Việt Nam lạnh
hơn nên ăn nhiều mỡ hơn, có nhiều món ăn chế biến bằng cách xào nấu hơn; miền
Nam nóng quanh năm nên ăn nhiều rau hơn, cách chế biến phổ biến là ăn sống,
luộc, gần đây là nấu lẩu. Miền Bắc lạnh hơn nên thích ăn mặn (vị mặn hợp với
hành thuỷ - âm), và chống nóng bằng đồ chua là đủ rồi. Miền Nam nóng hơn nên
thích ăn ngọt (vị ngọt hợp với hành thổ - trung hoà) và phải dùng tới thứ cực âm
là đồ đắng (canh khổ qua) mới đủ chống nóng.
Không phải ngẫu nhiên mà các tôn giáo phương Đông nói chung và ở Việt
Nam nói riêng (đạo Phật, đạo Cao Đài, đạo Hoà Hảo) đều khuyến khích ăn chay.
Ngoài ý nghĩa giáo dục (giới luật cấm sát sinh), việc ăn chay (ăn thức ăn thực vật)
chính là một cách để thông qua chế độ dinh dưỡng tạo nên những con người âm
tính, hiền hòa. Có nhiều khả năng đây mới chính là lý do sâu xa của tập quán ăn
chay, điều này giải thích vì sao giới tu hành của mọi tôn giáo, từ chức sắc đến tăng
ni, đều vui vẻ chấp nhận các đồ chay làm giả dạng các món ăn thịt cá (điều này
hoàn toàn đi ngược lại ý nghĩa giáo dục!).
Sự giao lưu văn hoá rộng rãi trong tk. XX, ngoài những tác dụng tích cực như
bổ sung, làm phong phú thêm nền văn hoá của nhau, với chiều phương Tây áp đảo
phương Đông, đã kéo theo tật sùng bái khoa học, sùng bái phương Tây và đã phá
vỡ nghiêm trọng truyền thống địa văn hoá ẩm thực (ăn uống theo vùng) vốn có.
Người phương Đông ngày nay đang tiếp nhận vô số những thói quen xấu mà
không biết nên cứ tưởng rằng hay: ở theo kiểu phương Tây, mặc theo kiều phương
Tây, ăn uống theo kiểu phương Tây, phấn đấu để có hình thể to cao nặng như
người phương Tây. Phần đông đã không hiểu rằng việc ở trong những căn phòng
kín mít, việc mặc đồ veston chân đi giày đi tất, việc ăn thịt bơ sữa, cơ thể to cao...
chính là những tập quán và tiêu chuẩn chỉ phù hợp với người xứ lạnh chứ không
thích hợp với xứ nóng chút nào. Giới hữu trách thậm chí còn tuyên truyền cổ vũ
một cách sai lầm cho những chủ trương này, khiến dẫn đến hậu quả là hàng loạt
loại bệnh tật mới (như béo phì, tim mạch, vô sinh...) trở nên phổ biến.
Hiện nay, trên cơ sở những nghiên cứu khoa học, các tổ chức y tế ở nhiều nước
phương Tây cũng đang tuyên truyền cho tháp dinh dưỡng thiên về thực vật. Việc
ăn chay (vegetarian) cũng phát triển trong một bộ phận người phương Tây. Điều
này không mang tính phổ quát mà chỉ là một hiện tượng nhất thời, chỉ đúng trong
hoàn cảnh cụ thể hiện nay, khi phương Tây đã và đang lạm dụng quá mức tập
quán ăn thịt-bơ-sữa. Còn về lâu dài, nếu việc ăn rau đậu trở nên thái quá, phương
Tây sẽ rơi vào một thái cực ngược lại tệ hại không kém - đó chính là hậu quả của
sự phát triển khoa học mà thiếu hiểu biết về triết lý âm dương, thiếu quan tâm đến
địa văn hoá ẩm thực.
3.4. Sự hài hòa âm dương giữa chủ thể với thời gian: con người với
mùa
Để bảo đảm sự hài hòa âm dương giữa con người với thời gian, người
Việt có tập quán ăn uống theo mùa. Điều này thể hiện rõ nhất ở các tỉnh phía Bắc
là nơi có khí hậu 4 mùa.
Mùa hè nóng, người Việt thích ăn rau quả, tôm cá là những thứ hàn, lương (=
âm) hơn là mỡ, thịt. Khi chế biến, người ta thường ăn sống, luộc, nấu canh, làm
nộm, làm dưa, tạo nên những thức ăn có nhiều nước (âm) và vị chua (âm) vừa dễ
ăn, dễ tiêu, vừa nhẹ, vừa giải nhiệt.
Mùa đông lạnh, người Việt miền Bắc tăng cường hơn các món ăn có mỡ, thịt,
là những thức ăn dương tính, giúp cơ thể chống lạnh. Phù hợp với mùa này là các
kiểu chế biến khô hơn, dùng nhiều mỡ hơn (tức là dương tính hơn) như xào, rán,
rim, kho... Gia vị phổ biến của mùa này cũng là những thứ dương tính như ớt, tiêu,
gừng, tỏi...
Thức ăn theo đúng mùa, mùa nào thức ấy, người xưa gọi là "thời trân". Việt
Nam có biết bao câu tục ngữ về cách ăn theo mùa này: Mùa hè cá sông, mùa đông
cá bể; Chim ngói mùa thu, chim cu mùa hè; Ếch tháng ba, gà tháng bảy; Ếch tháng
mười, người tháng giêng[1]; Tháng chín ăn rươi, tháng mười ăn ruốc; Rau muống
tháng chín, nàng dâu nhịn cho mẹ chồng ăn[2]... Ăn uống theo mùa cũng là lúc sản
vật ngon nhất, nhiều nhất, rẻ nhất và tươi sống nhất, tốt nhất cho sức khoẻ.
Hiện tượng ăn thức ăn trái mùa đang ngày càng phổ biến hiện nay do giao
lưu văn hoá, do du nhập thực phẩm, trái cây... đang tiềm ẩn nguy cơ phá vỡ sự hài
hoà âm dương giữa con người với thời gian, là mầm mống của bệnh tật.
3.5. Sự hài hòa âm dương giữa chủ thể với hoạt động: con người với
công việc
Làm những công việc nặng nhọc, những nghề hay di chuyển, cần tăng cường
thức ăn dương tính. Người bình dân lao dộng chân tay nặng nhọc, ra nhiều mồ hôi,
cần ăn đồ mặn (dương) để bù vào. Dân miền Trung sống bằng nghề biển, thường
phải ngâm mình trong nước (âm), thức ăn phổ biến của dải đất ven biển này là các
thứ hải sản mang tính hàn (âm) nên bù lại phải ăn cay và mặn (dương) rất nhiều
(trước khi lặn xuống biển phải uống nguyên cả chai nước mắm cốt). Việc noi
theo khoa học dinh dưỡng phương Tây để hô hào rằng cần giảm ăn mặn một cách
chung chung không phải là cách làm hợp lý.
***
Triết lý âm dương có nguồn gốc từ tư duy nhị nguyên của văn hoá Đông Nam
Á cổ đại, rồi được hoàn thiện và lập thuyết trong văn hoá Trung Hoa [3,4,5]. Người
Việt Nam nói riêng và Bách Việt nói chung nhờ nằm ở vùng giao nhau giữa văn
hoá Đông Nam Á và văn hoá Trung Hoa nên vừa có được tư duy nhị nguyên từ
trong máu thịt, lại vừa tiếp nhận được triết lý âm dương đã hoàn thiện, kết quả là
có được một truyền thống văn hoá âm dương nói chung, và ẩm thực âm dương nói
riêng rất mạnh. Trong bộ sách Hải Thượng Y Tôn Tâm Lĩnh [9], Lê Hữu Trác đã
tổng kết cuộc đời làm thuốc của mình một cách thấm thía: "Tôi kinh nghiệm hàng
hai chục năm, chữa khỏi được những bệnh trầm trọng cũng chỉ căn cứ vào hai
khiếu âm dương, hai bài thuốc bổ thủy và bổ hỏa, khác biệt với các thầy thuốc khác
mà thôi".
Để hoàn thiện lý luận và nâng cao hiệu quả của ẩm thực Việt Nam, cần đặt nó
vào góc nhìn triết lý âm dương kết hợp với phương pháp khoa học hiện đại để tìm
hiểu và khai thác tối đa những kinh nghiệm cổ truyền, tránh lệ thuộc mù quáng
vào những thành tựu khoa học được rút ra trong hệ toạ độ "không gian - thời gian
- chủ thể" của người phương Tây, không phải lúc nào cũng phù hợp với phương
Đông.
1.
2.
3.
4.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Cao Xuân Huy 1995: Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham
chiếu (Nguyễn Huệ Chi soạn, chú và giới thiệu). - HN: NXB Văn học.
Ohshawa 1995: Thuật dưỡng sinh. - NXB Đà Nẵng.
Trần Ngọc Thêm 1995, 1996, 1997, 1999: Cơ sở văn hoá Việt Nam. - Trường
Đại học Tổng hợp Tp. HCM / NXBTp. Hồ Chí Minh.
Trần Ngọc Thêm 1996, 1997, 2001, 2004: Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam.
- NXB Tp. Hồ Chí Minh.
Tran Ngoc Them 2001, 2006: Recherche sur l'identite de la culture
vietnamienne. - Edition The Gioi.
6.
Hoàng Ly 1995: Hai người Anh thăm Sài Gòn và Huế đầu tk. XIX. - T/c Kiến
thức ngày nay, số 192.
7.Lê Hữu Trác 1971: Vệ sinh yếu quyết. - HN: NXB Y học.
8.
Lê Hữu Trác 1971: Nữ công thắng lãm. - HN: NXB Phụ nữ.
9.
Lê Hữu Trác 1983-1985: Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh. - Hội Y học Dân
tộc Tp. Hồ Chí Minh.
5.
Bài viết đã trình bày tại Hội thảo khoa học "Kế thừa và nâng cao tính hợp lý của
cách ăn truyền thống Việt Nam" do Hội Dinh dưỡng Việt Nam tổ chức tại Hà Nội
ngày 17-8-2007; Tạp chí Dinh dưỡng và thực phẩm, số 2+3, 2007.
Triết lý Âm Dương – Ngũ Hành trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt
Nam
SGGP:: Cập nhật ngày 28/05/2007 lúc 01:14'(GMT+7)
Đê duy trì sự sống của con người thì ăn uống là việc quan trọng. Người xưa
thường nói “có thực mới vực được đạo”. Trong các nhu cầu của con người:
thực, y, cư, hành, khang, lạc,… thì Thực (ăn) đứng đầu. Mọi hành vi của con
người đều được ghép với ăn: ăn uống, ăn mặc, ăn học, ăn nói, ăn ở, ăn chơi,
ăn ngủ, ăn nằm,… Nghệ thuật ăn uống của người Việt Nam hết sức tinh tế
dựa trên cơ sở của triết lý Âm Dương – Ngũ Hành.
Trong việc ăn, người Việt Nam đặc biệt chú trọng đến quan hệ biện chứng âm
dương, bao gồm 3 mặt quan hệ hết sức mật thiết với nhau, đó là: bảo đảm hài hòa
âm dương của thức ăn; bảo đảm sự quân bình âm dương trong cơ thể và bảo đảm
sự cân bằng âm dương giữa con người với môi trường tự nhiên.
Phở. Ảnh sưu tầm
- Thứ nhất, bảo đảm hài hòa âm dương của thức ăn. Để tạo nên các món ăn có sự
cân bằng âm dương, người Việt phân biệt năm mức âm dương của thức ăn theo
ngũ hành, bao gồm: Hàn (lạnh, âm nhiều, hành thủy), Nhiệt (nóng, dương nhiều,
hành hỏa), Ôn (ấm, dương ít, hành mộc), Lương (mát, âm ít, hành kim), Bình
(trung
tính,
hành
thổ).
Khi chế biến thức ăn, phải tuân thủ nghiêm ngặt luật âm dương bù trừ và chuyển
hóa khi kết hợp các loại lương thực, thực phẩm, gia vị với nhau tạo thành các món
ăn
có
sự
cân
bằng
âm
–
dương,
thủy
–
hỏa.
Có như vậy, thức ăn mới có lợi cho sức khỏe và ngon miệng. Chẳng hạn: rau răm là
nhiệt (dương) được ăn với trứng lộn là hàn (âm) thì ngon miệng, dễ tiêu hóa.
Hoặc gừng là thứ gia vị nhiệt (dương) có tác dụng thanh hàn, giải cảm, khi nấu
kèm với các loại thực phẩm như: cá, rau cải (kho cá, canh rau cải) là thực phẩm có
tính
hàn
thì
ăn
rất
thơm,
ngon.
- Thứ hai, bảo đảm sự quân bình âm dương trong cơ thể. Người Việt Nam sử dụng
thức ăn như là các vị thuốc để trị bệnh. Theo quan niệm của người Việt Nam thì
mọi bệnh tật sinh ra là do cơ thể bị mất quân bình âm dương, thức ăn chính là vị
thuốc để điều chỉnh sự mất quân bình âm dương ấy, giúp cơ thể khỏi bệnh.
Vì vậy, nếu người bệnh ốm do quá âm cần phải ăn đồ ăn dương (đau bụng lạnh,
uống nước gừng sẽ khỏi); ngược lại nếu người bệnh ốm do quá dương thì cần
phải ăn đồ ăn âm (bệnh kiết lị, ăn trứng gà rang với lá mơ)…
- Thứ ba, bảo đảm sự quân bình âm dương giữa con người và môi trường. Người
Việt Nam có tập quán ăn uống theo vùng khí hậu và theo mùa. Chẳng hạn, mùa hè
nóng (nhiệt – hành hỏa) nên ăn các loại thức ăn hàn, lương (mát), có nước (âm –
hành Thủy), có vị chua (âm) thì vừa dễ ăn, vừa dễ tiêu hóa, vừa giải nhiệt. Mùa
đông lạnh (hàn – âm) thì nên ăn các loại thức ăn khô, nhiều mỡ (dương), như các
món
xào,
rán,
kho…
* Trong chế biến thức ăn, phải đảm bảo đủ ngũ chất gồm: bột, nước, khoáng, đạm,
béo; đủ ngũ vị gồm: chua, cay, ngọt, mặn, đắng; đủ ngũ sắc gồm: trắng, xanh, vàng,
đỏ,
đen.
Du khách nước ngoài đến Việt Nam rất khoái khẩu với món phở Việt Nam, chỉ
trong một bát phở ta thấy có đủ sự tổng hợp của mọi chất liệu, mùi, vị, màu sắc.
Nó vừa có cái mềm của thịt bò tái hồng, cái dẻo của bánh phở trắng, cái cay dìu
dịu của lát gừng vàng, hạt tiêu đen, cái cay xuýt xoa của ớt đỏ, cái thơm nhè nhẹ
của hành hoa thơm nhạt, cái thơm hăng hắc của rau thơm xanh đậm, vị chua
thanh của chanh và hòa hợp tất cả lại là nước phở dùng được nấu từ xương…
Bánh Phu Thê. Ảnh sưu tầm
Ngày xưa, trong đám cưới, vợ chồng trẻ thường tặng cho nhau một nắm đất và
một nắm muối – như lời thề nguyền gắn bó với đất đai và câu ca dao: “Gừng cay
muối mặn xin đừng quên nhau”. Họ ăn chung với nhau một đĩa cơm nếp, uống với
nhau một ly rượu – ngụ ý cầu chúc cho đôi vợ chồng trẻ dính nhau như cơm nếp
và
say
nhau
như
say
rượu.
Để cho tình cảm vợ chồng gắn bó, ăn đời ở kiếp với nhau, ngày cưới người ta còn
làm bánh Susê (tên đọc chệch của phu thê - vợ chồng) hình tròn, bọc trong khuôn
hình vuông (dương trong âm). Bánh có ruột dừa trắng, nhân đậu vàng, rắc vừng
đen, khuôn lá xanh, buộc lạt đỏ – đó là biểu tượng của triết lý Âm Dương – Ngũ
Hành, biểu tượng cho sự vẹn toàn, hòa hợp của đất trời và con người.
* Trong cách ăn, phải ăn bằng cả năm giác quan. Mũi ngửi mùi thơm từ thức ăn;
mắt nhìn màu sắc hài hòa của thức ăn được bày biện; lưỡi nếm vị ngon của thức
ăn; tai nghe tiếng kêu giòn tan của thức ăn; tay sờ mó, cắn xé thức ăn (có những
loại thức ăn dứt khoát phải ăn bằng tay mới ngon… thử tưởng tượng tay cầm
chiếc đùi gà, chấm muối chanh ớt, đưa lên miệng cắn xé… cảm giác ăn sẽ ngon
hơn nhiều khi chặt đùi gà ra thành từng miếng, dùng đũa gắp ăn).
Người Việt Nam quan niệm: “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”, ăn uống phải có ý
tứ, mực thước là biểu hiện cân bằng âm dương trong khi ăn. Người ăn uống lịch
sự không nên ăn nhanh quá hay chậm quá, không nên ăn nhiều quá hay ít quá,
không
nên
ăn
hết
cũng
đừng
ăn
còn.
Tại sao như vậy? Ăn nhanh quá là vội vàng, thô lỗ, ngược lại ăn chậm quá buộc
người cùng ăn phải ngồi chờ, đều là cách ăn không lịch sự. Ăn hết, ăn nhiều quá là
ăn tham, ăn hết phần của người khác. Ngược lại, ăn còn, ăn ít là chê thức ăn của
chủ
nhà
không
ngon.
Do vậy, khi ăn phải cố gắng ăn cho ngon miệng để tỏ lòng biết ơn và tôn trọng chủ
nhà, lại phải để chừa một ít thức ăn trong các đĩa đồ ăn để tỏ rõ rằng mình không
tham
ăn.
Một bữa ăn ngon là sự tổng hợp cái ngon của mọi yếu tố: Thức ăn ngon ăn không
hợp thời tiết thì không ngon; ngồi không hợp chỗ ăn không ngon; không có không
khí vui ăn không ngon; đặc biệt thức ăn ngon không có bạn bè tâm giao ăn không
ngon.
Trong ăn uống, không chỉ biết ăn hợp thời tiết, đúng mùa, người Việt sành ăn còn
phải biết chọn đúng bộ phận có giá trị nhất để ăn “đầu cá chép, mép cá trôi, môi cá
mè, lườn cá trắm”; phải chọn đúng trạng thái thực phẩm có giá trị “tôm nấu sống,
bống để ươn”; đúng thời điểm có giá trị “cơm chín tới, cải vồng non, gà ghẹ ổ” thì
ăn
mới
ngon.
Ngoài ra, còn phải chọn thức ăn đang ở dạng âm dương cân bằng, là thức ăn
ngon, giàu chất dinh dưỡng như: trứng lộn, giá, nhộng, đuông, cốm,… Người xưa
cho rằng: “Cốm hóa vàng, chim cu ra ràng, cà cuống trứng” là ngon nhất…
Trứng vịt lộn. Ảnh sưu tầm
Triết lý Âm Dương – Ngũ Hành còn được thể hiện cả trong đồ uống, hút. Người
Việt Nam có tục ăn trầu cau; ngoài ý nghĩa giáo dục, tình cảm anh em, vợ chồng
trong gia đình qua câu chuyện cảm động “Sự tích trầu cau”, trong đó còn tiềm ẩn
triết
lý
âm
dương,
tam
tài.
Cây cau vươn cao là biểu tượng của trời (dương), vôi đá là biểu tượng của đất
(âm), dây trầu không mọc từ đất quấn quít quanh thân cau là biểu tượng cho sự
trung
gian
hòa
hợp.
Người Việt Nam có thú vui hút thuốc lào. Sáng dậy người hút thuốc chưa ăn uống
gì, nếu hút một điếu thuốc lào có khi say trợn mắt, sùi bọp mép, có khi ngã nhào.
Thuốc lào vì vậy trở thành một sự đam mê tột độ, trai gái yêu nhau được ví là “say
nhau như điếu đổ”, ca dao có câu: “Nhớ ai như nhớ thuốc lào, đã chôn điếu xuống
lại
đào
điếu
lên”.
Hút thuốc lào cũng là sự tổng hợp biện chứng của âm dương. Lửa (hỏa) đốt thuốc
ở trên được rít, kéo xuống gặp nước (thủy), khói thuốc (dương) đi qua nước (âm)
được lọc bớt chất độc hại và tạo ra tiếng kêu, đến miệng người hút thấm vào từng
tế
bào
cơ
thể,
tạo
nên
trạng
thái
lâng
lâng.
“Hút thuốc lào cho cao sĩ diện, thơm mồm, bổ phổi diệt trùng lao. Ngồi hút thuốc
như Khổng Minh xem sách. Tay cầm đóm như Triệu Tử múa đao. Hơi hít vào như
Tiêu Dương thổi sáo. Khói thổi ra như rồng cuốn mây bay”.
Trong bữa ăn, người Việt Nam xưa không uống bia, cũng không uống “rượu Tây”,
“rượu Tây” là phù hợp với người xứ lạnh. Thức ăn Việt Nam phải dùng chung với
rượu
Việt
Nam
nấu
từ
gạo
nếp
mới
ngon.
Khi uống rượu, các cụ đốt lên một bình hương trầm thơm, mặc áo the, khăn đóng
ngồi trên sập gụ, trước mặt là một đĩa thức ăn ngon, rượu được rót ra chén hạt
mít hay chén mắt trâu. Gắp một miếng thức ăn ngon đưa vào miệng, tay đưa chén
rượu lên môi nhâm nhi để thưởng thức cái thơm ngon của nó, vừa ăn vừa bàn
chuyện văn thơ, thế sự… - một cách ăn uống thật tao nhã.
Để bàn cho hết sự tinh tế trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt Nam trong
phạm vi bài viết nhỏ này là điều không tưởng; thông qua đây người đọc sẽ cảm
nhận được phần nào sự tinh tế ấy, để từ đó tự hào về truyền thống văn hóa của
dân tộc.
TRIẾT LÝ ÂM DƯƠNG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA VIỆT - Phan Thị Anh Thư
Details
Published Date
Written by Võ Quê
Hits: 29467
Từ xưa đến nay, hai thái cực âm dương đã trở thành cái hồn, cái thiêng trong văn
hóa đời sống Việt. Nó không đơn thuần chỉ là quan niệm mà cao hơn còn là triết lý
của người Á Đông. Theo thời gian, những biểu hiện sinh động của tư tưởng âm
dương vẫn hằn sâu trong nếp nghĩ truyền thống và hiện đại. Điều dó minh chứng
sức ảnh hưởng không cùng của triết lý này cả trên chiều rộng và chiều sâu của một
nền văn hóa.
Người ta nói đến yếu tố âm dương với nhiều bình diện ý nghĩa. Có khi nó là
quan niệm trong tư duy, có khi là triết lý trong đời sống và cũng có khi là quy luật
trong xã hội. Dù được nhìn nhận từ góc độ nào thì âm dương vẫn được coi là lối tư
duy đẹp và giá trị. Nó luôn gắn liền với thực tế đời sống để thông qua đó mà khẳng
định mình. Nhiều nhà nghiên cứu đã tốn không ít bút lực để giải mã triết lý âm
dương. Vậy, âm dương là gì, nó từ đâu mà có…? Âm và dương vốn là hai trạng thái
của những phần tử vật chất trong vũ trụ. Những phần tử này dưới sự thúc đẩy của
lý cấu hiệp với nhau sinh ra ngũ hành, còn gọi là ngũ đế gồm: Kim, mộc, thủy, hỏa,
thổ. Ngũ hành chia ở bốn phương và trung tâm, trong đó:
- Kim : ở phía Tây
- Mộc : ở phía Đông
- Thủy: ở phía Bắc
- Hỏa : ở phía Nam
- Thổ : ở trung tâm
Giữa vạn vật luôn có sự tranh chấp và tương đối, nghĩa là có sự chống chọi
nhau cứ hai, bốn hoặc hơn nữa tương đối với nhau, từ đó tạo nên hai trạng thái
âm và dương đối chọi nhau. Âm là Cái, là tĩnh, là chưa hoàn bị. Dương là Đực, là
động, là hoàn bị. Chẳng hạn: Mặt trăng và mặt trời, đêm và ngày, ác và thiện, thể
xác và linh hồn..v.v. Theo nhiều tài liệu, vua Phục Hy (2852 – 2737 TCN) là người
tìm ra nguyên tắc tương đối âm và dương. Một đêm, nhà vua mơ thấy con ngựa
Rồng lội trên sông Hoàng Hà mang trên lưng một Hà Đồ gồm những chấm đen và
chấm trắng sắp cân nhau thành hai hình lưỡng nghi: Đen là âm và trắng là dương.
Những hình đó trà trộn với nhau thành bốn hình mới, gọi là Tứ Tượng. Tứ Tượng
sinh ra Bát Quái, Bát Quái lại sinh ra 64 Trùng Quái, sau đó lại sinh ra 4096 hình
kép khác, mỗi hình gồm 12 điểm và như thế các hình và các điểm được nhân lên vô
tận. Phục Hy thay những điểm đen bằng một vạch cắt đôi tương ứng với hai vạch
ngắn - - ký hiệu cho âm và một vạch dài, liền vào điểm trắng – ký hiệu cho dương.
Tất cả những hình thức này đều được trình bày và cắt nghĩa trong bộ Kinh Dịch.
Ngày xưa cũng như ngày nay, thuyết tương đối âm dương vẫn gắn bó mật
thiết và sâu sắc với văn hóa phương Đông, trong đó có Việt Nam. Nó được biểu
hiện cụ thể, chân phương từ nhiều góc độ trong đời sống.Thứ nhất, âm dương
là bản chất của giới tự nhiên. Trong đời sống, dân tộc nào cũng va chạm với các
cặp đối lập “đực – cái”, “nóng – lạnh”, “cao – thấp”…Với người nông dân, họ chú
trọng sự sinh sôi, nảy nở của hoa màu và con người với hai cặp đối lập Mẹ - Cha và
Đất – Trời. Như vậy, Đất được đồng nhất với Mẹ, còn trời được đồng nhất với Cha.
Việc hợp nhất của hai cặp “Mẹ - Cha” và “Đất – Trời”chính là sự khái quát đầu tiên
trên con đường dẫn tới triết lý âm dương. Đây là yếu tố nền tảng góp phần thiết
lập nên các cặp đối lập mới trong giới tự nhiên. Từ cặp “Lạnh – Nóng” có thể suy
ra: Về thời tiết thì mùa đông lạnh thuộc âm, mùa hè nóng thuộc dương. Về phương
hướng, phương Bắc lạnh thuộc âm, phương Nam nóng thuộc dương. Về thời gian,
ban đêm lạnh thuộc âm, ban ngày nóng thuộc dương. Hay là, đêm thì tối nên màu
đêm thuộc âm, ngày thì đỏ nên màu đỏ thuộc dương. Cái hay, cái đẹp của triết lý
âm dương nằm ở quy luật thành tố: Không có gì hoàn toàn âm hoặc hoàn toàn
dương, trong âm có dương, trong dương có âm. Nó còn được phản ánh qua quy
luật quan hệ: Âm dương luôn gắn bó mật thiết và chuyển hóa cho nhau. Hai quy
luật này góp phần không nhỏ vào việc đánh giá, nhìn nhận và khám phá giới tự
nhiên từ góc độ bản chất. Thứ hai, những biểu hiện âm dương trong xã hội xưa và
nay: Về mặt tư duy, dân gian vẫn nhận thức theo kiểu: “Chim sa, cá nhảy chớ
mừng; nhện sa, xà đón xin đừng có lo”. Đây là cách diễn đạt quy luật “trong âm có
dương” và “trong âm có dương”. Ngày xưa, ông cha ta còn hình thành lối tư duy
teo quan hệ nhân quả, chẳng hạn: “Sướng lắm khổ nhiều” hay “Trèo cao ngã đau”.
Đây là cách diễn đạt kín đáo của quy luật “Âm dương chuyển hóa”. Ngày nay, lối tư
duy âm dương này được người Việt vận dụng và kết hợp khéo léo trong đời sống
văn hóa. Điều này được phản ánh qua triết lý sống quân bình: Coi trọng, đề cao sự
hài hòa âm dương trong cơ thể và sự hài hòa trong giới tự nhiên. Đặc trưng quân
bình các yếu tố đời sống tạo ra khả năng thích nghi cao trước mọi biến cố, hoàn
cảnh của dân tộc Việt từ ngàn đời. Về mặt đời sống, triết lý âm dương được biểu
hiện khá rõ từ ba nhu cầu cơ bản nhất: Ăn, mặc và ở. Với nhu cầu ăn, người Việt
nhấn mạnh tính cộng đồng, tính mực thước truyền thống. Trong đó, tính cộng đồng
được phản ánh từ việc ăn tổng hợp, ăn chung; còn tính mực thước là biểu hiện của
khuynh hướng quân bình âm dương. Nó đòi hỏi người ăn không ăn quá nhanh hay
quá chậm, không ăn quá nhiều hay quá ít, không ăn hết hay ăn còn. Đây được xem
là lối giao tiếp tế nhị, ý tứ khác hẳn tính cách cực đoan, lối giao tiếp trực khởi của
người phương Tây: Khách phải ăn kỳ sạch để tỏ lòng biết ơn chủ nhà. Tính cộng
đồng và tính mực thước trong bữa ăn thể hiện tập trung qua nồi cơm và chén
nước mắm. Nồi cơm ở đầu mâm và chén nước mắm ở giữa mâm là biểu tượng cho
cái đơn giản mà thiết yếu: Cơm gạo là tinh hoa của đất, mắm chiết từ cá là tinh
hoa của nước – chúng giống như hành Thủy và hành Thổ là cái khởi đầu và cái
trung tâm trong Ngũ Hành.
Trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt còn thể hiện khá rõ tính linh hoạt và tính
biện chứng. Theo đó, tính linh hoạt phản ánh trong dụng cụ ăn, đôi đũa; tính biện
chứng ở quan hệ biện chứng âm dương gồm ba mặt: 1/ Sự hài hòa âm dương của
thức ăn. 2/ Sự quân bình âm dương trong cơ thể. 3/ Sự cân bằng âm dương giữa
con người với môi trường tự nhiên. Để tạo ra những món ăn có sự cân bằng âm
dương, người Việt phân biệt thức ăn theo năm thức âm và dương ứng với Ngũ
Hành: Hàn (lạnh, âm nhiều = Thủy), Nhiệt (nóng, dương nhiều = Hỏa), Ôn (ấm,
dương ít = Mộc), Lương (mát, âm ít =Kim), Bình (trung tính = Thổ). Theo đó, người
Việt tuân thủ nghiêm ngặt luật âm dương bù trừ và chuyển hóa khi chế biến. Điều
đó lý giải tại sao chén nước chấm của người Việt dung hòa cả đủ cả Ngũ Hành: Vị
mặn (thủy) của nước mắm, đắng (hỏa) của vỏ chanh, chua (mộc) của chanh giấm,
cay (kim) của tiêu ớt. Để tạo ra sự quân bình âm dương trong cơ thể, người Việt sử
dụng thức ăn như vị thuốc với mục đích điều chỉnh sự mất quân bình âm dương
trong cơ thể. Chẳng hạn: Đau bụng nhiệt (dương) cần ăn những thứ hàn (âm) như
chè đậu đen, trứng gà lá mơ. Đau bụng hàn (âm) cần dùng các thứ nhiệt dương
như gừng, riềng. Để đảm bảo quân bình âm dương giữa con người với môi trường,
người Việt có tập quán ăn uốn theo mùa và vùng khí hậu. Việt Nam là xứ nóng
(dương) nên phần lớn nguồn thức ăn sử dụng hằng ngày đều thuộc loại bình, hàn
âm như thực vật (rau, củ, quả…). Đồng thời, tính chất dương của xứ nóng là điều
kiện vô cùng thuận lợi cho các loài sản vật mang tính âm phát triển mạnh. Điều
này chứng tỏ bản thân thiên nhiên cũng đã có sự cân bằng. Vào mùa hè, người Việt
thích ăn rau quả, tôm ca (âm) hơn là mỡ thịt. Thức ăn thường nhiều nước (âm) và
có vị chua (âm) với tác dụng vừa dễ tiêu hóa vừa giải nhiệt. Vào mùa đông, người
Việt ở phía Bắc lại thích ăn thịt, mỡ vốn mang tính dương nhằm giúp cơ thể chống
rét. Người dân miền Trung ăn nhiều ớt (dương) do thực phẩm của họ dồi dào hải
sản biển có tính hàn, bình (âm). Từ văn hóa ẩm thực của người Việt xưa và nay, ta
càng khẳng định vai trò của triết lý âm dương thủy hỏa trong việc tổ chức vũ trụ
và duy trì đời sống.
Với nhu cầu mặc, người Việt rất đề cao hai yếu tố “dương tính” và “âm tính”.
Đặt ra vấn đề màu sắc chẳng hạn: Trong trang phục xưa, màu ưa thích vốn là các
“màu âm tính” phù hợp với phong cách tế nhị, kín đáo của truyền thống dân tộc. Ơ
miền Bắc là màu nâu, màu gụ (màu của đất); ở miền Nam là màu đen (màu của
bùn). Trong lễ hội, phụ nữ Việt mặc áo dài màu thâm hoặc nâu. Ngày nay, màu sắc
của trang phục có phần đa dạng hơn theo hướng “dương tính” do ảnh hưởng từ
văn hóa phương Tây. Thường thấy, trong xã hội hiện đại đàn ông mặc Âu phục,
phụ nữ mặc áo nhiều màu kể cả đỏ hoặc hồng. Do giao thoa với văn hóa mới từ
bên ngoài nên chiếc áo dài cổ truyền Việt Nam dần được cải tiến thành áo dài tân
thời từ những năm 30 của thế kỷ này. Bên cạnh những cải tiến theo hướng phô
trương cái đẹp hình thể một cách trực tiếp theo kiểu phương Tây (dương tính hóa)
như: Bó eo, ôm sát thân, nổi ngực… thì áo dài tân thời vẫn tiếp tục kế thừa và phát
triển cao độ phong cách kín đáo (âm tính hóa). Chính sự khêu gợi một cách nhuần
nhị, kín đáo đã tô điểm tính cách “dương ở trong âm”. Vì lẽ đó, áo dài Việt Nam
ngày càng phổ biến rộng rãi và trở thành biểu tượng cho y phục truyền thống dân
tộc.
Với nhu cầu ở, người Việt đặc biệt chú trọng vấn đề “phong thủy”. “Phong” và
“thủy” là hai yếu tố quan trọng nhất tạo thành tạo thành vi khí hậu của một ngôi
nhà. Phong là gió (thuộc dương); thủy là nước, tĩnh hơn, thuộc âm. Trong nhà, nếu
có gió quá nhiều hoặc nước tù quá đọng đều không tốt. Người ta vẫn xây dựng các
bình phong để lái gió hoặc dựng hòn non bộ để điều thủy (âm dương điều hòa) là
vậy. Ngoài ra, tất cả các chi tiết của ngôi nhà được liên kết với nhau bằng “mộng”.
“Mộng” là cách ghép theo nguyên lý âm dương, nghĩa là: Phần lồi ra của bộ phận
này phải khớp với chỗ lõm tương ứng của bộ phận khác. Kỹ thuật này tạo nên sự
liên kết rất chắc chắn mà vẫn linh động giúp tháo dỡ dễ dàng. Khi cần cố định các
chi tiết của ngôi nhà thì dùng đing tre vuông tra vào các lỗ tròn (âm – dương). Khi
lợp nhà, người Việt dùng ngói âm dương: Viên sấp, viên ngửa khác với ngói ống
Trung Hoa. Trong hình thức kiến trúc thường coi trọng bên trái và số lẻ. Tất cả đều
từ triết lý âm dương mà ra.
Thứ ba, những biểu hiện âm dương trong tín ngưỡng xưa và nay.
Với tín ngưỡng phồn thực (phồn = nhiều, thực = nảy nở), người Việt tái
khẳng định sự tồn tại của triết lý âm dương. Thực tế, đây chỉ là hai mặt của một
vấn đề. Ơ Việt Nam, tín ngưỡng phồn thực biểu hiện ở hai dạng: Thờ cơ quan sinh
dục và thờ hành vi giao phối. Dễ dàng nhận thấy điều này ở các nhà mồ Tây
Nguyên hoặc tục “giã cối đón dâu” của người Việt. Chiếc trống đồng – biểu tượng
sức mạnh và quyền uy của người xưa thực ra là biểu tượng toàn diện của tín
ngưỡng phồn thực. Ngay cả hình ảnh về chùa Một Cột (âm) được đặt trên một cột
tròn (dương), cột tròn lại đặt trong cái hồ vuông (âm)… đều liên quan đến tín
ngưỡng phồn thực. Không phải ngẫu nhiên mà cái mõ bằng gỗ (mộc) đặt ở bên
trái (phương Đông) là dương, cái chuông bằng đồng (kim) ở bên phải (phương
Tây) là âm. Tiếng mõ và chuông tạo âm dương hòa hợp.
Với tín ngưỡng sung bái tự nhiên, ông cha ta coi trọng tín ngưỡng đa thần,
lấy chất âm tính làm căn bản. Chất âm tính của văn hóa nông nghiệp dẫn đến lối
sống tình cảm, trọng nữ; theo đó mà các nữ thần chiếm ưu thế (tục thờ Mẫu).
Người Việt xưa còn thờ cả động và thực vật. Theo truyền thuyết, tổ tiên người Việt
là giống “Rồng Tiên”. Tiên – Rồng là một cặp đôi chỉ có trong lối tư duy theo triết lý
âm dương. Đó cũng là hai loài biểu trưng cho phương Nam và phương Đông trong
ngũ hành.
Với tín ngưỡng sung bái con người, người Việt đặc biệt coi trọng mối liên hệ
giữa âm và dương. Theo người xưa, chết là từ động thành tĩnh nên với triết lý âm
dương thì hồn đi từ cõi dương (trần gian) sang cõi âm (âm phủ). Với niềm tin chết
là về với tổ tiên (“Sống gửi thác về”), người Việt rất coi trọng tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên. Tục xưa tin rằng dương sao âm vậy và cũng có một cuộc sống ở cõi âm như
cuộc sống người trần trên dương thế. Tức là, người chết cũng ăn uống và tiêu pha
như người sống. Do vậy, ông cha ta vốn coi trọng lễ đốt mã trong ngày cúng giỗ.
Người sống sắm sửa quần áo, giường màn, bát đĩa, xe cộ, thuyền bè cho người
chết; thậm chí còn đốt hình nhân để hóa người hầu hạ kẻ đã khuất.
Tóm lại, triết lý âm dương trong đời sống văn hóa Việt xưa và nay biểu hiện
chủ yếu ở các góc độ: Tự nhiên, xã hội lẫn tín ngưỡng. Nó góp phần tôn vinh giá trị
truyền thống mà vẫn dung hòa với vẻ đẹp hiện đại trong mỗi nếp nhà người Việt.
P.T.A.T