ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
ĐỖ MẠNH HÙNG
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945
Ở CÁC TỈNH BẮC TRUNG BỘ
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 62.22.03.13
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
HUẾ - NĂM 2016
Công trình được hoàn thành tại
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế
Người hướng dẫn khoa học
1. PGS.TS. TRƯƠNG CÔNG HUỲNH KỲ
2. TS. NGUYỄN VĂN HOA
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm Luận án
cấp Đại học Huế tại:
Vào hồi ....giờ..... ngày ..... tháng .... năm 2016
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: Đại học Sư phạm Đại học Huế
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Đỗ Mạnh Hùng (2013), “Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở
Việt Nam qua sự nhìn nhận, đánh giá của một số nhà nghiên
cứu Pháp”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quan hệ Việt - Pháp:
Quá khứ và hiện tại, Hội Hữu nghị Việt - Pháp tỉnh Thừa
Thiên Huế, Trường Đại học Sư phạm, Trường Đại học Khoa
học - Đại học Huế, (tháng 4-2013), tr.106-109.
2. Đỗ Mạnh Hùng (2014), “Phong trào yêu nước và cách mạng
Quảng Bình 30 năm đầu thế kỉ XX”, in trong Báo cáo khoa
học Hội thảo Quốc gia về Quảng Bình 410 năm hình thành và
phát triển, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, tr.456-467.
3. Đỗ Mạnh Hùng (2014), “Đặc điểm Cách mạng tháng Tám năm
1945 ở Quảng Bình”, in trong Báo cáo khoa học Hội thảo
Quốc gia về Quảng Bình 410 năm hình thành và phát triển,
Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, tr.500-512.
4. Đỗ Mạnh Hùng (2014), “Khởi nghĩa giành chính quyền tháng
8-1945 ở Hà Tĩnh”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, số 272, tr.22-26.
5. Đỗ Mạnh Hùng (2015), "Các cuộc thương lượng với quân đội
Nhật trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh
Bắc Trung Bộ", Tạp chí Lịch sử Quân sự, số 285, tr.12-17.
6. Đỗ Mạnh Hùng (2016), "Vai trò của Việt Minh Nguyễn Tri
Phương đối với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm
1945 ở Thừa Thiên Huế", Tạp chí Khoa học Đại học Huế (đã
nhận đăng).
7. Đỗ Mạnh Hùng (2016), "Thừa Thiên Huế trong cuộc vận động
Cách mạng tháng Tám năm 1945", Đề tài cấp Đại học Huế
(đang chờ nghiệm thu).
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong tiến trình lịch sử Việt Nam thời cận hiện đại, Cách mạng tháng
Tám năm 1945 là một trong những sự kiện lịch sử vĩ đại, đánh dấu một
bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc. Cách mạng tháng Tám đã tạo ra những
tiền đề cho sự phát triển và thắng lợi của dân tộc Việt Nam từ 1945 đến nay.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một vấn đề khoa học được nhiều
nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm và đã đạt được nhiều thành
tựu đáng kể. Bên cạnh những vấn đề chung của Cách mạng tháng Tám, một
số công trình mang tính khu vực và địa phương đã được tiếp cận. Cuộc vận
động Cách mạng tháng Tám ở các tỉnh đã được nghiên cứu nhưng chủ yếu
còn dưới dạng mô tả, vấn đề nêu đặc điểm gần như chưa được đề cập. Cách
mạng tháng Tám năm 1945 ở Bắc Trung Bộ là một vấn đề quan trọng nhưng
chưa được các nhà sử học nghiên cứu toàn diện và có hệ thống.
Đóng góp vào thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 có các
tỉnh Bắc Trung Bộ. Đây là địa bàn chiến lược của xứ Trung Kì. Bộ máy cai trị
cũng như lực lượng quân sự của thực dân Pháp và phát xít Nhật ở đây tương
đối mạnh. Vì vậy, Bắc Trung Bộ là một trong những trung tâm cách mạng của
cả nước.
Trong cuộc vận động Cách mạng tháng Tám năm 1945, các tỉnh Bắc
Trung Bộ có một vị trí, vai trò quan trọng. Đây là một trong những khu vực
diễn ra cuộc khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi sớm nhất ở tỉnh lị, trực
tiếp chấm dứt chế độ phong kiến lạc hậu và Chính phủ Trần Trọng Kim.
Cuộc vận động Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Bắc Trung Bộ có nét
sáng tạo về tập hợp lực lượng, phương thức khởi nghĩa và hình thái giành
chính quyền. Vì vậy, nghiên cứu Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các
tỉnh Bắc Trung Bộ là việc làm có ý nghĩa về mặt khoa học và có giá trị thực
tiễn sâu sắc.
Vì những lí do trên, tôi chọn vấn đề “Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở
các tỉnh Bắc Trung Bộ” làm đề tài Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Việt
Nam.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án là
Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Khu vực Bắc Trung Bộ đặt dưới lãnh đạo của Xứ
ủy Trung Kì, bao gồm các tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng
Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên.
- Về thời gian: Từ ngày 1-9-1939 đến ngày 26-8-1945, là thời gian
trực tiếp chuẩn bị và khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích nghiên cứu: Tái hiện có hệ thống và toàn diện về
cuộc vận động Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan về vấn đề nghiên cứu để xác định các vấn đề cần tiếp tục
nghiên cứu về Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
- Phân tích bối cảnh lịch sử của cuộc vận động Cách mạng tháng
Tám ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
- Trình bày công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền ở các
tỉnh Bắc Trung Bộ từ tháng 9-1939 đến tháng 8-1945.
- Làm sáng tỏ cuộc khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám năm
1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
- Trên cơ sở đó, phân tích đặc điểm; ưu điểm, hạn chế; vai trò và bài
học kinh nghiệm của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung
Bộ.
4. NGUỒN TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Nguồn tư liệu nghiên cứu
- Nguồn tài liệu thành văn
+ Tài liệu đã công bố
+ Tài liệu lưu trữ
- Nguồn tài liệu khảo sát điền dã
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận của luận án là quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực
cách mạng, xây dựng Đảng, vận động quần chúng, xây dựng lực lượng vũ
trang, đặc biệt là khởi nghĩa giành chính quyền.
- Trong luận án, chúng tôi kết hợp phương pháp lịch sử, phương pháp
lôgic và các phương pháp cụ thể của chuyên ngành như miêu tả, phân tích,
tổng hợp; đồng thời, sử dụng phương pháp thống kê, so sánh và các phương
pháp liên ngành như điền dã, phỏng vấn nhân chứng...
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
Thứ nhất, tái hiện toàn cảnh bức tranh lịch sử về Cách mạng tháng
Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Thứ hai, rút ra đặc điểm đặt trong mối quan hệ đối sánh Cách mạng
tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ với các tỉnh đồng bằng Bắc
Bộ, các tỉnh ven biển Nam Trung Bộ và các tỉnh Nam Bộ; nêu lên ưu điểm,
hạn chế; vai trò và bài học kinh nghiệm.
Thứ ba, cung cấp hệ thống tư liệu tương đối hoàn chỉnh về Cách
mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Thứ tư, luận án là tài liệu tham khảo để nghiên cứu và học tập Cách
mạng tháng Tám năm 1945 ở bậc đại học và cao đẳng; góp phần giáo dục
truyền thống yêu nước, cách mạng cho các tầng lớp nhân dân ở các tỉnh Bắc
Trung Bộ, là tài liệu bổ ích giúp giáo viên ở các trường trung học phổ thông
biên soạn và giảng dạy phần lịch sử địa phương trong chương trình lịch sử.
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án gồm 4
chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
Chương 2: Quá trình chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền ở các
tỉnh Bắc Trung Bộ (từ tháng 9-1939 đến tháng 3-1945).
Chương 3: Gấp rút chuẩn bị về mọi mặt và khởi nghĩa giành chính
quyền ở các tỉnh Bắc Trung Bộ (từ tháng 3-1945 đến tháng 8-1945).
Chương 4: Một số nhận xét về Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở
các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Các tỉnh Bắc Trung Bộ nằm dọc theo ven biển, từ 16 0 đến 20030’ vĩ
độ Bắc và từ 106002’ đến 108002’ kinh độ Đông bao gồm các tỉnh Thanh
Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một chủ đề khoa học lớn, hấp dẫn,
thu hút nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu. Liên quan đến Cách mạng
tháng Tám năm 1945 nói chung và ở các tỉnh Bắc Trung Bộ nói riêng đã có
nhiều công trình được công bố, đề cập đến những khía cạnh khác nhau.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.2.1. Những công trình về Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt
Nam
1.2.1.1. Các công trình nghiên cứu trong nước
Ở nhóm này gồm các công trình tiêu biểu như: Trường Chinh (1946),
Cách mạng tháng Tám; Viện Sử học (1960), Cách mạng tháng Tám - Tổng
khởi nghĩa ở Hà Nội và các địa phương; Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng
Trung ương (1967), Tìm hiểu tính chất và đặc điểm của Cách mạng tháng
Tám; Trường Chinh (1975), Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt
Nam; Viện Lịch sử Đảng (1985), Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945; Viện
Lịch sử Đảng (1995), Lịch sử Cách mạng tháng Tám 1945; Ngô Văn Minh
(2005), Cách mạng tháng Tám tại các tỉnh ven biển Nam Trung Bộ; Nguyễn
Đình Cả (2010), Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 ở đồng bằng Bắc Bộ;…
Các công trình nghiên cứu trên đây đã tập trung làm sáng tỏ về bối
cảnh lịch sử, quá trình chuẩn bị lực lượng, diễn biến, tính chất, đặc điểm, ý
nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm của Cách mạng
tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam. Một số công trình đã đề cập đến diễn biến
cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở các địa phương, trong đó có các tỉnh Bắc
Trung Bộ.
1.2.1.2. Các công trình nghiên cứu ngoài nước
Paul Mus (1952), Vietnam, Sociologie d’une guerre; Chales Fourniau
(1961), “Cách mạng tháng Tám ở Việt Nam”; Stein Tonnesson (1991), The
Vietnamese Revolution of 1945, Roosevelt, Ho Chi Minh and De Gaulle in a
world at war; David G.Marr (1995), Vietnam 1945. The quest for power,
University of California press;…
Các công trình nghiên cứu trên đã có một số đánh giá hợp lí về Cách
mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân
nên một số tác giả chưa thấu hiểu được vai trò của Đảng Cộng sản Đông
Dương, Mặt trận Việt Minh và tính chủ động của nhân dân Việt Nam trong
quá trình chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Các công trình nghiên cứu
ít đề cập đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
1.2.1.3. Các hội thảo khoa học, luận án tiến sĩ và các bài nghiên
cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành
Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương (1963), Cuộc tọa đàm về
Cách mạng tháng Tám; Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
(2010); Cách mạng tháng Tám ở Nam Bộ; Nguyễn Văn Trung (2012), Báo chí
của các cấp Đảng bộ Trung Kì trong những năm 1930 - 1945, Luận án Tiến sĩ
Lịch sử; Trần Huy Liệu (1956), “Mấy nét đặc biệt về Cách mạng tháng Tám”,
Tập san Văn Sử Địa, số 20; Nguyễn Công Bình (1960), “Bàn về tính chất
Cách mạng tháng Tám”, Nghiên cứu Lịch sử, số 17; Lương Sơn Châu (1970),
“Vấn đề thời cơ - Từ khởi nghĩa tháng Mười Nga đến khởi nghĩa tháng Tám
của Việt Nam, Nội san Nghiên cứu Lịch sử Đảng, số 03; Thanh Đạm (1975),
“Nghiên cứu vấn đề tầng lớp trung gian trong thời kì Cách mạng tháng Tám”,
Nghiên cứu Lịch sử, số 163; Nguyễn Thành (1990), “Cách mạng tháng Tám
1945 trong dư luận chính trị ở Pháp”, Nghiên cứu Lịch sử, số 04; Văn Tạo
(2005), “Cách mạng tháng Tám - thắng lợi của đường lối chiến lược, sách
lược chủ động và sáng tạo của Đảng”, Tạp chí Cộng sản, số 739; Nguyễn
Hoàng Giáp (2010), “Tầm vóc thời đại của Cách mạng tháng Tám”, Tạp chí
Lịch sử Đảng, số 08;…
Các hội thảo khoa học, luận án tiến sĩ và bài nghiên cứu trên đã cung
cấp những tư liệu mới, đặt ra nhiều vấn đề và đánh giá mới về Cách mạng
tháng Tám năm 1945. Trên cơ sở tập hợp các bài viết chuyên khảo, chúng
tôi đã có sự đối chứng, so sánh, mở rộng những nhận định, đánh giá về cuộc
vận động Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
1.2.2. Những công trình về Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở
các tỉnh Bắc Trung Bộ
1.2.2.1. Các công trình lịch sử địa phương
Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Thanh Hóa (1966); Sơ giản
lịch sử Cách mạng tháng Tám (1939 - 1945); Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng
Tỉnh ủy Nghệ An (1966), Cách mạng tháng Tám 1939 - 1945; Ban Nghiên
cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Hà Tĩnh (1966), Thời kì Cách mạng tháng Tám
(1939 - 1945); Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Quảng Bình (1974),
Lịch sử Cách mạng tháng Tám Quảng Bình (sơ thảo); Ban Chấp hành Đảng
bộ tỉnh Hà Tĩnh (1993), Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh, tập 1 (1930 - 1954); Ban
Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1995), Lịch sử Đảng bộ Quảng Bình,
tập 1 (1930 - 1954); Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế (1995),
Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên Huế, tập 1 (1930 - 1954); Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh Quảng Trị (1996), Lịch sử Đảng bộ Quảng Trị, tập 1 (1930 1954); Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nghệ An (1998), Lịch sử Đảng bộ
Nghệ An, tập 1 (1930 - 1954); Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa
(2010), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa (1930 - 1954);...
Những công trình trên mới chỉ dừng lại ở việc tái hiện các sự kiện
lịch sử có liên quan đến vai trò lãnh đạo của Đảng đối với phong trào cách
mạng của nhân dân tại các địa phương, vấn đề nêu đặc điểm gần như chưa
được đề cập. Có nhiều vấn đề quan trọng chưa được giải quyết thấu đáo
hoặc còn đang tranh luận hay xác minh. Hầu hết các công trình ít khai thác
và sử dụng nguồn tư liệu của chính quyền thực dân Pháp và phát xít Nhật.
1.2.2.2. Các hội thảo khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và
các bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội khoa học Lịch sử tỉnh Thừa
Thiên Huế (2015), Trí thức và tôn giáo Thừa Thiên Huế với Cách mạng
tháng Tám - 70 năm nhìn lại, Kỉ yếu Hội thảo khoa học; Nguyễn Thị Đảm
(1994), Công nhân xí nghiệp vôi thủy Long Thọ (1896 - 1945), Luận án Phó
tiến sĩ khoa học Lịch sử; Trần Văn Thức (2003), Quá trình vận động cách
mạng giải phóng dân tộc ở Nghệ An thời kì 1939 - 1945, Luận án Tiến sĩ
Lịch sử; Nguyễn Tất Thắng (2012), Phong trào yêu nước và cách mạng Hà
Tĩnh từ cuối thế kỉ XIX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, Luận án Tiến
sĩ Lịch sử; Lê Thị Tuyết Nhung (2011), Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở
Quảng Trị, Luận văn Thạc sĩ sử học; Trần Văn Thức (2003), “Góp phần làm
sáng tỏ thêm cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Nghệ An”, Nghiên cứu
Lịch sử, số 01;…
1.2.3. Những vấn đề liên quan đến đề tài đã được các công trình
nghiên cứu giải quyết
Vấn đề “Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ”
bước đầu đã được các nhà nghiên cứu đề cập ở một số góc độ khác nhau.
Tuy nhiên, do mục đích của các công trình, cho đến nay vẫn chưa có một công
trình nghiên cứu thật sự có tính hệ thống, toàn diện về vấn đề này dưới góc độ
khu vực.
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở khảo cứu nguồn tài liệu từ nhiều phía, phân tích chính sách
thống trị của thực dân Pháp, phát xít Nhật và Nam triều ở các tỉnh Bắc Trung
Bộ từ năm 1939 đến năm 1945, nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu để làm
sáng tỏ như: Những thủ đoạn vừa đàn áp khủng bố quyết liệt lực lượng cách
mạng trên địa bàn, vừa mua chuộc thâm độc nhằm lôi kéo, dụ dỗ những phần
tử nhẹ dạ, cả tin, phá hoại sự đoàn kết thống nhất trong tổ chức Đảng các cấp
và khối đại đoàn kết các dân tộc ở Bắc Trung Bộ của thực dân Pháp và phát
xít Nhật.
Tái hiện một cách chi tiết và đầy đủ về quá trình chuẩn bị khởi nghĩa
giành chính quyền ở các tỉnh Bắc Trung Bộ từ năm 1939 đến năm 1945 trên
các khía cạnh cụ thể như: Sự vận dụng đường lối lãnh đạo cách mạng của
Đảng Cộng sản Đông Dương; quá trình xây dựng, khôi phục và thống nhất
tổ chức cơ sở Đảng; xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, căn
cứ địa; tập dượt quần chúng đấu tranh.
Mặt khác, cần làm sáng tỏ quá trình khởi nghĩa giành chính quyền ở
các tỉnh Bắc Trung Bộ trên các phương diện: Phong trào khởi nghĩa từng
phần; việc nhận định tình hình, chớp thời cơ, chủ động đề ra kế hoạch khởi
nghĩa và diễn biến của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền. Phân tích vai trò
của tầng lớp thanh niên trí thức trong quá trình giành chính quyền ở một số
địa phương. Rút ra những ưu điểm và hạn chế của Cách mạng tháng Tám
năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Hơn nữa, cần làm nổi rõ đặc điểm về quá trình chuẩn bị, hình thái
vận động, phương thức khởi nghĩa giành chính quyền của Cách mạng tháng
Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ qua sự đối sánh với Cách mạng
tháng Tám ở các khu vực lân cận. Mặt khác, phân tích vai trò của Cách
mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ đối với Cách mạng
tháng Tám năm 1945 trong toàn quốc và đối với sự nghiệp cách mạng của
nước bạn Lào. Đúc rút một số bài học kinh nghiệm từ quá trình chuẩn bị và
khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh, mà những kinh nghiệm đó có thể
vận dụng vào sự nghiệp xây dựng, phát triển ở Bắc Trung Bộ hiện nay.
Chương 2
QUÁ TRÌNH CHUẨN BỊ KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN
Ở CÁC TỈNH BẮC TRUNG BỘ (TỪ THÁNG 9-1939 ĐẾN THÁNG 3-1945)
2.1. TÌNH HÌNH CÁC TỈNH BẮC TRUNG BỘ TRƯỚC CHIẾN
TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, tình hình chính trị, kinh tế, xã hội và
truyền thống yêu nước, cách mạng của các tỉnh Bắc Trung Bộ trước năm
1930
2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Trên một miền đất rộng, địa hình Bắc Trung Bộ rất đa dạng, có đủ
rừng núi, trung du, đồng bằng và thềm lục địa.
Bắc Trung Bộ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Lượng
mưa lớn, đồng bằng hẹp ngang, khiến cho hệ thống sông ngòi ở đây có
những nét đặc thù. Phần lớn các con sông chảy theo hướng Tây Bắc - Đông
Nam, qua nhiều miền địa hình, chủ yếu là rừng núi nên sông ngắn, dốc,
nước chảy xiết. Lưu lượng nước không nhiều, phụ thuộc vào chế độ mưa.
2.1.1.2. Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội
Các tỉnh Bắc Trung Bộ với thành phố Huế là kinh đô của Nam triều,
cũng là nơi tập trung bộ máy cai trị của xứ Trung Kì bảo hộ. Triều đình
phong kiến đứng đầu là nhà vua, quan lại, hoàng tộc và 6 bộ đã trở thành
phương tiện phục vụ cho thực dân Pháp. Mọi hoạt động của triều đình đều
bị chi phối bởi Khâm sứ Trung Kì. Tại các tỉnh, chính quyền “bảo hộ” của
thực dân Pháp nắm hết mọi quyền hành chính và tư pháp.
Sau khi dập tắt cuộc khởi nghĩa Hương Khê (1896), thực dân Pháp
tiến hành chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai với quy mô ngày càng
lớn đã tạo nên sự chuyển biến đáng kể của các khu vực kinh tế ở các tỉnh
Bắc Trung Bộ. Bên cạnh đó, hệ thống trường học các cấp và cơ sở y tế có
bước phát triển so với thời gian trước.
Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã dẫn đến sự phân
hóa giai cấp trong xã hội ở các tỉnh ngày càng sâu sắc. Trừ một bộ phận tư
sản mại bản và đại địa chủ có quyền lợi gắn chặt với thực dân Pháp, cấu kết
với chúng, còn đại bộ phận địa chủ vừa và nhỏ, tiểu tư sản và tư sản dân tộc
đều có mâu thuẫn với thực dân Pháp, có tinh thần dân tộc. Giai cấp nông
dân và công nhân bị áp bức bóc lột hết sức nặng nề, là lực lượng đông đảo
và hăng hái của cách mạng.
Các điều kiện kinh tế, xã hội trên đây là tiền đề thúc đẩy nhân dân
các tỉnh Bắc Trung Bộ bước sang thời kì đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.1.1.3. Truyền thống yêu nước và cách mạng
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta (1858), nhân dân các tỉnh Bắc
Trung Bộ đã kiên quyết đứng lên giết giặc cứu nước. Tiêu biểu là cuộc khởi
nghĩa năm Giáp Tuất (1874) do Trần Tấn, Đặng Như Mai, Trần Quang Cán
lãnh đạo nổ ra ở Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình. Trong phong trào Cần
Vương cuối thế kỉ XIX, Bắc Trung Bộ là khu vực mà phong trào đạt đến
đỉnh cao, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Hương Khê (1885 - 1896) do Phan
Đình Phùng lãnh đạo.
Bắc Trung Bộ là địa bàn chiến lược của phong trào yêu nước ở Việt
Nam đầu thế kỉ XX. Ngày 14-7-1925, các chính trị phạm mới ra tù và một
số thanh niên tân học tổ chức cuộc họp tại núi Con Mèo (Vinh - Bến Thủy)
quyết định thành lập Hội Phục Việt.
Có thể thấy, trong công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc,
nhân dân các tỉnh Bắc Trung Bộ đã hun đúc được cho mình một bản sắc
riêng, đó là sự cố kết với nhau để chống kẻ thù chung.
2.1.2. Sự ra đời của tổ chức Đảng và phong trào cách mạng của
nhân dân các tỉnh Bắc Trung Bộ những năm 1930 - 1939
2.1.2.1. Sự ra đời của tổ chức Đảng ở các tỉnh Bắc Trung Bộ
Sự hoạt động tích cực của lớp người cộng sản đầu tiên như: Hồ Tùng
Mậu, Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong, Trương Vân Lĩnh… đã dẫn đến sự ra
đời, đoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và Tân Việt Cách
mạng đảng ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tháng 3-1930, Phân cục
Trung ương Đảng tại Trung Kì được thành lập và đến giữa năm 1930 đổi tên
thành Xứ ủy Trung Kì do Nguyễn Phong Sắc làm Bí thư. Sau khi thành lập,
Xứ ủy cử cán bộ, đảng viên về các tỉnh để xây dựng, phát triển hệ thống tổ
chức Đảng. Tính đến cuối năm 1930 phần lớn các tỉnh Bắc Trung Bộ hình
thành được hệ thống đảng bộ, gồm 6 ban tỉnh ủy: Vinh (3-1930), Nghệ An (31930), Hà Tĩnh (3-1930), Quảng Trị (4-1930), Thừa Thiên (4-1930), Thanh
Hóa (7-1930); 20 thị ủy và huyện ủy; trên 239 chi bộ, 1.440 đảng viên.
Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập tại các tỉnh đánh dấu bước
phát triển quan trọng của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc tại khu vực
này.
2.1.2.2. Phong trào cách mạng của nhân dân các tỉnh Bắc Trung
Bộ những năm 1930 - 1939
Dựa vào đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra trong “Chính
cương vắn tắt”, “Sách lược vắn tắt” (2-1930) và “Luận cương chính trị” (101930), Xứ ủy Trung Kì phát động quần chúng đấu tranh chống đế quốc và
phong kiến, đòi quyền lợi cho các tầng lớp nhân dân.
Trên cơ sở đó, tổ chức Đảng các tỉnh Bắc Trung Bộ vận động quần
chúng đấu tranh đòi các quyền lợi dân sinh, dân chủ. Tiêu biểu là đợt đấu
tranh kỉ niệm ngày Quốc tế Lao động 1-5-1930 diễn ra ở tất cả các tỉnh. Sau
đợt đấu tranh ngày 1-5-1930, phong trào tiếp tục phát triển cả về số lượng và
chất lượng. Từ đầu tháng 9-1930 trở đi, phong trào cách mạng ở Nghệ An,
Hà Tĩnh phát triển ngày càng quyết liệt, riêng ở Nghệ An và Hà Tĩnh nổ ra
1.209 cuộc đấu tranh của các tầng lớp nhân dân.
Cơn bão táp cách mạng ở Nghệ An, Hà Tĩnh dâng lên mạnh mẽ, làm
cho hệ thống chính quyền của đế quốc phong kiến bị tê liệt, tan rã ở nhiều
nơi, đưa đến việc thành lập chính quyền Xô viết ở 200 làng thuộc tỉnh Nghệ
An và 172 làng ở Hà Tĩnh. Trước tình hình đó, thực dân Pháp tiến hành
“khủng bố trắng”. Trung ương Đảng và Xứ ủy Trung Kì ra nghị quyết phát
động quần chúng nhân dân đấu tranh ủng hộ Nghệ Tĩnh đỏ.
Thực hiện nghị quyết của Trung ương Đảng và Xứ ủy Trung Kì, tại
các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình, Thanh Hóa, truyền đơn xuất
hiện ở nhiều nơi kêu gọi ủng hộ Nghệ Tĩnh đỏ và phản đối chính sách khủng
bố của thực dân Pháp. Bên cạnh đó, các cuộc đấu tranh liên tiếp nổ ra ở các
tỉnh. Trước sự phát triển của phong trào, thực dân Pháp tập trung lực lượng
và sử dụng các thủ đoạn thâm độc để đối phó. Do đó, từ giữa năm 1931,
phong trào tạm lắng và chuyển sang một giai đoạn đấu tranh mới.
Mặc dù bị tổn thất nặng nề nhưng cán bộ, đảng viên và quần chúng
cách mạng ở các tỉnh Bắc Trung Bộ vẫn thể hiện tinh thần kiên cường bất
khuất, đấu tranh để khôi phục phong trào trong những năm 1932 - 1935.
Tiêu biểu là các cuộc đấu tranh của tù chính trị ở nhà lao các tỉnh. Cuộc đấu
tranh để phục hồi và phát triển hệ thống tổ chức Đảng đạt được những kết
quả quan trọng, đỉnh cao là việc lập lại các Tỉnh ủy Thanh Hóa, Nghệ An,
Hà Tĩnh và hệ thống cơ sở đảng ở các huyện, tổng, làng. Phong trào đấu
tranh từng bước được khôi phục với sự xuất hiện các cuộc đấu tranh của
công nhân, nông dân và đấu tranh trên mặt trận tư tưởng. Trước sự phục hồi
và phát triển của phong trào, thực dân Pháp tiến hành khủng bố. Đến cuối
năm 1935, tổ chức Đảng các tỉnh từ Nghệ An đến Thừa Thiên lần lượt bị vỡ.
Trước những chuyển biến của tình hình thế giới và trong nước, tháng
7-1936 Hội nghị Trung ương Đảng họp ở Thượng Hải để định ra đường lối
và phương pháp đấu tranh trong tình hình mới. Tỉnh ủy các tỉnh được lập
lại: Nghệ An (9-1936), Hà Tĩnh (10-1936), Thừa Thiên (4-1937), Quảng Trị
(7-1937). Đến thời gian này, Quảng Bình vẫn chưa lập được Tỉnh ủy.
Trên cơ sở đó, phong trào đấu tranh ở các tỉnh chuyển sang một giai
đoạn mới. Mở đầu là phong trào vận động tổ chức Đông Dương đại hội năm
1936, tiếp đến là các cuộc đón Godart đầu năm 1937. Trong những năm
1937 - 1938, tổ chức Đảng các tỉnh hai lần vận động bầu cử thắng lợi cho
các ứng cử viên của Mặt trân dân chủ vào Viện Dân biểu Trung Kì và đấu
tranh chống “Dự án tăng thuế” năm 1938. Các cuộc đấu tranh đòi dân sinh,
dân chủ của công nhân và nông dân liên tiếp nổ ra. Ở các tỉnh Thanh Hóa,
Nghệ An, Hà Tĩnh còn có phong trào đòi “Phòng thủ Đông Dương” và cuộc
vận động ủng hộ nhân dân Trung Hoa chống phát xít Nhật.
Kết quả của phong trào dân chủ 1936 - 1939 là một trong những tiền
đề để các tỉnh Bắc Trung Bộ tiến hành công cuộc chuẩn bị giải phóng dân
tộc.
2.2. QUÁ TRÌNH CHUẨN BỊ KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN
2.2.1. Bối cảnh lịch sử và sự chuyển hướng chỉ đạo cách mạng
Việt Nam của Đảng Cộng sản Đông Dương
2.2.1.1. Tình hình trong nước và các tỉnh Bắc Trung Bộ
Ngay sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp
tiến công phong trào cách mạng Việt Nam. Chính quyền thuộc địa thực hiện
chính sách “kinh tế chiến tranh” nhằm cung cấp tối đa tiềm lực của Đông
Dương cho chính quốc. Tháng 9-1940, phát xít Nhật xâm lược Đông
Dương. Nhân dân Đông Dương phải chịu ách thống trị của cả Pháp lẫn
Nhật.
Được sự hậu thuẫn của thực dân Pháp và phát xít Nhật, nhiều đảng
phái và nhóm chính trị được thành lập. Ngày 5-10-1939, Bảo Đại ban hành
đạo dụ cấm tất cả các cuộc hội họp tuyên truyền cộng sản ở Trung Kì và tịch
thu các loại sách báo tiến bộ.
Tại các tỉnh Bắc Trung Bộ, thực dân Pháp tiến hành cuộc tổng điều
tra dân số, sắp xếp lại hệ thống hành chính nhằm tăng cường nguồn nhân lực
để thực hiện chính sách khai thác, bóc lột. Sau hiệp ước ngày 23-7-1941,
phát xít Nhật bắt đầu đưa quân vào các tỉnh. Thừa Thiên, Quảng Trị, Nghệ
An và Thanh Hóa trở thành các căn cứ quân sự quan trọng của Nhật.
Ở Bắc Trung Bộ, phần tử thân Nhật “sáng giá” nhất là Ngô Đình
Diệm. Giữa năm 1943, Ngô Đình Diệm cử Phan Thúc Ngộ sang Nhật bắt
liên lạc với Cường Để, đồng thời giao Đỗ Mậu thảo một kế hoạch, chuẩn bị
cho Cường Để về nước lập chính phủ thân Nhật.
Đi đôi với chính sách khủng bố về chính trị, thực dân Pháp tăng cường
bóc lột về kinh tế để phục vụ cho nhu cầu chiến tranh. Nhân cơ hội chiến tranh,
tư sản mại bản, tư sản nước ngoài ở các tỉnh Bắc Trung Bộ ra sức vơ vét hàng
hóa, đầu cơ tích trữ làm cho hàng hóa càng khan hiếm. Ở các vùng nông thôn,
tầng lớp địa chủ, quan lại, kể cả tổng lí cũng dùng đủ mọi mưu mẹo để bóc lột
nhân dân. Vì vậy, đời sống của nông dân và công nhân hết sức khó khăn. Đời
sống của tiểu tư sản, tư sản, địa chủ vừa và nhỏ cũng sa sút. Không có con
đường nào khác, họ phải vùng dậy đấu tranh để lật đổ ách thống trị bạo tàn, thiết
lập nên một chế độ xã hội mới.
2.2.1.2. Chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương
Từ Hội nghị Trung ương tháng 11-1939 đến Hội nghị Trung ương 8,
Đảng Cộng sản Đông Dương đã hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng đấu
tranh trong tình hình mới với các nội dung quan trọng như: Đặt nhiệm vụ
giải phóng dân tộc lên hàng đầu; tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất,
chỉ đề ra khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian phản quốc
chia cho dân cày, tiến hành giảm tô, giảm tức, chia lại công điền cho hợp lí,
tiến tới thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng; tăng cường mặt trận dân tộc
thống nhất; nhấn mạnh đến sự đoàn kết ba dân tộc ở Đông Dương; chủ
trương về khởi nghĩa vũ trang và dự kiến hình thái khởi nghĩa là từ khởi
nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa khi thời cơ chín muồi.
2.2.2. Kết hợp chuẩn bị với đấu tranh tiến tới khởi nghĩa giành
chính quyền ở các tỉnh Bắc Trung Bộ
2.2.2.1. Khôi phục tổ chức cơ sở Đảng sau các đợt khủng bố của
thực dân Pháp
Mặc dù bị thực dân Pháp khủng bố dữ dội nhưng sau một thời gian,
tổ chức Đảng ở phần lớn các tỉnh Bắc Trung Bộ được củng cố lại và có bước
phát triển. Tính đến tháng 3-1945, 4/6 tỉnh ở Bắc Trung Bộ có tổ chức Đảng
là Thanh Hóa, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên; trong đó 2 tỉnh có cơ
quan tỉnh ủy lãnh đạo là Thanh Hóa, Thừa Thiên. Các tỉnh Nghệ An, Hà
Tĩnh có đảng viên hoạt động song không lập lại được tổ chức Đảng. Tuy
chưa được đều khắp, thiếu vững chắc nhưng sự khôi phục lại bộ máy lãnh
đạo các cấp đóng vai trò quan trọng trong việc phục hồi hệ thống tổ chức
của Đảng và trong lãnh đạo phong trào cách mạng.
2.2.2.2. Xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng
Xây dựng lực lượng chính trị
Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị Trung ương Đảng tháng 111939, tổ chức Đảng các tỉnh chủ trương chuyển các tổ chức quần chúng từ
công khai thành các đoàn thể “phản đế”, nhờ đó hệ thống tổ chức quần
chúng có những nơi lên đến cấp huyện. Các tổ chức xã hội như Thanh niên
Phật tử, Thanh niên thể dục thể thao, Hội truyền bá quốc ngữ được thành
lập, thu hút sự tham gia đông đảo của thanh niên, trí thức, tín đồ Phật tử trên
địa bàn các tỉnh.
Sau khi nhận được “Nghị quyết Trung ương 8”, từ đầu cho đến cuối
năm 1942, tổ chức Đảng các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng
Trị và Thừa Thiên đã thành lập Ủy ban Việt Minh hay Ủy ban vận động
Việt Minh ở một số nơi, đồng thời chuyển các hội phản đế thành các hội cứu
quốc, cơ sở Việt Minh hình thành ở Thọ Xuân, Thiệu Hóa, Yên Định
(Thanh Hóa); Vinh, Quỳnh Lưu, Diễn Châu (Nghệ An); Quảng Trạch, Bố
Trạch, Đồng Hới, Lệ Thủy (Quảng Bình); Vĩnh Linh, Triệu Phong, Hải
Lăng (Quảng Trị), Phong Điền, Huế, Phú Lộc (Thừa Thiên).
Đầu năm 1943, tổ chức Đảng ở Hà Tĩnh vẫn chưa liên lạc được với
Trung ương. Trước tình hình đó, một số cán bộ đã thành lập một tổ chức
cách mạng, lấy tên là Hội Việt Nam cứu quốc. Sau khi thành lập, Hội Việt
Nam cứu quốc Hà Tĩnh bắt liên lạc được với tổ chức Đảng ở Nghệ An, nhận
được các tài liệu của Mặt trận Việt Minh. Tháng 4-1943, Hội Việt Nam cứu
quốc Hà Tĩnh đổi thành Mặt trận cứu quốc. Mặt trận cứu quốc Hà Tĩnh đã
tích cực xây dựng cơ sở ở các huyện Can Lộc, Đức Thọ, Thạch Hà, Cẩm
Xuyên, Hương Sơn, Hương Khê.
Điểm nổi bật trong xây dựng lực lượng chính trị ở các tỉnh Bắc
Trung Bộ là sự phát triển của Hội truyền bá quốc ngữ. Thông qua hoạt động
của Hội, nhiều giáo viên và thanh niên đã liên lạc với tổ chức thanh niên cứu
quốc, trở thành cán bộ của quần chúng và Mặt trận Việt Minh.
Xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa
Đầu năm 1941, Xứ ủy lâm thời Trung Kì chủ trương tiến hành vũ
trang toàn dân chuẩn bị cho một cuộc khởi nghĩa.
Thực hiện chủ trương của Xứ ủy Trung Kì, các tỉnh Bắc Trung Bộ
tiến hành xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa. Tại Thanh Hóa, trên cơ
sở Hội phản đế cứu quốc phát triển mạnh, các cán bộ, đảng viên chỉ đạo xây
dựng lực lượng tự vệ, du kích ở các làng, tổng và trong số đó lựa chọn
những người đủ tiêu chuẩn xây dựng các tiểu tổ du kích. Cuối tháng 7-1941,
chiến khu Ngọc Trạo được thành lập. Ngày 19-9-1941, thành lập đội du kích
Ngọc Trạo gồm 21 chiến sĩ, đến cuối tháng 9-1941, quân số của đội lên tới
84 người và được phiên chế theo từng bộ môn.
Ngày 18-10-1941, thực dân Pháp huy động 500 lính và hàng ngàn
tuần đinh, chia làm bốn cánh quân bao vây chiến khu Ngọc Trạo. Cuộc
chiến đấu diễn ra quyết liệt, nhưng do tương quan lực lượng quá chênh lệch
nên tối ngày 19-10-1941 đội du kích đã bí mật rút khỏi Ngọc Trạo, sau đó
phân tán lực lượng về địa phương.
Mặc dù chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn nhưng chiến khu Ngọc
Trạo là đỉnh cao của phong trào phản đế cứu quốc ở Thanh Hóa, có ảnh
hưởng lớn đối với nhân dân địa phương và các tỉnh xung quanh.
Tháng 3-1942, Ban liên lạc Đảng huyện Lệ Thủy (Quảng Bình)
thành lập đội tự vệ gồm 13 chiến sĩ. Tại Phú Lộc (Thừa Thiên), tháng 71942, thành lập đội tự vệ gồm 7 chiến sĩ, trang bị giáo mác, dao găm. Tháng
4-1943, Mặt trận cứu quốc Hà Tĩnh thành lập các đội tự vệ. Các căn cứ du
kích ở Ngàn Trươi và Truông Bát (Hương Khê) được xây dựng. Dưới hình
thức các nhóm học võ dân tộc, Việt Minh Thanh Hóa chọn lựa một số người
có đủ tiêu chuẩn vào các đội tự vệ cứu quốc. Tháng 3-1944, Tỉnh ủy Thanh
Hóa mở lớp huấn luyện quân sự đầu tiên tại Nga Sơn.
Sau khi Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị “Sửa soạn khởi nghĩa”, các
tỉnh Bắc Trung Bộ đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang. Tại Thừa Thiên,
giữa năm 1944, Huyện ủy Phú Lộc tiến hành củng cố và phát triển đội tự vệ
Diêm Trường. Ngày 24-6-1944, Hội nghị đại biểu Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa
đề ra chủ trương gấp rút mở thêm nhiều lớp huấn luyện chính trị, quân sự
ngắn hạn, mỗi huyện, phủ phải có một địa điểm bí mật huấn luyện chính trị,
quân sự. Phong trào luyện tập quân sự diễn ra sôi nổi ở các phủ huyện. Tại
Hội nghị Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa được tổ chức vào ngày 3-3-1945 chủ
trương các đội tự vệ tiến hành tập kích, lấy vũ khí địch tự trang bị.
2.2.2.3. Đấu tranh chống đế quốc - phát xít và tay sai
Cùng lúc với những cố gắng khôi phục lại phong trào của các đảng
viên ở bên ngoài, các đảng viên trong các lao tù cũng tích cực hoạt động.
Hàng chục cuộc đấu tranh nổ ra tại các nhà lao trong năm 1940 và 1941.
Bên cạnh đó, nhiều cuộc đấu tranh của các giai cấp, tầng lớp khác
liên tiếp nổ ra. Tiêu biểu là các cuộc đấu tranh của công nhân Vinh - Bến
Thủy, Nhà máy diêm Hàm Rồng, đồn điền Rome ở Hướng Hóa (Quảng Trị)
với nhiều hình thức phong phú, buộc giới chủ phải nhượng bộ. Những vụ
kiện hào lí nhũng nhiễu, đấu tranh chống bắt phu, bắt lính, chống sưu thuế,
chống thu thóc, chống phá hoa màu trồng bông là những hình thức đấu tranh
phổ biến của nông dân ở nông thôn các tỉnh. Một số địa chủ, phú nông và
hào lí có tinh thần dân tộc đã tham gia ủng hộ các cuộc đấu tranh của nông
dân.
Các cuộc mít tinh với sự tham gia của hàng ngàn người dân được tổ
chức ở Triệu Phong, Cam Lộ, Vĩnh Linh (Quảng Trị) ngày 20 và 21-101940. Ngày 4-1-1941, 2.000 học sinh thành phố Vinh đấu tranh chống chủ
hiệu buôn vải người Ấn Độ. Đặc biệt, ngày 13-1-1941, Nguyễn Văn Cung
chỉ huy binh lính Việt Nam yêu nước nổi dậy đánh chiếm các đồn Chợ
Rạng, Đô Lương và định tiến đánh chiếm thành phố Vinh. Ngày 22-1-1941,
nhân dân Hưng Nguyên - Nghệ An tổ chức mít tinh tại Chợ Liễu. Tiếp đó,
đêm 14-5-1941, dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Sông Con (Hương Sơn - Hà
Tĩnh), quần chúng nhân dân đã tiến công tiêu diệt chủ đồn điền Ferrey. Lực
lượng tự vệ của một số địa phương tổ chức các cuộc phục kích vào các toán
binh lính đi tuần tra để giải vây cán bộ bị bắt. Tiêu biểu là trận phục kích
của tiểu đội tự vệ ở Thiệu Hóa (Thanh Hóa) ngày 14-7-1941. Ngày 4-121943, nhân dân Hoằng Hóa đấu tranh ngăn cản đoàn xe chở 500 phu làm
đường của phát xít Nhật. Đặc biệt, đêm 21-9-1944, truyền đơn cách mạng
được rải ở thị xã Thanh Hóa và các phủ huyện đồng bằng, trung du trong
tỉnh, khiến chính quyền thực dân hết sức căm phẩn. Ngày 25-2-1945, học
sinh Trường Trung học bảo hộ Thanh Hóa bãi khóa để phản đối việc thực
dân Pháp bắt giữ giáo viên và học sinh của Trường.
Như vậy, từ tháng 9-1939 đến tháng 3-1945, mặc dù thực dân Pháp,
phát xít Nhật tiến hành khủng bố dữ dội phong trào cách mạng Việt Nam
nhưng tại các tỉnh Bắc Trung Bộ vẫn nổ ra nhiều cuộc đấu tranh của các giai
cấp và tầng lớp khác nhau.
Chương 3
GẤP RÚT CHUẨN BỊ VỀ MỌI MẶT VÀ KHỞI NGHĨA
GIÀNH CHÍNH QUYỀN Ở CÁC TỈNH BẮC TRUNG BỘ
(TỪ THÁNG 3-1945 ĐẾN THÁNG 8-1945)
3.1. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN ĐÔNG DƯƠNG SAU
KHI NHẬT ĐẢO CHÍNH PHÁP
3.1.1. Âm mưu và thủ đoạn của phát xít Nhật
Đêm 9-3-1945, quân Nhật nổ súng đánh Pháp cùng lúc trên toàn
Đông Dương. Quân Pháp chống cự yếu ớt và sau hơn một ngày thì đầu hàng
phát xít Nhật. Ngay sau đảo chính, Nhật tuyên bố “trao trả độc lập” cho Việt
Nam. Về phía Nam triều, Bảo Đại vốn là vua bù nhìn của thực dân Pháp trở
thành vua bù nhìn của phát xít Nhật. Ngày 17-4-1945, Chính phủ thân Nhật
do Trần Trọng Kim làm Thủ tướng được thiết lập.
Sau ngày đảo chính Pháp, phát xít Nhật đưa khoảng 9.000 quân vào chiếm
đóng ở những vị trí quan trọng của các tỉnh và thực hiện chính sách cướp bóc hết
sức tàn bạo. Được sự hậu thuẫn của phát xít Nhật, các đảng phái chính trị thân
Nhật được thành lập, hoạt động mạnh và có mặt ở hầu khắp các tỉnh. Phát xít Nhật
còn mở trường dạy tiếng Nhật, tổ chức chiếu phim, thi đấu thể thao… nhằm lôi
kéo tầng lớp thanh niên, học sinh theo chúng. Chính sách thống trị tàn bạo của
phát xít Nhật đã đẩy nhân dân các tỉnh lâm vào con đường điêu đứng, bế tắc. Nạn
đói khủng khiếp cuối năm 1944 đầu năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ đã nói lên
sự thật đó.
Có thể nói, chính sách cướp bóc tàn bạo của phát xít Nhật đã phơi bày bản
chất của nó và đẩy nhanh quá trình cách mệnh hóa của các giai tầng ở Bắc Trung
Bộ.
3.1.2. Chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương
Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị
“Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” xác định kẻ thù chủ yếu
của nhân dân Đông Dương lúc này là phát xít Nhật, do đó khẩu hiệu “đánh
đuổi Pháp - Nhật” được thay bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật” và
nêu khẩu hiệu “thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân”, chống lại
Chính phủ Trần Trọng Kim, phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước
mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa, sẵn sàng chuyển qua hình
thức tổng khởi nghĩa khi đã đủ điều kiện. Đảng Cộng sản Đông Dương còn
đề ra một chủ trương sáng tạo là “phá kho thóc, giải quyết nạn đói”.
Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” có tác
dụng to lớn đối với sự phát triển của cao trào kháng Nhật cứu nước và cuộc
Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.
3.2. GẤP RÚT XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VỀ MỌI MẶT TIẾN TỚI
KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN
3.2.1. Xây dựng và củng cố tổ chức cơ sở Đảng
Sau ngày 9-3-1945, nhiều cán bộ, đảng viên có kinh nghiệm thoát
khỏi các nhà tù, căng an trí tập trung của đế quốc trở về địa phương hoạt
động. Được bổ sung cán bộ, hệ thống tổ chức Đảng một số tỉnh nhanh chóng
được khôi phục, củng cố.
Tháng 4-1945, Tỉnh ủy lâm thời Quảng Trị được lập lại. Sau đó các
Phủ ủy Vĩnh Linh, Triệu Phong, Hải Lăng và Huyện ủy Gio Linh được lập lại.
Tháng 4-1945, Tỉnh ủy Thanh Hóa mở hội nghị bàn biện pháp triển khai chỉ
thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng. Sau hội nghị, Tỉnh ủy lâm thời
được củng cố. Tổ chức cơ sở Đảng được xây dựng ở các phủ, huyện Thạch
Thành, Vĩnh Lộc, Thiệu Hóa, Hoằng Hóa, Yên Định, Hà Trung, Hậu Lộc,
Nga Sơn, Nông Cống. Ngày 23-5-1945, Hội nghị cán bộ toàn tỉnh Thừa Thiên
được triệu tập tại đầm Cầu Hai (Phú Lộc) chủ trương đẩy mạnh công cuộc
chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Từ sau hội nghị trên, Tỉnh ủy lâm thời
Thừa Thiên được củng cố, tổ chức cơ sở Đảng được xây dựng ở các huyện, thị
trong tỉnh. Trong đó, thành phố Huế, huyện Phú Lộc đã lập được thị ủy và
huyện ủy lâm thời. Ở Nghệ An và Hà Tĩnh, do chưa có một tổ chức lãnh đạo
chung và cũng chưa bắt được liên lạc với Trung ương Đảng nên các cán bộ,
đảng viên tự phân công tỏa đi các nơi để bắt liên lạc và xây dựng cơ sở. Sau
một thời gian, các tổ chức cơ sở Đảng ở Nghệ An và Hà Tĩnh được phục hồi.
Tại Quảng Bình, tháng 6-1945, Chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương được
thành lập ở thị xã Đồng Hới gồm 6 đảng viên. Ở Quảng Trạch, Bố Trạch,
Quảng Ninh và Lệ Thủy, các tổ chức cơ sở Đảng có nhiều hoạt động chống
các chính sách của phát xít Nhật và tay sai.
Mặc dù tổ chức cơ sở Đảng ở các tỉnh được phục hồi và hoạt động
khá tích cực, nhưng tại một số địa phương, giữa nhóm này với nhóm khác
vẫn còn có những hiện tượng thành kiến, nghi kị lẫn nhau. Trước tình hình
đó, ngày 27-6-1945, Thường vụ Trung ương Đảng gửi thư kêu gọi các đồng
chí Trung Kì mau thống nhất lại.
Ở Nghệ An và Hà Tĩnh, trong bối cảnh chưa khôi phục được Tỉnh
ủy, các cán bộ, đảng viên và những người yêu nước đã tập hợp nhau lại
trong tổ chức Việt Minh, hình thành nên hạt nhân để lãnh đạo phong trào.
Cuối tháng 6-1945, Tỉnh ủy lâm thời Quảng Trị được đổi tên thành Ban vận
động thống nhất Đảng bộ Quảng Trị. Ngày 2-7-1945, Ban vận động thống
nhất Đảng bộ Quảng Bình được thành lập.
3.2.2. Đẩy mạnh xây dựng lực lượng chính trị
3.2.2.1. Xây dựng, củng cố và phát triển Mặt trận Việt Minh
Ở Quảng Trị, sau Hội nghị cán bộ chủ chốt toàn tỉnh tổ chức vào
tháng 4-1945, Ủy ban Việt Minh từ phủ, huyện đến tổng, làng được thành
lập. Đông đảo công nhân, nông dân, thanh niên tham gia hội cứu quốc.
Từ tháng 4 đến tháng 7-1945, Ban cán sự Việt Minh được thành lập
ở nhiều phủ huyện trung du, đồng bằng, ven biển, xuống tận các tổng, xã,
làng thuộc tỉnh Thanh Hóa. Tính đến đầu tháng 8-1945, số quần chúng của
các hội cứu quốc trong tỉnh đã lên đến hàng chục vạn người.
Sau hội nghị cán bộ toàn tỉnh (5-1945), ở Thừa Thiên tồn tại hai tổ
chức Việt Minh đó là: Việt Minh Nguyễn Tri Phương và Việt Minh Thuận
Hóa. Cuối tháng 6-1945, ban lãnh đạo hai tổ chức Việt Minh họp tại Huế
quyết định sáp nhập tổ chức Việt Minh Thuận Hóa vào Việt Minh Nguyễn
Tri Phương và thống nhất kế hoạch hoạt động. Nhờ đó, đến tháng 7-1945,
Mặt trận Việt Minh được thành lập ở tất cả các huyện trong tỉnh. Nhiều nơi,
Chấp ủy Việt Minh được thành lập ở cấp tổng, xã.
Ngày 19-5-1945, Ban vận động Việt Minh Nghệ Tĩnh được thành
lập. Từ cuối tháng 5 đến đầu tháng 7-1945, Chấp ủy Việt Minh được thành
lập ở 15 phủ, huyện, thị xã và thành phố thuộc hai tỉnh. Ngày 8-8-1945, Đại
hội đại biểu Việt Minh Nghệ Tĩnh được tổ chức đã bầu Ban Chấp hành Việt
Minh Nghệ Tĩnh gồm 7 ủy viên, do Nguyễn Xuân Linh làm Bí thư.
Ở Quảng Bình, cơ sở Việt Minh được thành lập ở Quảng Ninh,
Quảng Trạch, Lệ Thủy, Bố Trạch, Tuyên Hóa. Tại Đồng Hới, cơ sở Việt
Minh được hình thành trong nội thị và các làng ngoại ô. Ngày 4-7-1945, Hội
nghị cán bộ Việt Minh toàn tỉnh được tổ chức quyết định thống nhất lực
lượng Việt Minh. Sau hội nghị, Ban Chấp hành Việt Minh các tổng, làng
được thành lập. Các tổ chức cứu quốc được hình thành từ thành thị đến nông
thôn thu hút đông đảo quần chúng tham gia.
3.2.2.2. Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền chống phát xít Nhật và tay sai
Trong việc xây dựng lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa giành chính
quyền, công tác đấu tranh trên mặt trận tư tưởng với phát xít Nhật và tay sai
có vai trò đặc biệt quan trọng. Nhận thức được vấn đề đó, tổ chức Đảng và
Mặt trận Việt Minh các tỉnh đã sử dụng truyền đơn, báo chí để vạch mặt nền
độc lập giả hiệu, những thủ đoạn của phát xít Nhật và tay sai, động viên lòng
yêu nước và tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân.
3.2.2.3. Lợi dụng tổ chức Thanh niên xã hội và “Việt Minh hóa”
học viên Trường Thanh niên Tiền tuyến Huế
Để làm thất bại âm mưu của các phần tử tay sai thân Nhật và tập hợp
đông đảo quần chúng nhân dân, Việt Minh các tỉnh Bắc Trung Bộ đề ra chủ
trương lợi dụng tổ chức Thanh niên xã hội với nhiều hình thức đấu tranh
linh hoạt tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của các địa phương. Nhờ đó, Việt
Minh các tỉnh không những tránh được sự khủng bố và phá hoại của kẻ thù,
hạn chế địa bàn hoạt động của tay sai, mà còn lôi kéo được tuyệt đại bộ
phận quần chúng trong các tổ chức thân Nhật đi theo cách mạng.
Ngày 2-7-1945, Trường Thanh niên Tiền tuyến được thành lập, đồng
thời khai giảng khóa đào tạo đầu tiên và duy nhất của Trường gồm 43 học
viên. Ngay từ đầu trong Trường đã có một tổ Việt Minh gồm 3 người, sau
đó phát triển lên 5 người và thành lập Ban Việt Minh. Ban Việt Minh đã chủ
động bắt liên lạc với các nhóm Việt Minh công chức ở các trường học tại
Huế. Qua sự tuyên truyền vận động của Ban Việt Minh, đến giữa tháng 71945, toàn bộ học viên của Trường đã ngả theo cách mạng.
3.2.2.4. Vận động các tầng lớp trung gian tham gia hội cứu quốc
Để vận động binh lính, các tỉnh Nghệ An, Quảng Bình và Thừa
Thiên thành lập Ban binh vận. Việt Minh các tỉnh xây dựng được cơ sở nội
ứng trong đồn bảo an binh, nắm được lính lệ canh gác ở một số phủ, huyện
đường hoặc vận động được một số binh lính làm nội ứng khi khởi nghĩa.
Các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình và Thừa Thiên đẩy mạnh
công tác vận động công chức, học sinh, nhân sĩ, trí thức tham gia các hội
cứu quốc và đạt được những kết quả quan trọng. Đối với các tôn giáo, chủ
trương của Việt Minh các tỉnh là vận động nắm tín đồ Phật giáo, Công giáo,
phân hóa cao độ để hạn chế sự chống đối của chức sắc phản động trong các
tôn giáo này.
Đối với Chính phủ Trần Trọng Kim, Việt Minh các tỉnh nêu rõ khẩu
hiệu đánh đổ nhưng đối với từng cá nhân trong nội các, ở cấp tỉnh, huyện,
các tổ chức Đảng, Mặt trận Việt Minh có sách lược cụ thể với từng đối
tượng, trung lập hóa những đối tượng có thể trung lập được. Nhiều huyện
trưởng, tỉnh trưởng khi được vận động đều rất thiện chí, sẵn sàng hợp tác
với Việt Minh. Công tác vận động quan chức cao cấp trong triều đình Huế
và Chính phủ Trần Trọng Kim cũng đạt được những kết quả quan trọng.
Như vậy, đến giữa tháng 8-1945, các tỉnh Bắc Trung Bộ đã xây dựng
được lực lượng chính trị đủ mạnh để bước vào khởi nghĩa giành chính quyền.
3.2.3. Đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa
Ở Thanh Hóa, Hội nghị Tỉnh ủy tổ chức vào tháng 4-1945 chủ trương
phát triển các đội tự vệ, đẩy mạnh công tác tuyên truyền vũ trang, xây dựng
chiến khu, vũ trang toàn dân tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền. Đến trước
ngày khởi nghĩa, Thanh Hóa đã phát triển được một lực lượng vũ trang với
hơn 2 vạn chiến sĩ du kích và tự vệ. Tháng 7-1945, vùng giải phóng Triệu
Phong (Quảng Trị) được thành lập. Ở Hải Lăng, thành lập chiến khu Thượng
Nguyên - Phú Long. Các đội tự vệ được thành lập ở Cam Lộ, thị xã Quảng
Trị, Triệu Phong và Hải Lăng. Các lớp huấn luyện quân sự được tổ chức,
phong trào luyện tập quân sự phát triển rầm rộ, công khai trong quần chúng. Ở
Thừa Thiên, các đội tự vệ được thành lập tại nhiều địa phương thuộc các
huyện Phong Điền, Quảng Điền, Phú Vang, Hương Thủy, Phú Lộc và thành
phố Huế. Ở Nghệ An, các đội tự vệ được thành lập và phát triển nhanh chóng,
rộng khắp từ thành thị đến nông thôn. Ở Hà Tĩnh, lực lượng tự vệ phát triển
nhanh ở các xã của huyện Can Lộc và Hương Sơn. Đến trước ngày khởi
nghĩa, toàn tỉnh có khoảng 1.000 đội viên tự vệ và đã xây dựng được các khu
căn cứ ở Tràng Sim, Khe Trầm (Hương Sơn), Truông Bát (Hương Khê). Ở
Quảng Bình, các đội tự vệ được thành lập ở thị xã Đồng Hới và các phủ,
huyện để làm nòng cốt cho quần chúng nhân dân khởi nghĩa giành chính
quyền. Trung Thuần (Quảng Trạch), Võ Xá (Quảng Ninh), Bàu Rèng (Đồng
Hới) được xây dựng thành các khu căn cứ.
Cùng với việc phát triển lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa,
việc chuẩn bị vũ khí cũng được gấp rút thực hiện. Tính chung, đến trước
Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, trong 6 tỉnh số súng chỉ hơn 600
khẩu, phân bố rải rác ở nhiều phủ huyện. Vũ khí chủ yếu của tự vệ, du kích
vẫn là dao, kiếm, mã tấu, gậy.
Có thể nói, đến trước ngày khởi nghĩa giành chính quyền, các tỉnh
Bắc Trung Bộ đã xây dựng được lực lượng cách mạng khá hùng hậu, sẵn
sàng cùng với cả nước “đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
3.3. CAO TRÀO KHÁNG NHẬT CỨU NƯỚC
3.3.1. Phong trào phá kho thóc, giải quyết nạn đói
Trước thực tế nạn đói diễn ra ngày càng trầm trọng, tổ chức Đảng,
Việt Minh các tỉnh Bắc Trung Bộ đã phát động phong trào đấu tranh cứu
đói diễn ra mạnh mẽ, thu hút nhiều tầng lớp nhân dân tham gia, hình
thức đấu tranh phong phú.
Phong trào phá kho thóc, giải quyết nạn đói đã thu được nhiều thắng
lợi lớn. Thắng lợi đó không những đã giải quyết phần nào nạn đói trước mắt,
mà còn phát động được một phong trào quần chúng rộng lớn, tạo ra động
lực thực sự, thổi bùng ngọn lửa đấu tranh cách mạng ở các tỉnh Bắc Trung
Bộ.
3.3.2. Đẩy mạnh tuyên truyền xung phong, khởi nghĩa từng phần,
lập chính quyền cách mạng
Các đội tuyên truyền xung phong tỏa xuống các làng nổi trống, mõ,
tổ chức mít tinh đông người, treo cờ đỏ sao vàng, giăng biểu ngữ, công khai
giải thích chủ trương kháng Nhật cứu nước của Mặt trận Việt Minh. Các
cuộc mít tinh, biểu tình càng dồn dập, diễn ra đồng loạt ở nhiều phủ, huyện,
thị của các tỉnh với khí thế cờ giong trống thúc uy hiếp tinh thần tổng lí địa
phương, tấn công trực diện vào chính quyền cơ sở.
Trước khí thế sôi nổi của cách mạng, một số lí trưởng mang sổ sách,
con dấu nộp cho Việt Minh, một số chánh tổng thì lo sợ, không dám hoạt
động. Trên cơ sở đó, chính quyền cách mạng của nhân dân được thiết lập ở
nhiều làng thuộc huyện Hà Trung, Thiệu Hóa và Hoằng Hóa (Thanh Hóa);
Quảng Trạch, Quảng Ninh (Quảng Bình); Triệu Phong, Gio Linh (Quảng
Trị) và Phú Lộc (Thừa Thiên). Bên cạnh đó, cuộc khởi nghĩa từng phần cấp
huyện đã bùng nổ và giành được thắng lợi ở Hoằng Hóa.
Cao trào kháng Nhật cứu nước đánh dấu sự hoàn thành về cơ bản quá
trình chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
3.4. THỜI CƠ VÀ KẾ HOẠCH KHỞI NGHĨA CỦA ĐẢNG BỘ, MẶT
TRẬN VIỆT MINH CÁC TỈNH BẮC TRUNG BỘ
3.4.1. Thời cơ của cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh
Bắc Trung Bộ
Với sự kiện Mĩ thả 2 quả bom nguyên tử xuống hai thành phố
Hirosima (6-8-1945) và Nagasaki (9-8-1945), cùng với thắng lợi của Hồng
quân Liên Xô, phát xít Nhật chấp nhận đầu hàng Đồng minh không điều
kiện. Thời cơ của một tổng khởi nghĩa đã chín muồi trong toàn quốc.
Chớp lấy thời cơ thuận lợi, chiều ngày 13-8-1945, Trung ương Đảng
và Tổng bộ Việt Minh đã thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc, phát lệnh
tổng khởi nghĩa trong cả nước. Ngày 14 và 15-8-1945, Hội nghị toàn quốc
của Đảng họp tại Tân Trào quyết định lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa, đề ra
chính sách về đối nội, đối ngoại cần thực hiện sau khi tổng khởi nghĩa thắng
lợi. Ngày 16 và 17-8-1945, Quốc dân đại hội cũng được tổ chức ở Tân Trào
đã tán thành quyết định tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách
lớn của Việt Minh, cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí
Minh làm Chủ tịch.
Quyết định Tổng khởi nghĩa của Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt
Minh đã đáp ứng nguyện vọng của toàn thể nhân dân Việt Nam, là điều kiện
có ý nghĩa hàng đầu để Việt Minh các tỉnh Bắc Trung Bộ lãnh đạo quần
chúng nhân dân đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền trong bối cảnh thời
cơ cách mạng ở đây đã chín muồi.
Tuy vậy, ở Bắc Trung Bộ, bên cạnh thời cơ thuận lợi cũng có một số
khó khăn. Tại thành phố Huế tập trung đông đảo đội ngũ trí thức, công chức
tham gia trong chính quyền của thực dân Pháp, phát xít Nhật trước đây. Bảo
Đại và Trần Trọng Kim vẫn chưa muốn từ bỏ quyền lực. Quân Nhật tập
trung ở Bắc Trung Bộ tương đối đông (khoảng 9.000 quân), lại chưa nhận
được lệnh hạ vũ khí đầu hàng, nhiều địa phương chưa nhận được lệnh tổng
khởi nghĩa. Ở miền núi các tỉnh, cơ sở cách mạng còn yếu, nhất là miền núi
tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An.
Tình hình trên đây đặt ra cho Việt Minh các tỉnh Bắc Trung Bộ, nhất
là ở Thừa Thiên cần phải có đối sách phù hợp để đưa cách mạng đến thắng
lợi trọn vẹn, ít đổ máu và đảm bảo được khối đoàn kết để tiếp tục chống các
thế lực ngoại xâm.
3.4.2. Kế hoạch khởi nghĩa của các tỉnh Bắc Trung Bộ
Trong điều kiện liên lạc hết sức khó khăn, không máy móc chờ lệnh
của Trung ương Đảng, ngày 8-8-1945, Việt Minh Nghệ Tĩnh đã nhạy bén
lập ra Ủy ban khởi nghĩa và chủ trương: “Cướp chính quyền bắt đầu từ xã
rồi đến huyện lị... Thành phố Vinh vì ở vào một trường hợp đặc biệt nên cần
phải chờ kết quả của các địa phương rồi mới định đoạt”. Sau khi tiếp nhận
được tin Nhật Bản đầu hàng các nước Đồng minh, chiều ngày 15-8-1945,
Ủy ban khởi nghĩa Nghệ Tĩnh đã ban hành lệnh khởi nghĩa.
Ngày 10-8-1945, Thường vụ Việt Minh Thừa Thiên họp và quyết
định: Sau khi phát xít Nhật đầu hàng các nước Đồng minh phải chớp thời cơ
phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn tỉnh, không chờ
lệnh của Trung ương. Ngày 20-8-1945, Ủy ban khởi nghĩa tỉnh Thừa Thiên
được thành lập do Tố Hữu làm Chủ tịch. Đêm 21-8-1945, Ủy ban khởi
nghĩa tỉnh họp và quyết định tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền ở
thành phố Huế vào ngày 23-8-1945.
Ngày 13-8-1945, Tỉnh ủy Thanh Hóa họp hội nghị mở rộng để thảo
luận việc khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 15-8-1945, Thanh Hóa nhận
được tin Nhật đầu hàng Đồng minh. Mặc dù chưa nhận được lệnh khởi
nghĩa của Trung ương nhưng hội nghị quyết định thành lập Ủy ban khởi
nghĩa và Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh, đồng thời phát động
toàn dân nổi dậy giành chính quyền vào đêm 18-8-1945.
Ngày 13-8-1945, Tỉnh ủy Quảng Trị tiến hành họp để bàn kế hoạch
khởi nghĩa. Ngày 18-8-1945, trong khi Hội nghị cán bộ toàn tỉnh đang họp
thì nhận được lệnh khởi nghĩa của Trung ương do Trần Hữu Dực và Đặng
Thí đi dự Hội nghị thành lập Xứ ủy Trung Kì trở về truyền đạt. Hội nghị
quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa tỉnh và ngày khởi nghĩa chiếm thị
xã Quảng Trị là đêm 22 rạng sáng ngày 23-8-1945. Các phủ, huyện trong
tỉnh khởi nghĩa cùng ngày giờ trên. Các huyện Hướng Hóa, Cam Lộ bao
gồm thị trấn Đông Hà, có nhiều quân Nhật đóng phải chậm lại 1 đến 3 ngày.
Ngày 15-8-1945, Tỉnh bộ Việt Minh Quảng Bình tổ chức hội nghị để
bàn kế hoạch khởi nghĩa. Ngay sau khi nhận được lệnh khởi nghĩa của
Trung ương, ngày 17-8-1945, Tỉnh bộ Việt Minh tổ chức hội nghị và quyết
định: “Lấy ngày 23-8-1945 làm ngày khởi nghĩa chung cho toàn tỉnh. Khởi
nghĩa giành chính quyền ở tỉnh lị Đồng Hới và các phủ, huyện trong cùng
một ngày, cùng một lúc, sau đó giải quyết hệ thống chính quyền tổng, xã”.
Như vậy, chủ trương khởi nghĩa ở các tỉnh Bắc Trung Bộ được tiến
hành sớm, thể hiện sự chủ động, sáng tạo của các tổ chức Việt Minh địa
phương.
3.5. DIỄN BIẾN KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN Ở CÁC
TỈNH BẮC TRUNG BỘ (TỪ NGÀY 15-8-1945 ĐẾN NGÀY 26-8-1945)
3.5.1. Khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Hà Tĩnh (từ ngày 158-1945 đến ngày 21-8-1945)
Can Lộc là huyện đầu tiên của Hà Tĩnh giành chính quyền thắng lợi
vào ngày 15-8-1945 với vai trò nổi bật của tầng lớp thanh niên trí thức. Tiếp
đó là khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở các huyện Thạch Hà và Cẩm
Xuyên ngày 17-8-1945. Ngày 18-8-1945, cuộc khởi nghĩa giành chính
quyền ở thị xã Hà Tĩnh thắng lợi nhanh gọn, trở thành 1 trong 5 tỉnh giành
chính quyền sớm nhất trong cả nước ở tỉnh lị. Cũng trong ngày 18-8-1945,
chính quyền cách mạng được thiết lập ở huyện Kì Anh và Đức Thọ. Ngày
19-8-1945, quần chúng cách mạng huyện Nghi Xuân và Hương Sơn khởi
nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Hương Khê là huyện cuối cùng giành
được chính quyền vào ngày 21-8-1945, đánh dấu thành công của Cách mạng
tháng Tám trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
3.5.2. Khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Nghệ An (từ ngày 178-1945 đến ngày 26-8-1945)
Quỳnh Lưu là huyện đầu tiên của Nghệ An giành chính quyền thắng
lợi vào ngày 17-8-1945. Tiếp đó, ngày 19-8-1945, Ủy ban khởi nghĩa phủ
Hưng Nguyên lãnh đạo quần chúng nhân dân tiến hành giành chính quyền
thắng lợi. Ngày 21-8-1945, quần chúng cách mạng và lực lượng tự vệ vũ
trang phủ Diễn Châu, thành phố Vinh - Bến Thủy khởi nghĩa giành chính
quyền, thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời. Ngày 22-8-1945,
nhân dân Nghĩa Đàn tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Tiếp
mạch thắng lợi trên, ngày 23-8-1945, chính quyền cách mạng được thiết lập
ở các phủ, huyện Thanh Chương, Nam Đàn và Anh Sơn. Ngày 25-8-1945,
quần chúng cách mạng huyện Yên Thành nổi dậy giành chính quyền. Nghi
Lộc, Quỳ Châu, Tương Dương, Con Cuông, Vĩnh Hòa là những huyện, châu
cuối cùng ở Nghệ An giành chính quyền thắng lợi vào ngày 26-8-1945.
Trong vòng 10 ngày, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Nghệ An
đã thành công, không đổ máu.
3.5.3. Khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Thanh Hóa (từ ngày
19-8-1945 đến ngày 26-8-1945)
Ngày 19-8-1945, chính quyền cách mạng được thiết lập ở các phủ,
huyện: Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Cẩm Thủy, Đông Sơn, Yên Định, Vĩnh Lộc,
Thạch Thành, Hà Trung, Nga Sơn, Quảng Xương, Hậu Lộc. Tiếp đó, khởi
nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở thị xã Thanh Hóa và huyện Tĩnh Gia
vào ngày 20-8-1945. Ngày 21-8-1945, quần chúng cách mạng và tự vệ vũ
trang huyện Nông Cống khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Thường
Xuân, Ngọc Lặc, Như Xuân, Lang Chánh, Bá Thước, Quan Hóa là những
châu, phủ cuối cùng ở Thanh Hóa giành được chính quyền vào ngày 26-81945.
Mặc dù chưa nhận được lệnh tổng khởi nghĩa của Trung ương nhưng
dưới sự lãnh đạo của tổ chức Đảng, Mặt trận Việt Minh, cuộc khởi nghĩa ở
Thanh Hóa đã thành công trong 8 ngày.
3.5.4. Khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Thừa Thiên (từ ngày
19-8-1945 đến ngày 23-8-1945)
Phong Điền và Phú Lộc là hai huyện thí điểm giành chính quyền
thắng lợi vào ngày 19-8-1945. Tiếp đó khởi nghĩa giành chính quyền thắng
lợi ở huyện Hương Thủy và Phú Vang ngày 22-8-1945. Sáng ngày 23-81945, cuộc khởi nghĩa chiếm huyện lị Hương Trà và Quảng Điền giành
được thắng lợi. Cũng trong ngày 23-8-1945, lực lượng tự vệ vũ trang, Thanh
niên Tiền tuyến kết hợp với quần chúng nhân dân nội thành và ngoại thành
tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở thành phố Huế, thành
lập Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời. Ngày 30-8-1945, Bảo Đại tuyên
bố thoái vị, đánh dấu sự chấm dứt hoàn toàn chế độ phong kiến lạc hậu ở
Việt Nam.
Với phương thức sử dụng lực lượng tự vệ vũ trang, Thanh niên Tiền
tuyến kết hợp với quần chúng cách mạng giành chính quyền từ huyện đến
tỉnh lị, khởi nghĩa ở Thừa Thiên giành thắng lợi nhanh chóng, trọn vẹn,
tránh được đổ máu ở một trong những địa bàn phức tạp nhất của cả nước.
3.5.5. Khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Quảng Bình (ngày 23-81945)
Ngày 23-8-1945 thị xã Đồng Hới và tất cả các phủ, huyện trong tỉnh
(Quảng Trạch, Bố Trạch, Quảng Ninh, Lệ Thủy, Tuyên Hóa) khởi nghĩa
giành chính quyền thắng lợi, thành lập UBNDCM lâm thời.
Diễn ra trong một ngày và giành thắng lợi, Quảng Bình là một trong
những tỉnh khởi nghĩa gọn nhất và nhanh nhất của cả nước.
3.5.6. Khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Quảng Trị (từ ngày
23-8-1945 đến ngày 25-8-1945)
Ngày 23-8-1945 các phủ huyện Vĩnh Linh, Gio Linh, Triệu Phong,
Hải Lăng và thị xã Quảng Trị giành chính quyền thắng lợi. Cam Lộ và
Hướng Hóa là hai huyện cuối cùng ở Quảng Trị giành được chính quyền vào
ngày 25-8-1945.
Với phương thức biểu tình vũ trang của quần chúng nhân dân, kết
hợp với thương lượng ngoại giao có sự hỗ trợ của lực lượng tự vệ vũ trang,
khởi nghĩa tại Quảng Trị đã thành công nhanh chóng trên một địa bàn có
quân Nhật chiếm đóng tương đối đông.
Tóm lại, ở khu vực Bắc Trung Bộ, cuộc khởi nghĩa giành chính
quyền bắt đầu từ Hà Tĩnh, tiếp đến là Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa Thiên,
Quảng Bình, Quảng Trị. Đến ngày 26-8-1945, cuộc khởi nghĩa giành chính
quyền thắng lợi trên địa bàn các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Chương 4
MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945
Ở CÁC TỈNH BẮC TRUNG BỘ
4.1. ĐẶC ĐIỂM
4.1.1. Quá trình chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền ở các
tỉnh Bắc Trung Bộ diễn ra trong điều kiện hết sức khó khăn nhưng đã
đạt được những kết quả toàn diện, thể hiện tính chủ động, sáng tạo của
các địa phương
4.1.2. Hình thái khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh Bắc
Trung Bộ linh hoạt và đa dạng
4.1.3. Phương thức khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh Bắc
Trung Bộ phong phú và độc đáo
4.2. ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ
4.2.1. Ưu điểm
4.2.1.1. Thống nhất về ý chí và quyết tâm, sáng tạo trong quá trình
xây dựng lực lượng cách mạng
4.2.1.2. Chủ động lên kế hoạch khởi nghĩa và giành chính quyền
thắng lợi sớm ở tỉnh lị
4.2.1.3. Vô hiệu hóa quân Nhật và thu được nhiều vũ khí của đối
phương
4.2.2. Hạn chế
4.2.2.1. Một số tổ chức Đảng vi phạm nguyên tắc, kỉ luật của Đảng