HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA NÔNG HỌC
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG
PHÁT TRIỂN CỦA MỘT SỐ GIỐNG HOA SỨ THÁI
VÀ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT TRỒNG GIỐNG
HOA SỨ THÁI TẠI GIA LÂM HÀ NỘI
Người thực hiện:
LỖ BÁ LUẬT
Lớp:
K57RHQMC
Khóa:
K57
Người hướng dẫn:
TS. ĐOÀN VĂN LƯ
PGS.TS. ĐẶNG VĂN ĐÔNG
HÀ NỘI – 2016
Lời cảm ơn
Để hoàn thành chương trình tốt nghiệp và viết báo cáo khóa luận này tôi
đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của quý thầy cô trong
và ngoài trường Học viện Nông nghiệp Việt nam.
Lời đầu tiên, cho tôi xin được chân thành cảm ơn Ban giám hiệu và Ban
chủ nhiệm khoa Nông học – Trường Học viện Nông nghiệp Việt nam đã sắp
xếp, bố trí và tạo các điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình thực tập tốt
nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Đoàn Văn Lư, Bộ môn Rau Hoa Quả và
Cảng Quan– Giảng viên trường Học viện Nông nghiệp Việt nam., đã giúp đỡ tôi
hoàn thành Khóa luận tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Đặng Văn Đông - Giám đốc Trung
tâm Nghiên cứu và Phát triển Hoa cây cảnh, Viện nghiên cứu Rau quả, người
trực tiếp và đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt thời gian thực tập và hoàn thành
Khóa luận tốt nghiệp.
Mặc dù tôi đã cố gắng hoàn thành bài khóa luận bằng sự nhiệt tình và
năng lực của mình, tuy nhiên vẫn không thể tránh khỏi những thiếu sót rất mong
nhận được sự góp ý của quý thầy cô và các bạn.
Hà nội, ngày tháng năm 2016
Học viên
Lỗ Bá Luật
i
MỤC LỤC
4.Nguyễn Thị Mai(2012). Nghiên cứu khả năng tạo hạt và ảnh hưởng của phân bón tới sinh
trưởng, phát triển của cây sứ Thái Lan. Luận văn thạc sĩ. Đại học Nông nghiệp Hà Nội........29
5.Võ Văn Chi, từ điển thông dụng, tập 1. NXB khoa học và kỹ thuật.....................................29
6.Nguyễn Thị Hải (2006). Nghiên cứu ảnh hưởng của giá thể trồng và các loại phân bón lá
khác nhau tới sinh trưởng, phát triển và chất lượng một số cây hoa trồng chậu tại Gia Lâm –
Hà Nội. Luận văn thạc sĩ nông nghiệp......................................................................................29
Tài liệu từ internet.....................................................................................................................29
ii
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Động thái tăng trưởng chiều cao cây ở các giống sứ Thái...............Error:
Reference source not found
Bảng 2. Động thái ra lá của các giống sứ Thái. Error: Reference source not found
Bảng 3.đặc điểm hình thái hoa của các giống.........................................................
Bảng 4: Đặc điểm ra hoa của một số giống hoa sứ Thái...Error: Reference source
not found
Bảng 5: Ảnh hưởng của giá thể tới tốc độ ra lá của cây hoa sứ...Error: Reference
source not found
Bảng 6: Ảnh hưởng của giá thể đến năng suất, chất lượng hoa của cây hoa sứ Error:
Reference source not found
Bảng 7: Ảnh hưởng của phân bón đến tốc độ tăng số lá của cây hoa sứ.......Error:
Reference source not found
Bảng 8: Ảnh hưởng của phân bón tới năng suất, chất lượng hoa sứ.............Error:
Reference source not found
iii
DANH MỤC HÌNH
Hình 1. Các giống sứ Thái. a, giống đỏ đơn; b, giống hồng viền trắng; c, giống
đỏ kép; d, giống hồng kép.................................Error: Reference source not found
iv
Phần 1: MỞ ĐẦU
1.1 Đặt vấn đề
Ngày nay với tốc độ phát triển kinh tế ngày cành nhanh khiến cho con
người dành thời gian tập trung vào công việc ngày càng nhiều ít có thời gian
nghỉ ngơi thư giãn cho bản thân, để giúp cho bản thân thư gian giải trí sau những
giờ làm việc mệt mỏi căng thẳng thì việc chọn cách chăm sóc cho một chậu hoa,
chậu cây cảnh trong phòng làm việc hay một khu vườn nhỏ đang là một xu thế
hiện nay. Từ đó nhu cầu sử dụng hoa cây cảnh trang trí đã tăng lên nhanh chóng,
trong các loại cây cảnh đang thịnh hành thì cây hoa sứ Thái là một loại cây cảnh
đang được nhiều người ưa chuộng với hình dáng mập mạp của bộ rễ, màu sắc
hoa đa dạng, nở quanh năm và dễ chăm sóc.
Tuy nhiên hiện nay khu vực miền Bắc nói chung và khu vực Gia Lâm Hà Nội nói riêng việc sản xuất cây hoa sứ Thái để làm cây cảnh, cây trang trí
vẫn còn hạn chế do chưa đánh giá hết được khả năng của các giống hoa sứ để
chọn ra giống có khả năng sinh trường phù hợp với điều kiện hiện nay. Dựa vào
những nhu cầu đó tôi quyết định làm đề tài “nghiên cứu khả năng sinh trưởng
phát triển của một số giống hoa sứ Thái và biện pháp kỹ thuật trồng giống
hoa sứ Thái tại Gia Lâm-Hà Nội.”
1.2 Mục đích và yêu cầu
1.2.1. Mục đích
Nghiên cứu sinh trưởng phát triển của bốn giống hoa sứ. nhằm tìm ra
giống sứ phù hợp nhất nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất với điều kiện
Gia Lâm- Hà Nội.
Áp dụng các biện pháp kỹ thuật để trồng giống sứ Thái cho chất lượng và
hiệu quả cao nhất.
1.2.2. Yêu cầu
Xác định được khả năng sinh trưởng phát triển của bốn giống sứ Thái
trong điều kiện sinh thái Gia Lâm - Hà Nội
1
Xác định được giá thể trồng phù hợp cho cây hoa sứ Thái trong điều kiện
sinh thái Gia Lâm - Hà Nội
Xác định được lượng phân bón phù hợp cho cây sứ Thái trong điều kiện
sinh thái Gia Lâm - Hà Nội
2
Phần 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Nguồn gốc và phân bố:
Cây sứ Thái có tên khoa học là Adenium obesum (thuộc họ Trúc đào –
Apocynaceae), còn được gọi là “hoa hồng sa mạc”, tên tiếng Anh là Desert Rose
(Hoàng Đức Khương, 2006) [1]. Có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới
của vùng đông và nam Châu Phi, cũng như bán đảo Ả Rập, trải dài từ các nước
Nam Á và Ả Rập.
Cây sứ du nhập từ Thái Lan vào Việt Nam cách đây khoảng 40 Năm
(Nguyễn Tiến Bân, 1997)[3] Cây Sứ khó trồng và phát triển chậm trong điều
kiện mát, lạnh (đặc biệt ở các nước ôn đới và hàn đới) (Hoàng Đức Khương,
2006) [1]. Cây Sứ xuất hiện khắp nơi ở Việt Nam nhưng xuất hiện nhiều chủ
yếu từ Huế trở vào Nam, miền Bắc cây Sứ không đước phát triển do có điều
kiện khí hậu không thuận lợi, đây là một thị trường tiềm năng cho cây sứ phát
triển.
2.1.1. Đặc điểm thực vật học của cây Sứ Thái
- Rễ cây
Sứ Thái có bộ rễ phát triển mạnh, phát triển ở tầng đất mặt. Khi trồng
trong chậu, rễ cái lâu ngày phình to, do yếu tố ngoại cảnh hay do tác động của
con người mà tạo nên các hình dạng khác nhau. Rễ con hay rễ nhánh mọc ra từ
rễ cái có nhiều long tơ, mịn màu trắng để hút nước và các chất dinh dưỡng, rễ
con mềm nên rất rễ bị dập, úng gây thối cho bộ củ.
- Củ sứ
Nếu cây sứ được trồng từ hạt thì sẽ có một phần lồi ra ở cổ rêc gọi là củ
sứ. Củ sứ hình thành từ khi hạt nảy mầm, củ phình to lồi hẳn ra ở cổ rễ và trồi
lên mặt đất có hình dạng như cái chai hay cái bầu nậm.
Củ là nơi dự chữ chất dinh dưỡng để nuôi cây khi nguồn thức ăn trong
đấy cạn kiệt. Do đó chỉ cần nhìn vảo thể trạng của củ căng phồng hay nhăn nheo
có thể biết được môi trường dinh dưỡng của cây có đủ cung cấp cho cây hay
3
không. Khi củ rễ bị tổn thương rất rễ bị thối do củ chứa nhiều nước và chất dinh
dưỡng.
- Thân sứ
Than là phần sương sống cho cây sứ. là phần mọc lên từ củ hoặc tiếp giáp
với bộ rễ. Thân cây khi nhỏ có màu xanh khi lớn có màu xám mốc. Có dạng
than gỗ gồm nhiều khoanh, bên trong là mô gỗ cứng, bên ngoài là khoanh mang
mủ. Trên than có nhiều cành mỗi cành lại phân nhánh, nếu không được cắt tỉa
thì cành sẽ mọc dài ra, lá mọc tập trung ở dầu cành, đầu nhánh. Mủ sứ rất độc có
thể gây mù mắt nếu lỡ để bắn vào. Tuy nhiên cao chiết từ ethanol có hoạt tính
độc với tế bào gây ung thư biểu bì mũi, hầu ở người[5]. Để cây sứ có tán đẹp,
cành nhánh cân đối thì sau mỗi đợt hoa tàn ta cắt bỏ nhánh để cây ra nhiều cành
và hoa hơn.
- Lá sứ
Lá sứ mọc thành vòng soắn chụm lại thành cụng của phía trên của ngọn
cây, các lá non mép nhẵn, bóng láng. Lá dày mọng nước mọc so le không có lá
kèm. Lá sứ có nhiều hình dạng và kích thước khác nhau. Lá có thể trơn láng
hoặc có long tơ mịn, màu từ xanh đến nâu đỏ, đầu lá nhọn có gai nhỏ hoặc bằng
hay lõm vào trong, gốc lá hình tam giác.
Lá sứ thuân dài, phiến lá tương đối rộng, hệ gân lá hình long chim, gồm
gân chính nổi rõ kết hợp với các gân nhỏ tạo nên bộ xương lá[2]. Mỗi giống sứ
có màu lá và màu gân khác nhau. Sứ là loài cây mang tính sa mạc, nên lá già
rụng đi phần cành sứ già không có lá chỉ có lá ở phần ngọn.
- Đọt
Là phần ngọn của nhánh mang chum hoa, có màu xanh hoặc đỏ nâu tùy
từng giống.
- Hoa
Hoa sứ có nhiều màu sắc khác nhau nhưu đỏ, trắng , vàng, hồng, hoa có
viền rất đa dạng. Hoa nở theo từng chùm, mỗi chùm có từ 5 – 10 hoa cũng có
4
thể nhiều hơn thế, hoa nở dần khoảng hơn 1 tháng thì nở hết.
Hoa có cuống ngắn dạng hình phễu, hoa đều, lưỡng tính, mẫu 5, tiền khai
hoa vặn, xếp thành chùm xim mọc ở đầu cành. Lá đài thwuowngf có màu đỏ,
long mịn. Họng hoa thường có màu vàng, đỏ , trắng, cam, xanh. Nhị dính trên
ống, chỉ nhị ngắn, có trung đới dài bằng chiều dài họng hoa mang nhiều long và
có màu sắc thay đổi tùy giống.
Hoa thức chung K5C(5)A5G(2)
- Quả
Sau khi hoa thụ phấn thụ tinh bầu sẽ phình to ra thành quả, quả thường
mọc thành cặp. Tùy theo giống mà có màu sắc quả thay đổi. Thời gian chin của
từng giống cũng khác nhau 2 đến 3 tháng. Trong quả có rất nhiều hạt.
- Hạt
Tùy giống mà số hạt trong quả ít hay nhiều, giống ít hạt mỗi quả có vài
chục hạt, với giống nhiều hạt quả có tới vài trăm hạt. Trong quả có hai dãy hạt,
khi tách ra thấy hạt. Hạt có kích thức to nhỏ tùy giống[2].
2.1.2. Yêu cầu ngoại cảnh
Cây sứ Thái có nguồn gốc từ sa mạc nên có khả năng chịu nắng tốt, vì vậy
cây rất thích hợp với vùng khí hậu nhiệt đới quanh năm nóng ẩm. Cây sứ tuy có
nguồn gốc xa mạc nhưng lại ưa ẩm, vào mùa mưa cây phát triển tốt tuy nhiên
cây không chịu được úng.
- Độ ẩm, lượng nước tưới
Cây sứ là loài sa mạc nhưng lại ưa độ ẩm cao, đặc biệt vào mùa mưa cây
sinh trưởng phát triển rất tốt. Cây sứ ưa ẩm nhưng không chịu được úng nước,
nếu bị úng cây sẽ thối củ và bộ rễ. Cây có khả năng chịu hạn tốt, có thể không
tưới 1 – 2 tháng, tuy nhiên củ sứ sẽ bị tóp đi và mất nước và dinh dưỡng, nhưng
sau khi được tưới nước và chăm sóc cây lại phát triển như cũ. Do đó phải
thường xuyên tưới nước ở mức độ vừa phải.
5
Chất lượng nước cũng ảnh hưởng tới sự phát triển của cây sứ. Độ pH từ
5,5-6,5 là tốt nhất. Nước bị nhiễm sắt làm cây chậm phát triển, rễ bị chùn lại, lá
không xanh, nhỏ, quăn queo.
- Ánh sáng
Cấy sứ ưa ánh sáng trực xạ 8-12h, để cây ra hoa cần ít nhất từ 4-5h ánh
sáng chiếu trực tiếp. Tuy nhiên vào những ngày nắng nóng độ ẩm thấp cần che
nắng cho cây và có thể gây cháy bề mặt lá, hoa, củ. Cây sứ ưa ánh sáng trực xạ
70-80% ánh sáng trực tiếp từ 8-12 giờ. Tuy nhiên vào những ngày hè nóng ẩm
cây sứ cần được che nắng 20% tránh ánh nắng trực tiếp làm cháy bìa lá, bề mặt
củ hoặc cánh hoa. Vì vậy cây sứ thường được trồng ở những nơi có nắng nhiều,
ít mưa diện tích trồng nhỏ[1].
- Nhiệt độ
Cây sứ Thái thích nghi ở vùng có nhiệt độ nóng ẩm từ 27-30 oC nếu nhiệt
độ cao cây vẫn sinh trưởng tốt tuy nhiên hoa của cây sẽ ngừng nở và mau tàn
nếu nhiệt độ vượt quá 38oC. Cây sứ mẫn cảm với nhiệt độ thấp, ở các vùng có
mùa đông lạnh cây sẽ rụng lá ngừng sinh trưởng và trải qua thời kỳ ngủ nghỉ vài
tháng. Tại các nước ôn đới, mức nhiệt độ tối thích an toàn là 10 oC dưới mức này
cây sẽ bị đặc nhựa và chết. Theo một nghiên cứu thì đầu cành sứ sẽ bị tổn
thương khi nhiệt độ dưới 5oC và cây chết khi nhiệt độ dưới 0oC. Đây là một
trong những dặc tính chung của các nhóm mọng nước[1].
2.1.3. Kỹ thuật trồng và chăm sóc sứ Thái.
Cây sứ trồng từ hạt có thể ra hoa sau 8 tháng đến 1 năm, dễ trồng khả
năng nhân giống nhanh, hoa đẹp, trên môt cây có thể ghép nhiều giống sứ khác
nhau, Ngoài vẻ đẹp của hoa cây sứ cũng có thể tạo dáng để chở thành các cây
bon sai do có bộ rễ rất đẹp.
Chọn đất trồng.
Độ tới xốp của đất quyết định chất lượng phát triển của cây, đất tới xốp rễ
phát triển nhanh, cây tăng trưởng mạnh mẽ. Đất pha cát, phân rơm mục, phân
6
rác, cát sạch, phân chuồng, tro chấu là những chất liệu thường được dùng trong
các nhà nuôi trồng sứ. Cây sứ không kén đất, các loại đất như đất cát, đất thịt,
đất thịt nhẹ đều trồng được với điều kiện đất tơi xốp và thoát nước. có thể phối
trộn đất trồng theo ỷ lệ sau: 50% đất phù xa, cát pha hoặc thịt nhẹ, 50% chất hữu
cơ, xơ dừa, vỏ trấu. Nếu đất chua có thể bổ xung thêm phân lân và vôi. Tất cả
trộn đều và sử lí nấm để trừ nấm bệnh, ủ thành đống để dung dần.
Cách trồng.
Có hai cách trồng sứ là gieo hạt và giâm cành. Nhưng hiện nay đa số
người chơi đều sử dụng phương pháp giâm cành. Sứ trồng trong chậu là khá phổ
biến vì vừa đẹp vừa dễ chăm sóc nên ít người trồng thẳng xuống đất vườn.
Chậu trồng sứ thường đục nhiều lỗ ở đáy để thoát nước, có thể dải một ít
gạch vụn, đá nhỏ ở dưới đáy tránh đất làm bịt kín lỗ thoát nước. Dùng đất đã
phối trộn các thành phần cho vào 2/3 chậu sau đó đặt cây sứ vào, đặt cây ở giữa
chậu, chỉnh sửa bộ rễ cho cân đối. Tiếp tục cho thêm đất vào ngập một phần rễ
và ngang gần bằng miệng chậu. Bộ củ rễ to nằm trên miệng chậu, đất trồng phải
thấp hơn miệng chậu để khi tưới nước không tràn ra ngoài.
Cây sứ trồng lâu ngày rễ phát triển to cần thay sang chậu có kích thước
lớn hơn, đồng thời nâng bộ rễ lên cao khỏi miệng chậu.
Sang chậu mới phải đặt cây ngay ngắn đồng thời chỉnh sửa bộ rễ theo s
muốn thì dáng cây mới đẹp. bỏ đất vào khoảng ngang bằng miệng chậu, tưới đủ
ẩm[4].
Bón phân
Các loại phân hữu cơ như phân trâu, bò, heo đã hoai mục rất thích hợp
bón cho cây sứ lúc mới trồng hoặc khi thay chậu sửa rễ. Các loại phân vô cơ như
đạm, lân, kali, NPK và phân bón lá dùng bón thúc định kỳ trong năm. Tùy theo
tuổi cây mà có thể bón như sau:
7
Cây non dưới 6 tháng tuổi: hòa 10-15g NPK 20-20-15+TE hoặc NPK 1612-8+TE vào 10-15 lit nước, tưới cách nhau 15-20 ngày/lần kết hợp dùng phân
đầu trâu 005 phun định kỳ 10-15 ngày/lần kích thích ra chồi, lá, rễ.
Cây 6 tháng đến 1 năm tuổi: bón thúc 20-30g NPK 20-20-15+TE hoặc
NPK 16-12-8+TE/ chậu, cách nhau 15-20 ngày/lần, kết hợp dùng phân đầu trâu
005 phun định kỳ 10-15 ngày/lần.
Cây trên 1 năm tuổi, có hoa ổn định: bón thúc 20-30g NPK 20-20-15+TE
hoặc NPK 16-12-8+TE/ chậu, cách nhau 20-30 ngày/lần. Kết hợp dùng phân
đầu trâu 005 phun định kỳ 10-15 ngày/lần, phân đầu trâu 007 phun kích thích ra
hoa[4].
Tưới nước
Cây sứ cần nhiều nước để sinh trưởng phát triển tuy nhiên cây sứ lại hông
chịu úng do sứ là thân mọng nước, có thể chịu hạn 1 -2 tháng không tưới cây sứ
vẫn hông chết, khi gặp điều kiện thuận lợi lại có thể phất triển bình thường.
Tùy theo chất liệu trồng mà ta có cách tưới hợp lý. Chú ý quan sát sau
mỗi lần tưới thì bao lâu đấy trong chậu khô xuống 1/3 chậu tính từ lớp đất mặt
khi đó ta có thể tưới bổ xung nước cho cây. Nếu chất liệu trồng tơi xốp thì có thể
tưới cho cây hằng ngày.
Sứ là cây chịu nắng vì vậy rất phù hợp với hời tiết miền nam, cây sứ mới
trồng, mới sang chậu hay mới cắt cành thì không nên tưới nhiều nước. Tưới
nước cho cây cần dùng vòi phun sương, bình phun hoặc hệ thống tưới phun[1].
Điều khiển ra hoa
Muốn cây sứ ra hoa nhiều thì cành sứ hông được để quá dài, cành phải
được cắt tỉa sau mỗi đợt hoa tàn, Mỗi lần cắt cây sẽ ra thêm nhiều nhánh, nhiều
nhánh sẽ có nhiều hoa. Muốn sứ ra hoa dịp tết cần căn cứ: nếu lượng mưa đều
trong năm, khí hậu ôn hòa thì cắt cành vào rằm tháng 7 âm lịch. Nếu trong năm
hạn hán kéo dài, mưa ít thì cắt cành sứ muộn hơn vào đầu tháng 8, kết hợn phun
định ỳ các loại phân bón có hàm lượng cao như đầu trâu 701, đầu trâu 901. Khi
8
thấy lá sứ chuyển từ màu xanh sang màu vàng rồi rụng, ở đầu ngọn ngưng ra lá
non có những nụm lốm đốm là thời kỳ cây phân hóa mầm hoa[4].
Phòng trừ sâu bệnh
Sâu bệnh hại là yếu tố làm giảm chất lượng và năng suất của cây trồng.
Đối với cây hoa sứ nếu không khống chế được sâu bệnh hại thì năng suất và chất
lượng đều giảm. đặc biệ trong giai đoạn cây ra nụ tới khi nở hoa.
Cây sứ thường bị các laoij sâu bệnh như:
- Sâu xanh: nếu thấy trên các ngọn lá bị ăn cụt thì chắc chắn là do sâu
xanh. Loại sâu này ăn rất nhanh 2-3 ngày ăn hết cả đọt lá có hể ăn đứt cả ngọn
cây. Để phòng trừ có thể dùng một số loại thuốc: vibasa, vitaco…
- Rầy bông và bọ sứ: rầy bông có thân nhỏ dẹp, có long tơ khắp chung
quanh, bọ sứ thì lớn hơn có hình bầu dục và đuôi khá dài, Thường cắn hút nhựa
trên đọt lá và tiết ra dịch có vị ngọt hấp dẫn kiến, đồng thời cũng làm rơi rụng
rất nhiều phấn màu trắng trên ngọn cây. Khi thấy rầy và bọ sứ suất hiện phải
phun thuốc để phòng trừ ngay như: actara, accenta…
- Bệnh thối nhũn: là bệnh thường gặp ở cây sứ Thái, rất khó trị, ban đầu
là một chấm đen sau lan nhanh ra toàn cây nếu không phát hiện kịp sẽ làm cây
mềm nhũn nhất là mùa mưa chết cả cây chỉ trong vài ngày.
Nguyên nhân do: vi khuẩn gây ra ừ các vết thương do sâu rầy gây ra và độ
ẩm cao.
Để điều trị: cắt bỏ hết phần bị thối sâu vào thân, sử dụng thuốc
newkasuran phun để phòng nấm bệnh.
- Bệnh đốm vàng trên lá: khi cây sứ gặp trời mưa thường suất hiện các vết
đốm màu vàng trên lá như bị phỏng, rồi lan ra cả lá sau làm lá vàng rồi rụng
Để phòng trừ: sau khi trời mưa hun các loại huốc diệt nấm như topsin,
zineb, … cây sứ bị bệnh thường khó chữa nên cần áp dụng các biện pháp phòng
trừ trước khi cây bị bệnh.
9
2.2. Vị thế và giá trị sử dụng.
Năm 1761, Pehr Frosskal (người đức) phát hiện ra cây sứ trong tự nhiên
trong một chuyến thám hiểm tới Ai Cập. Năm 1819, Johann J.Roemer và Joesph
A.Shultes đặt tên cho cây sứ là Adenium. Như vậy cây sứ đã được biết đến cách
đây gần 300 năm[1]. Cây sứ tiếp tục phát triển, ở Thái Lan người ta bắt đầu
trồng sứ cách đây hơn nửa thế kỷ sau đó du nhập vào Việt Nam khoảng 40 năm
nay[2].
Cây sứ hiện có vị thế khá mạnh trên thị trường thế giới. Owe châu Âu và
châu Mĩ hoa sứ đang dần thâm nhập đang thâm nhập và dần trở thành như một
nghề trồng hoa chủ đạo. Ở châu Á, các nước Ấn Độ, Thái Lan và Đài Loan phát
triển rất mạnh về trồng hoa sứ. Ở châu Mĩ và Hoa Kỳ là nơi tạo ra các giống sứ
mới đầu tiên, tại đây do chi phí sản xuất cây sứ rất cao nên đa số các nhà vườn
nhậ khẩu trực tiếp cây từ Đài Loan, Thái Lan. Đài Loan là nới mà rất nhiều
giống mới được ra dời, cây sứ và lan Hồ Điệp đang được chú trọng phát triển.
Đa số các cây sứ được mua bán trên thị trường là loại sứ nhỏ kích thước
trung bình là 7-10cm, được ghép 1-2 nhánh giống, rất ít và hầu như không mua
bán với cây sứ cảnh có kích thước lớn.
Vị thế cây sứ ở Việt Nam có nhiều biến đổi, vào khoảng 10 năm trước khi
mới được nhập về các nghệ nhân Sài Gòn đánh giá là một giống kiểng quý nên
giá bán khá cao. Sau đó do kỹ thuật trồng sứ phát triển, cấy sứ lại dễ trồng và
chăm sóc nên giá bán giảm xuống. Tại các nhà vườn Sa Đéc trước đây được
trồng như một cây cảnh bình thường nhưng từ khi các giống sứ mới được nhập
về nhu cầu cần cây nguyên liệu để làm tháp ghép tăng cao nên cây sứ đã được
đưa lên thành một loại cây chính và được một số nhà vườn trồng chuyên biệt.
Sau một thời gian vào khoảng năm 2004 với số lượng sản xuất ồ ạt cây sứ lại bị
mất giá, phải đến giữa năm 2005 mới có dấu hiệu tích cực về giá bán.
Cây sứ có mặt khắp Việt Nam, nhưng tập chung chủ yếu từ Huế trở vào
Miền Nam. ở Miền Bắc cây sứ không được thịnh do nhiều nguyên nhân, tuy
10
nhiên hiện nay đã có nhiều nhà vườn sản xuất cây sứ. ở Miền Trung tại các đền
đài, lăng tẩm ở Huế luôn có hai hang sứ đặt ở mặt tiền để trang trí.Ở Miền Nam
là nới cây sứ phát triển nhất, TP Hồ Chí Minh là nơi nhập nhiều các giống sứ
mới sau đó nhân ra và đưa đi các vùng khác[1].
Nói chung, trong làng cây cảnh Việt Nam sứ chiếm một vị thế quan trọng
và có giá trị cao. Thói quen chơi sứ ngày Tết càng ngày càng có nhiều người
chơi, ở các chợ hoa Tết cây sứ chỉ đúng sau Mai, Đào, Quất, Cúc, và một số loại
hoa khác[2]. Giá trị làm cảnh của cây sứ chính là giá trị thẩm mĩ, đầu tiên là bộ
củ, bộ rễ sau là màu sắc hoa trên cây. Cây có bộ củ mập mạp, rễ nhiều hình thù,
trên cây có nhiều cụm hoa khác màu càng có giá trị cao. Với su hướng nhiều
giống sứ mới lạ được sản xuất như hiện nay sắp tới vị thế của cây sứ sẽ được
nâng cao hơn.
2.3. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
Tình hình nghiên cứu về giá thể trồng hoa sứ:
Giá thể trồng là một vấn đề đang được quan tâm đối với rau và hoa cây
cảnh. Tuy nhiên thì phần lớn các thí nghiệm đều tiến hành trên rau, hoa rất ít
trên cây cảnh và cây trồng chậu.
Từ các nghiên cứu trước đây một số nhận định được đưa ra như sau:
Trung tâm nghiên cứu phát triển rau châu Á đưa ra kết luận: việc phối
trộn than bùn và chất khoáng cho giá thể phù hợp nhất đối với sinh trưởng phát
triển cây con. Trung tâm đã phối trộn giá thể dùng trồng gồm: đất + phân + cát
+ trấu hun tỉ lệ 5:3:1:1. Cây con trồng trên giá thể này có tỉ lệ sống đạt 100%,
bộ rễ phát triển mạnh, lá nhiều, hạn chế cây bị chột sau khi trồng ra ruộng. theo
kết quả nghiên cứu của Jiang Qing Hai khi phối trộn giá thể cần chú ý những
điểm sau: mức độ tơi xốp, mức độ thong thoáng khí, khả năng hút và giữ nước,
độ chua, mức độ hút dinh dưỡng, mức độ hữu hiều của vật liệu phối trộn là dễ
sử dụng, sạch, không mùi, giá rẻ. Các vật liệu thường dùng là đất, lá mục, than
bùn, mùn cưa, trấu, sỏi… phần lớn các vật liệu thường trộn 2-3 loại với nhau[6].
11
Cây sứ là loài cây không kén đất trồng tuy nhiên để cây sứ có thể sinh
trưởng phát triển tốt, cành mập hoa to và không bi thối úng thì lại là vấn đề mà
người trồng sứ chú trọng rất nhiều.
Để có thể trồng cho cây Sứ phát triển tốt thì việc lựa chọn giá thể trồng là
rất quan trọng, chất trồng sứ phải tơi xốp và phải thoát nước tốt vì đa phần cây
Sứ bị chết do úng nước. Mỗi vùng mỗi địa phương có nguần chất trồng Sứ khác
nhau nên thành phần cũng khác nhau. Khu vực thành phố Hồ Chí Minh sử dụng
tro trâu, phân bò và xơ dừa, khu vựa Tây Nam Bộ như ở Sa Đéc- Đồng Tháp sử
dụng phân rơm mục và phân chuồng để trồng.
Giá thể trồng hoa sứ ở các nước cũng khác nhau:
Ở Thái Lan: hỗn hợp gồn: đất sét, phân heo, phân ủ từ lá cây, vỏ dừa và
sơ dừa, một ít than dừa và tro trấu. Vỏ dừa và xơ dừa giữ nước tốt, phân ủ từ lá
cây là nguồn cung cấp các hợp chất hữu cơ cho cây, đất sét giúp giữ lại chất
dinh dưỡng tránh hiện tượng dửa trôi. Hỗn hợp này khá thoáng khí và tơi xốp.
Ở Đài Loan: 80% mạt đá cộng xơ dương xỉ và một ít than dừa. Loại giá
thể này thường có khối lương lớn nên trậu cây thường rất nặng, loại giá thể này
không có nhiều dinh dưỡng để cung cấp cho cây nên việc cung cấp dinh dưỡng
hoàn toàn từ quá trình tưới nước và phân bón cho cây. Hiện nay Đài Loan đang
chuyển sang sử dụng loại giá thể gồm cát khô và vỏ trấu gọn nhẹ hơn.
(Hoàng Đức Khương, 2006)[1].
Tại Việt Nam hiện nay nguồn cung cấp chất trồng rất phong phú: trấu
sống, trấu hun, vỏ lạc, bánh dầu, xơ dừa…đều có thể sử dụng làm giá thể trồng
như sau: 30% tro trấu; 25% các chất như vỏ lạc, xơ dừa đã sử lý; 25% là phân
hữu cơ; 20% là đất phù sa và cách chất độn khác tùy theo từng nhà vườn.
(Nguyễn Thị Mai,2012)[4].
Tình hình nghiên cứu về sử dung phân bón cho cây hoa sứ
Sứ là cây mọng nước có bộ củ to, rễ mập mạp nên trong thành phần của
phân bón thì hàm lượng P và K là quan trọng nhất. Khi bón phân nên sử dụng
12
các loại phân bón có hàm lượng có hàm lượng lân và kali cao hơn đạm để cây
phát triển bình thường. Ngoài ra cây sứ cũng cần được bổ sung các chất vi lượng
cho quá trình phát triển của cây như: Ca, Mn, Mg, Fe, Bo…Những loại phân này
có thể bổ sung cho cây qua lá bằng các loại phân bón lá trên thị trường.
Khi bón phân cho cây sứ cần chú ý nguyên tắc bón là bón ít một và bón
làm nhiều lần. Khi cây được trồng trong điều kiện thuận lợi cây phát triển
nhanh, thân to và mập chứ nhiều nước và các chất dinh dưỡng nên rất rễ bị thối.
Tùy vào từng giai đoạn mà hàm lượng phân bón sẽ thay đổi, giai đoạn cây
con bón nhiều đạm và lân để thúc cây phát triển, giai đoạn cây trưởng thành bổ
sung nhiều kali và Bo để tăng khả năng ra hoa, hoa bền hơn và tăng khả năng
đậu quả.
Bên cạnh quá trình hút dinh dưỡng bằng rễ là chính và chủ yếu, cây vẫn
có thể lấy một phần chất dinh dưỡng thông qua lá thong qua khí khổng. Ngoài lá
các bộ phân như: thân, cành, hoa đều có khả năng hấp thụ dinh dưỡng. Bằng
nhiều thực nghiệm cho thấy việc phun các chất dinh dưỡng hòa tan vào lá được
thâm nhập vào cây cả ngày lẫn đêm[6].
Theo đường Hồng Dật, bón phân qua lá phát huy hiệu quả nhanh, tỉ lệ cây
sử dụng đạt ở mức cao 90-95%, trong khi bón qua đất cây chỉ sử dụng 40-45%.
Vũ Cao Thái(1996) nhận định: diện tích lá cây bằng 15-20 diện tích lá che phủ,
do đó cây nhận được dinh dưỡng khi phun qua lá nhiều hơn. Biện pháp bón
phân qua lá là biện pháp chiến lược của ngành nông nghiệp[6].
Có hai cách để cung cấp dinh dưỡng cho cây:
- Cung cấp dinh dưỡng có sẵn trong giá thể: phân chuồng, phân vô cơ
được trộn vào giá thể khi trồng cây.
- Cung cấp dinh dưỡng qua việc bón phân trên bề mặt và phun thuốc định
kỳ.
13
Hiện nay để thúc đẩy khả năng sinh trưởng phát triển của cây hoa sứ
người trồng thường sử dụng nhiều loại phân bón rễ, bón lá để bón cho cây, các
nhà trồng sứ đã đưa ra mức bón phân NPK theo tỷ lệ sau:
Giai đoạn cây con và cây mới trồng: NPK:15-30-15. NPK: 20-20-20, 15
ngày bón một lần.
Giai đoạn cây phát triên tốt chuẩn bị ra hoa: NPK: 6-30-30, NPK 10-2030 15 ngày bón một lần.
Ngoài các loại phân NPK có thể sử dụng them các laoij phân bón qua lá
trên thị trường dể cung cấp bổ xung các chất dinh dưỡng cần thiết cho cây[1].
14
Phần 3: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Các giống sứ Thái đã trưởng thành (bốn giống sứ Thái trên một năm tuổi.)
a)
b)
c)
d)
Hình 1. Các giống sứ Thái. a, giống đỏ đơn; b, giống hồng viền trắng; c,
giống đỏ kép; d, giống hồng kép.
3.1.2. Vật liệu
Phân bón: phân NPK 15-15-15 + TE
Phân bón qua lá: Đầu trâu 501, growmore 20-20-20
Đất: đất màu được phơi khô đập nhỏ loại bỏ đất to và sỏi đá và các hỗn tạp
Vỏ lạc: vỏ lạc đã được ủ hoai mục được sử dụng để tăng đô xốp và là một
nguồn cung cấp phân hữu cơ cho cây.
Xỉ than: xỉ than được đập nhỏ trộn vào để tăng khả năng thoát nước cho cây.
Trấu hun: vỏ trấu sau khi hun có khả năng thoát nước tốt, nhẹ và thông
thoáng.
15
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu.
3.2.1. Địa điểm
Khu đô thị mới - Trâu Quỳ - Gia Lâm – Hà Nội
3.2.2. Thời gian nghiên cứu
Bắt đầu từ 15/3/2016 đến 30/06//2016
3.3. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu sinh trưởng phát triển của 4 giống hoa sứ Thái
- Nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật trồng giống sứ Thái
+ Ảnh hưởng của thành phần giá thể tới khả năng sinh trưởng phát triển
của cây
+ Ảnh hưởng của một số loại phân bón tới khả năng sinh trưởng phát triển
của cây
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Bố trí thí nghiệm
Cây Sứ của các giống nghiên cứu được trồng trong chậu, ngoài trời, trồng
theo khối ngẫu nhiên nhắc lại 3 lần.
Sơ đồ bố trí thí nghiệm.
Nhắc lại 1
Nhắc lại 2
Nhắc lại 3
3.4.2. Phương pháp
P4
P2
P3
P1
P3
P4
P2
P1
P2
P3
P4
P1
Nghiên cứu sinh trưởng phát triển của bốn giống hoa sứ Thái:
Theo dõi sự sinh trưởng phát triển của các giống sứ Thái qua từng thời kì.
Từ đó đánh giá khả năng sinh trưởng và phát triển của các giống.
Nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật trồng giống sứ Thái: Thí nghiêm tiến
hành trên một giống nhắm đánh giá tác động của giá thể và phân bón tới khả
năng sinh trưởng phát triển của cây.
Thí nghiệm I: Ảnh hưởng của thành phần giá thể tới khả năng sinh trưởng
phát triển của cây Sứ Thái.
16
−
−
−
−
Công thức I: Đất+vỏ lạc+trấu hun (2:1:1)
Công thức II: Đất +xỉ than+ vỏ lạc (2:1:1)
Công thức III: Đất +xỉ than+ trấu hun (2:1:1)
Công thức IV: Đối chứng(Đất +xỉ than : 1:1)
Thí nghiệm II: Ảnh hưởng của phân bón tới sinh trưởng phát triển của cây
Sứ Thái.
−
−
−
−
Công thức I: NPK 15-15-15
Công thức II:NPK 15-15-15 + Phân bón lá Đầu trâu 501
Công thức III: NPK 15-15-15 + Phân bón lá Growmore 20-20-20
Công thức IV: Đối chứng(không sử dụng phân bón)
Lượng phân NPK 15-15-15 ở các công thức thí nghiệm là như nhau.
3.4.3. Các chỉ tiêu theo dõi
Các chỉ tiêu sinh trưởng:
+ Động thái tăng trưởng chiều cao cây.
+ Động thái phát triển lá.
Đếm số lá tăng trưởng đến khi cây có nụ hoa.
Kích thước lá tối đa từng giống.
Các chỉ tiêu phát triển:
+
+
+
+
Thời gian từ khi hình thành nụ tới khi nở hoa.
Đường kính nụ.
Đường kính hoa.
Độ bền hoa tự nhiên.
Các chỉ tiêu theo dõi 10 ngày 1 lần.
+ Phương pháp phân tích, xử lý số liệu
Số liệu được tổng hợp và xử lý theo phương pháp phân tích phương sai
bằng IRRISTAT 5.0 và xử lý trên Microsoft excel.
17
Phần 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Nghiên cứu sinh trưởng phát triển của các giống sứ Thái
4.1.1. Động thái tăng trưởng chiều cao của các giống sứ Thái
Tùy theo đặc tính di chuyền của mỗi giống thể hiện trong điều kiện trồng
trọt, chăm sóc cụ thể, quyết định khả năng sinh trưởng của cây. Qua theo dõi,
kết quả tăng trưởng của các giống được thể hiện trong bang sau.
Bảng 1: Động thái tăng trưởng chiều cao cây ở các giống sứ Thái
Chỉ tiêu
Giống
Đỏ đơn
Hồng viền trắng
Đỏ kép
Hồng kép
Ngày theo dõi
Chiều cao
(cm)
tăng
25/03
04/04
14/04
24/04
04/05
(cm)
29.6
31.5
34.2
36.4
37.9
8.2
31.9
32.8
35.0
37.3
39.7
7.8
30.1
31.4
32.9
34.6
36.3
6.3
37.0
37.8
38.8
40.6
42.2
5.2
1.5%
CV%
LSD0.05
2.2
Từ bảng 1 cho thấy ở các ngày theo dõi chiều cao cây của các giống là
khác nhau, cụ thể:
- Từ 25/03 đén 04/04 ttocs độ sinh trưởng của giống đỏ đơn là cao
nhất(1,9cm), tiếp ddeens là giống đỏ kép (1,4cm), hai giống hồng viền trắng và
hồng kép có tốc độ sinh trưởng chậm hơn gần như nhau (0,9;0,8 cm)
- Sang giai đoạn tiếp từ 04/04 thới 14/4 theo thì có sự thay đổi phái triển
nhanh nhất là giống Đỏ đơn(2,6cm), kế tiếp là giống Hồng viền trắng (2,2cm)
sinh trưởng chậm nhất vẫn là giống hồng kép.
- Từ 14/4 tới 24/4 các giống tăng trưởng không có nhiều sự thay đổi, mức
tăng các giống lần lượt là( 2,3; 2,2; 1,7; 1,8).
18
- Từ 24/04 đến 04/05 giống Đỏ đơn có mức tăng trưởng giảm mạnh, các
giống khác vẫn duy trì sự tăng tưởng, muwacs tăng trưởng (1,4; 2,4; 1,7; 1,6)
Động thái tăng trưởng chiều cao cây của các giống tương đối khác nhau
giữa các giống. Ở các giai đoạn khác nhau cũng có sự khác, một số giống vẫn
tăng đều theo các giai đoạn, một số giống lại có sự biến đổi.
Dựa vào bảng trên giống Đỏ đơn là giống có khả năng phát triển tốt nhất
trong điều kiện tại Gia Lâm – Hà Nội.
Động thái tăng trưởng được thể hiện qua đồ thị dưới đây.
Đồ thị 1.
4.1.2. Động thái ra lá của các giống sứ Thái
Lá là cơ quan quang hợp, tổng hợp các chất dinh dưỡng cho cây nên
nó quyết định đến sự sinh trưởng và phát triển của cơ quan, bộ phận khác cũng
như việc tạo năng suất cây sau này. Vì vậy, số lá/cây là một chỉ tiêu quan trọng
để đánh giá sự sinh trưởng và phát triển của các giống.
19
Trong quá trình sinh trưởng và phát triển, số lá của cây tăng phụ thuộc
vào đặc tính của giống và điều kiện ngoại cảnh. Số lá của cây đạt cao nhất khi
cây hình thành nụ.
Kết quả theo dõi động thái ra lá của các giống được trình bày ở bảng 2
và đồ thị 2.
Bảng 2. Động thái ra lá của các giống sứ Thái
Chỉ tiêu
Ngày theo dõi
Tốc độ ra
(cm)
lá/cây/10 ngày
25/03
04/04
14/04
24/04
04/05
Đỏ đơn
31.7
44.8
63.8
82.6
98.5
13.4
Hồng viền trắng
28.7
39.4
49.3
65.3
81.3
10.5
Đỏ kép
25.0
36.1
49.7
69.6
85.4
12.1
Hồng kép
30.3
42.3
58.1
74.3
82.6
10.5
Giống
CV%
LSD0.05
1,6%
2.5
Qua bảng 2 ta có nhận sét như sau:
-Số lá/cây của các giống tăng dần sau trồng ngày đến khi cây ra nụ hoa.
Ở các thời gian theo dõi sau trồng, các giống khác nhau có số lá/cây khác nhau:
Giai đoạn từ 25/03 đến 04/04 các giống có sự thay đổi về tốc độ ra lá rõ
rệt dao động từ 10,7 – 13,1 lá trên cây. Tốc độ phát triển lá của giống đỏ đơn là
nhanh nhất đạt 13,1 lá /cây, các giống hồng kép, đỏ kép, hồng viền trắng có tốc
độ phát triển lần lượt là: 11,9; 11,1; 10,7 lá/cây.
Giái đoạn từ 04/04 đến 14/04 các giống cùng phát triển nhanh số lá không
có sự thay đổi về thứ tự. Mức độ tăng trưởng giống đỏ đơn, hồng kép, đỏ kép,
hồng viền trắng lần lượt là: 19.0; 15.9; 13.7 ; 9.9 lá/cây.
20