Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Vấn đề toàn cầu hóa với môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.55 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU

Ngày nay, toàn cầu hóa và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở
thành xu thế của sự phát triển kinh tế thế giới. Với phương châm: "Đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ” và “sẵn sàng làm bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các nước
trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Tất cả các
nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng cũng đang tích cực thiết lập
quan hệ, tham gia vào các tổ chức, diễn đàn kinh tế trên khu vực và thế giới.
Theo xu thế đó, các quốc gia kém phát triển sẽ có những cơ hội phát triển tốt
hơn, sẽ bắt kịp với tốc độ phát triển các quốc gia khác. Nhưng sự thực có phải mọi
quốc gia mở cửa mạnh mẽ, hội nhập sâu rộng, gắn kết chặt chẽ, đều sẽ hưởng lợi
từ quá trình toàn cầu hóa? Toàn cầu hóa liệu có là phép mầu để biến một quốc gia
từ đang phát triển trở thành một con rồng vươn mình bay lên?
Với bản chất là tìm kiếm lợi nhuận tối đa và khuyến khích một xã hội tiêu
thụ không có độ dừng, đã tạo ra một lượng phế thải khổng lồ và là nguyên nhân
gây nên những vấn đề môi trường toàn cầu như sự suy giảm tầng ôzôn và thay đổi
khí hậu toàn cầu. Trước những tác động của toàn cầu hóa, tôi chọn đề tài “Tác
động của nền kinh tế toàn cầu hóa đối với môi trường” làm tiểu luận kết thúc
môn học Thời đại và những vấn đề mới của thời đại.

NỘI DUNG
1


1. Khái niệm về toàn cầu hóa, toàn cầu hóa về kinh tế
1.1. Toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và
trong nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa
các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế, v.v... trên quy
mô toàn cầu.
Toàn cầu hoá đang tạo ra những ưu thế nhất định và có thể tóm tắt ưu thế đó


trên mấy điểm như sau: thứ nhất, nó tạo ra khả năng phát triển, phổ cập công nghệ
thông tin và các phương tiện viễn thông; thứ hai, nó thúc đẩy sự phát triển kinh tế,
thương mại và tạo ra khả năng thực thi các luật lệ kinh tế khách quan trong một
không gian toàn cầu rộng lớn; thứ ba, nó tạo điều kiện cho việc giao lưu văn hoá
và tư tưởng rộng rãi, làm cho con người xích lại gần nhau hơn; cuối cùng, toàn cầu
hoá đem lại khả năng giải quyết một số vấn đề chung đang đối mặt với toàn cầu
hoá kinh tế và sự phát triển xã hội.
Bên cạnh những ưu điểm, toàn cầu hoá đang đặt ra cho các nước trên thế
giới, đặc biệt là các nước đang phát triển những thách thức và nguy cơ hết sức to
lớn:
Về mặt xã hội, hiện nay, các nước đều đang phải đối mặt với những vấn đề
chung trong sự phát triển kinh tế quốc gia, như những vấn đề sinh thái, ô nhiễm
môi trường và cạn kiệt tài nguyên, vấn đề dân số và sức khoẻ cộng đồng, sự phân
hoá giàu nghèo, tệ nạn xã hội và tội phạm mang tính quốc tế.
Về mặt chính trị, người ta thường nhắc tới những thách thức nghiêm trọng
của toàn cầu hoá đối với chủ quyền quốc gia. Điều đó được lý giải bằng sự tác
động của kinh tế đối với chính trị. Sự hội nhập về kinh tế tăng lên sẽ kéo theo sự
hội nhập về chính trị. Với lôgíc đó, người ta nói đến sự suy yếu của mô hình quốc
gia dân tộc. Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, người ta thường nói về sự phụ
thuộc lẫn nhau của các quốc gia dân tộc hơn là đề cập đến sự độc lập hoàn toàn của
các quốc gia đó. Có thể nói, không có và không thể có một quốc gia đứng độc lập
hoàn toàn tách biệt khỏi với thế giới bên ngoài trong bối cảnh toàn cầu hoá.
2


1.2. Toàn cầu hóa về kinh tế
Toàn cầu hóa kinh tế là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt
qua mọi biên giới quốc gia và khu vực, tạo ra sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền
kinh tế trong sự vận động phát triển hướng tới một nền kinh tế thế giới hội nhập và
thống nhất.

Toàn cầu hóa kinh tế là xu hướng tất yếu biểu hiện sự phát triển vượt bậc
của lực lượng sản xuất do phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng
trên phạm vi toàn cầu dưới tác động của cách mạng khoa học - công nghệ và tích
tụ, tập trung sản xuất, dẫn tới hình thành nền kinh tế toàn thế giới. Mầm mống của
xu thế toàn cầu hóa kinh tế có từ khi đại công nghiệp cơ khí tư bản chủ nghĩa được
hình thành, nhưng nó chỉ thực sự bắt đầu trong bước chuyển từ CNTB tự do cạnh
tranh sang CNTB độc quyền. Khi nghiên cứu về chủ nghĩa đế quốc, V.I. Lênin đã
nhận định: "... mạng lưới dày đặc những mạch máu ngân hàng lan rộng nhanh
chóng như thế nào, nó bao phủ các nước, tập trung hết thảy tư bản và các khoản
thu nhập bằng tiền, biến hàng nghìn hàng vạn doanh nghiệp tản mạn thành một
đơn vị kinh tế tư bản chủ nghĩa thống nhất toàn quốc, rồi sau đó thành một đơn vị
kinh tế tư bản chủ nghĩa thế giới" . Toàn cầu hóa kinh tế là trình độ phát triển cao
của quốc tế hóa đời sống kinh tế. Ban đầu là quốc tế hóa về thương phẩm và dịch
vụ, mở rộng mậu dịch quốc tế, hình thành thị trường toàn thế giới thống nhất. Tiếp
theo là quốc tế hóa về tư bản; việc xuất, nhập khẩu tư bản tăng lên, trước hết từ
chính quốc sang thuộc địa, rồi dần dần di chuyển trên phạm vi toàn cầu. Sau cùng
là quốc tế hóa về sản xuất; cách mạng khoa học - công nghệ cùng với sự bành
trướng của các công ty xuyên quốc gia đã tái hiện hình thức phân công kiểu công
trường thủ công trên phạm vi toàn cầu, khiến cho các nền kinh tế dân tộc tuỳ thuộc
vào nhau và hình thành Toàn cầu hóa kinh tế. Toàn cầu hóa kinh tế phát triển tác
động đến các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
2. Mối quan hệ giữa kinh tế và môi trường.
Môi trường và phát triển kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ, khăng khít. Phát
triển kinh tế xã hội là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất và tinh thần
của con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến quan hệ xã hội, nâng
cao chất lượng văn hóa. Phát triển là xu thế chung của từng cá nhân và cả loài
3


người trong quá trình sống. Giữa môi trường và sự phát triển có mối quan hệ hết

sức chặt chẽ: môi trường là địa bàn và đối tượng của sự phát triển, còn phát triển là
nguyên nhân tạo nên các biến đổi của môi trường.
Trong hệ thống kinh tế xã hội, hàng hoá được di chuyển từ sản xuất, lưu
thông, phân phối và tiêu dùng cùng với dòng luân chuyển của nguyên liệu, năng
lượng, sản phẩm, phế thải. Các thành phần đó luôn ở trạng thái tương tác với các
thành phần tự nhiên và xã hội của hệ thống môi trường đang tồn tại trong địa bàn
đó. Khu vực giao nhau giữa hai hệ thống trên là môi trường nhân tạo.
Tác động của hoạt động phát triển đến môi trường thể hiện ở khía cạnh có
lợi là cải tạo môi trường tự nhiên hoặc tạo ra kinh phí cần thiết cho sự cải tạo đó,
nhưng có thể gây ra ô nhiễm môi trường tự nhiên hoặc nhân tạo. Mặt khác, môi
trường tự nhiên đồng thời cũng tác động đến sự phát triển kinh tế xã hội thông qua
việc làm suy thoái nguồn tài nguyên đang là đối tượng của hoạt động phát triển
hoặc gây ra thảm hoạ, thiên tai đối với các hoạt động kinh tế xã hội trong khu vực.
Ở các quốc gia có trình độ phát triển kinh tế khác nhau có các xu hướng gây ô
nhiễm môi trường khác nhau. Ví dụ:
Ô nhiễm do dư thừa: 20% dân số thế giới ở các nước giàu hiện sử dụng 80%
tài nguyên và năng lượng của loài người.
Ô nhiễm do nghèo đói: những người nghèo khổ ở các nước nghèo chỉ có con
đường phát triển duy nhất là khai thác tài nguyên thiên nhiên (rừng, khoáng sản,
nông nghiệp,...). Do đó, ngoài 20% số người giàu, 80% số dân còn lại chỉ sử dụng
20% phần tài nguyên và năng lượng của loài người.
Mâu thuẫn giữa môi trường và phát triển trên dẫn đến sự xuất hiện các quan
niệm hoặc các lý thuyết khác nhau về phát triển:
Lý thuyết đình chỉ phát triển là làm cho sự tăng trưởng kinh tế bằng (0) hoặc
mang giá trị (-) để bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của trái đất. Một số nhà khoa học
khác lại đề xuất lấy bảo vệ để ngăn chặn sự nghiên cứu, khai thác tài nguyên thiên
nhiên.
3. Tác động của nền kinh tế toàn cầu đối với môi trường.
4



3.1. Tác động tích cực
Thúc đẩy quá trình tìm kiếm và khai thác các nguồn năng lượng mới sạch
hơn, an toàn hơn cho môi trường, tận dụng nhiều nguồn năng lượng từ tự nhiên
như NL Mặt Trời, năng lượng gió.
Gắn kết các quốc gia cùng giải quyết vấn đề mang tính toàn cầu như những
căn bệnh hiểm nghèo (lao, AIDS, ung thư…), chiến tranh, ô nhiễm môi trường….
Thúc đẩy kinh tế phát triển với tốc độ cao, nâng cao trình độ kỹ thuật - công
nghệ.
Đẩy mạnh tự do hóa các hoạt động tài chính và đầu tư quốc tế.
* Đối với Việt Nam:
Mở cửa và hội nhập đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho nước ta chú
trọng hơn tới vấn đề bảo vệ môi trường.
Nhờ tham gia vào các tổ chức quốc tế về bảo vệ môi trường và được sự trợ
giúp của cộng đồng quốc tế, Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách về bảo vệ môi
trường (BVMT), điển hình là sự ra đời của Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 va
Luật BVMT sửa đổi 2005. Đã từng bước nâng cao bước nhận thức của quần chúng
(cả trong nhân dân và các nhà sản xuất) về vấn đề BVMT, góp phần hạn chế tình
trạng gia tăng ô nhiễm tại các khu công nghiệp và trung tâm dân cư lớn, các vùng
nông thôn, cũng như nạn tàn phá và sử dụng quá mức tài nguyên thiên nhiên.
Có điều kiện tiếp thu công nghệ cao, công nghệ ít hoặc không sinh sản chất
thải. Nhiều dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp đã đem theo vào
nước ta những công nghệ tiên tiến nhất, ít gây ô nhiễm, sử dụng tài nguyên nông
nghiệp hiệu quả hơn.
Tự do hóa thương mại tạo cho người tiêu dùng nhiều cơ hội lựa chọn các sản
phẩm xanh và sạch. Một khi thu nhập gia tăng, nhu cầu về các loại hàng hóa và
dịch vụ môi trường cũng tăng theo, do vậy nhà nước có thể nâng cao các tiêu
chuẩn về môi trường về đất, nước và chất lượng nông sản.
Phát triển kinh tế theo hướng hạn chế khai thác tài nguyên, nâng cao chất
lượng sản phẩm, thân thiện với môi trường tránh được nguy cơ ô nhiễm môi

5


trường trong tương lai. Một điều nhận thấy rất rõ là từ năm 2001 đến nay, phần lớn
hàng xuất khẩu nông sản và thủy sản của nước ta đã được chấp nhận ở các thị
trường có tiêu chuẩn cao về môi trường như EU, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Nhật Bản.
Việc thực hiện các Công ước quốc tế về môi trường dẫn đến việc kiểm soát
hàng hóa nhập khẩu sẽ thuận lợi hơn, tránh được nguy cơ ô nhiễm từ bên ngoài,
ngăn chặn phần nào tình trạng buôn bán các loài động và thực vật quý hiếm.
Việc cam kết cắt giảm các rào cản thương mại để tham gia vào các tổ chức
thương mại thế giới, thực hiện các hiệp định quốc tế về môi trường tạo điều kiện
để các doanh nghiệp nông lâm nghiệp, thủy sản cải thiện khả năng cạnh tranh của
mình đồng thời nâng cao nhận thức về các vấn đề môi trường. Những yêu cầu vè
những sản phẩm thân thiện với môi trường sẽ là áp lực để các doanh nghiệp cải
tiến công nghệ, phương thức tổ chức kinh doanh nhằm đáp ứng yêu cầu của thị
trường. Điều này một mặt tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa nông nghiệp Việt
Nam, đồng thời giảm bớt nguy cơ ô nhiễm môi trường trong nông nghiệp và nông
thôn.
Thông qua việc tham gia vào các tổ chức quốc tế khu vực, Việt Nam có thể
đóng góp tiếng nói của mình trong các vấn đề về môi trường, thu thập thông tin,
kiến thức về bảo vệ môi trường và nhận thức đầy đủ hơn về mối quan hệ giữa
thương mại và môi trường; đồng thời có thể học hỏi được kinh nghiệm từ các nước
khác trong việc duy trì hài hòa giữa lợi ích kinh tế từ thương mại quốc tế và
BVMT.
3.2. Tác động tiêu cực
Toàn cầu hóa kinh tế không chỉ là cơ hội mà còn là thách thức lớn, không
chỉ có tác động tích cực mà còn có tác động tiêu cực. Sự phát triển kinh tế toàn cầu
đã và đang tác động đến môi trường, nhất là ở các nước đang phát triển.
Sự phát triển kinh tế và quá trình công nghiệp hóa ở các nước làm cho nguồn
tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt, rừng bị tàn phá, không khí và các nguồn

nước bị ô nhiễm.

6


Từ đó trực tiếp hay gián tiếp dẫn đến lũ lụt lớn thường diễn ra ở nhiều nơi,
hiện tượng thiếu nước sinh hoạt, sa mạc hóa đất đai... đe dọa an toàn cuộc sống con
người và ảnh hướng xấu đến các hoạt động kinh tế - xã hội.
* Đối với công nghiệp hóa – đô thị hóa: Sản xuất công nghiệp ngày càng
tăng, tốc độ đô thị hóa cao làm:
- Khí thải độc ra từ các khu công nghiệp càng nhiều, gây ô nhiễm không khí.
- Phát sinh một lượng lớn chất thải, trong đó chất thải nguy hại ngày càng
gia tăng.
- Suy thoái các nguồn tài nguyên: nguồn tài nguyên nước, tài nguyên đất, tài
nguyên khoáng sản( một loại tài nguyên không thể tái sinh)
- Mở rộng không gian đô thị dẫn đến chiếm dụng đất nông nghiệp, ảnh
hưởng đến vấn đề an toàn lương thực quốc gia và đến đời sống của nhân dân.
- Bùng nổ giao thông cơ giới gây ô nhiễm môi trường không khí và tiếng ồn
nghiêm trọng.
- Đô thị hóa làm tăng dòng người di dân từ nông thôn ra thành thị, gây nên
áp lực đáng kể về nhà ở và vệ sinh môi trường
* Đối với nông – lâm nghiệp:
- Thoái hóa đất do kỹ thuật tưới tiêu không hợp lý.
- Xâm nhập mặn và xa mạc hóa tăng do phá rừng.
- Nguồn nước và môi trường đất, không khí trong nông nghiệp ngày càng có
nguy cơ ô nhiễm nghiêm trọng do:
+ Gia tăng các loại chất thải rắn sinh hoạt.
+ Nước thải và khí thải từ các chuồng trại gia súc.
+ Tình trạng lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật, phân hóa học.
* Đối với ngư nghiệp – nuôi trồng thủy sản:

- Hoạt động khai thác quá mức làm cạn kiệt tài nguyên sinh vật biển.
7


- Lượng dầu mỡ chưa được xử lý, rác thải đổ trực tiếp xuống biển trong quá
trình đánh bắt dài ngày gây ô nhiễm nước.
- Làm gia tăng mặn hóa ở các vùng ven biển do phá lúa nuôi trồng thủy sản
quy mô lớn.
- Dịch bệnh và ô nhiễm môi trường do quá trình vệ sinh ao nuôi và quá trình
đào đắp.
- Các chất tồn dư của các loại vật tư sử dụng trong nuôi trồng như: hóa chất,
vôi và các loại khoáng chất Diatomit, Dolomit, lưu huỳnh lắng đọng gây ô nhiễm
đất.
* Đối với các dịch vụ khác:
- Du lịch:
+ Ô nhiễm môi trường nước do các nguồn nước thải từ các nhà hàng, khách
sạn.
+ Phát sinh nhiều rác thải, mất cảnh quan và mất vệ sinh do du khách gây
nên.
+ Ô nhiễm phong cảnh do xây dựng kiến trúc không hợp lý.
+ Tiêu tốn nhiều năng lượng.
+ Làm nhiễu loạn hệ sinh thái.
- Giao thông:
+ Gây ô nhiễm tiếng ồn lớn do tiếng động cơ, tiếng còi, ống xả, tiếng rít của
phanh và rung động của các bộ phận của phương tiện.
+ Ô nhiễm không khí: Khí thải từ các phương tiện giao thông.
Ngoài các tác động mà nền kinh tế đến môi trường nêu trên, thì nền kinh tế
còn dẫn đến một số vấn đề sau :
+ Bùng nổ dân số.
+ Vấn đề tăng dân số khu vực nông thôn, di dân tự do làm phá vỡ cân bằng

sinh thái.
8


+ Ô nhiễm do nghèo đói.
+ Ô nhiễm do dư thừa.
* Đối với Việt Nam:
Bên cạnh những tác động tích cực, hội nhập kinh tế quốc tế vừa qua cũng
cho thấy một số tác động tiêu cực đối với môi trường trong nông nghiệp và nông
thôn. Cho đến nay, xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu vẫn là xuất khẩu tài nguyên và
hàng sơ chế (hơn 50% năm 2005), tỷ lệ hàng hóa chế biến xuất khẩu thấp (đạt 43%
năm 2005), dẫn đến nguồn tài nguyên nông nghiệp của nước ta sẽ có nguy cơ bị
cạn kiệt. Mặt khác, từ nhiều năm nay, người nông dân đã quen với phương thức
sản xuất tùy tiện, sản phẩm nông nghiệp làm ra có chất lượng thấp như dư lượng
thuốc BVTV trong rau, trong hải sản, trong hoa, trong quả, hoặc chứa hàm lượng
NO3 cao do bón nhiều phân đạm để hấp dẫn và tăng tính thị hiếu của người tiêu
dùng. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hàng hóa ngoại nhập có chất lượng tốt hơn,
mẫu mã đẹp hơn trên thị trường thì rất có thể hàng hóa sản xuất theo phương thức
cũ sẽ không có người tiêu thụ ở thị trường trong nước và như vậy người nông dân
sẽ ‘thua ngay trên sân nhà’.
Thương mại là cơ chế luân chuyển hàng hóa và dịch vụ sản xuất từ địa điểm
này sang người tiêu dùng tại địa điểm khác. Đặc tính này tạo cho người tiêu dùng
khả năng hưởng thụ các sản phẩm tại đất nước mình không có hoặc không có khả
năng sản xuất. Song, nếu các hàng hóa xuất khẩu được sản xuất ồ ạt theo cách thức
phá hủy môi trường thì đương nhiên việc sản xuất hàng hóa cho mục đích thương
mại sẽ gây ra nhiều hậu quả môi trường nghiêm trọng.
Tự do hóa thương mại có xu hướng làm tăng các hoạt động kinh tế nông
nghiệp. Điều đó có nghĩa là sẽ có nhiều hơn nữa nguyên liệu, năng lượng được sử
dụng vào các hoạt động sản xuất nông nghiệp như lượng xăng dầu, khai thác các
nguồn năng lượng tái tạo (năng lượng sinh học, năng lượng mặt trời, năng lượng

gió...) để vận hành máy móc nông nghiệp, để chế biến, phơi sấy nông sản; đồng
thời còn kéo theo nhiều thay đổi trong việc sở hữu đất đai, tài sản, cách thức sử
dụng đất đai, đe dọa môi trường tự nhiên.

9


Nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu là nguồn nguyên liệu và công nghệ trong
nước chưa sản xuất được từ thị trường các nước trong khu vực, đây không phải là
công nghệ thân thiện với môi trường. Đã có trường hợp nhập khẩu những công
nghệ lạc hậu mà những nước bán hàng không còn sử dụng được nữa (công nghiệp
mía đường, dâu tằm...) và những loại động vật, hàng hóa gây tác động tiêu cực tới
môi trường như ốc bươu vàng, hải ly...
Việt Nam tham gia hội nhập với kinh tế thế giới trong khi khuôn khổ luật
pháp của ta còn chưa hoàn thiện, việc thực hiện pháp luật chưa nghiêm cùng với
năng lực quản lý và giám sát thực hiện luật hạn chế đã dẫn đến một số hiện tượng
ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường nước ta như buôn lậu động vật và tài nguyên
quý hiếm, chặt phá rừng bừa bãi...
4. Một số vấn đề cấp bách về môi trường hiện nay.
4.1. Thực trạng
Trên thực tế, nền kinh tế toàn cầu trong thời gian qua đã có những bước tiến
vượt bậc, xong cùng với quá trình ấy, thì trong lĩnh vực môi trường sinh thái hay
mối quan hệ giữa con người, xã hội và tự nhiên đang nổi lên những vấn đề cấp
bách:
Trước hết là sự suy thoái tầng ozon. Tầng ozon bị suy thoái sẽ tác động
mạnh đến mọi sinh vật trên trái đất, làm tăng thêm các bệnh tật, làm giảm khả năng
miễn dịch của con người. Cuối năm 1985 các nhà khoa học Anh đã phát hiện lổ
thủng tầng ozon ở Nam Cực, đến năm 1988 người ta lại phát hiện ra lổ thủng ozon
ở Bắc Cực… Nguyên nhân gây ra sự suy thoái tầng ozon là do các hợp chất cacbon
có chứa flo hoặc brôm. Ước tính hàng năm có khoảng 788.000 tấn Clo-ro Cac-bon

thải vào môi trường, chất này được sử dụng rộng rãi trong công nghệ đông lạnh và
chất dung môi. Vấn đề suy giảm tầng ozon đã và đang đụng chạm đến một trong
những vấn đề nhức nhối và bức xúc nhất của nhân loại - vấn đề bệnh tật trong điều
kiện xã hội phát triển. Sự suy thoái tầng ozon đã làm cho nhiều quốc gia thức tỉnh
và lo ngại. Đầu năm 1987, 27 nước đã ký công ước Viên về việc bảo vệ tầng ozon.
Những nước công nghiệp phát triển nhất đã cam kết giảm dần và tiến đến chấm dứt
việc sử dụng, sản xuất và thải bỏ các chất gây tác hại cho tầng ozon vào năm 2000.
10


Song cho đến nay sự giảm độ dày của tầng ozon vẫn là vấn đề quan tâm và lo lắng
của nhân loại. Hậu quả tiêu cực của hiện tại vẫn chưa thể chấm dứt ngay được.
Thứ hai là hiện tượng “hiệu ứng nhà kính”. Trái đất và khí quyển được xem
như là một nhà kính khổng lồ, trong đó trái đất có nguy cơ bị đốt nóng lên. Nhiệt
độ của trái đất tăng lên được gọi là hiện tượng “hiệu ứng nhà kính”. Nguyên nhân
của hiện tượng này là do sử dụng nhiều các nguyên liệu hoá thạch, do sự giảm sút
diện tích rừng xanh …, lượng khí thải độc vào thiên nhiên ngày càng nhiều. Nhiệt
độ của trái đất tăng lên sẽ làm tan khối lượng băng khổng lồ ở hai cực và làm cho
mực nước biển dâng lên. Mực nước biển dâng lên là nguy cơ đe doạ rất nhiều quốc
gia và đời sống của hàng triệu dân trên thế giới.
Hiện tượng “hiệu ứng nhà kính” gắn liền với một hiện tượng ô nhiễm môi
trường khác không kém phần nguy hiểm đó là mưa axít. Trong các chất khí thải
vào khí quyển, đặc biệt có SO2 và NO2 theo hơi nước bốc lên cao, chúng bị oxy
hoá và thuỷ phân tạo thành axít, gặp lạnh mưa xuống đất. Mưa axít có tác hại rất
lớn đến các thế hệ sinh thái nông nghiệp, làm giảm năng suất mùa màng, có nơi
còn bị mất trắng, làm giảm chất lượng cây trồng và vật nuôi, phá hoại nặng nề các
cánh rừng ôn đới phía Bắc bán cầu. Mưa axít còn làm ô nhiễm các đường ống nước
uống và nước sinh hoạt của con người và sinh vật, ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ và
tính mạng của con người.
Ngoài ra sự suy thoái môi trường còn thể hiện ở sự ô nhiễm nguồn nước

sạch. Tổng lượng nước trên toàn cầu là 1.360 triệu km3, trong đó lượng nước ngọt
chỉ chiếm trên dưới 3% và con người chỉ sử dụng được khoảng 1% để phục vụ nhu
cầu của xã hội. Thế nhưng 1% đó đang bị ô nhiễm bởi các chất thải trong sinh
hoạt, trong sản xuất… Như các hoá chất dùng trong công nghiệp, thuốc trừ sâu,
phân bón hoá học dùng trong nông nghiệp…
Bên canh đó là nạn cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt
nguồn tài nguyên không tái sinh. Mất rừng gây nên lũ lụt, mất nơi trú ở của nhiều
động vật cơ sở để điều tiết không khí hay lượng nước chống xói mòn mất
dần…..Mất rừng cùng với hiệu ứng nhà kính và mưa axit là nguyên nhân quang
trọng dẫn đến sa mạc hóa với diện tích ngày càng tăng.
11


4.2. Nguyên nhân
Nguyên nhân chính dẫn đến một loạt sự suy thoái môi trường sinh thái trên,
trước hết phải kể đến sự phát triển của công nghiệp ồ ạt, đặc biệt là các ngành công
nghiệp gây ô nhiễm. Đã thải ra môi trường những chất độc hại làm cho môi trường
sinh thái không thể hấp thụ được, nên đã gây tác hại đến tầng ozon, đến nguồn
nước sạch…
Nguyên nhân thứ hai là tệ nạn phá rừng ngày càng nghiêm trọng trên phạm
vi toàn cầu. Có thể nói rừng là nước cho đời sống của thực vật và cho sản xuất của
xã hội, là không khí trong lành, rừng là năng suất mùa màng… Rừng đóng vai trò
quan trọng như thế, nhưng hiện nạy rừng trên thế giới đang kêu cứu, cứ mỗi phút
trôi qua có tới 21,5 ha rừng nhiệt đới bị phá huỷ. Sự mất mát quá lớn của rừng tất
yếu dẫn đến nghèo kiệt của đất đai và sự biến mất dần những sinh vật quý hiếm, sự
tăng hàm lượng CO2 trong khí quyển - một trong những chất khí quan trọng nhất
gây nên “hiệu ứng nhà kính”, làm tăng nhiệt độ trung bình của trái đất…
Một nguyên nhân nữa là do sự mất cân bằng tài nguyên và dân số. Dân số
tăng nhanh đòi hỏi phải khai thác các tài nguyên tự do nhiều hơn nhịp điệu cao
hơn, chất thải các loại tăng nhanh hơn dẫn tới phá vỡ cân bằng, vắt kiệt tài nguyên

và ô nhiễm môi trường.
Tình trạng chạy đua vũ trang, sản xuất các loại vũ khí hạt nhân, vũ khí hoá
học cũng là nguyên nhân vừa gây ô nhiễm môi trường, vừa tạo khả năng huỷ diệt
thiên nhiên thông qua chiến tranh xung đột.
Đối với Việt Nam, tuy là một nước nông nghiệp, hơn nữa sự phát triển của
xã hội ta hiện nay vẫn chưa vượt ra khỏi trình độ của nền văn minh công nghiệp,
thế nhưng điều đó không có nghĩa là không có hiểm hoạ sinh thái đe doạ. Ở các
nước phát triển, hiểm hoạ sinh thái là do sự phát triển của kỹ thuật công nghệ, do
sự phát triển tự phát của nền văn minh công nghiệp, thì ở Việt Nam, hiểm hoạ sinh
thái là do sự kết hợp giữa phát triển và lạc hậu, do ảnh hưởng còn nặng nề của nếp
suy nghĩ, nếp làm của người sản xuất nhỏ và lối sống công nghiệp còn chưa ổn
định, chưa hoàn thiện. Thiên nhiên nước ta trước đây bị phá hoại bởi những cuộc
chiến tranh kéo dài, còn bây giờ bị phá hoại bởi những hoạt động vô ý thức, bởi
12


thái độ tuỳ tiện vô trách nhiệm, thiếu kế hoạch trong việc khai thác và sử dụng các
nguồn thiên nhiên.
Sự chưa hoàn thiện và không đồng bộ của kỹ thuật và công nghệ gây nên sự
lãng phí tài nguyên gây ô nhiễm môi trường. Sự tách rời giữa mục tiêu kinh tế và
mục tiêu sinh thái trong quá trình phát triễn xã hội cũng là nguyên nhân dẫn đến ô
nhiễm môi trường.
4.3. Các biện pháp nhằm hạn chế, giảm thiểu ô nhiễm môi trường
* Giải pháp quy hoạch:
- Di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm ra khỏi khu dân cư.
- Tách hệ thống thoát nước mưa ra khỏi hệ thống thoát nước sinh hoạt và
nước thải công nghiệp.
- Xây dựng các bãi xử lý rác tiêu chuẩn.
- Xây dựng hệ thống xử lý nước thải công nghiệp.
- Cải thiện hệ thống cây xanh đô thị. Giao đất trồng rừng.

* Giải pháp quản lý:
- Phát triển mạng lưới quan trắc giám sát môi trường đất, nước và không khí.
- Triển khai và quản lý các chính sách và luật về thuế môi trường.
- Phát triển công tác giáo dục nâng cao nhận thức môi trường bằng những
hình thức thích hợp.
- Xây dựng các chính sách quản lý khuyến khích các cơ sở công nghiệp
tham gia công tác quản lý môi trường.
- Huy động sự tham gia của cộng đồng trong công tác bảo vệ môi trường.
* Giải pháp công nghệ:
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu ứng dụng các thành tựu trong lĩnh vực công
nghệ môi trường, nhanh chóng làm chủ các công nghệ tiên tiến, phát huy tối đa các
công nghệ truyền thống và tiến tới sáng tạo công nghệ mới theo các định hướng:
13


- Đa dạng hóa các loại hình công nghệ môi trường. Đặc biệt là trong xử lý
chất thải.
- Ưu tiên phát triển công nghệ thân thiện với môi trường, tái sử dụng tái chế
chất thải.
Trong các giải pháp trên thì sự kết hợp giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu
sinh thái trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa là con đường tích cực
nhất, mang lại hiệu quả tối ưu nhất. Đó cũng chính là con đường dẫn đến sự phát
triễn bền vững, là mục tiêu phát triễn của nhiều nước hướng tới : sự phồn thịnh về
kinh tế, sự công bằng về xã hội và sự trong sạch về môi trường sinh thái.
Đối với nước ta, xuất phát từ một nước nông nghiệp, vừa mới bước vào công
nghiệp hóa, thì môi trường là một nguồn vốn rất quý. Khi công nghiệp hóa, đô thị
hóa bước vào thời kỳ đẩy mạnh trong lúc nguồn vốn để bảo vệ, khắc phục sự ô
nhiễm, suy thoái môi trường chưa đủ lớn, thì việc gìn giữ môi trường là hết sức
quan trọng. Quan trọng bởi việc gìn giữ đó vừa bảo vệ được môi trường, vừa
không để xảy ra tốn kém. Do vậy, bảo vệ và cải thiện môi trường là một trong ba

trụ cột của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, là một trong những nội dung quan
trọng của sự phát triển bền vững mà nước ta theo đuổi.
5. Môi trường và sự phát triển bền vững.
Vào đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, khái niệm “phát triển bền vững” lần đầu
tiên được sử dụng trong chiến lược bảo tồn thế giới do Hiệp hội Bảo toàn thiên
nhiên quốc tế, Quỹ Động vật hoang dã thế giới và Chương trình môi trường Liên
hiệp quốc đề xuất. Tuy nhiên, khái niệm này chính thức được phổ biến rộng rãi
trên thế giới từ năm 1987 sau khi ủy ban thế giới về Môi trường và Phát triển do bà
G.H. Brundtland làm Chủ tịch sử dụng trong Báo cáo phúc trình mang tựa đề
“Tương lai chung của chúng ta” (thường được gọi là Báo cáo Brundtland). Kể từ
đó, khái niệm “phát triển bền vững” đã trở thành cơ sở để từng quốc gia xây dựng
quan điểm, định hướng, giải pháp tháo gỡ những khó khăn, bế tắc trong các vấn đề
phát triển. Báo cáo Brundtland cũng mở đường cho Liên hiệp quốc tổ chức hai hội
nghị quan trọng: Hội nghị Thượng đỉnh về Trái đất diễn ra năm 1992 tại Rio de
Janeiro (Brazin) và Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững diễn ra
14


vào năm 2002 tại Johannesburg (Nam Phi). Theo Báo cáo Brundtland, phát triển
bền vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn những nhu cầu của hiện tại nhưng không
gây phương hại tới khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai.
Cho đến nay, tuy có nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng hầu hết đều công
nhận : “PTBV là sự phát triễn hài hòa giữa mục tiêu tăng cường kinh tế với mục
tiêu xã hội và PTBV ”. Vì vậy, sự phát triễn bền vững là mục tiêu mà nhiều nước
đã và đang theo đuổi, là cơ sở để các nước cùng chung tay bảo vệ hành tinh này.
Ở nước ta, khái niệm “phát triển bền vững” được biết đến, triển khai nghiên
cứu lý luận bởi các nhà khoa học vào khoảng cuối thập kỷ 80 - đầu thập kỷ 90 của
thế kỷ XX. Cùng với các nước trên thế giới, phát triển bền vững đã trở thành nhu
cầu cấp bách và xu thế tất yếu trong tiến trình xây dựng, phát triển đất nước ta theo
xu hướng CNH, HĐH. Tại Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25-6-1998 về tăng cường

công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, Bộ Chính trị nhấn
mạnh: “Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường
lối. chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành,
là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước”.
Quan điểm phát triển bền vững của Đảng được nêu trong Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 là: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng
trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi
trường”1. Đây là lần đầu tiên trục tam giác tăng trưởng kinh tế - thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội - bảo vệ môi trường với tư cách là những thành tố nằm trong mối
liên hệ gắn kết chặt chẽ với nhau tạo nên sự phát triển bền vững được Đảng ta đề
cập một cách cụ thể, rõ ràng và trở thành quan điểm chính thức của Đảng. Đây là
cơ sở lý luận để ngày 17-8-2004 Chính phủ ban hành “Định hướng chiến lược phát
triển bền vững ở Việt Nam”.
Nếu trong văn kiện Đại hội IX và X, Đảng ta chủ yếu đưa ra những quan
điểm có tính chất định hướng cho sự phát triển bền vững đất nước thì tại Đại hội
XI, quan điểm phát triển bền vững được thể hiện tập trung, xuyên suốt trong văn
kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng, từ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
1

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2001,tr.162

15


quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 - 2020 cho đến Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng; biểu hiện trên
hầu hết các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường... Giữa
phát triển nhanh và phát triển bền vững có mối quan hệ mật thiết với nhau: “Phát
triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho

phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau
trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội”.
Phát triển bền vững là một quá trình dàn xếp thỏa hiệp giữa các hệ thống:
* Kinh tế bền vững:
- Giảm dần mức tiêu phí năng lượng và các tài nguyên khác thông qua công
nghiệ tiết kiệm và thay đổi lối sống.
- Thay đổi nhu cầu tiêu thụ không gây hại đến đa dạng sinh học và môi
trường.
- Bình đẳng cùng thế hệ trong tiếp cận các tài nguyên , mức sống, dịch vụ y
tế và giáo dục.
- Xóa đói, giảm nghèo tuyệt đối.
- Công nghệ sạch và sinh thái hóa công nghiệp (tái chế, tái sử dụng, giảm
thải, tái tạo năng lượng đã sử dụng.
* Môi trường bền vững:
- Sử dụng có hiệu quả tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên không tái tạo.
- Phát triển không vượt quá ngưỡng chịu tải của hệ sinh thái.
- Bảo vệ đa dạng sinh học.
- Bảo vệ tầng ô zôn.
- Kiểm soát và giảm thiểu phát thải khí nhà kính
- Bảo vệ chặt chẽ các hệ sinh thái nhạy cảm.

16


- Giảm thiểu xả thải, khắc phục ô nhiễm (nước, khí, đất, lương thực thực
phẩm), cải thiện và khôi phục những khu vực ô nhiễm.
* Xã hội bền vững:
- Ổn định dân số.
- Phát triển nông thôn để giảm sức ép di dân vào đô thị.
- Giảm thiểu tác động xấu của môi trường đến đô thị hóa.

- Nâng cao học vấn xóa mù chữ.
- Bảo vệ đa dạng văn hóa.
- Bình đẳng giới, quan tâm tới nhu cầu và lợi ích giới.
- Tăng cường sự tham gia của công chúng vào các quá trình ra quyết định.
Trong mối tương tác, thỏa hiệp giữa ba hệ thống chủ yếu của phát triễn bền
vững, mỗi hệ thống lại xuất hiên các lĩnh vực ( hệ thống cấp hai ) đòi hỏi những
yêu cầu cho việc phát triễn của mỗi lĩnh vực, để cùng đạt được mục tiêu phát triễn
bền vững. Để điều hòa được những vấn đề đa dạng ấy thực sự là một thách thức
lớn đối với tất cả các nước, đặc biệt là các nước đang phát triễn trước nhu cầu để
phát triễn kinh tê và khai thác tiềm năng ở môi trường.
Môi trường hiện giờ ngày càng bị suy thoái nghiêm trọng và thế hệ tương lai
– buộc chúng ta phải xem xét lại thước đo cho sự phát triễn của nền kinh tế toàn
cầu, giữa lợi ích mà nền kinh tế mang lại và đi đôi với nó là việc dùng chính sự
phát triển của kinh tế để bù vào các khoảng phí như phí môi trường, phí bảo vệ
thực vật... Và thời gian mà để giải quyết hậu quả môi trường là một dấu chấm hỏi
lớn? Môi trường vừa là tác nhân vừa là nạn nhân của nền kinh tế toàn cầu hóa.
Mỗi một tác động không chú trọng chiều sâu có thể là khơi nguồn cho những mối
đe dọa nguy hiểm mà con người có thể không ngờ tới. Vì thế chúng ta song song
với việc phát triển kinh tế chúng ta phải biết giữ gìn môi trường sinh thái

17


KẾT LUẬN

Toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu, một tiến trình khách quan, đang vận
động mạnh mẽ và có ảnh hưởng sâu rộng tới mọi mặt của nền kinh tế, mang lại cả
hai mặt tích cực và tiêu cực. Toàn cầu hóa kinh tế đòi hỏi các quốc gia phải nghiên
cứu kỹ lưỡng, bởi vì ngày nay, dù muốn hay không thì bất cứ quốc gia nào cũng
chịu ảnh hưởng của tiến trình này, và con đường để phát triển nền kinh tế thế giới,

nắm bắt xu hướng vận động và cách thức tác động của toàn cầu hóa kinh tế. Một
trong những tác động đó là môi trường, nhất là các nước đang phát triển. Có thể
nói đây là một nội dung quan trọng, cần hết sức quan tâm trong quá trình hội nhập.
Đòi hỏi mỗi quốc gia cần chủ động khắc phục những thách thức đặt ra, bắt kịp với
sự phát triển chung cùng phát triển, cùng chung tay bảo vệ môi trường sinh thái
ngày càng xanh, sạch, đẹp.

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Thời đại và những vấn đề mới của thế giới.
2. Toàn cầu hóa kinh tế và một số vấn đề đặt ra đối với hội nhập kinh tế
quốc tế ở Việt Nam.
3. Nhiều tác giả. Hội thảo khoa học về toàn cầu hóa và chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế ở nước ta, Tạp chí Cộng sản soos14 (5/2003), tr64.
4. Ban tư tưởng – văn hóa TW. Tài liệu nghiên cứu Văn kiện Đại hội IX của
Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia (2001)
5. Toàn cầu hóa – một số vấn đề lý luận và thực tiễn.
6. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2006.
19


20




×