TỔNG
LIÊN ĐOÀN
LAO ĐỘNG
GVHD:
NGUYỄN
HIẾUVIỆT
TÍN NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÔN ĐỨC THẮNG
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài: “ LÀNG CHIẾU ĐỊNH YÊN – LÀNG HOA
SADEC – LÀNG ĐÓNG XUỒNG GHE BÀ ĐÀI ”
Giảng viên hướng dẫn: NGUYỄN HIẾU TÍN
Sinh viên thực hiện: PHẠM MINH NHẬT
MSSV: 31303203
Nghành: HƯỚNG DẪN VIÊN DU LỊCH
Khóa: 2013 - 2014
LÀNG CHIẾU ĐỊNH YÊN – LÀNG HOA SADEC – LÀNG ĐÓNG XUỒNG
GHE BÀ ĐÀI
Page 1
GVHD: NGUYỄN HIẾU TÍN
TPHCM, ngày 23 tháng 08 năm 2015
MỤC LỤC
I. LỜI CẢM ƠN VÀ LỜI DẪN-------------------------------------------------------2
II. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI-------------------------------------------------------------3
A. LÀNG CHIẾU ĐỊNH YÊN---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 5
1. Sơ lược về làng chiếu--------------------------------------------------------------------------5
2. Quy trình và đặc điểm-------------------------------------------------------------------------6
B. LÀNG HOA SADEC----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 9
1. Sơ lược về làng hoa Sadec--------------------------------------------------------------------9
2. QUY TRÌNH VÀ ĐẶC ĐIỂM---------------------------------------------------------------11
C. LÀNG ĐÓNG XUỒNG GHE BÀ ĐÀI.------------------------------------------------------------------------------------------------------ 17
1. Sơ lược về làng đóng xuồng ghe Bà Đài--------------------------------------------------17
2. Quy trình và đặc điểm-----------------------------------------------------------------------18
III. LỜI KẾT---------------------------------------------------------------------------21
I.
LỜI CẢM ƠN VÀ LỜI DẪN
“ Ăn quả nhớ kẻ trồng cây ”
LÀNG CHIẾU ĐỊNH YÊN – LÀNG HOA SADEC – LÀNG ĐÓNG XUỒNG
GHE BÀ ĐÀI
Page 2
GVHD: NGUYỄN HIẾU TÍN
Thông qua bài báo cáo, điều đầu tiên tôi xin gởi lời cảm ơn chân thành đến ban giám hiệu
trường Đại học Tôn Đức Thắng đã tạo điều kiện cho tôi theo học trường này. Tiếp đó, tôi xin cảm
ơn quý thầy cô khoa Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi nhất để cho
tôi hoàn thành môn học thực hành tuyến điểm du lịch 1 – tour miền tây 6 ngày 5 đêm. Và sau
cùng là lời cảm ơn sâu sắc của tôi gửi đến thầy chủ nhiệm Nguyễn Hữu Tín và 2 anh hướng dẫn
viên đã tận tình chỉ dạy cho tôi những kiến thức bổ ích phục vụ cho nghành nghề hướng dẫn của
tôi trong tương lai. Và “Samuel Johnson” cũng từng nói:
“ Ích lợi của việc đi là để điều chỉnh trí tưởng tượng với thực tế, và thay vì ngồi hình dung
ra mọi chuyện, cứ đi để xem nó thực sự thế nào. ”
~ Samuel Johnson ~
Thông qua chuyến đi này, chúng tôi được tiếp xúc, tìm hiểu về phong tục tập quán, truyền
thống và bản sắc nghệ thuật của mảnh đất Đồng bằng sông cửu long. Vượt qua một chặng đường
dài chúng tôi tận mắt ngắm nhìn cảnh núi rừng bao la, những chiếc ghe, xuồng mộc mạc, những
con người chấc phát,những dòng sông. Cùng toàn cảnh lao động hăng say của người dân nơi đây.
Vì vậy mà tất cả những gì mà chuyến đi này mang lại đã làm cho chúng tôi cố gắng học tập hơn
nữa để trở thành những hướng dẫn viên Du lịch tương lai - với đầy đủ kiến thức, năng lực, sáng
tạo để giữ gìn và phát triển tiềm năng của nền Du lịch Việt Nam.
Khi viết bản báo cáo thực tập sau chuyến đi này, chúng tôi đã cố gắng hết mình để viết thật
nhiều, thật sinh động và xúc tích về những miền đất mà chúng tôi đã được đặt chân tới. Nhưng
thời gian và kiến thức có hạn. Do vậy chúng tôi xin được viết tên những hiểu biết nhỏ bé và
những thực tế được chứng kiến, chiêm nghiệm. Do vậy bản báo cáo này sẽ không tránh khỏi
những thiếu xót, hạn chế.
TPHCM, Ngày 23 Tháng 8 Năm 2015
SV: PHẠM MINH NHẬT
II.
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
LÀNG CHIẾU ĐỊNH YÊN – LÀNG HOA SADEC – LÀNG ĐÓNG XUỒNG
GHE BÀ ĐÀI
Page 3
GVHD: NGUYỄN HIẾU TÍN
“ Đi một ngày đàng học một sàn khôn ”
Chuyến đi thực tập vừa qua đã đưa tôi thoát khỏi nơi sầm uất, ồn ào của chốn đô thị để trở về
nơi trầm lặng, êm dịu của miền sông nước Đồng Bằng sông Cửu Long. Dường như, vẻ đẹp riêng
biệt của từng vùng miển đã ăn sâu vào trong tâm hồn tôi. Từ văn hóa, lịch sử, con người v.v đã
hòa quyện vào nhau làm nên nét đặc trưng vô cùng phong phú của miền sông nước. Tất cả những
kiến thức đó như ăn sâu vào trong tâm trí tôi làm cho tôi them yêu nghề, yêu quê hương đất nước.
Từ những trải nghiệm đó tôi như chợt bừng tỉnh nhận ra rằng nghề hướng dẫn không chỉ đơn
thuần là một nghề phục vụ mà nó còn là “một đại sứ văn hóa” nhằm truyền đạt lại cho hàng lớp
người về vẻ đẹp bình dị của thôn quê, vẻ hào hùng của lịch sử và những đặc trưng riêng biệt bởi
sự kết hợp giữa nghi thức ,phong tục, kiến trúc v.v của quê hương đất nước, nơi ta sinh ra và lớn
lên, nơi tiếng gọi vang vọng mỗi khi xa nhà.
Có lẽ những hình ảnh thân thương của 1 phần vẻ đẹp của đất nước như đi sâu vào tâm hồn tôi.
“ Đồng bằng sông cửu long ” một vùng đất mới mẻ với bao điều kì thú như mở ra trong tôi như
một sự mở mang kiến thức. Thông qua đó, tôi như thêm yêu nghề, một nghề cực khổ, gian nan
nhưng lại mang đầy niềm kiêu hãnh của một vị “ đại sứ ” trao lại cho mọi người những gì là tinh
hoa nhất, đẹp đẽ nhất của vùng đất Đồng bằng sông cửu long nói riêng và nước Việt Nam nói
chung.
Sau tất cả những gì tôi cảm nhận trong chuyến đi thì đọng lại trong tôi là sự tỉ mỉ của các thợ
thủ công, sự yêu nghề của những người dân nơi đây, sự vất vả của người thợ khi tạo ra sản phẩm
mà chúng ta dùng. Và đó cũng chính là đề tài tôi muốn gửi đến mọi người với tựa đề “ Các làng
nghề truyền thống của tỉnh Đồng Tháp”.
LÀNG CHIẾU ĐỊNH YÊN – LÀNG HOA SADEC – LÀNG ĐÓNG XUỒNG
GHE BÀ ĐÀI
Page 4
GVHD: NGUYỄN HIẾU TÍN
A.
LÀNG CHIẾU ĐỊNH YÊN
1.
Sơ lược về làng chiếu
Trôi dần theo năm tháng, bài vọng cổ “ tình anh bán chiếu” đã đi vào lòng người và trở nên bất
hủ. Quả thật, soạn giả Viễn Châu đã vô cùng khéo léo khi chọn chiếc chiếu đơn sơ mộc mạc đậm
chất quê hương để làm chất liệu cho bài vọng cổ của mình. Chiếc chiếu không chỉ là vật dụng
thân thuộc gắn liền với con người miền sông nước Nam Bộ mà nó còn là nhân chứng cho những
vui buồn trong cuộc sống. Có lẽ cũng vì thế mà khi nhắc đến hình ảnh chiếc chiếu ở miền tây,
người ta không thể không nhớ đến cái tên Định Yên của tỉnh Đồng Tháp. Đây chính là thương
hiệu có trên trăm năm của làng chiếu nơi đây.
Có thể nói, chiếu là sản phẩm thủ công luôn gắn liền với đời sống người dân Việt. Mọi người
dùng chiếu để nằm, ngồi, để khi nhà có lễ lộc, dùng ở nơi thờ phượng, nơi có lễ hội đình đám.
Những chiếc chiếu đẹp nhất thường dùng để trải ra cho những người cao tuổi, những người có
chức sắc ngồi. Theo thời gian, chiếc chiếu dần dần phát triển, lên ngôi trở thành chất liệu cho
nhiều nghành hàng khác như thủ công mĩ nghệ, trang trí nội thất, đồ gia dụng. Điều đặc biệt nhất,
đôi chiếu đã trở thành biểu tượng cho hôn nhân từ đời xưa. Mua chiếu phải mua thành đôi, ngụ ý
có đôi, có cặp, bền chặt, sắc son.
Nghề làm chiếu ở Định Yên đã tồn tại hơn trăm năm nhưng không mấy ai biết nó có tự bao
giờ. Theo sử sách, người có công trong nghề làm chiếu là ông Phạm Đôn Lễ, một vị quan thời
Tiền Lê ở làng Hới tỉnh Thái Bình. Ông đã sang Quảng Tây, Trung Quốc học nghề cũng như kỹ
thuật làm chiếu. Sau đó với kỹ thuật của ông mang về đã giúp cho người dân có thể dệt chiếu đẹp
hơn xưa. Và trôi dần theo các cuộc khai hoang, lập nghiệp từ đàng ngoài vào đàng trong, nghề
làm chiếu cũng từ đó mà dần hình thành trong Nam.
Với tính chất và đặc thù của miền sông nước, dường như mẹ thiên nhiên đã ưu đãi nơi đây một
nguồn tài nguyên to lớn vô cùng phong phú. Những nguyên liệu làm chiếu như cây lát, bố… có ở
khắp mọi nơi và dần được các người dân trồng để phục vụ cho nghề đan chiếu. Và từ đó theo dần
năm tháng mà nghề truyền nghề, từ đời cha để lại tiếp tục truyền cho các thế hệ sau mà ngày nay
làng chiếu Định Yên đã tồn tại và phát triển hơn trăm năm.
LÀNG CHIẾU ĐỊNH YÊN – LÀNG HOA SADEC – LÀNG ĐÓNG XUỒNG
GHE BÀ ĐÀI
Page 5
GVHD: NGUYỄN HIẾU TÍN
Có thể nói đây là một nét đẹp vô cùng quý báu của người Việt, biết gìn giữ nghề truyền thống
cha ông để lại và cũng qua đó cho ta thấy được nhiệt huyết, lòng yêu nghề chịu thương chịu khó
của người dân nơi đây. Và cũng thông qua hình ảnh chiếc chiếu đã phần nào nói lên sự tỉ mỉ, khéo
léo của con người Việt Nam.
2.
Quy trình và đặc điểm
“ Định Yên có vựa chiếu to
Lấy chồng xứ Định khỏi lo chiếu nằm ”
Đường vào làng chiếu Định Yên lan tỏa mùi lát thơm nồng, tiếng máy dệt lát cọc cạch dập nát
liên hồi kèm theo đó là những bó lát tươi rói nhuộm đầy màu sắc sặc sỡ ở hai bên đường. Dù ngày
nay khoa học kỹ thuật đã phần lớn giúp nghề dệt chiếu phát triển nhưng những khung dệt thủ
công và công đoạn thủ công vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay.
Trước đây, những cánh đồng lát bạt ngàn dùng làm nguyên liệu dệt chiếu thường được trồng
ngay tại Định Yên. Ngày đó vào mùa thu hoạch lát cả vùng như vào hội, tấp nập, vui nhộn. Tuy
nhiên, do chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nên những cánh đồng lúa dần thanh cho những cánh
đồng lát. Dù những cánh đồng lát ngày xưa không còn nữa nhưng nơi đây lại trở thành bến lát tấp
nập ghe xuồng của các thương hồ tứ xứ đến buôn bán lát. Thông thường các thương hồ đến từ
Vĩnh long, Trà Vinh đến để buôn bán lát.
.
LÀNG CHIẾU ĐỊNH YÊN – LÀNG HOA SADEC – LÀNG ĐÓNG XUỒNG
GHE BÀ ĐÀI
Page 6
GVHD: NGUYỄN HIẾU TÍN
Để có được những chiếc chiếu thành phẩm tinh xảo và đẹp đẽ phải trải qua nhiều công đoạn
như chọn lát, nhuộm màu, phơi, thiết kế hoa văn, dệt, bẻ vành, viền. Bước đầu người thợ chọn lát
tốt. Sau đó để chiếc chiếu thêm bắt mắt người thợ tiến hành công đoạn nhuộm lát. Màu nhuộm từ
trước đến nay vẫn là 3 màu cơ bản xanh – đỏ - vàng, những màu được xem là sẽ mang lại may
mắn và hưng thịnh cho gia chủ. Ngày nay người ta cải biến để lát có thêm màu như đen, tím,….,
nhưng những màu sắc cũ vẫn được ưa chuộng hơn cả. Trước khi nhuộm lát, người thợ bắt nước
cho sôi rồi cho bột màu vào và khuấy đều. Khi bỏ bột màu người thợ thường ưu tiên màu vàng
trước vì màu vàng không dính chảo và không đen màu. Tiếp đó người thợ mới nhuộm các bó lát
màu đỏ và xanh hoặc các màu khác. Và những màu nhuộm về sau do có một chút màu vàng đã
làm cho cọng lát thêm độ bóng, thêm bắt mắt hơn rồi đem phơi nắng cho mau khô.
.
Sau khi có được những bó lát tươi rói đẹp đẽ đầy màu sắc, người thợ sẽ tiến hành công đoạn
dệt chiếu. Bắt đầu dệt chiếu người ta dùng dây mắc lên thành từng hàng theo chiều dài chiếc chiếu
để làm khuôn, những sợi đó dân gian gọi là những sợi trân. Trước đây, sợi trân được làm từ dây
bố vì loại dây này có đặc điểm rất dai và bền chắc. Cây bố là một loại cây ngập nước mà trước
đây mọc tràn bờ kênh. Sau đó người thợ đem về phơi nắng cho khô rồi xé sợi thành mảnh như tơ
và được kì công nối lại thành từng mối nối sao cho kín nút, chắc dây. Ngày nay người dân Định
Yên sử dụng dây chỉ thay cho dây bố trong quá trình dệt chiếu. Sợi chỉ mảnh hơn, giá thành rẽ lại
dễ tìm dần dần thay cho dây bố có giá thành cao và nguồn hàng khang hiếm.
Khi có được khuôn người thợ bắt đầu công đoạn dệt chiếu. Công đoạn dệt gồm có 2 người
làm, 1 người dệt và 1 người chùi lát. Hai người này phải phối hợp nhịp nhàng và ăn ý. Sau khi dệt
xong, chiếu sẽ được may bìa cho chắc chắn rồi đưa ra chợ bán hay đợi thương lái đến tận nơi thu
mua.
LÀNG CHIẾU ĐỊNH YÊN – LÀNG HOA SADEC – LÀNG ĐÓNG XUỒNG
GHE BÀ ĐÀI
Page 7
GVHD: NGUYỄN HIẾU TÍN
Làng chiếu Định Yên không chỉ nổi tiếng về chất lượng dệt chiếu mà còn nổi tiếng về mô hình
họp chợ độc đáo:
“ Ai về làng chiếu Định Yên
Chợ ma là nét rất riêng Lấp Vò ”
Chợ có tên là “chợ ma” vì chợ chỉ họp vào ban đêm. Nguyên nhân chợ chiếu Định Yên chỉ
họp vào ban đêm là vì ban ngày người thợ phải dệt chiếu và các thương lái cũng phải đi bán. Mặt
khác, người dân Định Yên phải họp chợ thầm lặng như vậy là để tránh sưu cao thuế nặng của các
địa chủ và lệ làng. Cứ thế nếp sống sinh hoạt chợ đêm đã ăn sâu vào tâm hồn người dân làng
chiếu.
Vả khi màn đêm buôn xuống, người dân Định Yên sẽ vác bó chiếu trên vai, tay cầm bó đuốc
hay ngọn đèn dầu xuống chợ buôn bán. Không khí của chợ nhộn nhịp nhưng không quá huyên
náo, ồn ào. Điểm khác biệt của chợ chiếu Định Yên là người mua thì tìm một chỗ ngồi, người bán
thì ôm chiếu đi qua đi lại rao bán, nói giá.
LÀNG CHIẾU ĐỊNH YÊN – LÀNG HOA SADEC – LÀNG ĐÓNG XUỒNG
GHE BÀ ĐÀI
Page 8
GVHD: NGUYỄN HIẾU TÍN
Trôi dần theo năm tháng, cùng với sự đổi thay của nền kinh tế thị trường, ngôi chợ ma ngày
nào chỉ còn lại trong những ký ức của người dân nơi đây. Tuy chợ ma không còn nữa nhưng nó
vẫn là một nét văn hóa tươi đẹp của người dân xứ Định.
Ngày nay khoa học tiếp cận các máy dệt chiếu dần thay cho các thợ dệt thủ công và cho ra
năng suất cao hơn tăng thu nhập cho người dân hơn. Tuy nhiên, nghề thủ công vẫn còn được lưu
giữ cho mai sau. Và khi nhắc đến nghề dệt chiếu người ta không thể không nhớ tới Định Yên, một
ngôi làng thủ công hơn trăm năm.
B.
LÀNG HOA SADEC
1.
Sơ lược về làng hoa Sadec
LÀNG CHIẾU ĐỊNH YÊN – LÀNG HOA SADEC – LÀNG ĐÓNG XUỒNG
GHE BÀ ĐÀI
Page 9
GVHD: NGUYỄN HIẾU TÍN
Những thập niên của thế kỷ 20, vùng đất Sadec tỉnh Đồng Tháp như trở mình thức dậy thay
đổi từng ngày. Bây giờ đến Sadec, địa danh làng hoa Tân Quy Đông đã thật sự trở thành niềm tự
hào của người dân nơi đây. Hoa có mặt ở khắp mọi tỉnh thành trong cả nước. Chúng ta có thể gặp
hoa Tân Quy Đông ngay cả khi biên giới nước Việt đã ở ngay phía sau lưng.
Theo lời cha ông ngày xưa, cái tên “ Sadec ” được lấy từ tiếng khơ me có nghĩa là chợ sắt và
xưa kia nơi đây đã tồn tại một chợ chuyên bán đồ sắt. Còn tên “ Tân Quy ” theo nghĩa hán việt
phải chăng là nơi đất mới, dân cư quy thuận về đây lập làng, lập nghiệp. Điển tích này có thể xuất
hiện từ sau chiến thắng oanh liệt Rạch gầm – Xoài mút năm 1785 của người anh hùng áo vải
Quang Trung cho đến khi vua Gia Long lên ngôi năm 1802. Khi đó, người dân quay về đất tổ sau
những lần ra trận chống giặt hoặc ly tán tha hương sau 2 lần quân xiêm sang phá phách năm 1772,
1784. Ngày nay cái tên Tân Quy Đông không những thành máu thịt mà còn là một chặng dài lịch
sử máu và hoa.
Sách xưa, trong Đại Nam nhất thống chí của Quốc Sử Quán và Gia Định thành thông chí của
Trịnh Hoài Đức có những câu miêu tả về vùng đất này rằng: “ Nơi đây tui chốn lâm tuyền mà gần
nơi thành thị, kẻ muốn nhàn tĩnh thì đến bến sông phía Bắc bơi thuyền qua Tiền Giang mà tắm gội
gió trăng. Người ưa phồn hoa thì đến bến sông phía Nam chèo thuyền xuống sông Sadec mà dạo
chơi thành thị. Có ruộng cày thì làm nông phu cũng được, có sông sâu thì làm ngư phủ cũng nên,
đủ cả lạc thú đáng gọi là một cù lao có cảnh trí mĩ mãn khác thường.” Cù lao Tân Quy Đông phía
Đông và phía Bắc có dòng sông tiền trong xanh, phía Nam là sông Sadec , ba mặt giáp sông nên
đất cao ráo không bị nước ngập kéo dài, rất thuận lợi cho việc ươm trồng các giống hoa kiểng. Và
cũng vì gần sông nên không khí mát lành hơi nước, lượng mưa trung bình hằng năm khá cao đến
1400mm với gió mùa Tây Nam và Đông Bắc đều thổi qua sông Sadec. Tất cả đã hợp thành yếu tố
thiên thời, địa lợi cho vùng đất này thích hợp cho người dân Tân Quy Đông phát triển nghề cha
truyền con nối mấy trăm năm trồng hoa và cây kiểng.
Từ những điều kiện thuận lợi đó dần dần người ta biết đến cái tên Tân Quy Đông như là một
xứ sở của muôn loài “ kỳ hoa dị thảo ”. Là một trong những trung tâm hoa kiểng của miền Nam
với hơn 1200 hộ, trên 4000 lao động tham gia làng nghề, với khoảng 1500 chủng loại phong phú
và đa dạng làm cho hoa kiểng ở Tân Quy Đông không chỉ nổi tiếng trong vùng mà trong tỉnh
thành, ngoài nước.
Khi cánh én bay về báo hiệu mùa xuân đến, cũng là lúc làng hoa kiển Tân Quy Đông như
bước vào hội. Từng đoàn xe tải, ghe xuồng tấp nập đổ về đưa các loài hoa kiểng hối hả theo nhau
chảy về thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh bạn để khoe sắc, khoe hương trong những ngày tết cổ
truyển của dân tộc. Chúng ta có thể thấy nơi đây có đủ các loài hoa kiểng quý hiếm, có những cây
có tuổi thọ hang trăm năm và có những loại cây rất bình dị, gần gũi với đời sống hàng ngày của
người dân lao động như sung, si, mai, khế, cau cùm rụm…. và qua bàn tay khéo léo, tài hoa, sự
cần mẫn, kết hợp với một tâm hồn nghệ sĩ đã trở thành những cây kiểng quý có hình dáng đẹp, lạ.
LÀNG CHIẾU ĐỊNH YÊN – LÀNG HOA SADEC – LÀNG ĐÓNG XUỒNG
GHE BÀ ĐÀI
Page 10
GVHD: NGUYỄN HIẾU TÍN
Nơi đây, ngôi làng có 4 mùa xuân, bất cứ tháng nào trong năm, chúng ta cũng đều có thể ngắm
thỏa thích cả một rừng hoa với đủ màu sắc, hương thơm. Đặc biệt nơi đây còn lưu giữ 50 giống
hoa hồng như hông nhung đỏ thắm mượt mà, hồng Mec-sai màu trắng, hồng Mac-ca-ra màu cam,
hồng Phot-ti-n, hồng Cơ-lê-ô-bat màu hồng phấn,…. Hoa kiểng Tân Quy Đông không chỉ khoe
màu sắc, hương thơm cho đời mà hoa kiểng còn dùng để trang trí nội thất, cơ qua, công sở, công
trình văn hóa, nhà ở tạo cảnh quan cho công viên,… Ngoải ra, một số loài còn có dược tính dung
để chữa bệnh cho con người như cây Trinh nữ hoàng cung, Ngũ gia bì, Đỗ Trọng,…
Khách sành điệu trong nghệ thuật chơi hoa kiểng khá quen thuộc với địa danh Tân Quy Đông
– một làng quê hiền hòa, nằm nép mình bên bờ sông Tiền quanh năm lộng gió có nhiều phù sa,
đón ánh nắng mặt trời. Phù sa song Tiền là nguồn sữa mẹ, cùng bàn tay và tâm hồn nghệ sĩ của
các nghệ nhân đã ươm mầm, nuôi dưỡng và tạo dáng cho nhiều loài hoa kiểng nơi đây có giá trị
như một tác phẩm nghệ thuật góp phần tô đẹp cho đời.
2.
QUY TRÌNH VÀ ĐẶC ĐIỂM
Làng hoa kiểng Tân Quy Đông được hình thành từ rất sớm, ban đầu là vùng đất mới do đó
nhân dân đi khai hoang để có đất canh tác. Vì vậy, quá trình khai hoang đó phát hiện những cây
có dáng đứng đẹp, nhân dân đã đem về để trong nhà mình trồng ở trước sân chăm sóc và tạo dáng,
ban đầu là như vậy. Sau đó, những người xung quanh đến thưởng ngoạn và hỏi nài chia mua. Việc
mua bán chỉ diễn ra ở trong cù lao Tân Quy Đông. Ban đầu là thú chơi tại nhà chưa phải là hàng
hóa, đó là kiểng. Lúc đầu người dân trồng kiểng sau mới trồng thêm bông. Vậy bông có sau
kiểng, bông cũng như kiểng ban đầu cũng chỉ là sự thưởng ngoạn của người dân trong làng.
LÀNG CHIẾU ĐỊNH YÊN – LÀNG HOA SADEC – LÀNG ĐÓNG XUỒNG
GHE BÀ ĐÀI
Page 11
GVHD: NGUYỄN HIẾU TÍN
Theo tác giả Lê Kim Hoàng thì trong những năm 1930 – 1945, có khoảng chừng chục nhà ở
Rạch Dầu, Thông Lưu, Ngã Ba hằng năm đến Tết chở bông sang bán ở chợ Sadec, hoặc xuống
Vĩnh Long, qua Cần Thơ, lên Long Xuyên, Châu Đốc. Gia đình ông Võ Văn Phu, Trần Văn Dậu,
… và một số gia đình khác đã mở đầu cho nghề trồng bông ở Tân Quy Đông. Buổi đầu là từ
phong trào chơi kiểng, ông Bảy Nhạn và một số ông khác có ý chọn một số bông của địa phương,
rồi bông của các nơi đem về trồng trước sân, trong vườn để khi chúng có bông cho vui mắt, nhất
là các loại có bông đúng vào dịp tết thì cáng quý, vì nó sẽ làm cho nhà cửa sáng sủa, tươi vui
trong những ngày tết. Dần dần, các nhà khác cũng làm theo ông vì thấy bông trồng ở đây cũng
không khó lắm. Khi số lượng nhà trồng bông đáng kể, những ngày rằm, ba mươi những người đi
chùa đã sang đây để hỏi mua những thứ bông cần thiết như vạn thọ, cúc, … Ban đầu, những nhà
này không bán nhưng dần dần thấy khách là người ở chợ, họ buôn bán có tiền, vì vậy sự buôn bán
không có gì là đáng ngại. Nhu cầu có bông kiểng chưng trong ba ngày tết là nhu cầu cần thiết.Vì
vậy, các nhà trồng bông ở Rạch Dầu, Ngã Ba đã đáp ứng nhu cầu đó.
Ngoài ra, nhân dân ta có tín ngưỡng dân gian thờ cúng lâu đời. Cái để thờ cúng là nhan đèn và
bông. Lúc đầu là bông vạn thọ, bông trang và dần dần về sau này có nhiều loại hoa khác nữa với
màu sắc rực rỡ hơn như hạnh, sứ Thái Lan và các loại khác. Từ đó, người dân Tân Quy Đông đã
gửi tất cả tâm hồn của mình vào từng gốc cây, luống đất, âm thầm chất chứa và ngày nay đã hình
thành nơi đây một làng hoa muôn sắc, muôn màu. Ít ai nghĩ rằng nghề trồng hoa lại hình thành từ
một câu chuyện thú vị như vậy.
Và cứ thế, nghề trồng hoa kiểng dần dần đã trở thành nghề cha truyền con nối, lưu truyền từ
đời này sang đời khác. Ông cha truyền cho con cháu kỹ thuật trồng hoa kiểng như một kế sinh
nhai. Nhưng cũng gian nan hơn khi truyền lại cho đời giá trị của hoa kiểng, lòng yêu hoa kiểng,
biết thưởng thức hoa kiểng với tinh thần bao dung, trân trọng. Tất cả như góp phần tạo nên một
nét đẹp văn hóa ngộ nghĩnh nơi này.
Chúng ta có thể thấy hoa gắn bó với đời sống nhân dân ta. Khi chúng ta thưởng thức hoa kiểng
đều cảm thấy trong tâm hồn len lỏi một cái gì đó thư thả, nhẹ nhàng và thoải mái. Mọi vướn bận,
lo toan của cuộc sống đời thường dường như tan biến. Từ xa xưa, người ta đã có thói quen tặng
LÀNG CHIẾU ĐỊNH YÊN – LÀNG HOA SADEC – LÀNG ĐÓNG XUỒNG
GHE BÀ ĐÀI
Page 12
GVHD: NGUYỄN HIẾU TÍN
hoa cho nhau để biểu lộ tình cảm của mình. Hoa nói lên lời cảm ơn, lời chúc mừng, tình yêu, sự
chia buồn….. Mỗi loại đều có ý nghĩa riêng của nó như:
+ Hoa hồng: được xem là nữ hoàng của các loài hoa, nên ít khi người ta tặng cho nhau cả
bó lớn. Chỉ cần một, hai hay ba đóa thôi cũng đủ nói lên tình cảm của người tặng. Hoa hồng có
nhiều màu sắc nên mỗi màu mang một lời ngỏ riêng:
o
o
o
o
o
Hoa hồng: Tôi yêu em (anh)
Hoa hồng hồng: sự trì mến
Hoa hồng đỏ: thể hiện tình yên nồng nàn
Hoa hồng trắn: thể hiện tình yêu thanh khiết
Hoa hồng vàng: tượng trưng cho sự phản bội
+ Hoa cẩm chướng: biểu tượng của sự e dè, tính nghi ngờ
+ Hoa thủy tiên: hoa mang tên của nữ thần Narcissus, được xem như biểu tượng của sự
kênh kiệu và tính ích kỉ
+ Hoa đào: thể hiện giọt máu danh dự
+ Hoa trà mi: sự kiêu hãnh
+ Hoa huệ : sự trinh bạch, thanh khiết
+ Hoa cúc trắng: nói lên tuổi già hạnh phúc
Hoa hồng
Hoa huệ
LÀNG CHIẾU ĐỊNH YÊN – LÀNG HOA SADEC – LÀNG ĐÓNG XUỒNG
GHE BÀ ĐÀI
Page 13
GVHD: NGUYỄN HIẾU TÍN
Hoa trà mi
Hoa đào
Hoa cúc trắng
Hoa thủy tiên
Từ đó ta thấy, mỗi loại hoa đều có ngôn ngữ và ý nghĩa riêng của nó. Và Hoa thường gắn với
kiểng. Dường như các hoạt động tư duy tinh thần mang tính thẩm mỹ, thể hiện lối sống tao nhã in
đậm nét truyền thống lâu đời của người dân Á Đông. Người dân sành điệu ngày càng hiểu rõ hơn
giá trị đích thực của cây kiểng, bởi nó còn có dáng, tuổi tên và cái hồn chất chứa bên trong mang
giá trị nhân văn từ đó mà người nghệ nhân tạo dáng cho cây bao giờ họ cũng muốn gởi gắm một
tấm lòng, một ước vọng, một triết lí sâu xa về đời và cuộc sống biểu thị cái nhân sinh quan, cái giá
trị đạo đức ngây ngất lòng người.
Như vậy, chơi kiểng là một thú vui tao nhã của con người, cây kiểng không chỉ đem đến người
chơi thú thưởng ngoạn thanh cao mà trong sự say mê ấy còn tạo ra nét độc đáo khác để rèn luyện
ý chí tinh thần. Các triết nhân ngày xưa thường cho rằng cây cối và cảnh quan luôn giúp cho con
người tu dưỡng tâm tánh. Từ bàn tay nghệ nhân, người chơi kiểng dần dần tạo được tính kiên
nhẫn trong quá trình tạo dáng cây, tính điềm đạm trầm lắng trong cuộc sống.
LÀNG CHIẾU ĐỊNH YÊN – LÀNG HOA SADEC – LÀNG ĐÓNG XUỒNG
GHE BÀ ĐÀI
Page 14
GVHD: NGUYỄN HIẾU TÍN
Ngoài ra, trong những giờ mệt nhọc, được thư giãn và ngắm nhìn những cây từ chính bàn tay
mình chăm sóc hì thật thích thú. Uốn nắn cây kiểng giống như uốn nắn một đứa trẻ loại bỏ những
thói hư tật xấu, trên thân cây kiểng không để hết tất cả các tàn nhánh mà phải loại bỏ những tàn
nhánh không đúng để nó đẹp hơn. Cái hay trong thú chơi kiểng cổ hoặc bonsai là trong quá trình
chăm sóc, trau chuốt, nghệ nhân không ngừng thổi hồn vào cho cây kiểng. Chính vì vậy cây kiểng
lúc nào cũng hiện diện triết lý và cái đẹp tinh tế trước cuộc đời.
Lâm Ngữ Đường, một học giả nổi tiếng của Trung Quốc là tác giả quyển sách về quan niệm
sống đẹp đã cho rằng: “ nhà ở không có hoa kiểng như con người không có quần áo”. Điều đó đã
nói lên ý nghĩa thẩm mỹ, đồng thời cũng muốn nhắc lại thời kỳ mà con người chưa có nhà ở, chưa
có quần áo mặc cũng như chưa toàn diện về nhận thức thẩm mỹ. Dần dần cuộc sống ngày càng
phát triển, con người dần có ý thức về thẩm mỹ, về cái đẹp của thiên nhiên hùng vĩ. Ngay cả
những thế uốn cây cảnh cũng thể hiện tính người như những người uốn tàn co cụm là những
người khó tính, kỹ lưỡng. Những người uốn tàn kiểng rộng rãi là những con người tâm hồn bao
dung hòa đồng dễ gần gũi. Và để có được một cây kiểng ra cành theo đúng ý của nghệ nhân thì
phải mất một khoảng thời gian từ một đến hai năm hoặc có thể lâu hơn nữa mới cho được một cây
có dáng đẹp theo đúng ý nghĩa của mình.
Tuy nhiên việc uốn nắn kiểng đã khó khăn, việc chăm sóc kiểng lại càng khó khăn hơn. Người
sành kiểng cho rằng kiểng là tác phẩm nghệ thuật có sự sống ở nó, gợi lên một cái gì đó như một
hồi ức một triết lý sống và giáo dục làm người. Chơi kiểng làm cho con người gần gũi với thiên
nhiên hơn, dễ hòa đồng với mọi người hơn.
LÀNG CHIẾU ĐỊNH YÊN – LÀNG HOA SADEC – LÀNG ĐÓNG XUỒNG
GHE BÀ ĐÀI
Page 15
GVHD: NGUYỄN HIẾU TÍN
Bạch tuyết mai Bonsai
Cây khế Bonsai
Vạn niên tùng
cây may mắn ấm trà
LÀNG CHIẾU ĐỊNH YÊN – LÀNG HOA SADEC – LÀNG ĐÓNG XUỒNG
GHE BÀ ĐÀI
Page 16
GVHD: NGUYỄN HIẾU TÍN
C.
LÀNG ĐÓNG XUỒNG GHE BÀ ĐÀI.
1.
Sơ lược về làng đóng xuồng ghe Bà Đài
Nghề này đã tồn tại hơn 100 năm qua và được xem là một nghề chính, khá hiệu quả của người
dân rạch Bà Đài, xã Long Hậu, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp. Hiện xã có 2 ấp Long Hưng II và
Long Hòa có 200 hộ dân sinh sống, với 150 hộ dân làm nghề đóng xuồng, ghe. Nghề đóng xuồng,
ghe tạo ra nguồn thu nhập chính cho nhiều hộ gia đình nơi đây, giúp ổn định về kinh tế, góp phần
nâng cao đời sống và giải quyết việc làm của địa phương.
Theo sử sách ghi lại, phương tiện gắn với cư dân của cha ông ta chủ yếu bằng xuồng, ghe.
Xuồng làm phương tiện đi lại, xuồng đánh bắt thuỷ sản, săn bắn thú rừng, xuồng hái củ co, bông
súng, gặt lúa trời, xuồng phát hoang lập ấp, dựng làng… Ban đầu việc đóng xuồng, ghe chủ yếu là
tự cung tự cấp, gia đình nào tự đóng, tự sắm xuồng, ghe để làm phương tiện sinh hoạt và làm kế
sinh nhai về sau cư dân ngày một đông đúc hình thành nên làng xã, nhu cầu xuồng, ghe phục vụ
cư dân ngày càng lớn nên làng nghề đóng xuồng, ghe đã ra đời.
Theo truyền thống, truyền nghề theo kiểu “cha truyền con nối”, thế hệ này nối tiếp thế hệ sau
“cầm tay chỉ việc” truyền hết bí quyết, do vậy, làng nghề đóng xuồng, ghe Bà Đài – Long Hậu
luôn có lớp thợ giỏi đầy tự tin, sáng tạo, luôn tìm tòi học hỏi, tìm ra cái hay, cái ưu điểm ở nơi
khác để cải tiến cho trại mình đóng những chiếc xuồng, ghe, chắc và đẹp. Nhờ vậy, làng nghề
đóng xuồng, ghe Bà Đài nổi tiếng khắp vùng, nhiều tỉnh, thành Nam Bộ tìm đến đặt hàng mua sản
phẩm về sử dụng.
Xuồng, ghe trở thành phương tiện gắn bó mật thiết với đời sống sinh hoạt, chiến đấu của cư
dân vùng sông nước Đồng Tháp từ xưa tới nay. Nó gắn bó với cư dân trong cả đời sống vật chất
lẫn tinh thần, trở thành tình yêu và nỗi nhớ trong đời sống thường nhật cũng như trong thơ ca hò
vè. Nhạc sỹ Xuân Hồng người đã từng gắn bó với quê hương Đồng Tháp trong kháng chiến cũng
như trong thời kỳ xây dựng đất nước, gắn bó với những dòng sông, con rạch, chiếc xuồng, hàng
LÀNG CHIẾU ĐỊNH YÊN – LÀNG HOA SADEC – LÀNG ĐÓNG XUỒNG
GHE BÀ ĐÀI
Page 17
GVHD: NGUYỄN HIẾU TÍN
cây, ngọn cỏ và con người Đồng Tháp đã cảm hứng viết nên ca khúc “Chiếc xuồng quê hương”.
Hiện nay, thợ giỏi với tay nghề cao có thể đóng mỗi ngày hai chiếc xuồng loại nhỏ, xuồng
trung bình làm 3 chiếc mất 2 ngày. Tiền công mỗi chiếc khoảng 100.000 đồng, trẻ em 14 - 15 tuổi
mới vào học nghề mỗi ngày đóng một chiếc (chủ trại trả tiền công 70.000 - 80.000 đồng/ngày).
Những người đàn ông phải rèn luyện, học hỏi để trở thành những thợ cưa xẻ gỗ chuyên nghiệp,
thành thạo trong việc chọn lựa gỗ, bỏ mực, uốn be, cưa, rọc, bào… Phụ nữ lo việc cơm nước, trét
chai, lấp vò; trẻ em nhổ đinh, gom dăm bào, mạt cưa, củi vụn, vỏ cây (vỏ sao, vỏ gáo)…, bán cho
khách hàng mua về làm nhang (mạt cưa), nhúm lửa (mạt cưa, dăm bào), chất đốt (củi vụn, vỏ
cây).
Trước đây, cụ Phạm Văn Thuông (ông Sáu) khởi sự đóng xuồng ghe ở Bà Đài – Long Hậu, sản
phẩm làm ra chủ yếu phục vụ tại địa phương và các làng lân cận. Sau này, bước qua thế hệ các đệ
tử của ông, nghề này phát triển. Hai loại sản phẩm được ưa chuộng nhất lúc đó là xuồng cui bề
hoành 1m đến 1,2m và ghe tam bản hai chèo (còn gọi xuồng chèo) với bề hoành nhỏ và vừa: 1m,
1,2m, 1,4m, 1,6m. Sản phẩm bán rộng rãi trong tỉnh Sa Đéc qua Vĩnh Long, Long Xuyên, Rạch
Giá, Cần Thơ, Sóc Trăng, Cà Mau. Hiện nay, cụ Phạm Văn Thuông được cư dân nơi này gọi là
ông Tổ nghề. Hằng năm, vào ngày 25 tháng 7 âm lịch là ngày giỗ cụ Phạm Văn Thuông. Ngoài lễ
giỗ cụ Thuông, người thợ đóng xuồng ghe Bà Đài còn thể hiện các lễ: lễ ghim lô, lễ hạ thủy, lễ
khai tâm, lễ điểm nhản và những điều kiêng kỵ.
Từ lợi ích có giá trị về vật chất và tinh thần mang lại cho người dân địa phương, chính quyền
và nhân dân xã Long Hậu cam kết bảo tồn, phát huy di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
2.
Quy trình và đặc điểm
LÀNG CHIẾU ĐỊNH YÊN – LÀNG HOA SADEC – LÀNG ĐÓNG XUỒNG
GHE BÀ ĐÀI
Page 18
GVHD: NGUYỄN HIẾU TÍN
Trước đây, thợ Bà Đài – Long Hậu chủ yếu đóng xuồng ghe bằng sao vườn (mua hoặc tự
trồng). Từ gỗ, thợ cưa ra be, chủ yếu là cưa tay. Một số loại gỗ chính để đóng xuồng ghe là: Sao
vườn, sao sông lớn (tức sao rừng) và dầu rừng…khi khan hiếm sử dụng cả căm xe, cà chất, kiền
kiền, sến. Chọn gỗ xong phải ngâm nước, đoạn cưa xẻ ra be vừa cho từng loại xuồng, ghe...Có 2
loại cưa: Cưa líu, cưa quảng.
Sau năm 1975, đất nước hòa bình, thống nhất, việc đi lại dễ dàng, chủ yếu vẫn là xuồng, ghe.
Năm 1978, trận lụt xảy ra khắp đồng bằng sông Cửu Long, số lượng xuồng, ghe đóng ra cung
cấp không đủ, gỗ nguyên liệu ngày càng hiếm. Để đối phó và đáp ứng nhu cầu đi lại trong mùa
lụt, các loại gỗ tạp như xoài, gáo, sầu riêng... cũng được cưa xẻ ra ván đóng xuồng. Tuy nhiên,
ghe vẫn được đóng bằng sao sông lớn, kiền kiền, gỗ tạp trên rừng.
Từ việc cung cấp gỗ nguyên liệu để đóng xuồng, ghe đã hình thành nhóm chợ chuyên mua
cây đứng, cưa hạ gỗ và móc gốc.Gốc cây, nhất là loại cây sao vườn, thịt chắc dùng để làm cong
xuồng hoặc làm đùi, đà.
Để đóng được một chiếc xuồng thành phẩm qua nhiều công đoạn như: bỏ mực tấm tiếp, be,
uốn lô rồi chặt mẫu lô; ghim lô (dính vô 2 đầu tấm tiếp), phân công, đóng chốt (tức chặt đầu dù
của loại đinh dài khoảng 4 phân). Xong, ghim chốt vô tấm tiếp (khoảng 2/3 đinh); vô vỏ dưa tức
vô be xuồng, thường có 3 đôi gồm 6 lá be: đôi be đáy (cặp 2 bên tấm tiếp), đôi be kềm (kế be
đáy), đôi be vành (trên cùng); ngán 2 đầu vỏ dưa; dằn cong – câu miệng; rọc cong, khóec lỗ dù,
chặt góc; sắp cong vào lòng vỏ dưa, phân đoạn cho đều khoảng từ mũi tới lái (12 dây cong hoặc
14 dây cong tùy theo xuồng nhỏ hoặc lớn căn cứ theo bề hoành của xuồng) đóng đinh; ráp bửng,
then, kỷ (còn gọi la trỉ) ở mũi và lái; đóng sạp; đẻo mũi, đẻo lái, cắt đầu cong; dọn thành phẩm
bằng cách lật úp xuống rồi dậm đinh (đóng đinh bổ sung thêm); lăng lưng xuồng (bào theo đường
hèm cho êm, khích, bóng và đẹp); dẫy mỏ be (cả 2 đầu mũi, lái); trét chai; lấy loại chai bả bằng bố
tời, bằng bả cho bong ra, nhuyền nhừ. Đoạn, trộn bả với chai bột (như bột xi măng), trộn đều, chế
dầu trong cho loãng hoặc sền sệt rồi nấu sôi, trộn đều cho tới khi nở chai, mới nhắc nồi chai
xuống để nguội, … Vít chai nấu ra, rắc thêm chai bột vào rồi đập đến khi chai nhừ kéo được thành
sợi vừa dai mà không còn bả… thì mới đạt yêu cầu. Người ta trét chai theo đường hèm, theo dây
cong (cả trong lẫn ngoài xuồng). Cuối cùng, còn phải lấp vò, nghĩa là lấy chai bột ngâm với dầu
trong, đem phơi nắng hoặc nấu cho nở chai (nhưng nấu không tốt bằng phơi nắng). Xong, đem
chai lấp vò xuồng bằng cách lấy sơ dừa phết phía trong và phía ngoài chiếc xuồng. Như vậy, lấp
vò là dùng chai áo bên ngoài, có tác dụng không để nước thấm vào be.
LÀNG CHIẾU ĐỊNH YÊN – LÀNG HOA SADEC – LÀNG ĐÓNG XUỒNG
GHE BÀ ĐÀI
Page 19
GVHD: NGUYỄN HIẾU TÍN
Nếu từ tháng 3-9 âm lịch là lúc sản xuất các loại xuồng phục vụ cho vc giăng âu thả lưới, và
các tháng còn lại sản xuất ghe tam bản phục vụ cho các vùng nuôi tôm ở Trà Vinh, Sóc trăng, Cà
mau , Bạc lieu…v.v nhờ vậy sản phẩm làng nghề tiêu thụ quanh năm.
Nhờ kỹ thuật điêu luyện cùng với tâm huyết mà người dân đã gìn giữ và phát triển làng nghề
hơn trăm năm nay.
Từ năm 2005, nghề đóng xuồng, ghe Bà Đài – Long Hậu được công nhận là làng nghề truyền
thống của tỉnh. Tổ chức Hội nghề nghiệp ra đời với 2 chi hội đóng xuồng, ghe. Tập trung các
đoàn viên thanh niên trong xã, ấp và được Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam giúp vốn để phát
triển ngành nghề từ nguồn “Quỹ Quốc gia giải quyết việc làm”. Chương trình này đã kết thúc.
Hiện nay, máy móc bán nhiều, đẹp, rẻ, chiếc tắc ráng dần dà thay thế chiếc ghe tam bản hai chèo.
Với cấu trúc phù hợp với hiện đại, chiếc tắc ráng đặt máy không nghiêng, xoay trở dễ, phóng
nhanh, có thể len lỏi vào các con rạch nhỏ, nước cạn, bãi bùn… đến tận nhà nông dân mua lúa,
chuyển hàng hóa (còn gọi là “lòi”) ra ghe lớn rất tiện lợi. So với chiếc tắc ráng đóng bằng vật liệu
composite thì chiếc tắc ráng đóng bằng gỗ không đẹp, không sang trọng bằng, nhưng về công
dụng và giá cả thì khách hàng vẫn còn chấp nhận được.
Riêng chiếc ghe mũi chài của Bà Đài – Long Hậu thì càng ngày càng được khách thương hồ ưa
chuộng với các tính năng vượt trội, lại phù hợp với xu thế kinh tế hàng hóa trong khu vực Đồng
bằng sông Cửu Long.
Đến thời kì Đồng bằng Sông Cửu Long chuyển lên làm lúa 2 vụ (sau 1975), nó đóng vai trò
tích cực trong việc chuyên chở lúa, gạo xô về các nhà máy xay xát, lao bóng gạo xuất khẩu tại các
trung tâm kinh tế, thương mại. Sang thời kì đổi mới, kinh tế phát triển, cơ sở hạ tầng, các cụm
tuyến dân cư được xây dựng khắp nơi, nhu cầu sang lắp mặt bằng càng lớn, ghe chài càng đóng
vai trò trọng yếu trong việc chuyên chở vật tư, cát, đá,…trọng tải mỗi chiếc ghe chài tăng lên rõ
rệt.
Xuồng, ghe không chỉ là phương tiện đi lại, đánh bắt, chuyên chở… mà còn có thể coi là ngôi
LÀNG CHIẾU ĐỊNH YÊN – LÀNG HOA SADEC – LÀNG ĐÓNG XUỒNG
GHE BÀ ĐÀI
Page 20
GVHD: NGUYỄN HIẾU TÍN
nhà của con người, là sản phẩm văn hoá độc đáo mang “bản sắc vùng miền” được thực hiện với
những khâu kỹ thuật có ý nghĩa quyết định đến hoạt động và “số phận” của nó sau này. Lễ ghim
lô;lễ hạ thủy; lễ khai tâm; lễ khai nhãn … nhằm làm cho tâm động, buồm căng, ghe sẽ chạy nhanh
và có nhãn sáng sủa đi đúng hướng, tránh được rủi ro, tai nạn dọc đường. Đó cũng
là tâm và nhãncủa người đi ghe đang đảm đương vai trò quan trọng trong giao thông vận tải, đánh
bắt cá… góp phần vào việc phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo nâng cao đời sống của mỗi gia
đình.
III.
LỜI KẾT
Xuôi dòng về miền Tây Nam Bộ trong suốt 6 ngày 5 đêm đã đem lại cho tôi nhiều kiến thức
quý báu và vô cùng hữu ích. Qua đó, tôi như nhận thấy được nghề nghiệp tương lai của bản thân
mình thú vị biết bao. Đặc biệt tôi cảm thấy yêu quê hương đất nước hơn và thật tốt biết bao khi tôi
trở thành một “ đại sứ văn hóa ” có thể truyền đạt lại cảm hứng và vẻ đẹp của đất nước cho mọi
người.
Và tôi chân thành cảm ơn trường đại học Tôn Đức Thắng đã tạo điều kiện cho tôi thực tập để
có thể cảm nhận và nghiên cứu sâu hơn về vùng đất Đồng bằng sông cửu long, cụ thể là “ làng
hoa sadec – làng chiếu Định Yên – làng đóng xuồng ghe Bà Đài”. Khi nghiên cứu tôi dường như
cảm nhận được vẻ đẹp truyền thống của dân tộc, nghị lực và niềm đam mê yêu nghề của người
dân nơi đây.
Qua đó, tôi cảm nhận một nét đẹp văn hóa sâu sắc dần bị lãng quên và như một phép lạ điều
đó lại được khai sáng trong tôi khi nghiên cứu và nghe các anh hướng dẫn kể. Từ đó, tôi mong
rằng tôi có thể tiếp thu và nghiên cứu nhiều kiến thức bổ ích hơn từ thầy cô để có thể truyền đạt
lại cho du khách sau này!
TPHCM, Ngày 23 Tháng 8 Năm 2015
SV: PHẠM MINH NHẬT
LÀNG CHIẾU ĐỊNH YÊN – LÀNG HOA SADEC – LÀNG ĐÓNG XUỒNG
GHE BÀ ĐÀI
Page 21