Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Cải cách chính quyền địa phương hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.68 KB, 15 trang )

Cải cách chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay
Cải cách chính quyền địa phương phải tập trung vào vấn đề căn bản, đó là mô
hình chính quyền địa phương. Nếu chính quyền địa phương chưa thật ổn định
thì vấn đề đặt ra là lựa chọn mô hình chính quyền địa phương tập trung
(theo hướng tập quyền) hay dân chủ (mà đỉnh cao là chính quyền địa phương
tự quản hay tự quản địa phương) hay chọn giải pháp trung gian giữa hai
hướng đó...
1. Vai trò và mô hình tổ chức chính quyền địa phương Việt Nam
Theo Điều 1 Sắc lệnh số 63-SL ngày 23/11/1945 - Sắc lệnh đầu tiên về tổ
chức chính quyền địa phương của Nhà nước Việt Nam đã ghi: “Để thực hiện
chính quyền nhân dân địa phương trong nước Việt Nam, sẽ đặt hai thứ cơ
quan: Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính”. Trong quy định này, chính
quyền địa phương đã được xác định gồm hai loại cơ quan: cơ quan có tính
chất hội đồng do nhân dân bầu ra, được gọi là Hội đồng nhân dân và cơ quan
chấp hành của hội đồng thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước,
được gọi là Uỷ ban hành chính. ở đây, đã có sự phân biệt giữa hoạt động thực
hiện quyền lực nhà nước ở địa phương do mọi cơ quan nhà nước thực hiện
với hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước do các cơ quan nhà nước được
nhân dân địa phương lập ra để phục vụ nhu cầu tổ chức đời sống xã hội ở địa
phương.
Quan niệm về chính quyền địa phương trên đây cho đến nay vẫn là quan niệm
được thừa nhận chung. Theo đó, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính
(hoặc Uỷ ban nhân dân) là các cơ quan do nhân dân lập ra để thực hiện quản
lý các công việc địa phương tạo thành khái niệm chính quyền địa phương.
Các cơ quan khác như Toà án, Viện kiểm sát…tuy có thực hiện các công việc
của nhà nước trên lãnh thổ địa phương nhưng không do nhân dân địa
phương lập ra không được xem là các cơ quan thuộc thuật ngữ “chính quyền
địa phương”. Như vậy, chính quyền địa phương là chính quyền do nhân dân
địa phương lập ra xuất phát từ nhu cầu quản lý nhà nước ở địa phương,
phục vụ nhân dân địa phương. Cơ quan nhà nước nào có được đặc điểm đó
thì được xem là cơ quan nhà nước địa phương. Trong tổ chức chính quyền


địa phương nước ta, cá biệt mới có trường hợp Toà án cũng được xem là cơ
quan thuộc chính quyền địa phương. Theo quy định tại Điều 14 của Luật tổ
chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính được Quốc hội thông qua
ngày 27 tháng 10 năm 1962 thì Hội đồng nhân dân còn bầu ra Toà án nhân
dân cấp mình. Nhưng luật về tổ chức chính quyền địa phương ban hành sau
này quy định đó đã bị bãi bỏ.


Theo Điều 118 của Hiến pháp Việt Nam hiện hành, các đơn vị hành chính của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:
“Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực thuộc
trung ương chia thành quận, huyện và thị xã;
Huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành
phường và xã; quận chia thành phường.
Việc thành lập Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở các đơn vị hành
chính do luật định”.
So sánh cho thấy, các Hiến pháp 1959, 1980 quy định mỗi cấp đơn vị hành
chính tỉnh, huyện, xã… (và tương đương) đều tổ chức hai loại cơ quan Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân (Uỷ ban hành chính). Còn Hiến pháp hiện
hành dành cho Luật quy định các cơ quan đó, nhưng trên thực tế, Luật Tổ
chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân vẫn quy định tổ chức hai loại cơ
quan ở tất cả các đơn vị hành chính.
Tất cả các văn bản pháp luật có hiệu lực thi hành từ hiến pháp1 đến các luật
và văn bản dưới luật về tổ chức bộ máy Nhà nước Việt Nam từ năm 1945 đến
nay đều xác định chính quyền địa phương là bộ phận cấu thành có vị trí quan
trọng của bộ máy nhà nước thống nhất từ trung ương đến địa phương mà ở
cấp trung ương là Quốc hội và Chính phủ. Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung)
ghi nhận mỗi cấp chính quyền địa phương có Hội đồng nhân dân là cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương, Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành

của Hội đồng nhân dân và hành chính nhà nước ở địa phương. Chính quyền
địa phương được tổ chức theo thứ bậc từ cao xuống thấp: tỉnh, huyện, xã (và
tương đương).
Chính quyền địa phương ở Việt Nam có vai trò hai mặt. Một mặt, với tư cách
là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước thống nhất, chính quyền địa
phương thay mặt nhà nước tổ chức quyền lực, thực thi nhiệm vụ quản lý trên
lãnh thổ địa phương trong cơ cấu quyền lực nhà nước thống nhất trên lãnh
thổ Việt Nam. Mặt khác, chính quyền địa phương lại là cơ quan do nhân dân
địa phương lập ra (trực tiếp và gián tiếp) để thực hiện các nhiệm vụ ở địa
phương nhằm phục vụ nhu cầu của nhân dân địa phương trên cơ sở các quy
định của Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Vai
trò như vậy của chính quyền địa phương được thể hiện tập trung trong quy
định tại Điều 6 của Hiến pháp về nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức
và hoạt động của các cơ quan nhà nước, của bộ máy nhà nước nói chung.
Trong đó, tập trung thống nhất là yếu tố có tính chủ đạo. Tư tưởng cơ bản


trong tổ chức chính quyền địa phương theo nguyên tắc đó là vừa bảo đảm sự
tập trung thống nhất, vừa phát huy vai trò chủ động tích cực của địa phương.
Đến đây, có thể xác định mô hình tổ chức chính quyền địa phương Việt Nam
thể hiện trên hai điểm cơ bản sau:
- Mỗi đơn vị hành chính thành lập hai loại cơ quan là Hội đồng nhân dân và
Uỷ ban nhân dân.
- Giữa chính quyền địa phương và chính quyền trung ương và giữa các cấp
chính quyền địa phương không có tính độc lập cao, tuy rằng trong quá trình
cải cách bộ máy nhà nước đã đẩy mạnh việc phân cấp quản lý cho các cấp
chính quyền địa phương. Nguyên tắc cơ bản và hàng đầu trong tổ chức và
hoạt động của bộ máy chính quyền địa phương là tập trung dân chủ. Đây là
điểm rất đáng chú ý trong tổ chức chính quyền địa phương nước ta. Nó
chứng tỏ rằng, chính quyền địa phương Việt Nam không có “chủ quyền” trong

việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Quy định ở Điều 7 của Luật
Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân thể hiện rõ hơn này khi ghi
nhận trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước từ Chính phủ đến Uỷ ban
nhân dân cấp xã có sự chỉ đạo trong quản lý nhà nước từ trên xuống dưới.
Đây chính là điểm khác về bản chất so với chính quyền địa phương tự quản.
Tóm lại, với các đặc điểm trình bày như trên có thể gọi là mô hình chính
quyền địa phương nước ta là mô hình chính quyền địa phương tập trung dân
chủ.
Tuy nhiên, vẫn có quan điểm nhìn khác về mô hình chính quyền địa phương
Việt Nam hiện nay. Các nhà nghiên cứu theo quan điểm này tập trung vào
việc xác định tính chất của Hội đồng nhân dân trong mối liên hệ với chức
năng, thẩm quyền của cơ quan hội đồng này. Chúng ta đều biết Hội đồng
nhân dân Việt Nam trong dòng chảy pháp luật từ năm 1945 đến nay theo
hướng đề cao vị trí, vai trò của cơ quan đại diện nhân dân trong cơ cấu quyền
lực nhà nước. Điều đó đúng về mặt nhận thức và ghi nhận thể chế, nhưng
trong thực tế, lại có một xu hướng khác nói chung, tỏ ra còn mạnh hơn cả
hướng nêu trên, đó là sự xâm lấn, thậm chí cả sự lấn lướt của cơ quan hành
chính đối với cơ quan hội đồng ở địa phương mà sách báo pháp lý đã nhiều
lần nhắc đến và trong thực tiễn tổ chức chính quyền địa phương đã phải bàn
đến các giải pháp ngăn chặn. Nhưng, đó chưa phải là điều được quan điểm
này muốn đề cập mà là chỗ họ cho rằng Hội đồng nhân dân nước ta là cơ
quan tự quản địa phương. Khẳng định này căn cứ vào các quy định mang
tính chủ động, tự quản về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân theo
Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Ngoài ra, tính tự quản


của chính quyền địa phương được lý giải bổ sung bởi lập luận rằng quyền lực
nhà nước thống nhất chỉ tập trung ở trung ương, không thể có quyền lực nhà
nước ở các tỉnh, huyện, xã.
Tự quản của chính quyền địa phương theo đúng nghĩa của nó là thể hiện của

dân chủ, dân chủ cho cả cộng đồng dân cư địa phương. Người dân tự mình
quyết định các vấn đề ở địa phương và chính quyền địa phương thay mặt
nhân dân quyết định các vấn đề ở địa phương theo quy định của pháp luật và
chịu trách nhiệm trước dân cư địa phương. Nói rằng quyền lực nhà nước chỉ
tập trung ở trung ương để luận chứng về tự quản địa phương ở nước ta là
không phù hợp với thực tế Việt Nam, cho dù bộ máy nhà nước được tổ chức
theo nguyên tắc tập quyền. Bởi vì, theo pháp luật, chính quyền địa phương do
nhân dân địa phương lập ra, thực hiện các công việc nhà nước ở địa phương
và chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương nhưng cũng thay mặt cả
nhà nước thực thi quyền lực ở địa phương.
ở Việt Nam, về thực chất, chưa bao giờ tồn tại quan niệm về chính quyền địa
phương tự quản hay tự quản địa phương, nhưng tính chất tự quản địa
phương thì ít nhiều là có, nếu xem xét các quy định của pháp luật về nhiệm
vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân các cấp từ trước đến nay. Nghiên cứu
về chính quyền địa phương Việt Nam, có ý kiến cho rằng các sắc lệnh số 63 và
số 77 ban hành năm 1945 thể hiện rõ rệt tính tự quản địa phương. So với văn
bản này, văn bản pháp luật từ Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm
1958 về sau quy định về Hội đồng nhân dân là thụt lùi so với nó. Thật ra
không phải như vậy. Lấy ví dụ, đối với Hội đồng nhân dân xã, Điều 66 của Sắc
lệnh 63-SL ngày 23/11/1945 quy định: “Hội đồng nhân dân hàng xã có quyền
quyết nghị về tất cả các vấn đề thuộc trong phạm vi xã mình. Những quyết
nghị của Hội đồng nhân dân hàng xã không được trái với chỉ thị của các cấp
trên”. Nếu chỉ dừng lại ở đây thì dễ đi đến nhận định rằng Hội đồng nhân dân
xã có quyền tự quản, được “quyền quyết nghị về tất cả các vấn đề thuộc trong
phạm vi xã mình”. Nhưng hãy chú ý ở đây 2 điểm ràng buộc: thứ nhất, quyết
nghị phải theo chỉ thị của cấp trên (Điều 66). Các nhà làm luật khi đó đã hiểu
chỉ thị không phải là một hình thức văn bản mà bao gồm cả các văn bản có
tính quy phạm và các mệnh lệnh pháp luật cụ thể của cơ quan nhà nước cấp
trên. Lưu ý rằng, nếu là các mệnh lệnh cụ thể thì đó là điều không tương thích
với thể chế chính quyền địa phương tự quản. Mặt khác, cũng không thấy có

quy định pháp luật có tính quy phạm nào trao quyền cho địa phương có tính
cách là “chủ quyền” cả. Thứ hai, theo quy định tại từ Điều 68 đến Điều 72 thì
quyết nghị của Hội đồng nhân dân xã trước khi thi hành phải gửi lên Uỷ ban


hành chính huyện xem xét, có thể bị “thủ tiêu hoặc giao về sửa chữa”, đối với
các quyết nghị về các việc như: thay đổi tác dụng của một bất động sản của
xã, đặt, sửa chữa, mở mang phố xá, đường cái hay công viên trong xã, mở
hay bỏ chợ… phải được Uỷ ban hành chính huyện chuẩn y rồi mới được thi
hành; đối với các quyết nghị về các việc: bán, nhường, đổi bất động sản của
xã đóng góp bất thường hoặc vay, ngân sách của xã, tự quản lý hoặc dự một
phần vào công cuộc kinh doanh có tính cách công ích: tiếp tế cho dân chúng,
cứu tế, xã hội, v.v...phải được Uỷ ban hành chính tỉnh chuẩn y rồi mới được
thi hành. Đối với Hội đồng nhân dân huyện và tỉnh và cấp tương đương cũng
có các quy định tương tự. Nếu xét về phương diện tự quản thì tự quản của
Hội đồng nhân dân các cấp theo các sắc lệnh số 63 và số 77 năm 1945 thua xa
so với các quy định hiện nay về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân
các cấp được quy định trong Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban
nhân dân năm 2003. Nhưng Hội đồng nhân dân theo Luật này cũng không
phải là cơ quan tự quản địa phương.
Vấn đề đặt ra là chính quyền địa phương nếu không phải là tự quản thì tính
chất của nó là gì. Nghiên cứu Điều 6 của Hiến pháp hiện nay, dễ nhận ra rằng
nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản và hàng đầu trong số các
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước Việt Nam, trong đó có
chính quyền địa phương. Đoạn 2 của Điều 6 viết: “Quốc hội, Hội đồng nhân
dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ”. Như vậy thì vấn đề đã rõ, theo nguyên tắc này
thì tập trung là chủ đạo, tập trung trên cơ sở dân chủ. Do đó, phần tự quản
cho chính quyền địa phương ít nhiều là có, nhưng căn bản vẫn là tập trung
dân chủ. Hiện nay, nếu quan niệm chính quyền địa phương tập trung dân chủ

(A) và chính quyền địa phương tự quản (B) là hai mô hình chính quyền thuộc
hai cực trái ngược nhau thì với việc đẩy mạnh phân cấp quản lý cho chính
quyền địa phương có nghĩa là đang đẩy chính quyền địa phương từ cực A
sang cực B, với nội dung là giảm tập trung và tăng dân chủ. Nhưng phân cấp
quản lý như hiện nay không hàm ý xây dựng chính quyền địa phương tự quản
ở nước ta.
Nhiều quy định khác của pháp luật hiện hành chứng tỏ sự hiện diện chính
quyền địa phương theo mô hình tập trung dân chủ. Xin nêu một số dẫn
chứng:
- Uỷ ban thường vụ Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn giám sát và
hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân; bãi bỏ các nghị quyết sai trái
của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; giải tán Hội


đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp Hội
đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân (Điều
91 Hiến pháp); các quy định tương tự đối với Hội đồng nhân dân cấp huyện,
cấp xã tại các điều 17, 25, 62 của Luật Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân
dân về Hội đồng nhân dân.
- Thủ tướng Chính phủ lãnh đạo công tác của Uỷ ban nhân dân các cấp; phê
chuẩn việc bầu cử; miễn nhiệm, điều động, cách chức Chủ tịch, các Phó Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; đình chỉ việc thi
hành hoặc bãi bỏ những quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp,
luật và các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên (Điều 114); các quy
định tương tự như vậy trong các điều của Luật Hội đồng nhân dân và Uỷ ban
nhân dân về Hội đồng nhân dân.
Trong quan hệ giữa hệ thống cơ quan hành chính đặc biệt phải kể đến quy
định về quan hệ chỉ đạo thông suốt từ Chính phủ đến Uỷ ban nhân dân cấp xã
với quy định tại Điều 7 Luật Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân về Hội

đồng nhân dân: “Uỷ ban nhân dân cấp dưới chịu sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân
dân cấp trên. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chịu sự chỉ đạo của Chính phủ”. Quy
định này cho thấy tính tự quản địa phương gần như tan đi, khi biết rằng Uỷ
ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân cùng cấp. Từ đây
dẫn đến tình trạng vẫn được các nhà hoạt động thực tiễn chỉ ra khi Uỷ ban
nhân dân trọng việc giải quyết các công việc theo chỉ đạo của cơ quan hành
chính nhà nước cấp trên hơn là nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
- Trong quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với Hội đồng nhân dân,
theo quy định pháp luật thì Thủ tướng Chính phủ có quyền đình chỉ việc thi
hành các nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trái Hiến pháp, luật và
các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và đề nghị Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội bãi bỏ (Điều 114 Hiến pháp). Tương tự như vậy, thẩm quyền của Uỷ
ban nhân dân cấp trên có quyền đình chỉ việc thi hành các nghị quyết của Hội
đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp trái Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ
quan nhà nước cấp trên và đề nghị Hội đồng nhân dân cùng cấp bãi bỏ (Điều
127 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân).
Trong dự thảo Đề án cơ cấu tổ chức Chính phủ khoá 13 nhiệm kỳ 2011-2016,
các nhà soạn thảo đề xuất vấn đề Chính phủ phê chuẩn Chủ tịch và Phó Thủ
tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thay cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội theo
quy định của pháp luật hiện nay. Theo lôgic thì Uỷ ban nhân dân cũng có
thẩm quyền như vậy đối với các chức danh Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng


nhân dân cấp dưới trực tiếp. Nếu điều này được chính thức ghi nhận thì tính
tập trung của chính quyền địa phương tiếp tục được nâng cấp2.
Như đã nhận xét, mô hình chính quyền địa phương Việt Nam là mô hình tập
trung dân chủ. Nếu như trong quan hệ giữa trung ương và địa phương các
nước có thể phân thành các loại tập quyền, phân quyền thì chính quyền địa
phương Việt Nam là sự kết hợp cả hai nhân tố trên, trong đó tập quyền là chủ
đạo, nhưng có phân cấp quản lý và có phát huy dân chủ của địa phương. Tập

trung dân chủ nhưng ưu tiên tập trung, đó chính là tính hai mặt của chính
quyền địa phương vẫn được các nhà nghiên cứu nói đến: vừa với tư cách là
yếu tố cấu thành của bộ máy nhà nước thống nhất, vừa với tư cách chính
quyền của địa phương. Mô hình chính quyền địa phương như thế có thể kiến
giải bởi:
a) Điều kiện chiến tranh, tổ chức bộ máy nhà nước ít nhiều mang tính chất
tập trung để phục vụ mục đích quân sự mà dư âm đến nay chưa dứt, vẫn
thấm sâu trong nếp nghĩ của các giai tầng xã hội;
b) Trong nền kinh tế kế hoạch hoá, quản lý nhà nước, mô hình tổ chức và
hoạt động quản lý nhà nước thích hợp là tập trung quan liêu bao cấp. Trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề chuyển đổi cơ chế
quản lý nhà nước có thay đổi nhưng chưa dẫn tới sự thúc bách cho một cách
thức quản lý nào khác;
c) Trong lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam, chúng ta chưa có truyền
thống tự quản có tính chất nhà nước. “Dân chủ làng xã” vẫn được các nhà sử
học đề cập có yếu tố tự quản, nhưng thực ra chỉ là thứ “dân chủ” gần với phía
xã hội cộng sản nguyên thuỷ, không có tính chất nhà nước với sự thống trị
của nguyên tắc “phép vua thua lệ làng”. Nó khác về chất so với tự quản hiểu
theo nghĩa dân chủ hiện đại là dân chủ có tính cách nhà nước đã từng bị phủ
định bởi các xã hội độc tài chuyên chế nô lệ, phong kiến khốc liệt.
d) Về nhận thức, hầu như trong quan điểm về quan hệ giữa trung ương và
địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương ở Việt Nam vẫn thấm
đượm tinh thần tập trung dân chủ. Tư tưởng về chính quyền địa phương tự
quản hay tự quản địa phương vẫn chưa được mấy người biết đến.
2. Nhu cầu cải cách và các nguyên tắc cơ bản trong cải cách chính quyền địa
phương
Trong quá trình đổi mới bộ máy nhà nước Việt Nam từ năm 1986 đến nay,
tuy không có những kết quả cải cách rõ rệt như chính quyền Trung ương,
nhưng chính quyền địa phương đã có những thay đổi quan trọng thể hiện
trên nhiều mặt như:



- Chức năng của các cấp chính quyền địa phương được đổi mới theo hướng
tách quản lý nhà nước khỏi quản lý sản xuất kinh doanh, tách quản lý nhà
nước với các hoạt động sự nghiệp, cung ứng dịch vụ công, thực hiện xã hội
hoá một số công việc của Nhà nước. Từ đó, chính quyền địa phương thực hiện
đúng chức năng quản lý nhà nước liên quan đến công tác quy hoạch, kế
hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra… ở địa phương.
- Đẩy mạnh việc phân cấp quản lý cho địa phương và giữa các cấp chính
quyền địa phương trên các lĩnh vực: Nhiệm vụ quản lý, tổ chức bộ máy, quản
lý nhân sự và ngân sách - tài chính. Đáng chú ý, trong giai đoạn 2001- 2010
Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định phân cấp
quản lý về: Quy hoạch, kế hoạch và đầu tư phát triển; ngân sách và tài sản
nhà nước; đất đai, tài nguyên; quản lý doanh nghiệp nhà nước; hoạt động sự
nghiệp, dịch vụ; tổ chức bộ máy, phân loại xếp hạng tổ chức biên chế sự
nghiệp và công chức…
- Xác định hợp lý số lượng và tăng cường chất lượng đại biểu Hội đồng nhân
dân, thể chế hoá chức năng giám sát của cơ quan này, xác lập cơ cấu thường
trực Hội đồng nhân dân ở các cấp…
- Tinh giản và phân định hợp lý chức năng, nhiệm vụ của các thành viên Uỷ
ban nhân dân. Cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cũng được tinh
giản mạnh và chuyển đổi theo hướng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Trước
năm 1986, có lúc số lượng cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân các
cấp rất lớn, cấp tỉnh có khoảng trên dưới 35 cơ quan, nay còn 17 đến 20 cơ
quan, cấp huyện từ trên dưới 20 cơ quan, nay còn 12 đến 13 cơ quan.
- Thủ tục hành chính trong hoạt động của chính quyền địa phương được đẩy
mạnh cải cách theo mô hình cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông”.
- Đã thực hiện được một bước việc phân biệt ở địa phương chính quyền địa
nông thôn và chính quyền địa phương đô thị…
Đánh giá chung về quyền địa phương hiện nay, cải cách bộ máy nhà nước

trong thời kỳ đổi mới đã làm cho chính quyền địa phương có những chuyển
biến tích cực, phù hợp với các điều kiện mới, nhưng cuộc cải cách chưa tạo ra
được những thay đổi căn bản trong tổ chức và hoạt động của chính quyền địa
phương. Điều đó được thể hiện trên hai điểm sau:
- Cải cách chính quyền địa phương chưa tạo sự thay đổi quan trọng nào về
dân chủ. Dân chủ vẫn như ngày xưa, người dân chưa thật sự mặn mà với
chính quyền cơ sở, người dân chưa được đóng vai trò chủ nhân thực sự đối
với chính quyền địa phương. Thành quả dân chủ trong quan hệ giữa quyền
địa phương và người dân chưa rõ ràng.


- Trong khuôn khổ của nguyên tắc tập trung dân chủ, phân cấp quản lý được
coi trọng và đẩy mạnh. Phân cấp quản lý là vấn đề có tính chất quy luật đối
với bất cứ Nhà nước nào trong các điều kiện phát triển kinh tế thị trường, đô
thị hoá, phát triển của khoa học và công nghệ mạnh mẽ, hợp tác trong nước
và quốc tế cởi mở…Tuy nhiên, tính tự chủ, chủ động sáng tạo, tự chịu trách
nhiệm của chính quyền địa phương còn hạn chế. Khác với các chính quyền địa
phương tự quản, có chủ quyền theo quy định của luật, chính quyền địa
phương nước ta không có đặc tính đó. Về phương diện “tập trung”, khả năng
nắm bắt, bao quát, kiểm soát hoạt động của địa phương vẫn luôn là sự thách
đố đối với các cơ quan nhà nước trung ương, cấp trên thể hiện qua việc chưa
kiểm soát tốt việc các địa phương xây dựng sân golf, cho thuê đất rừng nơi
biên giới...
Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ cũng như quy định về sự chỉ đạo
của cơ quan hành chính cấp trên đối với cơ quan hành chính nhà nước cấp
dưới hiện nay dẫn đến trạng thái có thực là chính quyền địa phương khi hành
động, giải quyết các việc ở địa phương luôn trong tình trạng phải xem xét
vấn đề không phải dựa trên cơ sở duy nhất là luật mà còn phải cân nhắc mối
quan hệ cùng lúc liên quan đến lợi ích trung ương, cấp trên và lợi ích của địa
phương; cơ quan hành chính nhà nước phải xem xét mối quan hệ với Chính

phủ hay Uỷ ban nhân dân cấp trên và quan hệ với Hội đồng nhân dân cùng
cấp. Từ đó, hoạt động của chính quyền địa phương nói chung thiếu sự rõ
ràng, mạch lạc và trách nhiệm không rành mạch mà nguyên nhân có thể tạm
gọi là sự “phân tâm”.
Tất nhiên, chính quyền địa phương hiện nay còn có các vấn đề khác, nhưng từ
hai điểm kể trên cho thấy khiếm khuyết của chính quyền địa phương có liên
quan đến đến mô hình chính quyền địa phương. Do đó, trong giai đoạn hiện
nay vấn đề quan trọng cần phải tập trung thực hiện là cải cách chính quyền
địa phương.
Cải cách chính quyền địa phương như thế nào? Sau đây, xin nêu một số vấn
đề có tính nguyên tắc:
Thứ nhất: Trong nền chính trị nhất nguyên ở nước ta, việc cải cách chính
quyền địa phương phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Điều đó, đòi hỏi Đảng phải đánh giá đúng thực trạng và nguyên nhân của
những trì trệ, bất cập trong mô hình tổ chức chính quyền địa phương hiện
nay, định hướng cải cách chính quyền địa phương một cách căn bản trên
quan điểm dân chủ - dân chủ thật sự cho nhân dân, đặt cải cách chính quyền
địa phương trong xu hướng phát triển chung của chính quyền địa phương


hiện nay trên thế giới. Để tiến hành cuộc cải cách chính quyền địa phương có
hiệu quả, cần đến quyết tâm chính trị cao, thực sự vào cuộc của các cấp, các
ngành, gắn liền với việc tiến hành cải cách có kế hoạch và sử dụng được đội
ngũ cán bộ, công chức có ý chí và khả năng thực hiện cải cách tốt.
Thứ hai: Cải cách chính quyền địa phương phải tập trung vào vấn đề căn bản,
đó là mô hình chính quyền địa phương. Nếu chính quyền địa phương chưa
thật ổn định thì vấn đề đặt ra là lựa chọn mô hình chính quyền địa phương
tập trung (theo hướng tập quyền) hay dân chủ (mà đỉnh cao là chính quyền
địa phương tự quản hay tự quản địa phương) hay chọn giải pháp trung gian
giữa hai hướng đó...

Từ năm 1945 đến nay, chính quyền địa phương Việt Nam được tổ chức theo
chế độ tập quyền, cụ thể hơn là theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nhưng
ngày nay, còn có mô hình chính quyền địa phương tự quản mang tính phổ
quát thể hiện được hai yếu tố hàng đầu là dân chủ và hiệu quả. Đây là vấn đề
cần đặt ra cho công tác nghiên cứu ở Việt Nam.
Chính quyền địa phương tự quản có mấy điểm khác cơ bản với chính quyền
theo mô hình tập trung dân chủ:
- Chính quyền địa phương là chính quyền do nhân dân địa phương tự tổ chức
ra. Nhân dân địa phương sẽ quyết định việc thành lập, số phận chính quyền
và chính quyền địa phương phục vụ cho nhu cầu của địa phương.
- Chính quyền địa phương là chính quyền có chủ quyền, không có sự chỉ đạo
nào từ phía trên, vì các nhiệm vụ, quyền hạn được ghi rõ ràng, chặt chẽ trong
luật, chỉ trừ các trường hợp thực hiện công việc được chính quyền cấp cao
hơn uỷ quyền mới có sự chỉ đạo, kiểm tra. Do đó, mỗi cấp chính quyền địa
phương chủ động làm các việc được luật quy định.
Tổ chức chính quyền địa phương tự quản có mấy ưu thế như sau:
1. Chính quyền địa phương do dân chúng địa phương lập ra và phụ thuộc vào
sự lựa chọn của họ. Đó chính là cơ sở cho dân chủ thực sự ở địa phương,
không phụ thuộc vào chính quyền. Đồng thời, đây là cách tốt nhất để người
dân tham gia đời sống chính trị ở địa phương một cách tự giác mà không cần
đến sự vận động, câu thúc tham gia.
Cũng từ đó, chính quyền địa phương đương nhiên phải tôn trọng và quan
tâm thật sự đến dân chúng một cách thực chất, cụ thể, gắn bó có trách nhiệm.
Đó là một sức ép tốt cho mọi chính quyền được gọi là dân chủ.
2. Nâng cao tính tự chủ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động của chính quyền địa
phương trong hoạt động quản lý.
3. Thực hiện sự phân công lao động hợp lý giữa chính quyền Trung ương và


chính quyền địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương. Trong đó,

chính quyền Trung ương, chính quyền cấp trên chỉ thực hiện công tác quản lý
nhà nước ở tầm vĩ mô mà không bị chi phối vào các công việc sự vụ ở địa
phương.
4. Tạo ra chính quyền địa phương đa dạng cả về tổ chức và hoạt động, phù
hợp với các điều kiện thực tế của mỗi địa phương. Điều này có được do luật
có thể trao cho địa phương khả năng sáng tạo trong việc tổ chức chính quyền
địa phương trên cơ sở tư tưởng dân chủ và có hiệu quả.
Để tổ chức chính quyền địa phương theo nguyên tắc tự quản, phải hình thành
quan niệm mới về cách thức điều chỉnh pháp luật bảo đảm để mỗi cấp chính
quyền địa phương hoạt động trên cơ sở luật theo nguyên tắc của Nhà nước
pháp quyền; quan niệm mới về bầu cử, về dân chủ ở địa phương, về phát huy
vai trò của báo chí, về kiểm tra, giám sát nhà nước và xã hội, ngăn ngừa cát
cứ địa phương…
Cho đến nay, dự thảo Chương trình cải cách hành chính nhà nước giai đoạn
2011-2020 vẫn xác định mô hình tổ chức chính quyền địa phương như hiện
nay, tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý giữa trung ương và địa phương và
giữa các cấp chính quyền địa phương. Phân cấp, đẩy mạnh phân cấp đồng bộ
hiện nay ở Việt Nam chính là xu hướng chuyển từ tập trung sang dân chủ hay
là có sự chuyển động về hướng chính quyền địa phương tự quản, nhưng
không nhất thiết phân cấp ở mức độ nào để trở thành tự quản. Tiêu chí phân
biệt chính quyền được phân cấp quản lý với chính quyền địa phương tự quản
ở hai chữ “chủ quyền”. Trong cải cách hành chính, người ta cho rằng phân
cấp quản lý là khâu quyết định thành bại của cải cách hành chính. Những lợi
ích của việc phân cấp quản lý cho địa phương đưa lại tuy không hoàn toàn
như tự quản địa phương, nhưng cũng đưa lại nhiều kết quả tích cực. Trong
khi Việt Nam chưa muốn có sự đổi khác mô hình chính quyền địa phương
theo hướng tự quản thì đây vẫn là điều tốt nhất cho cải cách hành chính.
Thứ ba: Cải cách chính quyền địa phương phải lấy dân chủ làm nền tảng để
chính quyền địa phương được thành lập, tồn tại và hoạt động phải thực sự do
nhân dân địa phương quyết định, cán bộ, công chức thực sự là công bộc của

nhân dân chứ không phải là những người cai trị nhân dân. Đó là một cơ sở
nền tảng để có được một chính quyền tốt, hoạt động hữu dụng, giảm tối đa
các khuyết tật, tiêu cực.
Thứ tư: Chính quyền địa phương có tổ chức và hoạt động trên các nguyên tắc
của Nhà nước văn minh, hiện đại với các tiêu chí như: Trách nhiệm giải trình,
minh bạch, pháp quyền…


Xây dựng chính quyền địa phương cơ sở của dân, do dân, vì dân trong
điều kiện mới
Chính quyền địa phương cơ sở theo cách hiểu phổ biến của khoa học hành
chính là chính quyền cấp thấp nhất. Ở Việt Nam hiện nay, chính quyền địa
phương cấp thấp nhất được gọi là "cấp xã''. Theo quy định tại Điều 118, Hiến
pháp 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001 và Luật Tổ chức hội đồng nhân dân và
ủy ban nhân dân năm 2003, đối với cấp xã bao gồm: xã, phường và thị trấn
Chính quyền địa phương cơ sở là chính quyền được tổ chức ra nhằm bảo
đảm, bảo vệ và phục vụ quyền, lợi ích của nhân dân, nhân dân là đối tượng cơ
bản để chính quyền phục vụ . Dưới góc độ vai trò của nhà nước; nhân dân
chính là chủ thể của quyền lực nhà nước. Theo đó, chính quyền địa phương
cơ sở phải là chính quyền do nhân dân tổ chức ra, của nhân dân và hoạt động
vì nhân dân. Các bản Hiên pháp của Việt Nam, từ 1946, 1959, 1980 đến 1992
đều khẳng định Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Điều 2, Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 khẳng định: Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân... Những biểu hiện căn bản của chính quyền địa phương cơ
sở là: về tổ chức do nhân dân tổ chức ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân;
về hoạt động do cán bộ, công chức tiến hành phải xuất phát trên nền tảng lợi
ích của nhân dân và vì nhân dân để phục vụ.
Đối chiếu những tiêu chuẩn trên, gắn với thực tiễn tổ chức và hoạt động của

chính quyền cấp xã hiện nay có thể thấy nổi lên một số vấn đề cơ bản.
Chính quyền cấp xã về cơ bản đã thể hiện được quyền làm chủ của nhân dân,
thực hiện tốt chức năng quan lý nhà nước, đang có những cải cách căn bản
về tổ chức theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
VIII, IX, X, đặc biệt là Nghị quyết số 17-TW Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa X ngày l tháng 8 năm 2007 về ''Dẩy mạnh cải
cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý bộ máy nhà nước''. Các
địa phương đang triển khai thực hiện các đề án như: Thí điểm bỏ Hội đồng
nhân dân huyện, quận và phường tại 10 tỉnh, thành phố bắt đầu từ ngày 01
tháng 4 năm 2009; vấn đề nhất thể hóa vai trò bí thư với chủ tịch Ủy ban
nhân dân xã... Những cải cách về tổ chức bộ máy cơ quan hành chính nói
chung và chính quyền địa phương cơ sở nói riêng đã bước đầu mang lại hiệu
quả thiết thực. Tuy nhiên, vấn đề này đang trong quá trình tổ chức thí điểm,


cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện. Mặt khác, về cơ bản chính quyền địa
phương cơ sở hiện nay vẫn đang được tổ chức theo mô hình của nền hành
chính công truyền thống, biểu hiện tính thứ bậc, mệnh lệnh hành chính chặt
chẽ song trùng giữa cơ quan có thẩm quyền chung (ủy ban nhân dân) với cơ
quan có thẩm quyền riêng (chuyên môn) đã tạo ra tính thụ động, trông chờ
và ỷ lại của cấp cơ sở đối với cấp trên.
Về hoạt dộng của chính quyền cấp xã bước đầu đã đạt được những hiệu quả
nhất định về các lĩnh vực quản lý được giao. Điều này được phản ánh thông
qua những giải pháp mà Chính phủ tiến hành trong thời gian qua như: cải
cách thủ tục hành chính theo hướng xây dựng mô hình hành chính ''một cửa,
một dấu''; công khai các thủ tục hành chính xây dựng bộ thủ tục hành chính);
mạnh dạn phân cấp chức năng, nhiệm vụ cho cấp xã trong thực hiện các
nhiệm vụ y tế, văn hóa, giáo dục, thể thao, xây dựng,…Song, năng lực của đội
ngũ cán bộ, công chức ở một số chính quyền cấp xã có mặt chưa tương xứng
với mức độ phân cấp thậm chí có một số cán bộ, công chức tha hóa về đạo

đức lối sống đẫn đến những quyết định hành chính hoác hành vi gây ảnh
hướng xấu đến hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước ở địa phương.
Thực trạng trên, xuất phát từ những nguyên nhân sau:
thể chế pháp luật vẫn còn hạn chế trong cách xác định giữa thẩm quyền và
trách nhiệm của cán bộ, công chức về thực thi công vụ. Hiện tại, các văn bản
quy phạm pháp luật mới chỉ dừng lại ở việc quy định chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền cho cơ quan công quyền, cán bộ, công chức mà chưa quy định cụ
thể, rõ ràng về ''trách nhiệm'' của cán bộ, công chức khi thực thi công vụ. Do
đó, hành vi của cán bộ, công chức chưa được xác định về tính chịu trách
nhiệm; chịu trách nhiệm về cái gì và chịu trách nhiệm với ai? Cách quy định
của pháp luật như vây, vô hình chung đã tạo ra sự đa đảng trong ''sắc thái
quan hệ'' của cán bộ, công chức với nhân dân.
việc phân công, phân cấp có mặt, có lĩnh vực chưa rõ ràng, còn mang dấu ấn
của một nền hành chính công truyền thống. Hiện nay, ấn đã phân cấp chức
năng, nhiệm vụ đã có những đổi mới. Tuy nhiên, cơ chế phân cấp vẫn chưa
được đổi mới mạnh mẽ còn mang tính ''nhỏ giọt'', chủ yếu là phân cấp nhiệm
vụ mà chưa phân cấp nguồn lực. Với cơ chế mang tính mệnh lệnh thứ bậc
chặt chẽ và song trùng ''trực thuộc'' đã làm cho cấp cơ sở trở nên thụ động,
trông chờ, ỷ lại, thiếu sáng tạo trong xem xét, giải quyết các vấn đề ở cơ sở.
Đây là một trong những nguyên nhân tạo ra căn bệnh quan liêu, hành chính
xa dân, biến chính quyền - nơi đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân trở
thành cơ quan công quyền, mang tính chuyên môn thuần túy, giải quyết vấn


đề một cách máy móc và thụ động.
mô hình công vụ nặng về đã ảnh hưởng đến ý thức và trách nhiệm của cán
bộ, công chức trong giải quyết công việc với nhân dân. Tình trạng cố gắng
bằng cách này hay cách khác để được vào biên chế nhằm hưởng lương ''suốt
đời''; giỏi hay không giỏi vẫn là cán bộ hoặc công chức được ''hưởng lương
như nhau theo vạch, bậc''; tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ, công chức theo hình

thức ''sống lâu lên lão làng''... vẫn tồn tại ở một số địa phương. Điều này đã
ảnh hưởng đến ý thức và trách nhiệm, làm hạn chế tính chủ động, sáng tạo
của cán bộ, công chức tạo ra tâm lý trong hoạt động công vụ.
những tác động từ tâm lý ngại va chạm của một số người dân khi có nhu cầu
giải quyết công việc của mình với cơ quan quản lý nhà nước. Thực tế, trong
mối quan hệ với cán bộ, công chức một số người dân thường quan niệm mình
ở ''thế yếu'' còn cán bộ, công chức là người có "quyền'' giải quyết công việc
nên hay xuất hiện tâm lý "rụt rè'' Mặt khác, không ít người dân khi muốn đạt
được mục đích của mình thường có biểu hiện ''chấp nhận", ''ngại va chạm''
mà bỏ qua những tiêu cực do cán bộ, công chức gây ra.
Để chính quyền địa phương cơ sở theo đúng nghĩa , cần xây dựng một hệ
thống các giải pháp đồng bộ, trước mắt cũng như lâu dài. Song, trước mắt
cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp sau:
. Hiện tại, phân cấp giữa chính quyền cấp huyện cho cấp xã vẫn còn có mặt,
lĩnh vực chưa rành mạch về "quyền" và "trách nhiệm" nên xảy ra tình trạng
thụ động, trông chờ, ỷ lại và xa dân. Để khắc phục nhược điểm này, việc phối
hợp giữa nguyên tắc "phân quyền" và "tản quyền" là một giải pháp quan
trọng. Cần tiến hành giải quyết các công việc của địa phương và xây dựng các
cơ quan quản lý chuyên môn ở cấp xã do cấp huyện quản lý nhằm thực hiện
các nhiệm vụ của nhà nước ở cơ sở.
Nếu tổ chức bộ máy chính quyền cấp cơ sở hiện hành được tổ chức theo mô
hình "mẫu" do luật quy định và áp dụng chung cho tất cả các chính quyền xã,
phường và thị trấn sẽ không phát huy được đầy đủ những giá trị văn hóa
truyền thống và đặc điểm riêng của mỗi cấp chính quyền cơ sở. Vì vậy, để
nâng cao hiệu lực, hiệu quả của chính quyền cơ sở phải:
Sửa đổi các quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy
ban nhân dân theo hướng hoàn thiện các nguyên tắc tổ chức và hoạt động;
xá định rõ cơ cấu tổ chức "cứng";…nhằm tạo ra các khung pháp lý chung
nhất về chính quyền địa phương nói chung và chính quyền cơ sở nói riêng.
Phát huy giá trị của hương ước, quy ước trong việc điều chỉnh cơ cấu "mềm"

thì hương ước chính là văn bản thể hiện ý chí của cả cộng đồng dân cư trong


việc thiết lập nên một số bộ phận, số lượng các bộ phận nhằm đảm bảo đáp
ứng đầy đủ các nhu cầu đòi hỏi ở địa phương. Mặt khác, hương ước cũng
đồng thời là cơ sở để xác định cơ chế giám sát của nhân dân, xác định trách
nhiệm của chính quyền, cán bộ, công chức trong việc giải quyết công việc ở
địa phương;…Hiện nay, vấn đề khôi phục lại những giá trị của hương ước,
quy ước đã được áp dụng và tổ chức thực hiện có hiệu quả nhất định ở một
số địa phương cơ sở nhưng mới chỉ dừng lại ở các hoạt động của thôn, làng,
ấp, bản, tổ dân phố mà chưa được coi là văn bản chung của cộng đồng dân cư
trong một đơn vị hành chính lãnh thổ ở cấp xã. Do vậy, việc phát huy giá trị
hương ước, quy ước chung cần đảm bảo tính thống nhất biện chứng trong
mối quan hệ giữa pháp luật và hương ước trong việc điều chỉnh về tổ chức và
hoạt động của chính quyền cấp xã. Những vấn đề mang tính năng động, cụ
thể, chi tiết ở địa phương, pháp luật nên nhường chỗ cho hương ước điều
chỉnh, ngược lại những vấn đề mang tính nguyên tắc, tính chung thì do pháp
luật quy định.
Hiện tại, việc áp dụng các tiêu chí trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan
quản lý nhà nước mới chỉ dừng lại trong xác định các tiêu chuẩn về chức
danh, vị rí hoặc ở một số hoạt động đơn lẻ mà chưa xây dựng thành một hệ
thống các định mức, tiêu chuẩn thống nhất. Để xây dựng và áp dụng thống
nhất, cần dựa trên cơ sở nền tảng tiêu chuẩn về nghĩa vụ, trách nhiệm thực
thi công vụ của cán bộ, công chức theo quy định tại Điều 8, 9 và l0 - Luật Cán
bộ, công chức năm 2008. Trên cơ sở đó, Chính phủ xây dựng và ban hành
nghị định chi tiết hóa cụ thể về các điều kiện, tiêu chuẩn như: tiêu chuẩn cán
bộ, công chức xã phường; mức độ, thái độ phục vụ nhân dân; tiêu chuẩn xác
định trách nhiệm thực thi công vụ được giao;. đồng thời, xây dựng quy chế để
tiếp nhận và giải quyết ý kiến phản hồi của người dân khi đến giải quyết công
việc tại công sở.

Cần tập trung nâng cao nhận thức một cách toàn diện cho người dân, trong
đó đặc biệt quan tâm đến giáo dục ý nghĩa, vai trò, vị trí của công dân trong
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện
nay. Đổi mới các hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục thông qua sinh
hoạt thôn, tổ dân phố để mọi người dân hiểu rõ về quyền, nghĩa vụ của mình
trong mối quan hệ với cán bộ, công chức cấp xã.



×