BÁO CÁO TỔNG HỢP HỘI THẢO KHOA HỌC
“PHÁP LUẬT THUẾ TRONG KINH DOANH”
Đơn vị thực hiện: Khoa Luật Thương mại, trường Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh
Ngày: 25/5/2015
Hoạt động nghiên cứu khoa học là hoạt động được trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí
Minh và Khoa Luật thương mại rất chú trọng. Thông qua hoạt động này, các giảng viên, học
viên được bày tỏ quan điểm của mình về các quy định của pháp luật, chính sách của nhà nước
và tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định này. Để hiểu rõ các quy định của pháp luật, tìm
hiểu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật, cần thiết phải có sự giao lưu, trao đổi giữa
những người làm nghiên cứu với những người làm thực tiễn.
Pháp luật thuế là mảng pháp luật khá phức tạp, ảnh hưởng đến lợi ích của nhiều chủ thể
trong xã hội. Để hệ thống pháp luật thuế hiệu quả, đảm bảo tính thực thi thì các quy định pháp
luật về thuế luôn phải thay đổi để phù hợp với yêu cầu thực tiễn, nội dung quy định của pháp
luật thuế phải chi tiết, rõ ràng để dễ thực hiện. Tuy nhiên, trên thực tế, những yêu cầu này vẫn
chưa được đáp ứng do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan từ phía nhà nước, các cơ
quan thực thi và các chủ thể kinh doanh.
Nhằm tạo diễn đàn để phát triển hoạt động nghiên cứu khoa học của cán bộ, giảng viên
trong Khoa Luật thương mại nói riêng và trong Nhà trường nói chung, đồng thời để tạo điều
kiện cho các giảng viên có sự trao đổi thông tin với những người làm công tác thực tiễn trong
việc áp dụng các quy định của pháp luật thuế mới được ban hành và có hiệu lực, sáng ngày
25/5/2015, Khoa Luật Thương mại tổ chức Hội thảo với chủ đề đề “Pháp luật thuế trong hoạt
động kinh doanh”.
Đến tham dự hội thảo, bên cạnh thành phần tham dự là Ban chủ nhiệm khoa, giảng viên
khoa Luật Thương mại, giảng viên một số khoa khác, nghiên cứu sinh, học viên cao học, sinh
viên chính quy, còn có sự tham gia của đại diện của Cục Thuế Tp.HCM, đại diện của một số
công ty tư vấn pháp luật về thuế trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Sự đa dạng thành phần
tham gia là người nghiên cứu, giảng dạy, doanh nghiệp tư vấn, cơ quan quản lý về thuế đã tạo
điều kiện cho việc tiếp cận vấn đề khoa học đa chiều.
Mười bốn đề tài tham luận đã được in vào kỷ yếu. Tại hội thảo, có mười hai tham luận
được trình bày và thảo luận sôi nổi. Nội dung các tham luận khá đa dạng, cụ thể như sau:
1
1. Thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân kinh doanh theo quy định của Điều 2
Luật số 71/2014/QH13 về sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế của
Ths Nguyễn Thị Thu Hiền.
2. Pháp luật thuế thu nhập đối với hoạt động chuyển nhượng bất động sản của tổ
chức kinh tế của Ths Phan Phương Nam.
3. Nghĩa vụ thuế thu nhập của công ty TNHH một thành viên của TS Nguyễn Thị
Thủy.
4. Công tác quản lý thuế xuất nhập khẩu đối với nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để
sản xuất hàng hóa xuất khẩu, gia công theo Luật Hải quan 2014 của Ngô Thành
Vinh.
5. Bàn về thuế tiêu thụ đặc biệt đối với bia rượu của Ths Lê Thị Ngân Hà.
6. Điều kiện áp dụng phương pháp tính thuế giá trị gia tăng của Ths Trần Minh
Hiệp.
7. Bàn về các tiêu chí đánh giá hiệu quả pháp luật thuế của PGS.TS Nguyễn Văn
Vân.
8. Giải pháp nhằm thu thuế hiệu quả đối với doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh
không hiện diện cơ sở thường trú tại Việt Nam của Ths Nguyễn Thị Hoài Thu.
9. Chính sách ưu đãi thuế đối với lĩnh vực dịch vụ môi trường của Ths Phan Thỵ
Tường Vi.
10. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện thuế tài nguyên của Ths.Võ Trung Tín.
11. Thuế bảo vệ môi trường – Một số bất cập và kiến nghị của Ths Phan Thị Kim
Ngân và Ths Nguyễn Thị Ngọc Lan.
12. Một số vấn đề về quản lý tuân thủ thuế ở doanh nghiệp hiện nay của Trần Quang
Huy.
13. Tác động của chế tài hành chính đối với tuân thủ thuế của Ths Trương Thị Tuyết
Minh
14. Một số vấn đề thách thức sự tuân thủ nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp – người
nộp thuế của Phan Thị Liễu.
Các tham luận của hội thảo được chia làm hai phiên thảo luận. Phiên 1: Thảo luận về
những quy định còn bất cập trong một số sắc thuế mà chủ thể kinh doanh phải thực hiện và
định hướng khắc phục. Phiên 2: Thảo luận về chính sách quản lý thuế của nhà nước đối với
các chủ thể kinh doanh.
Trong tham luận thứ nhất: “Thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân kinh doanh theo
quy định của Điều 2 Luật số 71/2014/QH13 về sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về
2
thuế” của Ths.Nguyễn Thị Thu Hiền, tác giả đã trình bày một số bất cập còn tồn tại của pháp
luật thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân kinh doanh như:
- Việc tính thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh theo quy định tại Điều 2 Luật số
71/2014/QH13 thực chất là việc quay lại áp dụng thuế doanh thu, là loại thuế lạc hậu, có nhiều
hạn chế và đã bị bãi bỏ ở Việt Nam từ ngày 01/01/1999. Đây thực chất là một sự thụt lùi trong
việc điều chỉnh của pháp luật. Cụ thể, chúng ta bãi bỏ thuế doanh thu vì đây là sắc thuế thể
hiện sự trùng lắp thuế. Tuy nhiên, sau gần 15 năm bãi bỏ, chúng ta lại sử dụng cách tính thuế
doanh thu trước đây để tính thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân kinh doanh.
- Pháp luật đang có sự mâu thuẫn trong quy định của Điều 2 Luật số 71/2014/QH13 về
ngưỡng doanh thu chịu thuế và cách xác định doanh thu để chịu thuế. Cụ thể, theo quy định
của pháp luật, nếu cá nhân kinh doanh có doanh thu dưới 100tr đồng thì phần doanh thu này
không chịu thuế TNCN. Tuy nhiên, nếu doanh thu trên 100tr đồng thì toàn bộ phần doanh thu
này chịu thuế TNCN. Quy định trên có sự mâu thuẫn ở chỗ: nếu cá nhân kinh doanh có doanh
thư dưới 100tr thì không phải đóng thuế TNCN, nhưng nếu doanh thu từ 100tr trở lên thì phải
nộp thuế TNCN tính trên toàn bọ doanh thu (không được trừ đi 100tr trước khi tính thuế).
- Quy định tại Điều 2 Luật số 71/2014/QH13 không đảm bảo được nguyên tắc công
bằng khi cá nhân kinh doanh không được giảm trừ gia cảnh trước khi tính thuế, trong khi đó cá
nhân làm công ăn lương được giảm trừ gia cảnh cho bản than và người phụ thuộc trước khi
tính thuế TNCN.
Thảo luận về những quy định trên của pháp luật TS.Nguyễn Thị Thủy cho rằng, theo ý
kiến cá nhân, có thể đây là quy định mà nhà làm luật hướng đến mục tiêu chủ yếu là làm thế
nào để thu thuế TNCN đối với cá nhân kinh doanh một cách đơn giản và thuận tiện nhất. Tuy
nhiên, khi hướng đến mục tiêu này thì nội dung quy định của pháp luật lại phá vỡ nguyên tắc
công bằng của thuế.
Ông Nguyễn Hoàng Long, chuyên viên phòng Pháp chế của Cục thuế Tp.Hồ Chí Minh
cho rằng việc lấy toàn bộ doanh thu tính thuế là bất hợp lý. Tuy nhiên quy định của pháp luật
hiện hành dựa trên thực tiễn: không thể thu chính xác vào thu nhập do khả năng của cá nhân
kinh doanh, khó kiểm soát được chính xác nguồn thu và khoản chi. Do đó, phương thức ấn
định thuế trên doanh thu là phù hợp với tình hình hiện nay.
TS.Phan Thị Thành Dương cũng bày tỏ quan điểm, quy định của pháp luật là bất cập,
tuy nhiên, vì thấy được sự bất cập này cho nên tại Công văn số 17526/BTC-TCT ngày
01/12/2014 của Tổng cục Thuế, cho phép tiếp tục hướng dẫn thực hiện theo pháp luật cũ.
Tham luận thứ hai: “Pháp luật thuế thu nhập đối với hoạt động chuyển nhượng bất
động sản của tổ chức kinh tế” của Ths Phan Phương Nam. Tham luận này đã phân tích và
3
chứng minh những hạn chế của quy định pháp luật về thuế thu nhập đối với hoạt động chuyển
nhượng bất động sản của tổ chức kinh tế và đề nghị những giải pháp, cụ thể:
- Quy định về giá tính thuế trong thuế TNDN đối với hoạt động chuyển nhượng động
sản là chưa chi tiết và đầy đủ. Để tránh tình trạng trốn thuế, pháp luật mới quy định nếu giá
chuyển quyền sử dụng đất thấp hơn giá đất do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc TW
quy định tại thời điểm ký hợp đồng thì tính theo giá đất do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc
TW quy định. Tuy nhiên, trên thực tế, tổ chức kinh doanh không chỉ chuyển nhượng đất mà
còn có thể chuyển nhượng nhiều bất động sản khác như: căn hộ, nhà xây dựng phần thô, các
công trình kiến trúc gắn liền với đất khác… thì khắc phục tình trạng trốn thuế bằng cách nào
khi các bên chuyển nhượng ghi giá trên hợp đồng thấp hơn giá giao dịch thực tế.
- Pháp luật thuế TNDN nên xem xét miễn thuế TNDN đối với hoạt động chuyển
nhượng bất động sản khi tổ chức kinh tế chuyển nhượng bất động sản để thực hiện hoạt động
phá sản. Tác giả đưa ra kiến nghị này vì cho rằng, khi tổ chức kinh ết bị lâm vào tình trạng phá
sản, buộc phải bán tài sản để phân chia theo quy định của pháp luật phá sản thì tổ chức này
đang trong tình trạng rất khó khăn về tài chính. Nếu như buộc họ phải nộp thuế thu nhập cho
hoạt động này thì càng gây khó khăn cho chủ nợ thu hồi nợ.
- Có độ vênh nhất định trong cách hiểu về hoạt động chuyển nhượng bất động sản trong
pháp luật thuế TNCN và pháp luật thuế TNDN. Trong pháp luật thuế TNCN, hoạt động
chuyển nhượng công trình xây dựng torng tương lai là hoạt động chuyển nhượng bất động sản
và chịu sự điều tiết của thuế TNCN. Trong khi đó, pháp luật thuế TNDN không ghi nhận điều
này.
- Quy định về hạch toán và chuyển lỗ trong hoạt động kinh doanh bất động sản còn
chưa rõ ràng. Pháp luật cho phép lỗ của hoạt động chuyển nhượng bất động sản được bù trừ
với lãi của hoạt động SXKD. Tuy nhiên, pháp luật không cho phép bù trừ giữa ưu đãi thuế
giữa thực hiện dự án đầu tư – kinh doanh nhà ở xã hội với hoạt động kinh doanh bất động sản
trong khi các thu nhập hưởng ưu đã thuế khác được bù trừ với các hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
Thảo luận về những ý kiến trên, TS.Lưu Quốc Thái đặt ra vấn đề: Khi một doanh
nghiệp chuyển nhượng toàn bộ vốn của mình cho doanh nghiệp khác có bao gồm bất động sản
thì có nộp thuế TNDN không? Tác giả và những người tham gia hội thảo đều cho rằng, phải
nộp thuế TNDN vì trong hoạt động này bao gồm hoạt động chuyển nhượng bất động sản.
TS.Phạm Văn Võ đưa ra băn khoăn: trường hợp giá thỏa thuận trong hợp đồng chuyển
nhượng thấp hơn giá do nhà nước quy định thì áp dụng giá nào? Câu trả lời là căn cứ vào giá
đất do nhà nước công bố. Nhưng giá đất do nhà nước công bố ở đây có hai trường hợp: giá đất
4
trong bảng giá của UBND cấp Tỉnh quy định và giá này giữ ổn định trong vòng 5 năm. Thứ
hai là giá đất cụ thể áp dụng cho từng trường hợp. Vấn đề áp dụng gía nào, pháp luật chưa có
quy định cụ thể.
Tham luận thứ ba, “Nghĩa vụ thuế thu nhập của công ty TNHH một thành viên” của
TS Nguyễn Thị Thủy. Trong tham luận này, tác giả đưa ra ba vấn đề cần được mổ xẻ và cần
phải thống nhất trong quy định của pháp luật về nghĩa vụ thuế TNDN của công ty TNHH một
thành viên (do một cá nhân làm chủ), cụ thể:
- Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về quy định tiền công, tiền lương của chủ sở
hữu công ty TNHH một thành viên (do một cá nhân làm chủ) có được xem là chi phí để tính
thu nhập chịu thuế hay không được hướng dẫn hoàn toàn khác nhau. Trong Công văn số
4568/TCT-TNCN ngày 16/10/2014 của Tổng cục thuế trả lới Cục thuế Nam Định về việc tiền
lượng, tiền công của chủ sở hữu công ty TNHH một thành viên (do một cá nhân làm chủ) có
được coi là chi phí được trừ khi tính thu nhập chịu thuế hay không thì nội dung trả lới của
Tổng cục thuế như sau: “Trường hợp công ty TNHH một thành viên trả tiền lương, tiền công,
tiền thù lao cho chủ sở hữu công ty là giám đốc trực tiếp tham gia điều hành sản xuất, kinh
doanh thì được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp”.
Trong khi đó, tại Công văn 727/TCT-CS ngày 03/03/2015 trả lời Cục thuế Đà Nẵng
cũng cùng với câu hỏi như trên thì nội dung trả lời là: “Căn cứ vào đặc thù của DNTN và công
ty TNHH một thành viên (do một cá nhân làm chủ) được thành lập theo quy định của Luật
Doanh nghiệp thì tiền lương, tiền công của chủ DNTN, chủ Công ty TNHH một thành viên (do
một cá nhân làm chủ) (không phân biệt có hay không tham gia trực tiếp điều hành sản xuất,
kinh doanh) đều thuộc các khoản chi phí quy định tại Tiết d, Điểm 2.5, Khoản 2, Điều 6,
Thông tư số 78/2014/TT-BTC”.
Vấn đề được đặt ra trước thực trạng này là: Gía trị pháp lý của các công văn, xử lý của
cơ quan thuế khi tiếp nhận công văn? Ý kiến của doanh nghiệp khi rơi vào trường hợp trong
các công văn tương tự như trên?
- Quy định khác nhau của pháp luật giữa cách tính thuế thu nhập của công ty TNHH một
thành viên (do một cá nhân làm chủ) với thuế thu nhập của cá nhân kinh doanh đã gây sự bất công
bằng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế. Cụ thể, thu nhập tính thuế của công ty TNHH một thành
viên được trừ các chi phí liên quan đến hoạt động SXKD. Nhưng đối với cá nhân kinh doanh thì
nộp thuế TNCN tính trên doanh thu (không được trừ các chi phí có liên quan).
- Cần có sự thống nhất trong quy định về nghĩa vụ thuế đối với khoản thu nhập được chia
từ lợi nhận sau thuế của công ty TNHH một thành viên (do một tổ chức làm chủ) và công ty
TNHH một thành viên (do một cá nhân làm chủ). Theo quy định của pháp luật hiện hành, lợi
5
nhuận sau thuế của công ty TNHH một thành viên (do một tổ chức làm chủ) là thu nhập miễn
thuế. Lợi nhuận sau thuế của công ty TNHH một thành viên (do một cá nhân làm chủ) là thu nhập
không chịu thuế. Đây là quy định không thống nhất, không đảm bảo đúng bản chất của thuế vì
miễn thuế và không chịu thuế có thủ tục và hệ quả pháp lý khác nhau. Để đảm bảo sự thống nhất
và công bằng trong nghĩa vụ thuế thu nhập của công ty TNHH một thành viên, cần thiết phải quy
định các khoản thu nhập này là thu nhập miễn thuế.
Thảo luận về vấn đề này, đa số ý kiến của những người tham gia hội thảo cho rằng bởi vì
Công văn không phải là văn bản pháp luật nên áp dụng công văn hướng dẫn theo đúng tính
thần của quy định pháp luật.
Đại diện cho nhóm doanh nghiệp: LS.Phan Thị Liễu – Trưởng phòng cấp cao – Dịch vụ
tư vấn pháp lý và thuế Công ty luật DFDL – Legal & Tax cho rằng, với tư cách là nhà tư vấn,
bà sẽ không chọn giải pháp dùng con đường công văn để lách luật (sử dụng tiêu cực để làm lợi
cho doanh nghiệp) vì rủi ro cao trong trường hợp cơ quan thuế không chịu quyết toán thuế
(mặc dù đã có công văn trả lời của Tổng cục Thuế). Trong trường hợp này, cách lựa chọn của
nhà tư vấn là vận dụng đúng tinh thần của điều luật.
Cũng đại diện cho nhóm doanh nghiệp Ths.Trần Quang Huy – Trưởng phòng Tài chính
– Kế toán, công ty liên doanh Ô tô sản xuất Ngôi Sao (Mitsubishi Motors Việt nam) cho rằng,
việc cơ quan thuế có sự không thống nhất khi trả lời tại các công văn và việc cơ quan thuế hiểu
khác nhau về cùng một quy định của pháp luật đã gây khó khăn lớn cho doanh nghiệp khi thực
hiện nghĩa vụ thuế. Trong thực tế, rất nhiều lần doanh nghiệp buộc phải thực hiện theo cách xử
lý của cơ quan thuế địa phương, mặc dù cách xử lý này hoàn toàn không đúng với tinh thần
của điều luật.
Đại diện cho cơ quan thuế, ông Nguyễn Hoàng Long, chuyên viên phòng Pháp chế của
Cục thuế Tp.Hồ Chí Minh cho rằng, dù đã có công văn trả lời của Tổng cục thuế, nhưng nếu
nội dung của công văn không đúng với tinh thần chỉ đạo của Cục thuế địa phương thì sẽ không
áp dụng theo công văn.
Tham luận thứ tư “Bàn về thuế tiêu thụ đặc biệt đối với bia rượu của Ths Lê Thị Ngân
Hà”. Tác giả tham luận đưa ra bốn vấn đề cần xem xét và khắc phục đối với quy định của pháp
luật về thuế tiêu thụ đặc biệt đối với sản phẩm bia, rượu như sau:
- Cần bổ sung và làm rõ khái niệm bia, rượu trong các văn bản hướng dẫn quy định của
Luật thuế tiêu thụ đặc biệt. Theo đó cần xác định rõ bia, rượu tuy cùng là đồ uống có cồn
nhưng khác nhau về quy trình sản xuất, về đặc điểm (chất, hương, vị), về độ cồn thì chịu mức
thuế suất khác nhau.
6
- Bổ sung thêm vào đối tượng chịu thuế của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt đồ uống có cồn
khác và có hướng dẫn cụ thể về độ cồn chịu thuế của loại đồ uống này. Bởi vì, trên thực tế thị
trường nước giải khát hiện nay, việc xuất hiện thêm các sản phẩm khác ngoài bia rượu có chứa
cồn là hoàn toàn có thể xảy ra. Việc bổ sung thêm mặt hàng này vào diện đối tượng chịu thuế
TTĐB nhằm tránh bỏ sót đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt đồng thời mở rộng thêm phạm
vi điều tiết thuế tiêu thụ đặc biệt, qua đó làm tăng thu cho ngân sách nhà nước.
- Pháp luật cần có quy định phân hóa thuế suất áp dụng đối với bia tùy theo nồng độ
cồn có trong bia. Bởi vì, trên thực tế, đã có loại bia không cồn và bia có nồng độ cồn thấp. Bia
không cồn không thể là đối tượng chịu thuế của thuế tiêu thụ đặc biệt, bia có nồng độ cồn thấp
sẽ áp dụng mức thuế suất thấp hơn bia có nồng độ cồn cao.
- Nhà nước cũng nên cân nhắc xem xét việc áp dụng thuế suất tuyệt đối đối với bia
rượu. Đó chính là việc ấn định một số tiền tuyệt đối tính trên một đơn vị thể tích theo từng
nồng độ cồn cụ thể. Việc áp dụng thuế suất mới này sẽ khắc phục được những hạn chế, nhược
điểm nói trên của loại thuế suất cũ. Đồng thời cũng tạo ra môi trường pháp lý rõ ràng hơn, qua
đó góp phần thu hút đầu tư đối với ngành kinh doanh này.
Thảo luận về vấn đề này, TS.Nguyễn Thị Thủy cho rằng, nếu quy định độ cồn của bia
và thu thuế TTĐB dựa trên nồng độ cồn của bia sẽ rất phức tạp cho công tác hành thu. Theo
như ý kiến của tác giả, nếu chỉ vì bia không độ thì không thể là đối tượng chịu thuế TTĐB vì
nó không đáp ứng đủ các yếu tố để chịu thuế TTĐB mà phải quy định chi tiết nồng độ cồn để
loại mặt hành này khỏi diện chịu thuế TTĐB là không cần thiết. Việc quy định chi tiết nồng độ
cồn của bia để đánh thuế TTĐB khác nhau theo từng nồng độ cồn là rất phức tạp, kéo chi phí
hành thu lên rất cao. Muốn thực hiện được yêu cầu mà tác giả nêu ra: không đánh thuế TTĐB
đối với bia không cồn thì chỉ cần quy định trong thuế TTĐB khái niệm thế nào là bia thuộc đối
tượng chịu thuế TTĐB là được.
PGS.TS Nguyễn Văn Vân thì cho rằng, việc đa dạng hóa các mức thuế suất tương ứng
với nồng độ cồn sẽ gây khó khăn cho việc kiểm soát và tuân thủ thuế TTĐB.
Tham luận thứ năm: “Điều kiện áp dụng phương pháp tính thuế giá trị gia tăng” của
Ths. Trần Minh Hiệp. Trình bày và phân tích các quy định của pháp luật về điều kiện áp dụng
phương pháp tính thuế GTGT, tác giả đưa ra một số kết luận sau:
Thứ nhất, về lý luận: nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ là lựa chọn tối ưu
nhất cho người nộp thuế, giảm thiểu tình trạng trùng thuế, chồng thuế GTGT qua các khâu của
quá trình kinh doanh. Do đó, quy định về điều kiện áp dụng phương pháp tính thuế GTGT phải
theo hướng tạo điều kiện tốt nhất cho người nộp thuế có khả năng chọn lựa phương pháp khấu
trừ thuế GTGT.
7
Thứ hai, về quy định của pháp luật hiện hành: Tác giả nhận thấy các quy định của pháp
luật hiện hành về phương pháp tính thuế dường như “ép” các doanh nghiệp có quy mô nhỏ nộp
thuế GTGT theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT. Quy định của pháp luật hiện hành
không những không tạo điều kiện thuận lợi cho cơ sở kinh doanh có quy mô nhỏ mà còn tạo
sự bất bình đẳng giữa cơ sở kinh doanh có quy mô nhỏ với doanh nghiệp có quy mô lớn. Bởi
vì, nếu nộp thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT thì cơ sở kinh doanh phải nộp
thuế ngay cả khi kinh doanh thua lỗ. Đồng thời, họ phải chịu một loạt các bất lợi khác như:
thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ, không được hoàn thuế, nộp thuế từ doanh thu thu
được chưa có thuế GTGT…. Ngược lại, các cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp
khấu trừ thì được hoàn thuế, khấu trừ thuế đầu vào.
Thứ ba, về thực tiễn áp dụng: Thực tiễn áp dụng quy định về xác định điều kiện nộp
thuế GTGT trong thời gian qua gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp bị
bắt buộc áp dụng phương pháp tính trực tiếp trên GTGT do không đăng ký tự nguyện áp dụng
phương pháp khấu trừ hoặc không thỏa mãn điều kiện (đã được phân tích là không có cơ sở
cần thiết) được pháp luật quy định. Rất nhiều các doanh nghiệp quy mô nhỏ lâm vào tính cảnh
khó khăn khi không bán được hàng chỉ vì hóa đơn bán hàng không có thuế GTGT.
Về vấn đề này, đa số các ý kiến của những người tham gia hội thảo cho rằng, quy định
của pháp luật hiện hành về điều kiện áp dụng phương pháp tính thuế GTGT của cá nhân kinh
doanh không đương nhiên áp dụng tính thuế theo phương pháp khấu trừ là gây cản trở cho
người nộp thuế. Cụ thể, theo ý kiến của TS.Nguyễn Thị Thủy, nếu chủ thể kinh doanh có đủ
điều kiện theo luật định để nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thì cứ cho họ đăng ký nộp
thuế theo phương pháp này mà không cần phải đưa ra quy định phải có ngưỡng doanh thu từ 1
tỷ đồng trở lên. Việc quy định ngưỡng doanh thu theo quy định của pháp luật hiện hành sẽ
không tạo điều kiện cho cá nhân kinh doanh nhỏ nộp thuế theo phương pháp khấu trừ (là
phương pháp mà nhà nước khuyến khích áp dụng), vừa không đảm bảo được quyền tự chủ của
cá nhân kinh doanh.
Tham luận thứ sáu: “Bàn về các tiêu chí đánh giá hiệu quả pháp luật thuế” của
PGS.TS Nguyễn Văn Vân. Trong nội dung tham luận, tác gải đưa ra 4 nhóm tiêu chí để đánh
giá hiệu quả pháp luật thuế gồm: Nhóm tiêu chí hiệu quả kinh tế bao gồm: Tiêu chí cân bằng
lợi ích giữa nhà nước và người nộp thuế, tiêu chí trung lập và cân bằng lợi ích kinh tế cho các
nhóm chủ thể, tỷ trọng giữa chi phí hành thu trên số tiền thu được, chi phí tuân thủ pháp luật
thuế, mức độ tuân thủ thuế (tỷ trọng thực thu so với tiềm năng). Các nhóm tiêu chí còn lại bao
gồm: Tiêu chí đơn giản của pháp luật thuế; Tiêu chí ổn định (tương đối) và có thể dự báo của
pháp luật thuế; Tiêu chí công bằng xã hội.
8
Thảo luận về nội dung này, TS.Nguyễn Thị Thủy đặt ra vấn đề vậy trong các tiêu chí
mà TS.Vân đưa ra, tiêu chí nào là quan trọng, có tầm ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của pháp
luật thuế. TS Vân cho rằng, không có một tiêu chí nào độc lập quyết định mà đó là tổng hợp
tất cả các tiêu chí.
Luật sư Liễu đặt ra câu hỏi, theo tác giả thì PL thuế VN có đạt được các tiêu chí đó
chưa? TS Vân cho rằng về cơ bản, trong bối cảnh hiện nay thì PL thuế VN đã đáp ứng được
các tiêu chuẩn đặt ra. Mạnh dạn bỏ những khoản thu mà chi phí hành thu khá cao.
Tham luận thứ bảy: “Một số vấn đề thách thức sự tuân thủ nghĩa vụ thuế của doanh
nghiệp – người nộp thuế” của LS.Phan Thị Liễu. Tác giả cho rằng, hiện nay, có một số yếu tố
làm ảnh hưởng đến sự tuân thủ nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp, cụ thể:
Quy định của pháp luật thuế tuy phức tạp nhưng chưa bao quát hết các vấn đề cần điều
chỉnh cũng như không rõ ràng, khó hiểu, khó áp dụng và chồng chéo; Pháp luật về thuế không
thông nhất với các quy định pháp luật có liên quan; Cơ chế quản lý thuế và thủ tục hành chính
về thuế trên thực tế vẫn gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp – người nộp thuế. Để khắc phục
tình trạng này của pháp luật hiện hành, cơ quan quản lý thuế và người nộp thuế phải nhận thấy
được những bất cập còn tồn tại của pháp luật để đưa ra những kiến nghị phù hợp, áp dụng có
hiệu quả trong thực tiễn.
Tham luận thứ tám: “Một số vấn đề về quản lý tuân thủ thuế ở doanh nghiệp hiện
nay” của Ths.Trần Quang Huy. Liên quan đến vấn đề quản lý tuân thủ thuế ở doanh nghiệp và
là người làm công tác thực tiễn trong lĩnh vực thuế, tác giả đưa ra một số nhận xét và kiến nghị
như sau:
- Các văn bản quy phạm pháp luật thuế cần được xây dựng trên một cơ sở thống nhất có
xem xét đến các tác động qua lại giữa các chính sách thuế, quản lý thuế và pháp luật về kế
toán, thống kê cũng như cần được hệ thống hóa theo hướng đơn giản và ít tầng nấc hơn. Các
quy phạm pháp luật thuế phải rõ ràng, dễ hiểu – dễ thực hiện, được chỉnh sửa, bổ sung phù
hợp với yêu cầu thực tiễn, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người nộp thuế. Khi có
nhiều thay đổi về nội dung của một văn bản thuế thì ban hành một văn bản mới thay thế hoàn
toàn hoặc có một văn bản hợp nhất theo Điều 92 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính, Tổng Cục thuế cần có cơ chế theo dõi, rà soát các văn bản giải
thích, hướng dẫn chính sách thuế của các Cục thuế địa phương và kịp thời hủy bỏ hoặc điều
chỉnh các hướng dẫn trái quy định.
- Ngành thuế cần tiếp tục hoàn thiện chương trình phần mềm quản lý thuế, cập nhật kịp
thời để đảm bảo tương thích khi có các bổ sung, thay đổi định dạng dữ liệu; có sự tương thích
với các chương trình quản lý của các cơ quan liên quan để thuận tiện cho việc kết nối thông
9
tin, trao đổi dữ liệu điện tử giữa cơ quan thuế và các cơ quan liên quan. Thiết lập cơ chế trao
đổi thông tin, đối thoại các thủ tục về thuế giữa cơ quan thuế với các bộ, ngành liên quan và
người nộp thuế nhằm tháo gỡ, giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện các
nghĩa vụ đối với nhà nước nói chung.
- Ngành thuế cần tiếp tục nâng cao trình độ nguồn nhân lực cho các cơ quan thuế để
bảo đảm việc triển khai các chính sách thuế mới một cách đồng bộ, thống nhất; quy định rõ
trách nhiệm của cán bộ, công chức ngành thuế, kiên quyết làm trong sạch bộ máy, xử lý
nghiêm khắc những cán bộ tiêu cực để bảo đảm một môi trường công bằng cho mọi đối tượng
nộp thuế. Bên cạnh đó, tiếp tục nâng cao trình độ ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác
quản lý thuế.
Thảo luận về vấn đề này, đa số các đại biểu cho rằng chi phí kiểm soát tuân thủ là quá
lớn, vượt quá khả năng chi trả và thực hiện của doanh nghiệp.
Tham luận thứ chín: “Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện thuế tài nguyên” của Ths Võ
Trung Tín. Liên quan đến những bất cập còn tồn tại trong các quy định của pháp luật thuế tài
nguyên, tác giả dưa ra một số kiến nghị:
- Thứ nhất, về đối tượng chịu thuế: Điều 2, Luật thuế tài nguyên quy định chưa bao
quát hết các loại tài nguyên, có rất nhiều tài nguyên còn bị bỏ ngõ, chưa được pháp luật quy
định. Vì vậy, cần phải rà soát lại các văn bản hướng dẫn thi hành và có quy định chi tiết hơn
về các đối tượng chịu thuế nhằm bảo đảm tính cụ thể, minh bạch, giúp cho việc áp dụng được
ổn định.
- Thứ hai, về căn cứ tính thuế: Việc quy định tính thuế TN theo “sản phẩm sản xuất
trong kỳ” và “định mức sử dụng tài nguyên trên một đơn vị sản phẩm” đối với loại TN chưa
bán ngay mà còn phải qua gia công để tiếp tục sản xuất ra sản phẩm là khó thực hiện. Nếu TN
đó sản xuất ra nhiều sản phẩm, theo nhiều công đoạn sản xuất sẽ tính theo sản phẩm nào, định
mức sử dụng TN sẽ do ai ban hành,... Trong khi “sản phẩm sản xuất trong kỳ” do doanh
nghiệp tự kê khai, “định mức sử dụng tài nguyên trên một đơn vị sản phẩm” ở mỗi doanh
nghiệp là khác nhau, nên việc xác định là phức tạp.
- Thứ ba, về giá tính thuế: Khoản 1 Điều 6 của Luật Thuế TN quy định giá tính thuế
TN là giá bán đơn vị sản phẩm TN của tổ chức, cá nhân khai thác chưa bao gồm thuế giá trị
gia tăng. Việc xác định giá tính thuế theo quy định này chưa bao quát. Khoản 3 Điều 6 quy
định về “giá tính thuế đối với một số trường hợp cụ thể” cũng còn quá sơ sài. Trường hợp TN
được khai thác nhưng được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau (làm nguyên liệu cho quá
trình sản xuất tiếp; tiêu thụ trên thị trường nội địa, xuất khẩu, nhập kho dự trữ...) hoặc bán ở
10
nhiều địa điểm khác nhau chưa được quy định cụ thể và cũng rất khó có thể quy định một cách
rõ ràng, minh bạch. Vì vậy, việc quy định giá tính thuế là “giá bán đơn vị sản phẩm tài
nguyên” là không rõ ràng, dẫn đến khó hiểu, khó áp dụng vào thực tiễn.
- Thứ tư, về thuế suất: Các loại TN nằm trong khung thuế suất có biên độ khá rộng.
Việc Luật Thuế tài nguyên đưa ra mức thuế suất theo biên độ rộng giúp Nhà nước có thể điều
chỉnh thuế suất linh hoạt theo tình hình thực tế. Nếu cố định thuế suất, khi cần thay đổi, việc
trình và thông qua Quốc hội sẽ mất nhiều thời gian. Tuy nhiên, việc mở rộng khung thuế suất
tuy tạo sự linh hoạt song lại không bảo đảm tính chặt chẽ trong việc áp thuế suất, có thể dẫn
đến áp thuế không công bằng, tạo chênh lệch lớn trong cùng một nhóm hàng, giữa các thời
điểm khác nhau và gây phiền toái trong quá trình áp dụng. Vì vậy cần phải xem xét thu hẹp
biên độ khung thuế suất của Luật Thuế tài nguyên; đồng thời phân loại từng mặt hàng trong
cùng một nhóm hàng để quy định cụ thể khung thuế suất riêng biệt, bảo đảm không mở quá
rộng khung thuế suất nhưng vẫn đáp ứng được yêu cầu điều tiết việc khai thác TN trong từng
thời kỳ..
- Thứ năm, về miễn, giảm thuế, nội dung miễn, giảm thuế TN: Luật Thuế tài nguyên
quy định trên cơ sở kế thừa có chọn lọc chính sách miễn, giảm thuế TN trong các quy định cũ.
Tuy nhiên, cần làm rõ tình trạng TN bị tổn thất quy định tại khoản 1 Điều 9 của Luật được
hiểu thế nào, có phải là việc TN bị giảm đi hay không, bởi lẽ nếu TN bị mất, tiêu hủy do thiên
tai trước khi nộp thuế thì đương nhiên không phải nộp nên không thể gọi là miễn giảm, còn
nếu gặp thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ mà TN vẫn không bị mất đi thì vẫn phải nộp thuế
theo đúng nghĩa vụ. Ngoài ra, khoản 3 Điều 9 của Luật Thuế TN quy định miễn thuế đối với
cành, ngọn, củi, tre, nứa, mai, giang, tranh, vầu, lồ ô do cá nhân được phép khai thác phục vụ
sinh hoạt. Quy định này rõ ràng không có tính hợp lý và chặt chẽ. Tại Điều 7 của Luật đã quy
định gỗ cành, ngọn chịu thuế suất từ 10-20%, củi chịu thuế suất từ 1-5% nhưng theo quy định
này thì khai thác các TN trên phục vụ cuộc sống hàng ngày sẽ không phải nộp thuế. Điều này
sẽ rất dễ dẫn đến tình trạng lợi dụng, lách luật, trốn thuế và sẽ là rất khó khăn trong việc quản
lý. Ngoài ra, có thể thấy các hoạt động khai thác TN có ảnh hưởng nhiều đến môi trường sinh
thái, do đó ngoài việc áp dụng các khoản phí, lệ phí, giấy phép, kí quỹ… đối với các hoạt động
này theo mục tiêu chống ô nhiễm, bảo vệ môi trường, còn có thể quy định những ưu đãi, miễn
giảm thuế TN cho các đối tượng sử dụng các công nghệ hiện đại, tiên tiến trong khai thác TN
để khuyến khích họ đầu tư các công nghệ này, hạn chế ô nhiễm, bảo vệ môi trường trong khai
thác TN. Tiếc là Luật Thuế tài nguyên đã bỏ qua vấn đề này.
- Thứ sáu, về tổ chức thực hiện: Sự ra đời của Luật Thuế tài nguyên có một mục tiêu
quan trọng là nhằm siết chặt hơn việc quản lý, khai thác TN trên toàn quốc, tránh thất thoát và
tăng thu ngân sách. Tuy nhiên, để công cụ thuế được thực thi có hiệu quả, cần phải có những
11
quy hoạch, chính sách rõ ràng, đồng nhất từ trung ương đến địa phương thì mới quản lý được
tận gốc các nguồn TN, thay cho việc “đụng đâu, thu đó” như hiện nay. Riêng về vấn đề thuế
suất thuế TN, cần thống nhất phương thức thu thuế. Các địa phương thu rất khác nhau, không
linh hoạt theo giá cả biến động liên tục trên thị trường. Và cũng không cần phải nâng thuế suất
thuế TN lên với biên độ cao vì việc thất thu thuế không phải do thuế suất thấp mà do gian lận
thương mại, kê khai thuế không đúng với sản lượng khai thác cũng như xuất bán, nhất là xuất
lậu.
Về nội dung này, đa số các đại biểu tham dự hội thảo đều nhất trí với các kiến nghị mà
tác giả đưa ra.
Tham luận thứ mười: “Thuế bảo vệ môi trường – Một số bất cập và kiến nghị” của
Ths Phan Thị Kim Ngân và Ths Nguyễn Thị Ngọc Lan. Trình bày về những bất cập của thuế
Bảo vệ mội trường, nhóm tác giả cho rằng, còn khá nhiều các bất cập còn tồn tại như:
Đối tượng chịu thuế bảo vệ môi trường chỉ bao gồm 8 nhóm hàng hóa như quy định
hiện hành là vẫn còn hẹp, thực tế còn rất nhiều hàng hóa khi sử dụng gây ô nhiễm mội trường
nhưng chưa đưa vào diện chịu thuế như: máy tính, điện thoại di động, lốp xe, ắc quy, các loại
hoá chất tẩy rửa, a-xít, phân bón, thuốc lá, sản xuất chế biến thực phẩm, sản xuất xi măng...
Quy định của pháp luật về những trường hợp không chịu thuế bảo vệ mội trường chưa
được bao quát. Mức thuế suất tuyệt đối áp dụng trong thuế bảo vệ môi trường thay đổi thường
xuyên, ví dụ trường hợp tăng thuế BVMT đối với mặt hàng xăng. Vấn đề quản lý thu thuế
BVMT chưa được chặt chẽ.
Tham luận thứ mười một: Tác động của chế tài hành chính đối với tuân thủ thuế của
Ths. Trương Thị Tuyết Minh. Xem xét các chế tài hành chinh trong lĩnh vực thuế, tác giả đã
đưa ra một số nhận định sau: Các vi phạm hành chính về thuế được xây dựng mô phỏng theo
trình tự thủ tục thuế (từ khâu đăng ký, kê khai, nộp) tương đối rời rạc vì thiếu những cơ sở
luận để phân hạng các mức vi phạm. Các chế tài chưa đảm bảo yêu cầu trừng phạt và răn đe vì
tương đối nhẹ (phạt tiền từ 400 ngàn đồng cho đến một lần trên số tiền thuế gian lận và tăng
lên 3 lần nếu có tình tiết tăng nặng. Về mặt ngôn ngữ, cấu thành hành vi vi phạm hành chính
thuế tương đối mơ hồ, không rõ ràng. Hệ thống chế tài về thuế như hiện nay có thể tạo ra xu
hướng “bán tuân thủ thuế”, tức tuân thủ nữa vời.
Đây là những nội dung cho thấy rằng, hệ thống chế tài đối với các hành vi vi phạm
hành chính trong lĩnh vực thuế chưa hợp lý, chưa khoa học và chưa đảm bảo yêu cầu trừng
phạt tương xứng với hành vi vi phạm.
Tham luận thứ mười hai “Giải pháp nhằm thu thuế hiệu quả đối với doanh nghiệp
12
nước ngoài kinh doanh không hiện diện cơ sở thường trú tại Việt Nam” của Ths Nguyễn Thị
Hoài Thu. Trình bày về nội dung này, tác giả cho rằng, để thu thuế hiệu quả đối với doanh
nghiệp nước ngoài kinh doanh không hiện diện cơ sở thường trú tại Việt Nam, cần phải chú
trọng đến các vấn đề sau:
- Pháp luật thuế cần thiết hình thành các quy định hướng dẫn cụ thể, chi tiết về thu nhập
chịu sự điều tiết thuế và các hoạt động kinh doanh có khả năng làm phát sinh nghĩa vụ thuế,
hạn chế tình trạng thiếu nhất quán trong việc xác định một khoản lợi ích có phải là đối tượng
chịu sự điều tiết thuế.
- Khi quy định căn cứ tính thuế đặc thù dành cho nhóm chủ thể này, cần hết sức cân
nhắc để mức độ điều tiết theo công thức tính thuế này không quá chênh lệch so với trường hợp
tính thuế theo cách thức thông thường. Một chính sách điều tiết thuế công bằng là điều kiện
quan trọng tác động đến tâm lý tự giác thực hiện nghĩa vụ thuế của đối tượng nộp thuế. Điều
này cũng ảnh hưởng đến tính hấp dẫn của thị trường Việt Nam , qua đó góp phần thu hút đầu
tư nước ngoài, đẩy mạnh phát triển thương mại quốc tế.
- Quy định rõ ràng trách nhiệm của bên Việt Nam khấu trừ, tránh tình trạng nhập nhằng
giữa quyền và nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế với quyền và nghĩa vụ của chủ thể khấu trừ
thuế. Về vấn đề này, tác giả đề xuất hình thành quy định riêng để làm rõ trách nhiệm của chủ
thể khấu trừ, trong đó, quy định rõ chế tài trong trường hợp họ không thực hiện nghĩa vụ. Ở
phần chế tài, tác giả đồng quan điểm với cách xử lý của ngành thuế hiện nay, tức vẫn truy thu
và xử lý vi phạm với chủ thể khấu trừ để đảm bảo hiệu quả của công tác hành thu thuế. Tuy
nhiên, bên cạnh chế tài này, tác giả cũng đề xuất bổ sung quyền được nhận thù lao khi chủ thể
khấu trừ thực hiện đúng nghĩa vụ. Điều này vừa phù hợp với bản chất của quan hệ pháp luật
này (Nhà nước là chủ thể nhờ thu hộ, chủ thể khấu trừ thuế là bên thực hiện thu hộ và nộp hộ
tiền thuế), vừa tạo tác động tâm lý tích cực để khuyến khích bên Việt Nam khấu trừ tự giác
thực hiện nghĩa vụ khấu trừ thuế. Suy cho cùng, hiệu quả của công tác thu thuế với doanh
nghiệp nước ngoài không hiện diện cơ sở thường trú tại Việt Nam phụ thuộc phần nhiều vào ý
thức thực hiện nghĩa vụ khấu trừ thuế của bên Việt Nam.
Thảo luận về nội dung này, LS.Phan Thị Liễu cho rằng thực tiễn hoạt động tư vấn về
thuế nhà thầu thì phía nước ngoài thường chỉ quan tâm đến doanh thu mà họ nhận được. Còn
toàn bộ các nghĩa vụ về thuế đối với nhà nước Việt Nam thì doanh nghiệp tại Việt Nam phải tự
tính toán đề thực hiện nghĩa vụ này. Bởi vì, thông thường, hợp đồng giữa phía Việt Nam và
phía nước ngoài thường không thỏa thuận về vấn đề này hoặc nếu có thỏa thuận thì cũng giao
cho doanh nghiệp phía Việt Nam thực hiện nghĩa vụ thuế.
Ths. Bùi Quang Huy chia sẻ kinh nghiệm: Trong thực tiễn, Ths.Huy cũng đã gặp
trường hợp khi tư vấn cho một số hợp đồng về nhận hàng hóa thông qua dịch vụ chuyển phát,
13
đơn vị chuyển phát thì nói rằng họ chỉ là đơn vị chuyển phát họ không biết thỏa thuận về việc
thực hiện nghĩa vụ thuế; còn doanh nghiệp ở nước ngoài thì cho rằng họ đã thỏa thuận nghĩa
vụ với đơn vị chuyển phát. Cuối cùng, để được kê khai chi phí doanh nghiệp, đơn vị tư vấn
buộc phải tư vấn cho doanh nghiệp phía Việt Nam tự bỏ tiền túi ra để thực hiện nghĩa vụ về
thuế.
Về việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của nhà thầu nước ngoài, Ths.Huy và LS.Liễu đều
đồng nhất ý kiến, trong thực tiễn, hầu hết các trường hợp khi phải nộp thuế nhà thầu đều do
doanh nghiệp phía Việt Nam thự hiện. Vì vậy, khuyến cáo các doanh nghiệp phía Việt Nam
phải tính toán chi phí nộp thuế vào doanh thu trước khi xác định giá nhận cung cấp hàng hóa,
dịch vụ.
Tóm lại, sau 4 tiếng thảo luận sôi nổi, đa số các thành viên tham dự hội thảo đều thống
nhất ý kiến, những kiến nghị được nêu ra trong các bài tham luận là có cơ sở về mặt lý luận và
có giá trị áp dụng trong thực tiễn. Để quy định của pháp luật về các sắc thuế áp dụng đối với
các chủ thể kinh doanh được hoàn thiện, nhà làm luật cần chú trọng sửa đổi, bổ sung những
bất cập đã được nêu ra tại hội thảo.
Tp.Hồ Chí Minh ngày 03/06/2015
Người viết tóm tắt hội thảo
TS.Nguyễn Thị Thủy
14