Nâng cao Năng lực Cộng đồng thông qua Quản lý Tài nguyên Thiên nhiên
mang tính Dân chủ
Đề xuất Thỏa thuận Chương trình của Trung tâm Khuyến Lâm Đan Mạch
Tháng 11, 2015
1.
Giới thiệu ................................................................................................................................................................... 4
1
1.1 Kinh nghiệm và Năng lực của DFE .......................................................................................................................... 4
1.2 Xây dựng Ý tưởng Chương trình.............................................................................................................................. 6
1.3 Hội thảo cùng Chuẩn bị Chương trình ..................................................................................................................... 8
2.
Bối cảnh Khu vực, Quốc gia và Ngành .................................................................................................................... 10
2.1 Bối cảnh Khu vực ................................................................................................................................................... 10
2.2 Tập trung theo vùng địa lý của chương trình.......................................................................................................... 11
2.3 Bối cảnh Ngành – Nguồn Tài nguyên Thiên nhiên ................................................................................................ 15
2.4 Bối cảnh Khu vực – Giáo dục về NRM.................................................................................................................. 17
3.
Mục tiêu của Chương trình ...................................................................................................................................... 18
3.1 Mục tiêu Phát triển ................................................................................................................................................. 18
3.2 Những Mục tiêu Trước mắt và các Chỉ số.............................................................................................................. 18
4.
5.
Chiến lược Tổng thể của Chương trình .................................................................................................................... 20
4.1
Nội dung 1 – Nâng cao Năng lực các Đối tác ................................................................................................. 23
4.2
Nội dung 2 – Các Hiệp hội Nhận thức và Quản lý NR ................................................................................... 24
4.3
Nội dung 3 – Giáo dục về Quản lý Tài nguyên Thiên nhiên ........................................................................... 25
Phương pháp Luận và Lĩnh vực Hoạt động ............................................................................................................. 26
5.1 Phương pháp Tổng thể và Lĩnh vực Hoạt động ...................................................................................................... 26
5.2 Xây dựng Tổ chức .................................................................................................................................................. 29
5.3 Truyền thông .......................................................................................................................................................... 29
5.4 Ảnh hưởng Hợp lực từ Chương trình ..................................................................................................................... 30
Hợp lực giữa Nội dung 2 và 3
6.
Vấn đề Xuyên suốt ................................................................................................................................................... 35
6.1 Những mối quan tâm xuyên suốt ............................................................................................................................ 35
7.
Nhóm Mục tiêu và các Đối tác ................................................................................................................................. 36
7.1 Nhóm Mục tiêu....................................................................................................................................................... 36
7.2 Các Đối tác ............................................................................................................................................................. 37
8.
Công tác Thông tin tại Đan Mạch ............................................................................................................................ 41
9.
Các Kết quả Đầu ra và Chỉ số .................................................................................................................................. 41
10. Ngân sách ................................................................................................................................................................... 42
11. Quản lý và Thiết lập Tổ chức ..................................................................................................................................... 42
11.1 Cơ cấu Tổ chức và Phân bổ Trách nhiệm trong một Tổ chức Đan Mạch ............................................................ 42
11.2 Tổ chức và Phân bổ Trách nhiệm trong các chương trình thực tế ........................................................................ 44
11.3 Thủ tục Hành chính và Quản lý Tài chính............................................................................................................ 44
12. Các Giả định và Rủi ro ............................................................................................................................................... 45
12.1 Giả định ............................................................................................................................................................... 45
12.2 Rủi ro .................................................................................................................................................................... 46
2
Cỏc t vit tt
ama
CBNRM
CBO
CFUG
CFMG
CGCRN
COGEP
CSO
CSR
CSS
CISU
Danida
DARD
DoE
DPCAA
DSCWM
DFE
DFO
FECOFUN
FOCADE
FU
GDP
HDI
IEE
EI
JIWAN
LDC
LFA
LSC
M&E
MARD
MDG
MICOA
MoFSC
MSC
NGO
NRM
NTFP
NVCARD
SUYUK
ToC
ToR
ToT
TPFDA
UAFA
UNESCO
VNFU
WCN
T chc Associaỗóo do meio ambiente amigos de terra
Quản lý Tài nguyên Thiên nhiên dựa vào Cộng đồng
Tổ chức vì Cộng đồng
Các nhóm Khai thác Rừng Cộng đồng
Nhóm Phối hợp Quản lý Rừng
Ban Quản lý Cộng đồng về Tài nguyên Thiên nhiên
Hội đồng Quản lý Tài nguyên Thiên nhiên có sự Tham gia
Tổ chức Xã hội Dân sự
Trách nhiệm Xã hội Tập thể
Chiến lược Xã hội Dân sự
Civilsamfundiudvikling (Xã hội Dân sự trong sự Phát triển)
Bộ Ngoại giao Đan Mạch
Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Sở Giáo dục
Cơ quan cấp tỉnh về các Hoạt động Môi trường
Sở Bảo tồn Đất và Quản lý Đường Phân Nước Nepal
Tổ chức Khuyến Lâm Đan Mạch
Văn phòng Lâm nghiệp cấp Quận/Huyện
Tổ chức của Cộng đồng những người Khai thác Rừng tại Nepal
Nhóm Quản lý Tài nguyên Thiên nhiên Mozambique
Hội Nông dân
Tổng Sản phẩm Quốc nội
Chỉ số Phát triển Nhân sự
Giáo dục Mơi trường Tương tác
Ngành Cơng nghiệp Khai khống
Chương trình Quản lý Lưu vực Nước và Tài nguyên Thiên nhiên Tích hợp Jalaidh
Quốc gia Chậm Phát triển
Tiếp cận Khung Logic
Trung tâm Phát triển Bản thân
Giám sát và Đánh giá
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ
Bộ Điề u phố i các Vấ n đề Môi trường Mozambique
Bộ Bảo tồn Rừng và Đất đai Nepal
Thay đổi Đáng kể Nhất
Tổ chức Phi Chính phủ
Quản lý Tài nguyên Thiên nhiên
Các Lâm sản Ngoài Gỗ
Trường Cao đẳng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Bắc Bộ
Samaj Utthan Yuwa Kendra – Tổ chức SUYUK
Nguyên lý của sự Thay đổi
Điều khoản Tham chiếu
Tập huấn cho Giảng viên
Hiệp hội Phát triển Rừng Tư nhân Terai
Hiệp hội Người Trồng Rừng cấp Quận ở Mozambique
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc
Hội Nơng dân Việt Nam
Tổ chức Bảo tồn Thế giới Hoang dã Nepal
3
1. Giới thiệu
Bảo vệ và sử dụng có trách nhiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên không thể tách rời với ý tưởng về quyền cơ
bản của con người. Tuyên bố toàn cầu về quyền con người cho rằng mọi người “có quyền đầy đủ theo chuẩn
mực về sức khỏe và cuộc sống cho bản thân và gia đình. Quyền có tiêu chuẩn đầy đủ về cuộc sống phụ thuộc
vào khả năng đáp ứng của nguồn tài nguyên cơ bản – đất, nước uống, rừng, thực vật và khơng khí trong
lành”. Không tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách đầy đủ, những mục tiêu cơ bản của tuyên bố
quyền con người sẽ không thể đạt được. Quyền về tiêu chuẩn sống đầy đủ này là đặc điểm bao trùm tồn bộ
chương trình của Trung tâm khuyến lâm Đan Mạch (DFE), với tập trung vào những quyền thực sự đó là: 1)
quyền với đất và tài nguyên thiên nhiên; 2) quyền về giáo dục chất lượng cao về quản lý tài nguyên thiên
nhiên (NRM).
Với mục tiêu đạt được những quyền đó, DFE phối hợp với các tổ chức xã hội dân sự đối tác có năng lực
thành lập các tổ chức cộng đồng dưới hình thức các hiệp hội sử dụng tài nguyên thiên nhiên độc lập có hiệu
quả đại diện cho các thành viên của họ. Các tổ chức đó vận động cho quyền của thành viên về đất và tài
nguyên thiên nhiên và họ hỗ trợ những thành viên về dịch vụ khuyến lâm một cách có hiệu quả trong quản lý
có trách nhiệm tài nguyên thiên nhiên và cải thiện đời sống. Tiếp đó DFE phối hợp cùng đối tác về tăng
cường đạo tạo chính qui về quản lý tài nguyên thiên nhiên ở cả trình độ thấp và cao. Ở trình độ thấp DFE và
đối tác tiến hành đào tạo mơi trường có tương tác với thực tế, gọi tắt là đào tạo tương tác (IEE) trong các
trường phổ thơng bằng cách cung cấp các khóa đào tạo cho giáo viên và học sinh thông qua vận động đưa
IEE vào hệ thống đào tạo chính thức. Ở trình độ cao hơn, chúng tơi phối hợp với các trường Cao đẳng xây
dựng và cung cấp các khóa đào tạo về NRM cho các cán bộ khuyến lâm, tổ chức hoạt động tư vấn và dịch vụ
khuyến lâm. Chúng tơi cũng vận động đưa các khóa NRM vào vào giáo trình cấp quốc gia với mục tiêu nhân
rộng tầm ảnh hưởng.
1.1 Năng lực và Kinh nghiệm của DFE
Skovdyrkerne -DFE là một tổ chức vận hành và làm chủ bởi các chủ rừng qui mô nhỏ ở Đan Mạch. Từ năm
1902 DFE đã cung cấp dịch vụ khuyến lâm, các khóa đào tạo gắn với thực tiễn và vận động cho quyền lợi
của thành viên trên nguyên tắc có sự tham gia. DFE bao gồm bảy đơn vị cơ sở, Hiệp hội chủ rừng cơ sở, mỗi
đơn vị điều hành bởi một ban quản trị, những người được bầu cử theo phương thức dân chủ. Bảy đơn vị cơ
sở đại diện bởi Ban thư ký, ban này được đại hội thành viên bầu ra.
DFE trở thành tổ chức quốc tế từ những năm 90. Sự tham gia vào hoạt động quốc tế được thúc đẩy bởi sự
sụp đổ của Liên bang Xơ viết và do vậy xóa bỏ dịch vụ tập trung. DFE đã được mời đến các quốc gia vùng
Baltic để hỗ trợ thành lập các Hiệp hội chủ rừng dựa vào cộng đồng. Sự thành lập các Hiệp hội chủ rừng ở
Latvia và Lithuania đã được hỗ trợ rất lớn từ phía DFE. Ở Đơng Âu bao gồm Ba Lan,, Romania, Belarus,
Estonia, và Nga là khu vực hoạt động chính của DFE những năm 90.
Ban đầu, tham gia vào hoạt động quốc tế chỉ là một trong những hoạt động thông thường của Ban thư ký.
Cùng với sự gia tăng về cấp độ hoạt động, mong muốn được can thiệp vào việc tạo diễn đàn cho các tổ chức
làm chủ bởi thành viên đã phát sinh. Lý do là chun mơn hóa thơng qua tập trung hoạt động, nâng cao
quyền làm chủ trong các tổ chức cơ sở, tạo cơ hội quản bá kiến thức về những nỗ lực quốc tế của DFE về
quản lý tài nguyên có trách nhiệm.
Điều đó dẫn đến, DFE đã được thành lập vào năm 1999. Trước khi thành lập, các tổ chức tài trợ trong đó có
Danida đã được tham vấn nhằm đảm bảo được sự đồng thuận của họ về việc DFE có thể tiếp tục duy trì vị trí
pháp nhân là một tổ chức phi lợi nhuận được lựa chọn trong số rất nhiều các tổ chức.
Trong mối quan hệ với tổ chức mẹ, Chi nhánh DFE quốc tế có đặc điểm:
4
Độc lập về mặt pháp lý có Hóa đơn giá trị gia tăng riêng/số đăng ký kinh doanh
Ban điều hành riêng
Ban quản trị làm việc khơng lương
Đóng góp đáng kể từ hoạt động tình nguyện của nhân viên và thành viên ban quản trị cơ quan mẹ.
DFE hoạt động trên thực tế như một tổ chức phi lợi nhuận
Quản lý tài chính hồn tồn tách rời từ tổ chức mẹ về kế toán, kiểm toán độc lập, ngân hàng, vv
DFE chi trả cho nhân viên một cách hoàn toàn minh bạch
Quyết định của Hội đồng quản trị không chi trả thưởng/ chia cho tổ chức mẹ. Lợi nhuận nếu có chỉ được
sử dụng để củng cố tổ chức.
Hội đồng quản trị quyết định chỉ cho phép lợi nhuận tối đa là 5-7% trong giai đọan củng cố xây dựng tổ
chức và thấp hơn đáng kể khi đã trả hết nợ và có bảng cân đối của tổ chức như hiện nay.
Khi nắm bắt lợi thế cạnh tranh của nhân viên tổ chức mẹ, sự chi trả cơ bản đủ để bù đắp chi phí,
Đóng góp chính đến từ nguồn của tổ chức phi chính phủ, chi cho giảng dạy, tư vấn vv.
Chi nhánh quốc tế có thể tự do khai thác kiến thức đã được tích lũy hơn 100 năm của tổ chức mẹ.
Tham gia vào hoạt động từ thiện với nơi được lựa chọn là nước không bị cắt viện trợ.
Hỗ trợ miễn phí tới các tổ chức NGO khác nhau. Chi tiết xem trong thành lập tổ chức DFE xem phụ lục
8.
Sau đó, sự tham gia của chúng tơi lan tỏa ra thế giới, tới nay có 25 nước tại Châu Âu, Châu Phi, Châu Á.
Trong thập kỷ vừa qua, DFE đã thiết lập mối quan hệ đối tác chặt chẽ với các tổ chức xã hội dân sự tại
Mozambique, Nepal, và Việt Nam thông qua các dự án tài trợ bởi Danida và CISU. Hoạt động quốc tế của
chúng tôi tập trung hỗ trợ quản lý tài ngun thiên nhiên và rừng có trách nhiệm thơng qua:
Thiết lập và củng cố các Hiệp hội sử dụng tài nguyên thiên nhiên và chủ rừng thông qua thành lập
các đơn vị tự chủ cung cấp dịch vụ khuyến lâm bền vững để cải thiện tình trạng quản lý tài nguyên
thiên nhiên và cải thiện sinh kế.
Thu hút các tổ chức tham gia vận động chính sách về quyền thành viên về quyền sử dụng đất, và lợi
ích của họ với mục đích đóng góp vào quyền tiếp cận cơng bằng với tài nguyên thiên nhiên.
Thúc đẩy giáo dục NRM ở trình độ thấp và cao. Chúng tơi nâng cao nhận thức của sinh viên về các
vấn đề môi trường và các khóa thực hành vể NR cho trẻ em và sinh viên các trường đại học, cao
đẳng, do vậy họ được trang bị tốt hơn để vận động chính sách thành công và quản lý tài nguyên thiên
nhiên trong tương lai.
Liên quan tới tài liệu chương trình, DFE đã cho tiến hành đánh giá năng lực tổ chức bởi một cơ quan độc lập.
Kết luận đánh giá cho rằng DFE và các đối tác có đủ năng lực chuyên mơn, hành chính, và năng lực tổ chức
và cơ cấu để thực hiện chương trình theo như hướng dẫn và yêu cầu của CISU/DANIDA. Đặc biệt đánh giá
kết luận rằng:
DFE áp dụng phương pháp thực tiễn về quyền trong các hoạt động thực tế, chúng được xem như một
khía cạnh chính yếu để giải quyết vấn đề về các quyền.
Phương pháp của DFE bao gồm thúc đẩy phát triển các thành phần tư nhân cung cấp dịch vụ về nắm
giữ quyền về tài nguyên thiên nhiên để đảm bảo sinh kế từ nguồn tài nguyên thiên nhiên. Chúng phù
hợp với ấn phẩm mới nhất về chiến lược xã hội dân sự. Chúng thừa nhận sự quan trọng của đối tác
thành phần tư nhân và hỗ trợ thúc đẩy phát triển xanh.
DFE tiếp tục tiếp cận với các đối tác và đã được xây dựng được mối quan hệ bền chặt với các đối tác
phía nam là những người đang theo đuổi mục tiêu phù hợp với mục tiêu cốt lõi của DFE.
DFE có khả năng hỗ trợ quản lý rất tốt và có những nhân viên tốt về chuyên môn.
Khả năng hỗ trợ kỹ thuật tốt trong quản lý tài nguyên rừng, thiên nhiên và những kinh nghiệm đầy
đủ về các phương pháp áp dụng trong bối cảnh phát triển với các đối tác của các nước đang phát
triển.
Có một mối liên kết chặt chẽ bên trong DFE, đó là mối liên kết giữa năng lực của tổ chức ở Đan
Mạch và năng lực sử dụng nó trong cơng việc phát triển.
5
Quản lý tài chính phù hợp với yêu cầu và hệ thống kiểm tra kế toán, kiểm soát và kế hoạch ngân
sách, báo cáo và kiểm tốn.
DFE có nền tảng nổi tiếng thông qua các chủ đề phù hợp giữa công việc của Skovdyrkerne ở Đan
Mạch và công việc của DFE ở nước ngoài, nhấn mạnh tầm quan trọng của DFE như là một tổ chức
xã hội dân sự phù hợp với chiến lược xã hội dân sự (Phụ lục H).
1.2 Xây dựng Ý tưởng Chương trình
Chương trình xây dựng dựa trên kinh nghiệm trên hai thập kỷ về phát triển quốc tế và nhiều năm về hợp tác
với các đối tác đã đề xuất được tạo nên thông qua việc thực hiện các dự án riêng lẻ. Những dự án cung cấp
nền tảng củng cố công việc và tiếp tục dưới sự tham gia vào khung chiến lược chương trình sẽ cho phép các
đối tác theo đuổi cùng một mục tiêu một cách thuận lợi hơn.
Bài học chính trong những năm qua là về việc tổ chức các cá nhân thành viên cộng đồng thành các nhóm và
hiệp hội có một cơ cấu quản trị dân chủ, đây là cách chủ đạo để cải thiện điều kiện kinh tế, xã hội người dân
nông thôn. Công việc thách thức hơn và cũng là thành công nhất là phát triển các nhóm thành các hiệp hội
thực có ban quản trị và có cơ cấu dân chủ, có trách nhiệm với các thành viên và có sự bền vững về kinh tế.
Bài học khác là có sự khác biệt về bối cảnh cũng những thành quả đạt tùy vào sự độc lập kinh tế và thể chế.
Những can thiệp ở cấp cộng đồng trong việc xây dựng các hiệp hội có thể áp dụng trong vận động chính sách
hướng tới chính phủ cũng sẽ hỗ trợ chúng ta xây dựng mối quan hệ tích cực với các cơ quan chức năng và có
thể tác động thể chế và chính sách của nhà nước. Ví dụ về cơng việc của chúng tơi về quyền đất đai tại
Mozambique là vận động chính sách đối với nhà chức trách trong việc giải trình thực thi luật và đảm bảo
cộng đồng hưởng lợi từ đầu tư trong công nghệ khai thác trong khu vực dự án. Chúng tơi cũng học được
cách nhìn ra bối cảnh chính trị của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với mục tiêu thành lâp tổ chức
xã hội dân sự độc lập.
Trong lĩnh vực đào tạo quản lý tài nguyên thiên nhiên, chúng tôi rút ra bài học về nhân rộng mơ hình giáo
dục mơi trường tương tác thơng qua làm việc trực tiếp với Bộ môi trường, việc này đã chứng minh là một
chiến lược rất tốt để thể chế hóa, phương pháp đã thành cơng thơng qua các lớp đào tạo giảng viên chính quy
ở khắp Nepla và nâng cao chất lượng đào tạo cho học sinh. Dưới góc độ làm việc với trẻ em, những người
ln cởi mởi tiếp thu cái mới cũng đã chứng minh được sự thành công trong việc ảnh hưởng đến thái độ của
cha mẹ chúng và những người lớn trong cộng đồng, thơng qua mơ hình giáo dục trẻ em tới gia đình, tới cộng
đồng về tài nguyên thiên nhiên và môi trường.
6
Phụ lục khơng tóm tắt những thành tựu chính với các đối tác và phụ lục 1 -4 cung cấp những số liệu chi tiết
hơn về kết quả bao gồm thông tin chi tiết về số lượng. Những kết quả đó cung cấp nền tảng cho việc đạt
được mục tiêu của chương trình với qui mơ lớn hơn trong sự hợp lực của các đối tác trong tương lai. Chúng
ta cũng tăng cường hợp tác với các đối tác và có mối quan hệ cơng việc bền chặt và tin cậy với từng đối tác.
Những phương pháp trước kia sẽ được xây dựng và điều chỉnh cụ thể để đạt được mục tiêu của chương trình
về chia sẻ kiến thức và bài học kinh nghiệm giữa các đối tác, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng hiệp hội và
giáo dục mơi trường. Dưới đây là Tóm tắt về sự hợp tác và công việc với thông tin chi tiết hơn về sự hợp tác
ghi trong phụ lục 7
Đối tác
Bảo tồn động
thực vật hoang
dã Nepal
(Nepal)
Giai đoạn
2008 – nay
Những ví dụ quan trọng nhất về kết quả đạt được
Nhân rộng mơ hình giáo dục môi trường tương tác thông qua làm việc
trực tiếp với Bộ tài nguyên để thể chế hóa chương trình đào tạo chính
thức, nhờ thế mơ hình có thể vươn tới các giáo viên ở Nepal và nâng
cao chất lượng đào tạo cho học sinh. Tổng số gần 35.000 trường học.
Một phần trong chiến lược giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí
hậu, 5 nhóm sử dụng rừng của cộng đồng thông qua thiết lập sự hợp
tác của phụ nữ với các thương gia địa phương để sản xuất dầu ăn hữu
cơ cho thị trường quốc tế.
Các cộng đồng quản lý 5 vườn ươm cung cấp cây giống để bảo tồn
rừng tự nhiên (bắt đầu từ năm 2013)
Samaj
UttahYuwan
Kendra /Trung
tõm k nng
sng (LSC)
Associaỗóo do
meio ambiente
(Ama)
2005 nay
2006 nay
LSC vận động chính sách cao cấp tại cấp huyện và cấp quốc gia để
quản lý tốt hơn lưu vực nước, kết quả là đã thành lập được hội đồng
bao gồm đại diện các cơ quan ngành dọc cấp huyện và cấp trung ương.
Trung tâm được xây dựng từ các nhóm địa phương tham gia vào các
hoạt động tạo thu nhập bền vững với mơi trường.
Thành lập nhóm hợp tác quản lý rừng (một trong số vài nhóm ở
Nepal).
Xây dựng hai bộ giáo trình địa phương về đào tạo mơi trường cho hai
huyện. Xây dựng phương pháp tương tác trong giảng dạy về tài nguyên
thiên nhiên đạt tới con số 6.724 học sinh. (Bắt đầu từ năm 2012).
Ama là một NGO đầu tiên của tỉnh Cabo Delgado có chứng nhận
quyền về đất đai cho cộng đồng địa phương. Về tổng thể, 31 ủy ban
quản lý tài nguyên thiên nhiên (một hiệp hội chủ quản cấp huyện) và
14 nhóm sử dụng rừng đã hoạt động (một hiệp hội chủ quản cấp
huyện) – điều này mang đến cuộc sống tốt hơn cho các nhóm, quản lý
tài nguyên thiên nhiên tốt hơn, cũng như nhận thức đầy đủ hơn về
quyền đất đai, hoạt động khai thác rừng và khai khống.
Hội nơng dân
tỉnh Hịa Bình
và Hà Tĩnh
2010– nay
Mục đích chương trình là đưa ra bằng chứng trên thực tế và có thể
trình bày trên diễn đàn quốc gia để nâng cao nhận thức về sự khác
nhau giữa qui định của luật pháp và sự thực hiện diễn ra trên thực tế.
Thành lập hai hợp tác xã bao gồm 120 nhóm nơng dân hoạt động trong
lĩnh vực lâm nghiệp trang trại nhằm tăng thu nhập. Mục tiêu là để họ
trở thành những hiệp hội độc lập về chính trị và xã hội.
Giáo trình về lâm nghiệp trang trại được xây dựng sẽ được giảng dạy
tại 5 trường cao đẳng và trung cấp.
7
Những đối tác của chúng tôi thông qua làm việc cùng nhau đã có được nhiều năng lực và kỹ năng khác nhau
để thực hiện các dự án liên quan đến quản lý rừng và tài nguyên thiên nhiên, hỗ trợ xây dựng các hiệp hội và
giáo dục môi trường. Họ có nhiều năm kinh nghiệm làm việc trực tiếp với các nhóm mục tiêu, chính quyền
và các đối tác khác. Điều này phản ánh trong biên bản ghi nhớ đã ký với các các tổ chức chính quyền và các
bộ. Ví dụ về LSC tại Nepal là tâm điểm cho sự phối hợp hoạt động quản lý lưu vực nước trong vùng Terai
của các tổ chức xã hội dân sự và cơ quan chức năng của nhà nước. Tổ chức bảo tồn động thực vật hoang dã
Nepal xây dựng chương trình đào tạo về mơi trường phối hợp với Bộ giáo dục và đào tạo, giáo trình sẽ được
giảng dạy ở trung tâm đào tạo quốc gia cho giáo viên.
Những đối tác đã được hỗ trợ thành lập hiệp hội sử dụng rừng và tài nguyên thiên nhiên dưới nhiều hình thức
khác nhau và những việc này có thể lồng ghép vào tài liệu chương trình trong mơt phương pháp logic hơn
cho thành lập hiệp hội để quản lý tài nguyên thiên nhiên có trách nhiệm, tạo thu nhập, và vận động chính
sách hướng tới những người có trách nhiệm ở cấp quốc gia và cấp địa phương về tiếp cận công bằng với tài
nguyên thiên nhiên. Trọng tâm của chương trình được xây dựng trên kinh nghiệm và kết quả lan tỏa và sự
bền vững về thể chế, kinh tế của các hiệp hội hiện tại. Tại Nepal, kinh nghiệm kết nối nhóm sử dụng rừng
cộng đồng với các thương gia địa phương về sản xuất dầu ăn có thể sử dụng để nhân rộng ý tưởng này tới
những nhóm khác. Kinh nghiệm đạt được trong thành lập các nhóm hợp tác quản lý rừng có thể sử dụng để
vận động chính quyền hỗ trợ thành lập những nhóm như vậy trong tương lai. Ở Việt Nam, chúng tôi thành
lập các hiệp hội trồng rừng mang lại lợi ích cho hơn 3.000 hộ nơng dân và có thể nhân rộng khi cấu trúc thể
chế đủ mạnh và sự liên kết với thị trường được thiết lập. Tại Mozambique, các nhóm quả lý rừng và tài
nguyên thiên nhiên đã ứng phó với bối cảnh thay đổi nơi mà các nhà đầu tư nước ngồi có quyền sử dụng đất
và ngành cơng nghiệp khai thác có tên trên bản đồ, thực hiện vận động chính sách đối với những nhà chức
trách có liên quan, đồng thời điều quan trọng là hỗ trợ các nhóm trong hoạt động tạo thu nhập.
Lồng ghép hoạt động của Hiệp hội với đào tạo về quản lý tài nguyên thiên nhiên có trách nhiệm, là việc mà
chúng ta đã đạt được kết quả rất tốt đến nay. Công việc này đã được triển khai ở Nepal và đã cải thiện chất
lượng giáo dục về môi trường đối với các trường riêng rẽ (trong cùng các nhóm mục tiêu nơi mà chúng tơi
thành lập các hiệp hội) và thu được kết quả khi phối hợp với Bộ giáo dục trong việc thể chế hóa chương trình
đào tạo trở thành chương trình đào tạo chính thức cho giáo viên. Kinh nghiệm này đã được lan tả sang
Mozambique cho dự án thí điểm hỗ trợ 40 trường và cũng có kết quả trong sự hợp tác chặt chẽ với phòng
đào tạo của huyện trong việc xây dựng giáo trình cho địa phương về giáo dục mơi trường (cũng trong cùng
một khu vực nơi đối tác được hỗ trợ thành lập nhóm quản lý tài nguyên thiên nhiên và rừng). Tại Việt Nam,
đào tạo về quản lý tài nguyên có trách nhiệm được thực hiện ở các trường cao đẳng liên kết trực tiếp với các
nhóm lâm nghiệp chúng tơi đang hỗ trợ. Do vậy, giáo trình được giảng dạy dựa trên kinh nghiệm thực tiễn
có được khi làm việc với hộ trồng rừng quy mô nhỏ.
1.3 Hội thảo Cùng Chuẩn bị Chương trình
Ý tưởng của DFE là soạn đề xuất xin tài trợ cho Hội thảo chuẩn bị chương trình có sự tham gia của các bên
đã được phê duyệt vào tháng 9 năm 2014. Mỗi đối tác của DFE cử hai đại diện tham dự: Ama của
Mozambique, LSC cùng với thành viên hội đồng SUYUK của Nepal, WCN của Nepal, and Thêm Cây của
Việt Nam đã tới Đan Mạch nơi diễn ra Hội thảo từ 24 – 28 tháng 11 năm 2014 tại Trường lâm nghiệp
Fredensborg. Hội thảo là một phần quan trọng của tiến trình xin tài trợ nhằm đảm bảo tất cả các đối tác tham
gia vào quá trình thực hiện chương trình. Đây cũng là lần đầu tiên các đối tác có được cơ hội gặp mặt và trao
đổi với nhau. Trong hội thảo, chúng tôi đã bàn về những nội dung nền tảng của chương trình như sau:
1
Mục đích của chương trình và các chỉ số (Khung logic của chương trình)
Chiến lược vận động chính sách
Khung giám sát đánh giá và tài liệu hướng dẫn
Các thủ tục hành chính và tài chính thơng thường1
Báo cáo cụ thể về tiến trình và kết quả của hội thảo sẽ được gửi đến theo yêu cầu.
8
Trước khi hội thảo, mỗi đối tác phải chuẩn bị một số bài trình bày về các lĩnh vực liên quan mà chúng tôi đã
thảo luận trong hội thảo. Hội thảo bao gồm những phần thảo luận trực tiếp và tham gia chủ động của các đại
biểu. Ngoài những đối tác, DFE cũng đã mời một số nhân viên, thành viên hội đồng quản trị , và chuyên gia
hiệp hội có liên hệ chặt chẽ với các dự án. Vai trị của họ là tham gia tích cực vào những cuộc thảo luận với
đối tác. Mục tiêu là hỗ trợ hội thảo xây dựng chính sách, khung logic, và khung giám sát đánh giá chương
trình, DFE thuê hai chuyên gia, Hanne Tornager, chuyên gia truyền thông, và Ole Stage, chuyên gia giám sát
đánh giá. Hội thảo đã thành công với sự có mặt của tất cả các đối tác cùng làm việc với nhau, tham gia và
đóng góp bổ sung cho chương trình.
Kinh nghiệm và kết quả như sau:
Hội thảo rất hữu ích khi tập hợp tất cả các đối tác ở cùng một địa điểm. Đây là lần đầu tiên tất cả chúng
tơi có mặt cùng với nhau và những giá trị khi gặp mặt trực tiếp tại một địa điểm không thể so sánh với
trao đổi qua email và Skype. Những đối tác đã học hỏi nhau về công việc của họ, chia sẻ kinh nghiệm, và
thảo luận về nội dung chương trình với đối tác khác. Khi sử dụng thời gian cùng với nhau và xem xét
những công việc tương tự, họ đã thực sự hứng thú hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm trong tương lai.
Những đối tác được gợi ý những ý tưởng về phân bổ ngân sách trong chương trình và đóng lại những dự
án đang thực hiện để tham gia vào chương trình. Chúng tơi thống nhất sẽ tập trung vào thực hiện các dự
án hiện tại và rút ra dần, đồng thời giới thiệu thủ tục chương trình mới tới các đối tác.
Các đối tác đã cùng tham gia xây dựng mục tiêu chương trình và các chỉ số cũng như tích cực tham gia
xác định trọng tâm của vận động chính sách khi tham gia chương trình, bao gồm phương pháp và công
cụ mà họ sẽ sử dụng. Dựa trên những đóng góp của đối tác, chuyên gia giám sát đánh giá và chuyên gia
truyền thông đã phác thảo tài liệu giám sát đánh giá và chiến lược vận động chính sách, chúng đã được
hồn thiện và điều chỉnh thông qua thảo luận của các đối tác.
Sau khi đối tác trình bày cơng việc của mình tới những đối tác khác trong ngày đầu tiên, chúng tôi đã ghi
chép lại sứ mệnh, và tầm nhìn của các tổ chức. Mặc dù cách trình bày có khác nhau, tất cả các đối tác
đều có chung tầm nhìn và sứ mệnh tập trung vào góc độ dân chủ và quản lý tài nguyên thiên nhiên bền
vững cho một xã hội tốt đẹp.
9
Được cùng nhau thảo luận về mục tiêu của chương trình và những chỉ số và được hỗ tợ bởi các chuyên
gia là điều vô giá. Các đối tác muốn được đạt được mục tiêu cụ thể là tập trung nâng cao năng lực và tạo
sự phối hợp giữa chính họ với nhau thông qua trao đổi kinh nghiệm. Khi chúng tôi trao đổi về hai mục
tiêu khác – Hiệp hội cho quản lý tài nguyên thiên nhiên và Giáo dục môi trường, làm sao để thể hiện tốt
hơn sự hợp lực giữa hai mục tiêu 2, các đối tác đã đưa ra ý tưởng mở rộng mục tiêu giáo dục môi trường
về quản lý tài nguyên thiên nhiên. Tất cả ba đối tác đều hoạt động trong lĩnh vực đào tạo - Mozambique
và Nepal ở cấp thấp hơn và ở VIệt Nam ở cấp cao hơn. Ở Mozambique và Nepal, các đối tác làm việc
vói nhiều trường học trong cùng địa bàn, thiết lập các nhóm sử dụng rừng của cộng đồng hoặc làm việc
với những nhóm sử dụng rừng cộng đồng đang tồn tại (CFUGS), như trường hợp tại Nepal. Hơn nữa, Tổ
chức bảo tồn động thực vật hoang dã Nepal làm về lĩnh vực đào tạo môi trường đã có những hoạt động
vượt ra khỏi khu vực nơi chúng ta có hoạt động quản lý lưu vực nước của LSC. Do vậy, chúng ta làm
việc trong một phạm vi rộng lớn của cộng đồng, cùng với cả người lớn và trẻ em. Ở Việt Nam, chúng ta
làm việc với Trường cao đảng nông nghiệp, nơi đào tạo những thanh niên trẻ từ các nhóm cơng đồng
mục tiêu, do vậy họ có thể trở về làm cơng tác khuyến nông lâm và tập huấn trong lĩnh vực lâm nghiệp
trang trại. Bài tập động não và thảo luận về mục tiêu, tạo cơ hội cho đối tác làm việc với nhau, tạo tâm lý
làm chủ và hứng thú khi hợp tác với nhau trong tương lai.
Kết quả chung của hội thảo là sự cam kết một cách rõ ràng để làm việc cùng nhau trong chương trình thỏa
thuận và đệ trình lên CISU. Sự tương tác giữa các đối tác là rất tích cực, mong muốn hợp tác và và gặp gỡ
trong tương lai để trao đổi kinh nghiệm, ý tưởng, và bài học kinh nghiệm. Chúng tôi đã đạt được thỏa thuận
chung về mục tiêu và chỉ số của chương trình.
2. Bối cảnh khu vực, quốc gia và ngành
2.1 Bối cảnh khu vực
Hơn 75% người nghèo ở Nam Á, Đông Nam Á, và khu vực Saharan Châu Phi sống tại vùng nơng thơn. Khu
vực Nam Á có số người nghèo lớn nhất ở nông thôn, khu vực Saharan Châu Phi có tỉ lệ hộ nghèo cao nhất ở
nơng thôn. Hầu hết những người nghèo ở nông thông sống dựa vào nông nghiệp, đời sống hàng ngày và lâu
dài của họ phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên nhiên. Rừng đóng vai trị quan trọng trong cộng đồng nơng
thơn, cung cấp nhiên liệu, thức ăn gia súc, lương thực, vật liệu xây dựng và các sản phẩm khác cho đời sống
hàng ngày. Do vậy, đời sống cư dân nông thơn và nguồn tài ngun thiên nhiên có mối quan hệ chặt chẽ.
Suy thối mơi trường, sử dụng bất hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên là mối quan tâm chính và đe dọa đời
sống cộng đồng nơng thơn. Một bối cảnh phổ biến trong các khu vực đó là tình trạng phá rừng, tập quan
nơng nghiệp khơng phù hợp đã làm suy thối nhanh chóng nguồn tài ngun thiên nhiên mà cộng đồng đang
phụ thuộc vào. Ngày nay, 13 triệu ha rừng bị mất hàng năm. Sự gia tăng của đầu tư và kinh doanh quốc tế là
nhân tố mới làm gia tăng tính cạnh tranh trong sử dụng đất và các nguồn tài nguyên. Hơn nữa, áp lực của sự
gia tăng dân số và biến đổi khí hậu càng làm tồi tệ thêm tình hình.
2
Bevillingsudvalgsnotat: ”Synergien mellem EE og de to øvrige komponenter kan styrkes” (S.10). Xem thông tin chi tiết hơn ở Mục 5.4.
10
Phần đông dân nghèo nông thôn là trẻ em và thanh niên trẻ. Họ sẽ là những người trưởng thành và những
nhà quản lý tài nguyên thiên nhiên trong tương lai. Giới trẻ nông thôn thiếu nguồn tài nguyên và kỹ năng để
cạnh tranh, họ bị hạn chế về cơ hội đào tạo để cung cấp những kỹ năng thực tiễn và hữu ích nâng cao đời
sống. Quản lý tài nguyên thiên nhiên khi giảng dạy ở các trường học thường mang nặng tính lý thuyết và ít
có nỗ lực trong việc phối hợp thông tin về sử dụng bền vững nguồn tài ngn thiên nhiên trong giáo trình.
Do vậy, nhận thức về tầm quan trọng của quản lý tài ngun thiên nhiên và vấn đề mơi trường nói chung
tương đối thấp. Đầu tư vào trẻ em và giới trẻ, bắt đầu ảnh hưởng họ bằng giáo dục thực tiễn tập trung vào
mơi trường là góc độ chủ yếu nâng cao đời sống người nghèo ở nông thôn.
2.2 Tập trung theo vùng địa lý của chương trình
Sự tập trung theo vùng địa lý của chương trình là ở Mozambique, Nepal và Việt Nam, nơi mà chúng tôi đã
và đang thực hiện dự án tương ứng từ năm 2004, 1995, và 2000. Dưới đây là những khu vực tập trung địa lý
của chương trình.
Mozambique
Ở Mozambique, ama và DFE đang hoạt động tại một tỉnh phía Bắc của đất nước, Cabo Delgado. Trong khi
nhiều công việc sẽ tiếp tục được tiến hành tại các khu vực nông thôn với dân số phụ thuộc tài nguyên nông
thôn, đặc biệt là ở các huyện Ancuabe và Montepuez, các hoạt động sẽ ngày càng nhiều ở trung tâm của tỉnh,
Pemba, như hội đồng quản trị thành viên của đối tác sẽ tham gia nhiều hơn vào các hoạt động tuyên truyền
vận động, giải quyết các vấn đề tại các tổ chức chính quyền tỉnh và các văn phòng khu vực tư nhân.
Mozambique nằm ở khu vực Đông Nam châu Phi. Đây là một trong những nước lớn nhất ở Nam Phi với
diện tích 799,380km2 (tương đương 18 lần diện tích của Đan Mạch). Mozambique được chia thành 11 tỉnh,
bao gồm 128 huyện.
Dân số ước tính khoảng 24.692.144 trong đó có 70% dân số sống ở nông thôn. Đất nước này được phân loại
là một quốc gia kém phá triển (LDC) do phải đối mặt với những thách thức về phát triển kinh tế và nhân lực.
Hơn một nửa dân số sống dưới mức nghèo khổ.
Năng lực thể chế rất hạn chế và nạn tham nhũng vẫn tiếp diễn là một trong những thách thức chính cản trở sự
tăng trưởng bền vững và công bằng. Trong năm 2013, Mozambique xếp hạng 178 trong số 187 quốc gia về
chỉ số phát triển con người (HDI).
Khoảng 70% dân số Mozambique sống ở khu vực nông thôn, phụ thuộc vào nơng nghiệp và rừng để sinh
tồn.
Bởi vì nơng nghiệp là hoạt động sinh kế chính, do vậy tiếp cận với đất đai là điều rất quan trọng với người dân.
Ngồi ra, việc sản xuất các sản phẩm có thể bán được từ tài nguyên rừng, chẳng hạn như than, thường là một
trong những nguồn thu nhập quan trọng nhất đối với người dân nghèo sống ở nông thôn. Kể từ khi kết thúc chiến
tranh dân sự năm 1992, các hoạt động lâm nghiệp đã tăng lên đáng kể. Hoạt động khai thác gỗ hiện nay để cung
cấp cho thị trường gỗ Trung Quốc là mối đe dọa lớn đối với quản lý rừng bền vững và các cộng đồng sống phụ
thuộc vào rừng.
Ngoài ra, những khám phá gần đây của xăng, dầu, than đá, đá quý, than chì, và các khống sản khác đã thu hút
đầu tư nước ngồi đến Mozambique. Do đó, các ngành cơng nghiệp như khai thác mỏ, dầu khí, khai thác gỗ,
nơng nghiệp và du lịch đang ngày càng quan tâm đến việc tiếp cận tài sản kinh tế quan trọng nhất của các
cộng đồng nông thôn "đất đai” – nơi mà họ sử dụng cho hoạt động nông nghiệp theo phương thức tự cung tự
cấp, để phụ vụ hoạt động khai thác nhiên liệu (gỗ, than), và vật liệu xây dựng. Chủ yếu nhờ vào các ngành
cơng nghiệp khai khống (IN), nên nước này có tỷ lệ tăng trưởng kinh tế trung bình hàng năm khoảng 7%
trong giai đoạn 2004-2013. Tuy nhiên, động lực tăng trưởng chính là đầu tư trực tiếp nước ngồi trong EI.
Sự tăng trưởng nguồn vốn lớn này không được tạo ra nhiều việc làm và nhìn chung có tác động hạn chế về
giảm nghèo.
11
Cabo Delgado
Tỉnh Cabo Delgado có diện tích 82.625 km2, khoảng hai lần diện tích Đan Mạch. Tỉnh này nằm ở phía đơng
bắc của Mozambique, với 425 km bờ biển chạy dọc theo Ấn Độ Dương. Mức độ nghèo đói cao hơn mức
trung bình cả nước (63% so với 54%) và năng lực thể chế chính quyền rất yếu kém.
Cabo Delgado có dân số khoảng 1,6 triệu người và được chia thành 16 huyện và bốn thành phố. Nền kinh tế
của tỉnh từ trước đến nay dựa vào nông nghiệp, chủ yếu là nông nghiệp tự cung tự cấp, cũng như đánh bắt
thủy sản. Nông nghiệp đến nay vẫn là yếu tố chính đóng góp vào GDP của tỉnh. Lâm nghiệp thương mại và
du lịch là những lĩnh vực khác đang được mở rộng. Là nước lớn thứ 6 trong xuất khẩu gỗ với 90% xuất sang
Trung Quốc. Nhu cầu đối với gỗ của Trung Quốc là rất cao dẫn đến các khu rừng quản lý không được bền
vững. Mặc dù có lệnh cấm xuất khẩu đối với gỗ trịn có giá trị cao, hoạt động bất hợp pháp được cho là rất
lớn và cản trở việc tạo gia giá trị gia tăng cho quốc gia. Chương trình sẽ tập trung vào hai huyện trong Cabo
Delgado: Ancuabe và Montepuez.
Ancuabe
Huyện Ancuabe có diện tích 4.836 km2 với dân số năm 2005 là 109.792 người. Nơng nghiệp là nguồn sống
chính của hầu như tồn bộ dân số. Có một vài hoạt đơng nơng nghiệp thương mại và bông là một trong
những loại cây trồng đã tạo ra thu nhập. Người dân vào rừng lấy củi để đáp ứng nhu cầu năng lượng tại chỗ.
Người dân tham gia vào sản xuất than để bán, đây là hoạt động cung cấp nguồn sinh kế thay thế cần thiết
nhưng đồng thời gây áp lực ngày càng tăng đối với tài nguyên rừng. Huyện cũng là nơi có nhiều cơng ty khai
thác gỗ và than chì.
Montepuez
Huyện Montepuez có diện tích 15.871 km² với 185.635 người. Một bức tranh tương tự Ancuabe, nơng
nghiệp là nguồn sống chính của hầu hết mọi người. Các cây lương thực chính là ngô, đậu, lạc, gạo, kê, lúa
miến, đậu đũa và khoai mì. An ninh lương thực được hỗ trợ bởi chăn nuôi, săn bắn động vật hoang dã (hươu
và lợn rừng), và thu hoạch trái cây. Tài nguyên rừng được khai thác với mục đích thương mại kết hợp với lấy
củi để đáp ứng sử dụng năng lượng trong gia đình. Ngồi ra tỉnh cịn có trữ lượng lớn đá cẩm thạch mà đến
thời gian gần đây đã được khai thác cho mục đích thương mại. Ngồi ra, Montepuez cho rằng là nơi có trữ
lượng đá hồng ngọc lớn nhất thế giới.
Nepal
Tại Nepal, DFE và đối tác của mình, WCN đã tiến hành các hoạt động tại hơn 50 huyện, với trọng tâm là ở
thung lũng Kathmandu, huyện Rasuwa và Chitwan. DFE và đối tác khác ở Nepal, Samaj Utthan Yuva
Kendra (SUYUK), thuộc Trung tâm kỹ năng sống (LSC), làm việc tại huyện Dhanusha ở vùng đồng bằng
phía nam của Nepal dọc theo lưu vực của sông Jalaidh.
Nepal nằm ở Nam Á, dân số ước tính là 30.986.975 với diện tích 141.181 km² (khoảng gấp ba lần diện tích
Đan Mạch). Về mặt hành chính, Nepal được chia thành 5 khu vực phát triển, 75 huyện và 3915 Uỷ ban phát
triển thôn, đó là những đơn vị nhỏ nhất của chính quyền địa phương.
Nepal tự hào là một quốc gia đa dạng sắc tộc với các bộ lạc và một di sản văn hóa phức tạp, nơi mà hệ thống
giai cấp chiếm phổ biến. Thật không may, một tỷ lệ lớn dân số bị phân biệt đối xử bỏ ra ngoài xã hội, chính
trị và kinh tế. Một số các nhóm bị ảnh hưởng nhất là các Dalits (tiện dân), phụ nữ và trẻ em gái. Đất nước bị
tham nhũng và bất ổn chính trị. Kể từ sự tan rã của chế độ quân chủ trong năm 2008, cả nước đã được điều
chỉnh bởi các chính phủ tạm quyền khác nhau đã không thể quản lý để lập lên hiến pháp dân chủ mới cho đất
nước.
12
Nepal được xếp thứ 145, theo UNDP, năm 2013 về HDI, là nước có chỉ số phát triển con người thấp. 84%
người dân sống ở khu vực nông thôn, nông nghiệp là trụ cột chính của nền kinh tế, cung cấp hơn lương thực
cho 70% dân số và chiếm 39% GDP. Người nghèo ở nông thôn chiếm khoảng 35%. Rừng đặc biệt quan
trọng đối với các cộng đồng nông thôn, chúng là nguồn chính cung cấp gỗ nhiên liệu cho nhu cầu năng
lượng gia dụng và vật liệu xây dựng. Rừng cũng cung cấp thức ăn cho động vật và lâm sản ngoài gỗ, như
một phương thức sinh kế thay thế.
Nepal-wide outreach
Với địa hình đa dạng của Nepal, chiến lược dự án đào tạo môi trường của chúng tôi trước kia đã được sử
dụng một chiếc xe buýt di động để tới được cả ba khu vực địa lý của Nepal. Khu vực đầu tiên, Terai, đồng
bằng màu mỡ ở phía nam, đơng dân cư, là mơi trường sống của các loài động vật hoang dã nguy cấp như tê
giác và hổ. Vùng sườn đồi, đó là là nơi các thảm họa môi trường ngày càng gia tăng do phá rừng và thâm
canh. Vùng thứ ba là vùng núi ở phía bắc, địa hình hiểm trở và các điều kiện mơi trường khó khăn. Một chủ
đề cốt lõi là hành vi, thái độ của người dân sống trong các khu đồi có ảnh hưởng rất lớn đến mơi trường hạ
du. Với cách làm của chúng tôi, thông qua các hoạt động tiếp cận cộng đồng tại hơn 50 huyện của Nepal,
chúng tơi có được kinh nghiệm đối với điều kiện môi trường địa phương ở cả ba vùng địa lý. Tuy nhiên,
chúng tôi đã tập trung sâu hơn vào thung lũng Kathmandu, ở vùng sườn đồi, Rasuwa, ở vùng núi, và
Chitwan, trong vùng Terai.
Kathmandu Valley
Thung lũng Kathmandu bao gồm ba huyện, Kathmandu, Lalitpur, và Bhaktapur, với tổng diện tích 899 km².
Dân số của khu vực đô thị là khoảng 2,5 triệu người. Mặc dù nhân khẩu học rất đa dạng và có tính quốc tế,
người dân bản địa của thung lũng, các Newars, chiếm phần lớn dân số. Thung lũng là địa bàn kinh tế chính
của Nepal vì nó là trung tâm hành chính, cơng nghiệp và du lịch, thu hút người di cư từ các vùng nông thôn,
nơi nghèo đói đói và ít có lựa chọn cho sinh kế. Thung lũng phải đối mặt với áp lực rất lớn từ qúa trình đơ thị
hóa nhanh chóng và khơng có kế hoạch. Nơi đây từng có những nguồn tài nguyên rừng phong phú, nhưng
hiện nay môi trường sống tự nhiên đang mất đi đáng kể. Ngày nay, chỉ có khoảng 427 km² rừng vẫn tập
trung ở các ngọn đồi xung quanh trong khi thung lũng ngày càng trở nên đông đúc hơn và phải đối mặt với
những thách thức lớn về quản lý đất và tài nguyên thiên nhiên bền vững. Gạo, lúa mì, ngơ, rau, cũng như trái
cây bao gồm chuối và cam được trồng ở thung lũng màu mỡ này, hỗ trợ đời sống của người dân sống trên
các khu đồi. Tuy nhiên, một diện tích đáng kể đất trồng trọt ở thung lũng đang bị đe dọa bởi q trình đơ thị
hóa khơng theo kế hoạch và các phương pháp canh tác nông nghiệp không bền vững.
Rasuwa
Rasuwa là một huyện có dân cư thưa thớt bao gồm cả những ngọn đồi có độ cao trung bình và khu vực miền
núi của miền Trung Nepal. Huyện có diện tích 1.544 km2 với dân số 43,300 người. Tại khu vực miền núi
phía Bắc, chủ yếu dân cư là thuộc các nhóm dân tộc Tamang trong khi các vùng đất thấp phía Nam bao gồm
nhiều dân tộc khác nhau. 65% diện tích của huyện được qui hoạch thành cơng viên quốc gia Langtang là một
điểm thu hút du lịch lớn, có ảnh hưởng đến rất nhiều cơ hội kinh tế và sử dụng đất. Trong khi chỉ có khoảng
6% diện tích đất canh tác hơn với 90% dân số tham gia vào nơng nghiệp, trong đó có tới 60% khơng thể đáp
ứng nhu cầu lương thực của gia đình họ. Cơ hội việc làm trong lĩnh vực phi nông nghiệp rất hạn chế. Phần
lớn dân số bị hạn chế về kinh tế và xã hội và không đáp ứng được nhu cầu cơ bản.
13
Chitwan
Chitwan có diện tích 2.218 km2, nằm trong khu vực Tarai ở phía nam miền trung Nepal. Dân số năm 2011 là
579.984 người. Chitwan từng là một huyện có mật độ rừng rất cao và nơi sinh sống của một nhóm người bản
địa, người Tharus, họ sống trong rừng, gần sông và canh tác nương rẫy. Loại trừ được bệnh sốt rét đã mang
lại những thay đổi lớn trong việc sử dụng đất ở Chitwan. Một diện tích rừng rộng lớn đã bị phá bỏ để mở
rộng nông nghiệp, mở ra khu vực để giải quyết nhu cầu cho những người ở vùng sườn đồi ở Nepal. Ngày
nay, hầu hết đất đai ở Chitwan là nông nghiệp, lúa là cây trồng quan trọng nhất. Ngồi ra cịn có ngơ, lúa mì,
rau cải xanh. Vườn quốc gia Chitwan được thành lập với nỗ lực để bảo tồn các loài động vật hoang dã, đặc
biệt là tê giác và hổ. Đó là một điểm thu hút khách du lịch rất lớn. Những người dân sống trong vùng đệm đã
xung đột với các loài động vật hoang dã do chúng phá hoại mùa màng của họ và giết chết gia súc của người
dân. Một vấn đề khác đó là họ bị đã hạn chế quyền tiếp cận tài nguyên rừng do công tác bảo tồn của vườn
quốc gia. Tồn tại một khoảng cách lớn giữa nhu cầu của nhân dân đối với tài nguyên rừng và quyền tiếp cận
tài nguyên của họ. Nghèo đói, thất nghiệp và tài nguyên thiên nhiên suy giảm là những vấn đề lớn ở
Chitwan.
Dhanusha
Huyện Dhanusha nằm ở phía nam miền trung Nepal vùng đất nông nghiệp với cư dân đơng đúc ở Terai.
Tồn huyện có dân số 654.777 người với diện tích 1180 km². Vơi 50% dân số đang tham gia vào lĩnh vực
nông nghiệp, lâm nghiệp. Các ngành chính trong nơng nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp đóng góp hơn 35%
tổng GDP huyện. Tuy nhiên, nền kinh tế nơng thơn trong khu vực cịn yếu và khơng tạo ra sinh kế bền vững
cho người dân. Việc di cư theo mùa vụ đến Ấn Độ và các quốc gia khác ở vùng Vịnh và Nam Á diễn ra
thường xuyên. Trong nền kinh tế nghèo nàn là đặc trưng của lưu vực Jalaidh, có sự bất bình đẳng đáng kể về
thu nhập, tiếp cận với các nguồn tài nguyên, và giáo dục. Tỷ lệ biết chữ là 59% ở nam và 36% ở nữ, dưới
mức trung bình của quốc gia. Thiệt thịi nhất là Dalits, những người khơng có đất, bị xã hội loại bỏ và làm
việc với một mức lương rất thấp. Dhanusha là nơi phức hợp về dân tộc và văn hóa, nơi mà hệ thống phân cấp
đã chính thức bị bãi bỏ nhưng vẫn phát triển mạnh ở đây.
Việt Nam
Tại Việt Nam, vùng tập trung cuả chúng tơi là cộng đồng vùng cao các tỉnh phía bắc Việt Nam. Hịa Bình và
Hà Tĩnh là những tỉnh vũng xa với tỉ lệ cao người nghèo là người dân tộc thiểu số. DFE cũng hợp tác với
Trường Cao đẳng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Bắc Bộ (NVCARD), nằm ở Thị trấn Xuân Mai, vùng
ven Hà Nội.
Nước cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nằm ở Đơng nam á. Diện tích 331,210 km² (gấp khoảng 7 lần
Denmark), từ Bắc tới nam dài 1650 km và dân số là 93,421,835 người. Một trong những nước có nhiều đồi
núi của Đơng Nam Á và gần ¾ diện tích quốc gia là đồi núi, cao nguyên hoặc núi cao. Quốc gia được chia
thành 58 tỉnh và 5 thành phố lớn.
Mặc dù Việt Nam được xếp thứ 121 về chỉ số phát triển con ngừời (HDI), nó vấn tiếp tục phát triển trong
vòng 25 năm qua. Cải cách kinh tế, xã hội và chính trị đã chuyển đổi đất nước từ một nước nghèo nhất trên
thế giới trở thành nước có thu nhập trung bình thấp. Từ tỷ lệ nghèo đói trên 60% những năm 90, ngày nay
giảm xuống còn dưới 10% mặc dù vẫn không đồng đều. Giữa những năm 1990 và 2008, tỉ lệ tăng trưởng
trung bình hàng năm là 7,4%. Ngành nơng nghiệp ước tính khoảng 19% GDP.
Tại Việt Nam, 90% người nghèo hay 70% dân số sống ở nông thôn. Phần lớn người dân tộc thiểu số sống ở
miền núi phía bắc là phần nghèo nhất của đất nước, họ sống phụ thuộc vào rừng và nông nghiệp. Sự gia tăng
dân số nhanh chóng, khai thác vượt quá khả năng giới hạn qcủa hệ thống nông lâm nghiệp truyền thống dẫn
tới hậu quả là tình trạng suy thối mơi trường diễn ra tràn lan. Áp lực lên tài nguyên đất cũng gia tăng vì sự
cạnh tranh lợi ích trong sử dụng đất chẳng hạn như khai thác thương mại, khai khoáng và xây dựng. Báo cáo
về mất rừng, suy thối rừng và năng suất nơng nghiệp thấp đã ngày càng trở nên phổ biến và nhiều hộ nơng
dân đối mặt với thiếu lương thực, đói nghèo, và hạn chế về kinh tế xã hội và suy thoái môi trường.
14
Tỉnh Hịa Bình
Hịa Bình nằm ở vùng Tây Bắc của Việt Nam với diện tích 4,662 km² và dân số ước tính khoảng 800,000
người. Phần đơng dân số là người dân tộc thiểu số, bao gồm Mường, Kinh chiếm trên 70% dân số. Người
dân sống ở vùng núi phía Bắc tỉnh Hịa Bình vẫn cịn là một vùng rất nghèo của Việt Nam với điều kiện sống
rất thấp thậm chí theo tiêu chuẩn của Việt Nam. GDP bình quân đầu người ước khoảng $200, thấp hơn rất
nhiều so với GDP quốc gia $1,911. Cộng đồng miền núi sống dựa vào nơng nghiệp và rừng. Mặc dù Việt
Nam có nhiều tiến bộ trong phát triển, nơng dân của Hịa Bình đối mặt với tình trạng suy thối mơi trường,
đói, nghèo, và hạn chế về xã hội.
Tỉnh Hà Tĩnh
Tương tự như Hòa Bình, Hà Tĩnh là một trong những tỉnh nghèo của Việt Nam. Nằm ở phía bắc trung bộ với
dân số 1,286,700 và diện tích 6,056 km². Thành phần dân số chính là người Kinh, có tới 89% dân số sống ở
nơng thơn cao hơn mức trung bình quốc gia là 74%. Đất canh tác và đất rừng lần lượt chiếm 43% và 56%.
Nông lâm kết hợp là một hoạt động sinh kế chính, chiếm tới 15% trong giai đoạn 2001 – 2006. Rừng trồng
diện tích ngày càng tăng. GDP bình quân đầu người khoảng $420 và nông lâm, thủy sản chiếm 36% GDP.
Cộng đồng nông thôn ở Hà Tĩnh do vậy phụ thuộc lớn vào điều kiện khí hậu và môi trường cho đời sống của
họ.
2.3 Bối cảnh ngành – Nguồn tài nguyên thiên nhiên
Mozambique
Theo Hiến pháp năm 1990, tất cả đất đai và tài nguyên rừng thuộc về nhà nước và chỉ có nhà nước cung cấp
các quyền hợp pháp để sử dụng và hưởng lợi từ đất đai và tài nguyên thiên nhiên. Luật Đất đai 1997 và các
quy định bổ sung và sửa đổi là khung cơ bản để quản trị quyền về đất đai. Luật đất đai được thiết kế để bảo
vệ các cộng đồng nông thôn bằng cách cho họ quyền sử dụng đất theo phong tục, để thúc đẩy một hệ thống
phân bổ đất đai minh bạch, và để tạo ra môi trường thuận lợi cho đầu tư vào các khu vực nông thôn và kích
thích phát triển cộng đồng với lợi ích chung cho tất cả các bên liên quan. Luật yêu cầu tham vấn cộng đồng
diễn ra khi các nhà đầu tư quan tâm trong việc tiếp cận đất đai của cộng đồng. Về lý thuyết, tham vấn cộng
đồng được xem như một cơng cụ thơng qua đó các cộng đồng địa phương có thể thương lượng các lợi ích dự
án của họ, bao gồm cả các cơ hội việc làm và lợi ích xã hội khác. Cơng cụ pháp lý để quản trị tài nguyên
rừng là Luật Lâm nghiệp và động vật hoang dã (1999). Nó cơng nhận quyền theo phong tục để tài nguyên
rừng phục vụ cho mục đích tự cung tự cấp. Ngồi ra, nó giới thiệu việc chuyển giao rừng như là một hệ
thống quản lý rừng bền vững. Trong cách đền bù cho cộng đồng về thiệt hại của họ đối với việc tiếp cận đất
đai rừng, luật dự kiến cộng đồng được bù đắp bằng ‘20% doanh thu' cho sự mất mát của họ từ các đơn vị,
cơng ty, ví dụ, các cơng ty khai thác gỗ. Ý tưởng hàm chứa đằng sau luật pháp là để đảm bảo rằng các thành
viên cộng đồng sẽ thu được lợi ích trực tiếp, hữu hình, và ngay lập tức từ việc khai thác các nguồn tài nguyên
rừng. Nhưng cũng đánh thức sự quan tâm và sự tham gia của cộng đồng trong việc bảo tồn các nguồn tài
nguyên gỗ và trong đấu tranh chống các hoạt động khai thác bất hợp pháp, thúc đẩy tổ chức cộng đồng, quản
lý có sự tham gia của tài nguyên rừng, và thể hiện triển vọng cho quan hệ đối tác và đàm phán với các nhà
khai thác rừng và các bên liên quan khác để giảm mức độ đói nghèo. Trong khi các luật được đánh giá tốt
trên giấy tờ, thì thách thức là việc thi hành và thực hiện pháp luật trên thực tế. Hệ quả là tham vấn cộng đồng
khơng được thực hiện đúng cách hoặc khơng làm gì cả, khai thác gỗ bất hợp pháp tràn lan, và khơng có bằng
chứng của việc thi hành việc bồi thường doanh thu 20%. Thực tế là các cộng đồng địa phương thường hạn
chế kiến thức về pháp lý liên quan đến tài nguyên thiên nhiên và đất đai, hoặc họ đang ở trong thế yếu để
thực thi các quyền hợp pháp của họ.
Thiếu minh bạch có thể hạn chế các cá nhân và cộng đồng buộc các quan chức chính phủ và các công ty chịu
trách nhiệm đầy đủ về hành động của họ. Các nhà đầu tư tư nhân cũng phải đối mặt với nguy cơ bị thu hồi
đất và bị cáo buộc sử dụng đất truyền thống của cộng đồng địa phương. Những hạn chế này là phản tác dụng
đối với các thỏa thuận có lợi giữa các nhà đầu tư tư nhân, cộng đồng và chính phủ. Hiện đang có một nhu
cầu rõ ràng về xây dựng năng lực địa phương liên quan đến quyền lợi hợp pháp đối với đất đai và quản lý tốt
15
tài nguyên rừng, tăng cường đối thoại, tạo sân chơi bình đẳng giữa các cộng đồng, chính phủ và các nhà đầu
tư tư nhân.
Nepal
Từ những năm bảy mươi, chính phủ Nepal đã hỗ trợ các mơ hình quản lý rừng tại cơng đồng và đề ra một số
luật và chính sách kèm theo. Luật Hành động Rừng năm 1993 là bộ luật quan trọng nhất, được áp dụng cho
các khu vực rừng quốc gia và các nhóm khai thác địa phương (CFUGs) nhằm bảo vệ, quản lý và khai thác
rừng. Sở Quản lý Rừng cấp Quận (DFO) phê duyệt kế hoạch vận hành CFUGs và khi đã đăng ký, họ được
quyền hoạt động như những tổ chức tự quản lý và họ có thể trồng, khai thác, và bán các sản phẩm từ rừng
như đã đề ra trong kế hoạch vận hành (OP). Hiện nay, khoảng 25% diện tích rừng của quốc gia đang được
quản lý bởi hơn 14,000 CFUGs. Mặc dù lâm nghiệp cộng đồng chủ yếu được coi là một câu chuyện thành
cơng, vẫn cịn tồn tại một số phê phán rằng CFUGs thường không cho phép những nhóm biệt lập và yếu kém
tham gia, hoặc cơ chế điều hành truyền thống vẫn chiếm ưu thế trong các nhóm.
Cho th rừng cũng là mơ ̣t phương án dự phòng dành cho những hô ̣ gia đıǹ h nghèo ở nông thôn có thể áp
du ̣ng đố i với chı́nh quyề n nhằ m ta ̣o cơ hô ̣i cho những vùng đấ t cằ n cỗi, nơi ho ̣ có thể nâng cao sinh kế và cải
thiê ̣n hê ̣ sinh thái. Tuy nhiên, vẫn chưa có mô ̣t cơ chế hơ ̣p pháp nào để thiế t lâ ̣p những nhóm cho thuê rừng
mà hiê ̣n ta ̣i vẫn chı̉ đang chú tro ̣ng vào CFGUs và các ban ngành. Viê ̣c nâng cao năng lực cho các thành viên
cho thuê rừng rấ t quan tro ̣ng vı̀ các nhóm nghèo nhấ t thường yế u kém về năng lực.
Năm 2000, bộ Bảo tồn Rừng và Đất đai Nepal (MoFSC) đã xây dựng mô ̣t chıń h sách cho mô ̣t mô hıǹ h khác
về Phố i hơ ̣p Quản lý Rừng (CFM), đây là mô ̣t bước tiế n mới về quản lý rừng quố c gia kế t hơp̣ với chıń h
quyề n và cô ̣ng đồ ng điạ phương, bao gồ m cả những người khai thác ở xa. Nó chủ yế u đươ ̣c thực hiê ̣n ở khu
vực Terai và ý tưởng là sẽ có mô ̣t cơ chế chia sẻ lơ ̣i nhuâ ̣n giữa chı́nh quyề n và những người khai thác rừng.
Tuy nhiên, cơ chế chia sẻ lơ ̣i nhuâ ̣n không phải lúc nào cũng rõ ràng, chı́nh quyề n cấ p huyê ̣n thường chi phố i
viê ̣c ra quyế t đinh,
̣ và tồ n ta ̣i mô ̣t thách thức về thiế t lâ ̣p mô ̣t cơ chế phù hơ ̣p cho người khai thác ở xa và cho
viê ̣c tham gia của những nhóm người chiụ thiê ̣t thòi.
Sở Bảo tồn Đất và Quản lý Đường Phân Nước Nepal (DSCWM) đã và đang giới thiê ̣u những Nhóm người
Khai thác Rừng dựa vào Quản lý Lưu vực nước nhằ m giảm thiể u sự thoái hóa đấ t xuấ t phát từ viê ̣c chă ̣t phá
rừng đồ i. Tuy nhiên, chưa có pháp chế nào để xác đinh
̣ những nhóm người sử du ̣ng lưu vực nước, và ho ̣ chủ
yế u chiụ trách nhiê ̣m như những tổ chức phi chı́nh phủ. Cũng chı́nh bởi viêc̣ quản lý lưu vực nước có liên
quan đế n tấ t cả các hoa ̣t đô ̣ng quản lý tài nguyên thiên nhiên, như lâm nghiê ̣p, nông nghiê ̣p, chăn thả gia súc
và chăn nuôi, nên viê ̣c phố i kế t hơ ̣p giữa các ban ngành khác nhau la ̣i là mô ̣t thách thức. LSC là mô ̣t cơ chế
đươ ̣c đưa vào nhằ m quản lý lưu vực nước Jalaidh ở Dhanusha thuô ̣c điạ bàn chương trı̀nh của chúng ta.
Đã có những khung chương trın
̣ về quản lý rừng và tài nguyên thiên nhiên theo cách phân quyề n và
̀ h cố đinh
dựa vào cô ̣ng đồ ng; tuy nhiên, vẫn còn rấ t nhiề u viê ̣c cầ n làm để điề u hành có trách nhiê ̣m, điề u phố i giữa
các ban ngành khác nhau, và nâng cao năng lực cô ̣ng đồ ng nhằ m tâ ̣n du ̣ng và quản lý trách nhiê ̣m các ng̀ n
tài ngun.
Việt Nam
Chính phủ Việt Nam coi rừng là một nguồn tài nguyên thiên nhiên quan trọng. Theo định nghĩa của Luật
Bảo vệ và Phát triển Rừng năm 1991, rừng được phân thành ba loại: rừng đặc dụng, rừng phịng hộ và rừng
sản xuất. Vai trị chính của rừng đặc dụng là bảo tồn thiên nhiên và bảo vệ di tích lịch sử và văn hóa. Rừng
phịng hộ có mục đích để bảo vệ nguồn nước, đất, chống xói mòn và giảm nhẹ thiên tai. Rừng sản xuất với
mục đích cung cấp gỗ, lâm sản ngồi gỗ, ngồi ra cịn bảo vệ mơi trường. Năm 2004, Việt Nam có 1,9 triệu
ha rừng đặc dụng, 5,9 triệu ha rừng phòng hộ và 4,4 triệu ha rừng sản xuất.
Mục tiêu chiến lược cho lâm nghiệp của Việt Nam theo các Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội 2011-2020
(SEDP), chiến lược Tăng trưởng Xanh Quốc gia 2011-20 và chiến lược Phát triển Lâm nghiệp Quốc gia
2006-2020 là tăng độ che phủ rừng từ 12,3 triệu ha trong 2005 lên 16,2 triệu ha bằng cách bảo vệ 9,6 triệu ha
rừng tự nhiên và tăng diện tích rừng sản xuất chủ yếu là trồng cây trên khu vực "đất trống" và khuyến khích
tổ chức, cá nhân đầu tư vào sản xuất lâm nghiệp.
16
Toàn bộ đất đai ở Việt Nam thuộc sở hữu của Nhà nước. Tuy nhiên, từ năm 1988 đất đã được giao cho các
hộ gia đình cá nhân sử dụng. Trong khi quyền sử dụng đất đối với đất nông nghiệp vùng đồng bằng được
thực hiện tương đối dễ dàng, thì việc sử dụng đất hoặc canh tác trên diện tích đất hiện tại hoặc trước đây có
rừng (thuộc địa bàn chương trình) lại là vấn đề tương đối phức tạp. Người dân vẫn còn hạn chế khi tiếp cận
kiến thức và thông tin về việc trồng và quản lý rừng, giá trị gỗ và thị trường. Vì vậy, trong khi quyền sử
dụng đất của cá nhân rõ ràng đã làm tăng sản lượng nông nghiệp và nâng cao thu nhập, ngành lâm nghiệp
Việt vẫn đang phải xây dựng những mơ hình khả thi để khuyến khích các hộ gia đình đầu tư vào lâm nghiệp
để bảo vệ đất và thêm thu nhập.
Gần đây (tháng 7 năm 2013), chính sách cải cách ngành lâm nghiệp có đưa ra mục đích tăng gấp đôi số
lượng các hộ lâm nghiệp trang trại vào năm 2020 so với năm 2011. Ngoài ra, cuộc cải cách này cũng hỗ trợ
phát triển hợp tác giữa các hộ làm lâm nghiệp trang trại và làm số lượng hợp tác xã lâm nghiệp tăng ít nhất
100%. Phương pháp hỗ trợ của chính phủ về quyền sử dụng đất nhằm khuyến khích phát triển lâm nghiệp
trang trại rất phù hợp với mục tiêu của chương trình tại Việt Nam.
2.4 Bố i cảnh Khu vực – Giáo du ̣c về NRM
Mozambique
Gầ n mô ̣t nửa dân số Mozambique là trẻ em dưới 14 tuổ i. Năm 2008, tı̉ lê ̣ tuyể n sinh là 81.3% và
Mozambique sẽ có tiề m năng đa ̣t đươ ̣c Mu ̣c tiêu Phát triể n Thiên Niên kı̉ số 2 (MDGs), đó là tới năm 2015,
100% trẻ em trong lứa tuổ i đi ho ̣c đươ ̣c cắ p sách đế n trường. Trong khi số trẻ em đươ ̣c đi ho ̣c đang tăng
trong vài thâ ̣p kı̉ gầ n đây, thı̀ công tác nâng cao chấ t lươ ̣ng giáo du ̣c la ̣i là thách thức lớn. Cùng với đó, viê ̣c
đào ta ̣o và củng cố kỹ năng liên quan đế n chuyên ngành cho sinh viên là ưu tiên hàng đầ u (UN Mozambique
2008).
Ta ̣i Mozambique, rấ t khó để thu thâ ̣p dữ liê ̣u về viê ̣c thực hiê ̣n và tiế n trı̀nh hành đô ̣ng quố c gia về giáo du ̣c
môi trường. Bộ Điề u phố i các Vấ n đề Môi trường Mozambique (MICOA) cùng với các bô ̣ ngành khác chiụ
trách nhiê ̣m nâng cao nhâ ̣n thức về các vấ n đề môi trường và đang đa ̣i diê ̣n cho đấ t nước trên ma ̣ng lưới khu
vực về giáo du ̣c môi trường dưới sự quản lý của Hô ̣i đồ ng Phát triể n Nam Phi (SADC). Bô ̣ này cũng chiụ
trách nhiê ̣m tổ chức lễ kı̉ niê ̣m Ngày Môi trường Quố c tế 5/6 hàng năm, và cũng là đơn vi ̣ tiên phong trong
các Câu la ̣c bô ̣ Môi trường (EC) đươ ̣c khắ p các tın̉ h thành biế t đế n.
Thêm vào đó, năm 2009, chı́nh phủ phát đô ̣ng chiế n dich
̣ toàn quố c mang tên “Vı̀ mô ̣t Mozambique Xanh,
Đe ̣p và Thinh
̣ vươ ̣ng” và “Mỗi Trẻ em Mô ̣t Cây”. Những hoa ̣t đô ̣ng ban đầ u như trồ ng cây ta ̣i khu vực rừng
của điạ phương và mỗ i ho ̣c sinh trồ ng ıt́ nhấ t mô ̣t cây ăn quả mỗ i năm. Những chương trıǹ h này đươ ̣c lâ ̣p ra
không đơn thuầ n là để ta ̣o thêm thêm nhiề u hoa quả, gỗ và vâ ̣t liê ̣u xây dựng cho đấ t nước, mà nhằ m mu ̣c
đıć h ta ̣o nên sự gắ n kế t giữa người dân với thiên nhiên và môi trường tự nhiên. Tuy nhiên, có mô ̣t chi tiế t
nhỏ trong những chiế n dich
̣ này. Văn phòng cấ p Huyê ̣n về Hoa ̣t đô ̣ng Môi trường ta ̣i Cabo Delgado biế t rõ
về những chiế n dich
̣ này nhưng có rấ t ıt́ đô ̣ng thái thực hiê ̣n nó.
17
Nepal
35% dân số Nepal là trẻ em dưới 14 tuổ i. Thực tra ̣ng tuyể n sinh ở Nepal đã đươ ̣c cải thiê ̣n trong vòng hai
thâ ̣p kı̉ trở la ̣i đây, đấ t nước có vẻ có tiề m năng đa ̣t đươ ̣c MDG số 2. Rấ t nhiề u hoa ̣t đô ̣ng đã đươ ̣c thực hiê ̣n
nhằ m đa ̣t tới bı̀nh đẳ ng giới. Tuy nhiên, vẫn còn rấ t nhiề u viê ̣c cầ n làm để nâng cao chấ t lươ ̣ng giáo du ̣c và
giới thiê ̣u những sáng kiế n mới giải quyế t vấ n na ̣n tu ̣t hâ ̣u và sao chép. Chı́nh phủ đưa ra Chı́nh sách Môi
trường và Kế hoa ̣ch Hành đô ̣ng Nepal 1993 (NEPAP 1993) xây dựng những hıǹ h mẫu công dân có trách
nhiê ̣m bằ ng cách thực hiê ̣n các chương trın
̀ h giáo du ̣c môi trường ngay từ lớp 1. Mă ̣c dù nhiề u phương pháp
đã đươ ̣c tiên phong thực hiê ̣n bởi nhiề u tổ chức chıń h phủ và phi chıń h phủ khác nhau nhằ m tăng cường về
giáo du ̣c môi trường, kế t quả chung vẫn chưa tố t lắ m. Chưa có nhiề u sự tuyên truyề n về giáo du ̣c môi trường
trong giáo án hiê ̣n hành ta ̣i các trường cấ p tiể u ho ̣c và trung ho ̣c cơ sở. Thêm vào đó, các chương trı̀nh giáo
du ̣c môi trường hiê ̣n hành chı̉ có xu hướng đưa ra những kiế n thức bi ̣ đô ̣ng, mà không tâ ̣p trung vào các kỹ
năng và thái đô ̣, và vı̀ thế đã không thành công trong viê ̣c thiế t lâ ̣p quyề n sở hữu và trao quyề n hành đô ̣ng
cho ho ̣c sinh.
Việt Nam
Luật giáo dục quốc gia từ năm 1998 khẳng định nguyên tắc giáo dục quốc gia bao gồm mẫu giáo, tiểu học,
trung học cơ sở, trung học phổ thông và đại học. Về mặt thể chế, giáo dục nông và lâm nghiệp được giảng
dạy ở các trường dạy nghề, kỹ thuật, cao đẳng và đại học thuộc Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn
(MARD). MARD có các đơn vị trực thuộc cấp dước là Sở NN&PTNT (DARD), Phịng Nơng nghiệp và phát
triển nơng thơn (DAO) có chức năng cung cấp dịch vụ khuyến nơng lâm hỗ trợ chuyển giao công nghệ, kiến
thức giữa các viện nghiên cứu với nông dân. Trung tâm khuyến lâm đóng vai trị chính trong phát triển tài
liệu khuyến lâm. Tuy nhiên hiện nay mức độ bao phủ của dịch vụ khuyến nơng lâm cịn hạn chế, chỉ tập
trung vào các chương trình quốc gia và khu vực với những cây trồng thơng thường và các chương trình trồng
rừng qui mô lớn và bảo vệ rừng tự nhiên hơn là nông lâm kết hợp hay lâm nghiệp trang trại (lâm nghiệp quy
mơ nhỏ). Nhìn chung, khuyến lâm cịn yếu hơn khuyến nông, và trên thực tế trung tâm khuyến lâm của
huyện khơng có cán bộ khuyến lâm hỗ trợ cho những người trồng rừng qui mô nhỏ khi cần thiết.
3. Mục tiêu Chương trình
Chương trình “Nâng cao năng lực cộng đồng thông qua quản lý tài nguyên thiên nhiên theo hình thức dân
chủ” của DFE nhằm mục đích góp phần nâng cao nhận thức về quyền có cuộc sống đầy đủ của người dân
trong cộng đồng nơng thơn có sinh kế dựa vào rừng và tài nguyên thiên nhiên.
3.1 Mục tiêu Phát triển
Các cộng đồng địa phương, bao gồm cả trường học cho trẻ em, có sự hiểu biết sâu sắc về tài nguyên thiên
nhiên, có sự tiếp cận đầy đủ và có những kỹ năng để hợp tác có trách nhiệm, giữ gìn và quản lý các tài
ngun, góp phần xóa đói giảm nghèo chung cũng như duy trì kinh tế, xã hội và hệ sinh thái dưới sự hỗ trợ
của (các) khung chính sách có liên quan.
Các chỉ số:
1. Cải thiện/ bảo tồn các tài nguyên thiên nhiên trong những khu vực mục tiêu
2. Cộng đồng thuộc địa bàn chương trình đang thực hành (và hợp tác khi cần) quản lý có trách nhiệm các tài
nguyên thiên nhiên, có tiếp cận và có thu nhập bền vững từ những nguồn tài nguyên thiên nhiên.
3. Chính quyền địa phương và trung ương có hành động tích cực liên quan đến những yêu cầu của đối tác
chương trình về quản lý có trách nhiệm các nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như có nhận thức đầy đủ về
chúng.
3.2 Những Mục tiêu Trước mắt và các Chỉ số
Mục tiêu trước mắt 1: Các đối tác là các tổ chức xã hội dân sự tăng cường có năng lực tổ chức, chuyên mơn
và tun truyền về quản lý có trách nhiệm các nguồn tài nguyên thiên nhiên, tạo nên sự đồng vận chặt chẽ
lẫn nhau.
18
Các chỉ số:
Các đối tác tự đánh giá một vài mức độ liên quan tới năng lực của mình: hành chính và nhân sự; quản
lý tài chính (các đối tác đang thực hành sổ sách tài chính theo mơ hình đã phê duyệt); lập kế hoạch và
thực hiện; cán bộ chương trình có những kỹ năng chun mơn có liên quan đáp ứng được yêu cầu của
chương trình; các kỹ năng truyền thông; tiếp cận tới các đối tượng hưởng lợi có liên quan v.v.; giám sát
về chất lượng và thời gian, báo cáo; xác định và huy động những nguồn ngân sách khách nhau.
Các đối tác và FDE cùng nhau rà soát một vài chỉ số liên quan đến sự đồng vận chẳng hạn như sự thành
lập quan hệ đối tác hỗ trợ lẫn nhau; trao đổi kinh nghiệm, ý tưởng và bài học kinh nghiệm; nhân rộng
cảm hứng; giữ liên lạc thường xuyên.
Mục tiêu trước mắt 2: Những nhóm mục tiêu tổ chức các hiệp hội những người khai thác rừng và tài
nguyên thiên nhiên có những kỹ năng cung cấp những dịch vụ nâng cao về quản lý có trách nhiệm tài
nguyên thiên nhiên, nâng cao thu nhập, và tuyên truyền tới những nhà chức trách địa phương và trung ương
nhận thức đầy đủ về tài nguyên thiên nhiên.
Các chỉ số:
Các đối tác rà soát một vài chỉ số về năng lực: khả năng tổ chức, dịch vụ nâng cao, tầm ảnh hưởng của
vận động và chính sách, tính bền vững về tài chính của các hiệp hội khai thác.
Giám sát có sự tham gia về lợi ích của các dịch vụ (kỹ thuật và truyền thông) cung cấp từ các tổ chức..
Mục tiêu trước mắt 3: Đưa giáo dục tập trung về quản lý hiệu quả tài nguyên thiên nhiên vào trong hệ
thống giáo dục chính quy được thực hiện/ giới thiệu, nhân rộng và tăng cường ở cấp địa phương và trung
ương.
Các chỉ số:
Số trường học/ cao đẳng triển khai giáo trình mới tập trung vào quản lý tài nguyên thiên nhiên:
Việt Nam: Ít nhất bốn trường đại học đưa giáo trình lâm nghiệp quy mơ nhỏ vào giảng dạy
Nepal: Ít nhất 50 trường triển khai tích cực giáo trình địa phương và 10 quận/huyện xây dựng mới giáo trình
địa phương. 3200 trường học tiếp cận các khóa học mới cấp trung ương về giáo dục mơi trường trong giai
đoạn đầu của chương trình.
Mozambique: Ít nhất 80 trường tại hai quận/huyện triển khai bộ giáo trình mới.
Số lượng sinh viên đại học đăng ký các khóa học về quản lý tài nguyên thiên nhiên/ các điều tra độ hài
lòng của sinh viên về giáo dục tương tác về mơi trường:
Vietnam: Ít nhất 300 sinh viên tốt nghiệp các khóa học về quản lý tài nguyên thiên nhiên.
Nepal: Ít nhất 500 học viên được phỏng vấn thể hiện sự hài lịng về giáo trình giảng dạy mới.
Mozambique: 500 học viên được phỏng vấn thể hiện sự hài lịng về giáo trình giảng dạy mới.
Số lượng giáo viên áp dụng và thực hành những phương pháp mới trong giảng dạy về quản lý tài nguyên
thiên nhiên và giáo dục tương tác về mơi trường:
Vietnam: Ít nhất 8 giảng viên đại học được tập huấn về giáo trình mới
Nepal: Ít nhất 800 giảng viên ở 5 quận/ huyện được tập huấn về chương trình đào tạo cấp quốc gia.
Mozambique: Ít nhất 200 giảng viên được tập huấn về phương pháp mới trong giáo dục môi trường.
19
Chính quyền cấp địa phương và trung ương hành động tích cực liên quan đến những yêu cầu của đối tác
chương trình về những thay đổi trong chất lượng giáo dục về quản lý tài nguyên thiên nhiên – hỗ trọ
thơng qua việc biên tập giáo trình và nhân rộng, bao gồm cả đầu tư vào phát hành sách và giáo trình.
4. Chính quyền cấp địa phương và trung ương hành động tích cực liên quan đến những yêu cầu của đối tác
chương trình về những thay đổi trong chất lượng giáo dục về quản lý tài nguyên thiên nhiên – hỗ trọ thơng
qua việc biên tập giáo trình và nhân rộng, bao gồm cả đầu tư vào phát hành sách và giáo trình.
4. Chiến lược Tổng thể của Chương trình
Chiến lược của chương trình dựa trên Thuyết Thay đổi (ToC) được xây dựng với các đối tác trong cuộc họp
chuẩn bị chương trình hợp nhất. Thú t Thay đở i đươ ̣c áp du ̣ng đầ u tiên với các đố i tác của DFE và các tổ
chức xã hô ̣i dân sự ta ̣i điạ phương. Công việc của DFE là nâng cao năng lực các đối tác nhằm đạt được
những mục tiêu của chương trình. Ở đây, DFE cố gắng tác động những thay đổi lên các cơ quan đối tác bằng
việc nâng cao năng lực trực tiếp để họ trở nên minh bạch, chính thống, chuyên nghiệp và là tiếng nói đại diện
cho cộng đồng mục tiêu.
Các đối tác lần lượt làm công việc huy động những nhóm mục tiêu bằng cách hướng dẫn họ trở thành những
hiệp hội khai thác rừng và tài nguyên thiên nhiên độc lập và dân chủ, thông qua việc tạo lập những mạng
lưới và hợp tác với các tổ chức khác, và làm việc cho hệ thống giáo dục chính quy ở mảng quản lý tài
nguyên thiên nhiên. Trong ToC của chúng ta có ba lĩnh vực hoạt động và kết quả chính mà các đối tác mong
muốn đạt tới sự thay đổi hành vi trong các nhóm mục tiêu và các nhà chức trách:
1) Truyền thông; 2) Phát triển Kỹ năng; và 3) Nâng cao Nhận thức
Tác động cơ bản của công việc này là khiến những cộng đồng người dân đang sống dựa vào tài nguyên thiên
nhiên có nhận thức đầy đủ và biết quản lý có trách nhiệm tài ngun của mình, góp phần duy trì kinh tế, xã
hội và hệ sinh thái. DFE và các đối tác hướng đến những nhóm tác động giống nhau được mơ tả trong chính
sách xã hội dân sự của Danida: “những nhóm nghèo lạc hậu và biệt lập, là những người bị hạn chế trong việc
hưởng những quyền lợi trực tiếp đến đời sống của họ.” (CS Policy 2014) Chúng ta cũng có thể thấy phụ nữ
và thanh niên đóng vai trị chính trong việc gây ảnh hưởng tới những thay đổi trong xã hội.
Vì thế, khi giám sát, chương trình sẽ tập trung vào những thay đổi ở năng lực đối tác, những nhóm mục tiêu,
và những đối tượng hưởng lợi chủ chốt. Chúng ta nhận ra rằng những thay đổi này là không giới hạn và
chúng ta cần ý thức về sự phức tạp của các mối quan hệ giữa những bên liên quan. Hiểu về những mối quan
hệ này sẽ là chìa khóa để điều chỉnh chiến lược hành động. Trong khi tìm hiểu về mơ hình ToC, chương trình
vẫn dựa trên khung logic truyền thống và hữu hạn và những giám sát dựa vào kết quả. Tuy nhiên chúng ta sẽ
tập trung vào các chỉ số giúp ta đi đúng hướng hơn dựa vào những bài học kinh nghiệm, những chỉ số dựa
vào sự thay đổi trong hành vi và trong quan hệ, và những chỉ số tìm kiếm thơng tin từ các nhóm mục tiêu
theo một cách cụ thể, nhờ đó chúng ta có cái nhìn nghiêm khắc vào cơng việc của mình và từ đó đưa ra
những thay đổi cần thiết. Điều này được mô tả kỹ hơn ở tài liệu Giám sát và Đánh giá.
20
Dưới đây là bảng ToC của DFE và các đối tác:
CÁC YẾU TỐ ĐẦU VÀO, HOẠT ĐỘNG, KẾT QUẢ
VẬN HÀNH CHƯƠNG TRÌNH HÀNG NGÀY
Hiệp hội
những người
khai thác tài
nguyên thiên
nhiên
Các đối tác, có
năng lực chun
mơn và truyền
thơng về quản lý
tài ngun thiên
nhiên
Mạng lưới với
các tổ chức
khác
Truyền thông – Đối tác và các
nhóm mục tiêu xây dựng những
kỹ năng tuyên truyền về giáo dục
quản lý tài nguyên thiên nhiên và
tới các nhà chức trách về quản lý
có trách nhiệm và nhận thức đầy
đủ về tài nguyên thiên nhiên.
Phát triển kỹ năng – Các nhóm
mục tiêu xây dựng những kỹ năng
và hiểu biết vững vàng để xây
dựng những kỹ năng mở rộng
dịch vụ, quản lý có trách nhiệm
và giáo dục về tài nguyên thiên
nhiên, nâng cao thu nhập.
Nâng cao nhận thức – Các nhóm
mục tiêu được nâng cao nhận
thức thơng qua chương trình giáo
dục về quản lý tài nguyên thiên
nhiên, mạng lưới, và xây dựng kỹ
năng thực hành.
KẾT QUẢ
Thay đổi hành vi, mối quan hệ và sự tương tác
TÁC ĐỘNG
Duy trì kinh tế, xã hội và hệ sinh thái
Tiếp cận dựa trên Quyền Con người
Chương trình kết nối các hoạt động có liên quan đến tài nguyên thiên nhiên với khung quyền con người tiêu
chuẩn, đặc biệt là, Tun ngơn Tồn cầu về Nhân Quyền khẳng định mọi người đều “có quyền hưởng một
cuộc sống tương xứng với sức khỏe và hạnh phúc của mình và gia đình”. Một “quyền có cuộc sống đầy đủ”
phụ thuộc vào sự sẵn có của tài nguyên thiên nhiên. Đồng nghĩa với việc chương trình được tập trung vào hai
lĩnh vực chính: tiếp cận/ quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và giáo dục chính quy về quản lý tài nguyên
thiên nhiên. DFE đã có sự tiếp cận thực tế về việc sử dụng những quyền này nhằm đảm bảo kết quả rõ rệt
cho các nhóm mục tiêu, bao gồm xóa đói giảm nghèo và phát triển bền vững. Điều này có nghĩa là chúng ta
làm việc với tình trạng thực tế và với những kỹ năng vững vàng đã trang bị cho các nhóm mục tiêu, vì thế họ
thực sự có thể cải thiện sinh kế và hạnh phúc, bao gồm cả yêu cầu các nhà chức trách chịu trách nhiệm thông
qua công tác tuyên truyền.
21
Cho đến khi quyền con người tiếp cận tới một chuẩn mực cao hơn, DFE và các đối tác vẫn đang tập trung
chủ yếu vào chính quyền các cấp từ trung ương đến địa phương về luật pháp, và về trách nhiệm của chính
quyền về 1) quyền đất đai và tài nguyên thiên nhiên 2) quyền giáo dục có chất lượng về quản lý tài nguyên
thiên nhiên. Trong giai đoạn đầu của chương trình, mục tiêu đạt được là kết nối được với các tổ chức xã hội,
chính quyền và các thành phần tư nhân đặc việt là trong lĩnh vực quyền đất đai. Chúng tôi đã làm được điều
này ở Mozambique. Trong trường hợp này, đối tác của chúng tôi ở Mozambique đã tạp ra được một mạng
lưới và các đối tác làm việc tập trung vào các vấn đề liên quan tới luật đất đai thậm chí ở cấp quốc tế dưới
các Điều khoản Hướng dẫn của Liên hợp Quốc về Kinh doanh và Quyền Con người. Giống như chúng tôi đã
từng làm trước đây, chúng tôi sẽ hỗ trợ các đối tác của mình trở thành một phần của mạng lưới quốc tế về
giáo dục quản lý tài nguyên thiên nhiên, biến đối khí hậu, và các diễn đàn liên quan khác.
Việc tiếp cận chương trình được hướng dẫn bởi một số hội nghị quốc tế, ví dụ như Báo cáo Bruntland về
Tương lai Chung cùng với thỏa thuận Rio+20 về các Mục tiêu Phát triển Bền vững, tập trung vào cân bằng
môi trường, kinh tế, xã hội. Nó cũng được hướng dẫn bởi tài liệu Hướng dẫn Tình nguyện cho Cơ quan
Thẩm quyền về Sở hữu Đất đai, Ngư trường và Rừng và Hội nghị Aarhus về Tiếp cận Thông tin, Tham gia
của Cộng đồng vào việc Ra Quyết định và Tiếp cận với Luật phát về các Vấn đề Môi trường, là những công
cụ liên quan đến quyền con người và nhận thức đúng đắn về tài nguyên thiên nhiên. Giới cũng là một mảng
quan trọng cần cân nhắc khi triển khai hoạt động tiếp cận với tài nguyên thiên nhiên. Hiệp định Quốc tế về
quyền trong kinh tế, xã hội và văn hóa và Công ước về Giảm thiểu Kỳ thị Phụ nữ đã góp phần tạo bình đẳng
nam nữ. Ngồi ra, việc tiếp cận chương trình cũng dựa trên các Điều khoản Giao ước và Hướng dẫn về Kinh
doanh và Quyền Con người, đưa ra những quy định liên quan tới trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo vệ
quyền con người, cùng chịu trách nhiệm trong việc tôn trọng quyền con người, và tiến hành những biện pháp
hỗ trợ nạn nhân bị xâm hại. Tập trung và biến đổi khí hậu cũng là một mảng quan trọng của chương trình
này, có cùng hướng đi với Công ước Khung của Liên hợp Quốc về Biến đổi Khí hậu. Thêm vào đó, chúng ta
được hướng dẫn bởi các quy tắc của UNESCOS về Giáo dục Phát triển Bền vững, đặt trọng tâm vào nâng
cao chất lượng dạy và học về môi trường và cung cấp những công cụ cho các nước nhằm phối hợp đào tạo về
môi trường trong các nỗ lực cải thiện môi trường.
Các đối tác của DFE tham gia và nhiều hoạt động mạng lưới khác nhau với các tổ chức xã hội dân sự khác
và với chính quyền. Ở Mozambique, đối tác của chúng tôi là thành viên lãnh đạo của FOCADE, một tổ chức
cấp tỉnh có thế lực, theo sát những hoạt động liên quan tới quyền lợi đất đai từ phía các nhà đầu tư nước
ngồi. Đối tác của chúng tôi đồng thời là chủ tịch COGEP, là một hội đồng quản lý tài nguyên thiên nhiên
cấp huyện có liên quan đến việc ra quyết định về sử dụng tài nguyên thiên nhiên tại địa phương. Tại Nepal,
đối tác của chúng tơi ở Kathmandu có một mạng lưới rộng lớn các NGOs quốc tế và địa phương thường
xuyên liên kết hoạt động và họp hành liên quan tới các vấn đề biến đổi khí hậu và mơi trường. Đối tác khác
của chúng tôi tại Terai cũng điều phối các thành viên của hiệp hội các NGOs và CBOs địa phương, với mục
đích triển khai các kỹ năng về mơi trường, quản lý có trách nhiệm tài ngun thiên nhiên, đặc biệt là quản lý
dòng nước thượng lưu và hạ lưu, tổ chức và thực hiện các cuộc đối thoại dân chủ, cùng đưa ra những giải
pháp cho xung khắc. Tại Việt Nam, mạng lưới hội nông dân các tỉnh đã triển khai các hoạt động dự án và
thúc đẩy việc thành lập những mạng lưới lâm nghiệp quy mô nhỏ.
Tam giác Phát triển và Chiến lược Xã hội Dân sự của Danida
Chiến lược của DFE đảm bảo rằng các đối tác phía Nam có đầy đủ kỹ năng và năng lực để hỗ trợ cho sự bền
vững và bằng cách đó, chiến lược mới thành cơng trong tam giác phát triển, nơi năng lực, truyền thông và sự
truyền tải chiến lược được liên kết với nhau và thực hiện trong sự phối hợp. DFE và các đối tác làm việc theo
cách này cùng với Chiến lược Xã hội Dân sự Mới Nhất của Danida (CSS). Những điểm mấu chốt sau trong
CSS được chú trọng xuyên suốt công việc của DFE và các đối tác:
“Củng cố các tổ chức xã hội địa phương cho mục tiêu lâu dài về xố đói giảm nghèo” – Trong khung
chương trình của CISU, DFE luôn luôn thực hiện các dự án thông qua các đối tác địa phương, là những
tổ chức chủ chốt của đất nước.
22
“Ủng hộ đối thoại cởi mở” – DFE đang khuyến khích các đối tác tham gia vào các cuộc đối thoại cởi
mở tại địa phương và trung ương liên quan đến quyền và trách nhiệm quản lý tài nguyên thiên nhiên,
hoặc về việc xúc tiến giáo dục về môi trường cục bộ và tại địa phương, và về thể chế công bằng và dân
chủ nhằm hỗ trợ nâng cao sinh kế địa phương.
“Đẩy mạnh phát triển năng lực, công tác truyền thông và các cơ hội liên kết” – DFE đang đẩy mạnh
phát triển năng lực cho các đối tác phía Nam bằng cách cung cấp trực tiếp các yếu tố đầu vào, các khố
tập huấn, hỗ trợ cơng tác truyền thông cho các đối tác và tham gia vào mạng lưới các nước.
“Khuyến khích quyền và trao quyền” – Công việc của DFE là tập trung vào quyền lợi của các nhóm
mục tiêu, chủ yếu là đất đai và tài nguyên thiên nhiên trong những vùng phụ thuộc tại các khu vực
nghèo của đất nước. Nhìn chung, cơng việc của DFE tập trung khá rộng vào mảng những quyền lợi căn
bản của các nhóm mục tiêu về đất đai/ tài nguyên, quyền tham gia dân chủ, quyền hưởng giáo dục chất
lượng, và quyền phụ nữ.
“Kết nối các thành phần tư nhân” – Một trong những lĩnh vực chủ chốt của DFE khi tập trung vào xây
dựng đồn thể chính là xúc tiến các cơ hội kinh doanh và tạo sinh kế cho các thành viên đoàn thể. Các
thành viên được trang bị kỹ năng để trồng, chăm sóc và kinh doanh lâm sản, góp phần xố đói giảm
nghèo thơng qua quản lý có trách nhiệm hệ thống khai thác đất đai/ rừng. Thêm vào đó, DFE cũng với
đối tác tại Mozambique sẽ tập trung vào xây dựng mối quan hệ tốt với chính quyền và các thành phần
kinh tế tư nhân liên quan đến ngành cơng nghiệp khai khống nhằm nâng cao nhận thức về nhiệm vụ
của các công ty và nhà nước trong việc bảo vệ quyền lợi của cộng đồng địa phương.
Tiếp cận của DFE 1:1
Điều để phân biệt DFE với các NGOs phát triển khác là công việc của chúng tôi tiến hành với các đối tác
phía Nam cũng có cùng ngun tắc với cơng việc chúng tôi đang làm ở Đan Mạch, chúng tôi tuân thủ những
nguyên tắc và giá trị giống nhau về hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ sử dụng tài nguyên có trách nhiệm, nâng
cao thu nhập, và chúng tôi đại diện cho lợi ích của họ. Trong các dự án của chúng tôi, DFE sử dụng những
cán bộ lâm nghiệp, những người hàng ngày làm việc với các nhân viên tại Đan Mạch, về phát triển năng lực
cho đối tác và các nhóm mục tiêu. Chúng tơi cũng sử dụng các cán bộ lãnh đạo để cùng chia sẻ kinh nghiệm,
phát triển năng lực chính quyền. Khi một trong những cán bộ DFE Đan Mạch hoặc cán bộ ban ngành được
trọng dụng, yêu cầu của đối tác được đáp ứng, những nhiệm vụ cụ thể trong ToR được hoàn thành. Một thực
tế đã được áp dụng trong hồ sơ dự án hiện tại. Sự trao đổi này khuyên khích tinh thần học hỏi lẫn nhau, các
cán bộ lâm nghiệp/ cán bộ ban ngành cũng học hỏi và phát triển từ các nền văn hoá và bối cảnh làm việc
khác nhau so với Đan Mạch.
Theo như chương trình giáo dục về mơi trường trong các dự án giáo dục của chúng tôi, chúng được bắt
nguồn từ quan niệm Naturvejleder và Udeskole của Đan Mạch và cách tiếp cận thực tế của DFE về giảng
dạy về tài ngun mơi trường thực tế. Đó là việc các cán bộ lâm nghiệp đang làm hàng ngày với các thành
viên, thường bao gồm cả gia đình nhiều thế hệ. Sự truyền đạt kiến thức và hoạt động nâng cao là một phương
tiện gián tiếp gây tác động tới quản lý tài nguyên thiên nhiên. Giáo dục trực quan và thực tế về môi trường
thực tại là một trong những cách tốt nhất để trẻ em có thể cụ thể hố các vấn đề và tìm ra được giải pháp. Vì
thế nó là một phần của chiến lược DFE về giáo dục môi trường. Với thoả thuận của chương trình, DFE sẽ
làm việc, đầu tiên là với đối tác tại Nepal, về việc thành lập sự hợp tác giữa các trường học tại Đan mạch và
Nepal để triển khai các hoạt động nâng cao nhận thực về rừng, nơi các học sinh có thể chia sẻ kinh nghiệm
với nhau. Vì thế, sự phối hợp giữa Skovdyrkerne ở Đan Mạch và công việc của DFE tại các nước khác là
một phần quan trọng của nền tảng DFE.
4.1 Nội dung 1 – Nâng cao Năng lực các Đối tác
Nội dung chương trình 1 liên quan đến mục tiêu trước mắt 1: Cách củng cố năng lực đối tác chính là thông
qua những nỗ lực thực hiện điều phối của chương trình, có liê nquan đến sự chênh lệch giữa các dự án hiện
tại và khung chương trình với một vài hệ thống mới và nhiều chiến lược và mục tiêu lâu dài hơn. Nhìn
chung, cơng tác năng lực hỗ trợ các đối tác trở thành các cơ quan dân chủ, trách nhiệm và chuyên nghiệp
được coi trọng bởi các nhóm mục tiêu mà họ đại diện. Các đối tác vạch ra ba lĩnh vực năng lực cần tập trung:
tổ chức, chuyên môn và truyền thông..
23
Theo như năng lực tổ chức, chúng ta sẽ tập trung vào giới thiệu thể thức của chương trình, nó sẽ được thực
hiện thế nào, đặc biệt nhấn mạnh vào sự đồng vận và học hỏi lẫn nhau. Trong giai đoạn đầu của chương
trình, một hệ thống quản lý và báo cáo sẽ được xây dựng cho các tôt chức đối tác, trong khi đó chúng ta vẫn
đảm bảo về mặt văn hố địa phương và luật pháp. Vì thế, những hướng dẫn và quy định hiện tại sẽ dần dần
được thay thế bằng những điều chỉnh mới trong chương trình. Những hướng dẫn và quy định này được ghi
trong phụ lục của Thoả thuận Chuwong trình. Văn kiện dự án sẽ được rà soát lại và điều chỉnh..
Năng lực về chuyên môn và truyền thông của các đối tác được củng cố thống qua việc triển khai nội dung 2
và 3, “nâng cao năng lực bằng hành động”. Về năng lực chuyên môn, các đối tác sẽ được trang bị những kí
năng thơng qua các hoạt động quản lý tài nguyên thiên nhiên đã được vạch ra ở khung dự án (khung dự án
được đưa vào giai đoạn đầu của chương trình và sẽ được điều chỉnh, triển khai trong giai đoạn đầu của
chương trình). Về năng lực truyền thông, sẽ được củng cố thông qua việc triển khai công tác truyền thông đã
được vạch ra tại Phụ lục D. Các yếu tố đầu vào đặc thù được đưa ra theo yêu cầu của đối tác và từ các nhóm
mục tiêu. Yếu tố đầu vào về năng lực đặc biệt sẽ đuợc đưa ra ở Mozambique, nơi các đối tác đang làm việc ở
địa bàn mới tập trung vào quyền đất đa và truyền thông; và ở Việt Nam, nơi chúng tôi đang hỗ trợ xây dựng
những mạng lưới lâm nghiệp quy mô nhỏ độc lập, giống như những tổ chức xã hội. Tại đây các đối tác đã
thể hiện mong muốn cụ thể về các yếu tố đầu vào cần DFE hỗ trợ.
Một trong những điểm quan trọng nhất trong Thoả thuận Chương trình sẽ là nâng cao năng lực cho hệ thống
hoá về kết quả và chia sẻ bài học kinh nghiệm giữa các đối tác với nhau. Giai đoạn đầu của chương trình sẽ
là để tinh chỉnh và sửa đổi tài liệu giám sát và đánh giá, tập trung vào giám sát có sự tham gia và những thay
đổi và xu hướng trong công tác giám sát.
4.2
Nội dung 2 – Các Hiệp hội Nhận thức và Quản lý Tài nguyên Thiên nhiên
Nội dung chương trình 2 có liên quan đến mục tiêu trước mắt 2. Chiếc lược chủ đại của nội dung 2 là điều
phối tổ chức của các nhóm mục tiêu thành hiệp hội những người khai thác rừng và tài nguyên thiên nhiên, từ
đó họ có thể tuyên truyền nhận thức về tài nguyên thiên nhiên, học được những kĩ năng quản lý có trách
nhiệm tài nguyên thiên nhiên, và nâng cao thu nhập bền vững từ quản lý tài nguyên thiên nhiên. Hiệp hội
những người khai thác rừng và tài nguyên thiên nhiên có thể triển khai mơ hình cơ quan nhưng điều quan
trọng là họ đang thực hiện chức năng tồn tại dân chủ dựa trên sự cung cấp dịch vụ của thành viên. Bối cảnh
của từng nước là khác nhau, có nghĩa là các hiệp hội/ nhóm khác nhau sẽ tập trung vào các lĩnh vực và ưu
tiên khác nhau do họ có hồn cảnh và tài ngun khác nhau. Có bốn lĩnh vực chính mà chúng ta cần tập
trung khi làm việc với các nhóm khai thác:
1) Năng lực tổ chức
Điều đầu tiên là cơ cấu tổ chức vững chắc và đúng chức năng dựa trên sự dân chủ của các thành viên. Tổ
chức được hợp pháp hố và có những giá trị về cơng bằng, có tính bao gồm, minh bạch, và trách nhiệm..
24
2) Các dịch vụ nâng cao
Để một hiệp hội có thể cung cấp dịch vụ, họ cần xây dựng những kỹ năng thực tiễn để giúp các thành viên
quản lý rừng và tài nguyên thiên nhiên, nâng cao thu nhập. Bởi họ cung cấp nhiều dịch vụ khác nhau, việc
tiếp cận thông tin và tham gia vào mạng lưới rộng lớn sẽ giúp hiệp hội có thể nâng cao năng lực chuyên môn
để quản lý tốt hơn tài nguyên thiên nhiên..
DFE đã nâng cao năng lực cho các đối tác để họ có thể làm việc với kỹ năng thực tế. Thêm vào đó, DFE cịn
hỗ trợ xây dựng giáo trình quản lý tài nguyên thiên nhiên tại các trường đại học.
3) Ảnh hưởng của truyền thơng và chính sách
Một yếu tố quan trọng khác tạo nên thành công của một hiệp hội là công tác truyền thông, đại diện cho tổ
chức để tuyên truyền các vấn đề quan trọng trong cộng đồng những người sống dựa vào rừng và tài ngun
thiên nhiên. Ba lĩnh vực chính cần truyền thơng là cải thiện môi trường cho những nhà sản xuất lâm nghiệp
nhỏ, tăng cường tiếp cận với tài nguyên thiên nhiên bằng quyền sở hữu, và thúc đẩy quản lý rừng công tác và
nguồn nước.
4) Các cơ hội kinh doanh
Yếu tố cuối cùng nhưng rất quan trọng của một hiệp hội là các thành viên thu được lợi nhuận về kinh tế. Sự
khuyến khích lớn nhất cho các thành viên cộng đồng là có thể chủ động tham gia và tự thay đổi các hành vi
quản lý có trách nhiệm tài nguyên thiên nhiên. Các thành viên được tổ chức để tham gia vào hoạt động kinh
doanh nhằm tiếp cận thị trường để bán các sản phẩm nông, lâm và ngồi lâm nghiệp. Quỹ lâu dài cho hiệp
hội có thể lấy từ phí thành viên, hoa hồng khi bán lâm sản, cây giống cũng như các dịch vụ khác.
Khi DFE và các đối tác làm việc về tổ chức các nhóm mục tiêu, chúng tơi cân nhắc từng bối cảnh địa phương
và những cơ chế hiện hành. Tại Việt Nam, chúng tôi làm việc với các Hội Nông dân quyền lực, vì họ có
tham gia vào mạng lưới rộng lớn và có thể hỗ trợ chúng tơi trong việc tìm ra những nông dân đặc biệt mong
muốn tham gia mô hình lâm nghiệp quy mơ nhỏ.
4.3
Nội dung 3 – Giáo dục về Quản lý Tài nguyên Thiên nhiên
Nội dung chương trình 3 có liên quan đến mục tiêu trước mắt 3.
Giáo dục Trực quan về Môi tường ở cấp cơ sở
Chiến lược của DFE là tập trung giáo dục về môi trường ở cấp tiểu học và trung học cơ sở. Điều này làm tiền
đề cho tập trung chiến lược vào việc thành lập hiệp hội/ nhóm nơng dân khai thác rừng để tuyên truyền và
quản lý bền vững tài ngun thiên nhiên vì nó tập trung vào thế hệ mới và sự thay đổi hành vi về quản lý bền
vững tài nguyên thiên nhiên ở trẻ em. Có một mối liên hệ gần gũi và tự nhiên giữa giáo dục về môi trường và
xây dựng hiệp hội: cả hai đều khởi đầu bằng chia sẻ kiến thức, thông tin và xây dựng kĩ năng thông qua kinh
nghiệm và giáo dục. Thêm vào đó, như đã đề cập, các đối tác làm việc trong cùng địa bàn dự án sẽ xây dựng
hiệp hội với nguời lớn và giáo dục về môi trường với trẻ em.
Xúc tiến Giáo dục Tương tác về Môi trường tại các Trường học
Đầu tiên chúng ta làm việc trực tiếp với các trường học và trẻ em về việc triển khai phương pháp giảng dạy
tương tác về môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Phương pháp giảng dạy dựa trên thực tế nơi các em và
gia đình đang sinh sống. Ý tưởng chung là trẻ em là người truyền tải tốt nhất trong xã hội về các vấn đề về
môi trường. Bằng cách làm việc trực tiếp với các trường học, đối tác của chúng ta có thể thử nghiệm những
phương pháp và thực hành tốt nhất, xây dựng tài liệu, tập huấn giáo viên. Điều này ln đi đúng hướng với
giáo trình quốc gia và sự hợp tác với chính quyền địa phương.
25