11/14/2015
Trích từ trang web:
/>
Lương Y Đặng Đức Thảo
Trưởng Bộ Môn Châm Cứu Lục Khí
DANH MỤC CÁC BÀI GIẢNG BỘ MÔN
CHÂM CỨU LỤC KHÍ
Để hỗ trợ cho việc học tập châm cứu lục khí ngày càng trở nên đơn giản
và thuận tiện, chúng tôi xin hướng dẫn cách tìm kiếm các nội dung học
tập của bộ môn châm cứu lục khí của Thầy Đặng Đức Thảo trên
youtube. Theo đó, bạn có thể tìm thấy ngay vấn đề mình yêu thích, quan
tâm hoặc đang thắc mắc một cách dễ dàng.
Cách tìm video bài giảng về châm cứu lục khí của Thầy Đặng Đức
Thảo trên youtube như sau:
Vào website: youtube.com --> trong ô search gõ:
“bài học châm cứu và mạch lý – bài …”
Danh mục bài giảng: Lý luận cơ bản
- Lý luận căn bản về âm dương, thái cực, lưỡng nghi, tứ tượng, bát quái,
ngũ hành: bài 1, bài 2
- Tượng chính xác của thái dương, thái âm, thiếu dương, thiếu âm: bài
3a,3b
- Sự tồn tại của khí thử và chứng minh, lý giải đồ hình lục khí: bài 3c,3d
- Sử dụng bảng tử vi chứng minh, giải thích sự hợp lý của hành thử và
đồ hình của lục khí:
bài 4a,4b,4c,4d
- Sự hình thành hai khí quyết âm và dương minh, sự vận hành 6 khí
trong cơ thể: bài 5
- 12 đường kinh trong cơ thể, sự tương ứng của 6 hành với kinh mạch và
tạng phủ: bài 6
- Sự liên hệ của 6 kinh âm và 6 kinh dương trong cơ thể theo châm cứu
lục khí: bài 7
- Chiều vận hành của khí huyết trong 12 đường kinh theo châm cứu lục
khí: bài 8
1
- Bổ, tả, bình bổ bình tả theo châm cứu lục khí: bài 9
- Tổng quan về toàn bộ huyệt vị châm cứu: bài 10
- Sự hình thành bộ mạch của châm cứu lục khí: bài 11
- Ôn tập sự hình thành bộ mạch lục khí: bài 55 từ 16:00 đến hết
- Ngũ du huyệt, nguyên huyệt, lạc huyệt khích huyệt. Giờ chủ đạo của
12 kinh khí theo châm cứu lục khí: bài 12
- Bát cương, tứ chẩn, bát pháp: bài 13a, 13b.
- Sự vận hành lục khí, kinh mạch theo giờ: bài 16a, bài 16b, bài 16c
- Ôn tập so sánh lý luận ngũ hành và lục khí: bài 35a, bài 35b
- Giảng lại về ngũ hành: bài 47 ở 2/3 đầu video
- Lạc huyệt, khích huyệt trong ngũ hành: bài 62
- Lạc huyệt, khích huyệt trong lục khí: bài 63, bài 64 từ đầu à15:00
- Học thêm về lạc huyệt, khích huyệt: bài 67 từ 45:00-> 56:00
- Học thêm về tam tiêu: Bài 76 phần đầu
- Ôn tập thêm về ngũ hành, lục khí trong dùng huyệt: Bài 84 phần đầu
- Mộ huyệt, bối du huyệt: Bài 88 từ đầu đến 14:00
Danh mục bài giảng: Mạch lý
- Phương pháp xem mạch của châm cứu lục khí, ý nghĩa của từng quẻ
dịch trong mạch lý: bài 13b,13c,13d
- Bát quái và chẩn mạch: bài 16d, 16e
- Chẩn mạch trong châm cứu lục khí: bài 17
- So sánh bộ mạch ngũ hành và bộ mạch lục khí: bài 14
- Kĩ thuật xem mạch và tự mình xem mạch: bài 18c
- Mạch lý theo châm cứu lục khí : bài 20a từ đầu đến phút 10:20
- Mạch phù: bài 20a, bài 20b, bài 20c, bài 20d, bài 20e, bài 21a, bài 21b,
bài 21c, bài 21d, bài 21e
2
- Mạch trầm: bài 23a, bài 23b, bài 23c
- Mạch trì: bài 25a, bài 25b
- Mạch sác: bài 27a, bài 27b
- Mạch tế: bài 28b
- Mạch đại: bài 29b
- Thất quái mạch: bài 31b
- Học sâu thêm về mạch trầm: bài 45, 2/3 đầu bài giảng
- Học sâu thêm về mạch phù: bài 46, 2/3 đầu bài giảng
- Học sâu thêm về mạch lý: bài 48 từ đầu đến 01:10
- Các bộ mạch của người xưa: Bài 77
Danh mục bài giảng: Các bộ huyệt trị liệu
- Bộ Thổ: bài 32a, bài 32b, bài 33a, bài 33b
- Bộ Thổ thủ châm thực hành dán huyệt: bài 34a, bài 34b
- Bộ Thổ túc châm: bài 43
- Bộ Thổ tổng ôn trao đổi khí huyết 1 bộ: Bài 49
- Bộ Thổ Âm châm thực hành dán huyệt: Bài 55 từ đầu đến 16:00, bài
57 từ đầu đến 06:00
- Bộ Thổ trao đổi khí huyết với 2 bộ: bài 56
- Bộ Thổ thủ châm kết hợp lạc huyệt, khích huyệt: bài 64 từ 15:00à hết
- Bộ Thổ túc châm kết hợp lạc huyệt, khích huyệt: Bài 65
- Bộ Thổ âm châm, dương châm kết hợp lạc huyệt, khích huyệt: Bài 66
- Bộ Thổ tổng ôn kết hợp lạc huyệt, khích huyệt: bài 67 từ đầu ->45:00
- Bộ Thổ và nhị hợp, tam hợp, tứ hành xung, lạc huyệt, khích huyệt,
mạch lý: Bài 68, Bài 69, Bài 70, Bài 71, Bài 72, bài 73 từ đầu đến 26:00
*****
- Bộ Thử thủ châm: bài 36a, bài 36b, bài 37a, bài 37b
3
- Bộ Thử túc châm: bài 44
- Bộ Thử trao đổi khí huyết với 1 bộ: Bài 50
- Bộ Thử trao đổi khí huyết với 2 bộ: bài 57
- Bộ Thử kết hợp huyệt lạc, huyệt khích: Bài 73 từ 26:00 đến hết
- Bộ Thử học sâu thêm: Bài 74, Bài 75
*****
- Bộ Hỏa thủ châm: bài 38, bài 39
- Bộ Hỏa túc châm: bài 46 ở 1/3 cuối video
- Bộ Hỏa tổng ôn trao đổi khí huyết 1 bộ: Bài 52
- Bộ Hỏa trao đổi khí huyết với 2 bộ: bài 59
- Bộ Hỏa ôn tập + huyệt lạc, huyệt khích: Bài 82
- Bộ Hỏa ôn tập: Bài 83, Bài 85
****
- Bộ Thủy thủ châm: bài 40
- Bộ Thủy túc châm: bài 45
- Bộ Thủy tổng ôn trao đổi khí huyết 1 bộ: Bài 51
- Bộ Thủy trao đổi khí huyết với 2 bộ : bài 58
- Bộ Thủy ôn tập + huyệt lạc, huyệt khích: Bài 87
- Bộ Thủy ôn tập: bài 88 từ 14:00 -> hết
- Bộ Thủy ôn tập trao đổi khí huyết 2 bộ: Bài 89 từ đầu đến 18:00
*****
- Bộ Kim thủ châm: bài 41
- Bộ Kim túc châm: bài 48 từ 01:10 đến hết
- Bộ Kim tổng ôn trao đổi khí huyết 1 bộ: Bài 54
- Bộ Kim trao đổi khí huyết với 2 bộ : bài 60
- Bộ Kim ôn tập + huyệt lạc, huyệt khích: Bài 80
4
- Bộ Kim ôn tập: Bài 81
*****
- Bộ Mộc thủ châm: bài 42
- Bộ Mộc túc châm: bài 47 ở 1/3 cuối video
- Bộ Mộc tổng ôn trao đổi khí huyết 1 bộ: Bài 53
- Bộ Mộc trao đổi khí huyết với 2 bộ : bài 61
- Bộ Mộc ôn tập, kết hợp với huyệt lạc, huyệt khích: Bài 76
- Bộ Mộc ôn tập trao đổi khí huyết với 1 bộ: Bài 78
- Bộ Mộc ôn tập trao đổi khí huyết với 2 bộ: Bài 79
*****
- Trao đổi khí huyết trong bộ huyết Thủy, Mộc, Thổ+ lạc khích: Bài 89
từ 18:99 đến hết
- Trao đổi khí huyết trong bộ khí Thử, Kim, Mộc + lạc khích: Bài 90
phần đầu nói về xem mạch
- Trao đổi khí huyết 3 bộ: Thổ, Kim, Thủy + lạc khích: Bài 91
- Trao đổi khí huyết 3 bộ Thử, Mộc, Hỏa + lạc khích: Bài 92 phần đầu
nói về xem mạch
- Trao đổi khí huyết 3 bộ Kim, Thủy, Thử + lạc khích: Bài 93 từ 15:00
đến hết
- Trao đổi khí huyết 3 bộ Thủy, Thử, Mộc + lạc khích: Bài 95 từ 35:00
đến hết
- Trao đổi khí huyết 3 bộ Hỏa, Thổ, Kim + lạc khích: Bài 96 từ 35:00
đến hết
- Trao đổi khí huyết 3 bộ Mộc, Thủy, Hỏa + lạc khích: Bài 99 từ 14:00
đến hết
- Trao đổi khí huyết 3 bộ Hỏa, Kim, Mộc + lạc khích: Bài 100 từ 30:00
đến hết
5
- Trao đổi khí huyết 3 bộ Thổ, Thủy, Hỏa + lạc khích: Bài 101
******
-Điều trị cấp cứu: Bài 100 từ đầu đến 30:00
Danh mục bài giảng Huyệt vị lục khí
- Huyệt lục khí trên kinh túc thái âm tỳ và thủ thái âm phế: bài 15a, 15b
- Huyệt lục khí trên kinh thủ thái dương tiểu trường và túc thái dương
bàng quang: bài 22a, bài 22b, bài 22c, bài 22d, bài 22e
- Huyệt lục khí trên kinh túc dương minh vị và thủ dương minh đại
trường: bài 18a, bài 18b
- Huyệt lục khí trên kinh túc thiếu âm thận và thủ thiếu âm tâm: bài 19a
- Thực hành xác định vị trí các huyệt của kinh: tỳ, phế, vị, đại trường,
thận, tâm trên người: bài 19b, bài 19c, bài 19d
- Huyệt lục khí trên kinh túc quyết âm can và thủ quyết âm tâm bào: Bài
24
- Huyệt lục khí trên kinh thủ thiếu dương tam tiêu kinh và túc thiếu
dương đởm:
bài 26a, bài 26b
- Huyệt lục khí trên 3 kinh âm: bài 28a
- Huyệt lục khí trên 3 kinh dương: bài 29a
- Chu kì vận hành của các huyệt lục khí theo bảng tử vi: bài 30a, 30b
- Ôn tập chu kì vận hành của các huyệt lục khí theo bảng tử vi: bài 31a
6
CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA CHÂM CỨU LỤC KHÍ
Châm cứu là một phát kiến vĩ đại của Ðông y.Cơ sở của châm
cứu là Kinh lạc. Có thể mô tả ngắn gọn như sau: Con người sống
được là nhờ có khí huyết, khí huyết di chuyển trong cơ thể nhờ hệ
kinh lạc - đó là một hệ thống gồm các đường kinh chính chạy dọc
theo cơ thể và các đường lạc chạy ngang, nối với nhau thành một
hệ thống đi khắp toàn thân. Trên đường kinh có các lỗ hổng gọi
là huyệt, là nơi khí huyết ra vào. Khi dùng kim châm vào huyệt,
tức là tác động vào khí huyết, sẽ có tác dụng điều chỉnh cơ thể
chống lại bệnh tật. Và khác hẳn các lý thuyết Ðông y khác thường
mơ hồ, những tài liệu châm cứu đã mô tả rất tỉ mỉ đường đi của
kinh lạc, vị trí các huyệt
1.Thuyết phản chiếu
- Vũ trụ, con người, xã hội là một thể thống nhất (vạn vật đồng
nhất thể). Do đó, con người là sự phản chiếu của vũ trụ (nhân
thiên tiểu thiên địa). Trong con người mỗi bộ phận đặc thù đều
phản chiếu cái tổng thể của nó (tứ là cơ thể). Bộ mạch thốn khẩu
là tiêu biểu cho toàn cơ thể, mọi trạng thái thuộc về tâm lý, sinh
lý, bệnh lý của con người, đều được thể hiện trên mạch lý. Hay
nói cách khác hơn, bộ mạch chính là tấm gương phản chiếu,ghi
nhận một cách có hệ thống, chọn lọc những gì thuộc về phạm vi
con người, ở trạng thái tĩnh và động của nó. Thuyết này được áp
dụng vào châm cứu lục khí bằng phương pháp chẩn mạch
của châm cứu lục khí
- Tình trạng của khí huyết, âm dương, hư thực, công năng từng
tạng phủ… được phản chiếu lên bộ mach ở cổ tay. Được gọi là
mạch thốn khẩu, được chi làm 3 bộ thốn, quan, xích kết hợp với
3 mức nông sâu là thượng án, trung án và trọng án.Nhờ bắt mạch
mà người làm châm cứu có thể biết được tình trạng khí huyết
trong cơ thể, biết được sự lưu thông tốt hay là không, khí huyết
dưa thừa hay bị thiết, thừa chỗ nào, và thiếu chỗ nào…
7
2.Thuyết biểu hiện:
được biểu hiện dưới 3 góc độ:
- Không gian: những gì bên trong sẽ hiện ra bên ngoài, những gì
bên dưới sẽ hiện ra ở trên
- Thời gian
+ Những gì sắp sảy ra sẽ được dự báo trước
+ Những gì đã xảy ra đều lưu lại dấu vết
+ Những gì đang xảy ra đều lưu lại biểu hiện
- Biểu hiện bệnh lý: Tình trạng của khí huyết trong kinh lạc, tình
trạng của lục khí trong cơ thể đều được thể hiện trên 6 bộ mạch
bằng 8 quẻ của bát quái. Dựa vào quẻ tượng và các bộ thủy-hỏa,
thổ-thử, kim-mộc mà thầy thuốc tìm ra được bộ huyệt nhằm cân
bằng và ổn định lại lục khí toàn của toàn bộ cơ thể
3.Thuyết cục bộ
-Một cơ quan hay một bộ phận nào trong cơ thể, có sự bất ổn
tiềm tàng, hay đang thời kì diễn tiến, thì bộ mạch tương ứng với
đường kinh hoặc tạng phủ bị bệnh sẽ biến đổi thành (dịch) bộ
mạch bị bệnh. Lúc đó bình mạch sẽ chuyển thành mạch bệnh
-Mỗi huyệt có tác dụng ở xa (tới các cơ quan), nó còn có tác
dụng cục bộ (tại chỗ) và lân cận nữa. Vì thế trong châm cứu lục
khí mới nói: dùng thủ chữa cho túc, dùng túc chữa cho thủ, dùng
âm chữa cho dương, dùng dương chữa cho âm, dùng kim chữa
cho mộc, dùng hỏa chữa cho thủy…
4.Thuyết đồng bộ
-Có sự tương ứng về vị trí, tượng mạch, hình thái mạch và thời
kỳ xuất hiện, giữa các loại dấu hiệu báo bệnh giữa toàn thân và
bộ vị tương ứng. Tuy nhiên cũng có ngoại lệ, bộ vị bị bệnh thì
8
có tượng mạch bình thường nhưng lại thấy có sự bất thường ở
bộ vị khác. Đơn giản là vì 12 kinh mạch và 8 kì kinh bát mạch
có liên quan với nhau để vận chuyển lục khí điều hòa khắp toàn
thân. Việc trở ngại của 1 trong 6 khí sẽ ảnh hưởng qua lại với
nhau, phụ thuộc vào sự thông hay tắc của đường kinh. Chình vì
thế cần phải thực hành nhiều để có kinh nghiệm tìm gốc bệnh
5.Thuyết biến dạng
-Các dấu hiệu báo bệnh ở trên bộ mạch không phải là bất biến,
mà bộ mạch sẽ có sự biến đổi tùy vào thời gian,mức độ (nặng,
nhẹ), tình trạng và diễn tiến bệnh tật của từng cá nhân.
6.Thuyết giao thoa
-Bệnh thuộc phần khí có thể ảnh hưởng qua phần huyết
-Bệnh thuộc phần huyết có thể ảnh hưởng qua phần khí
-Nên khi bệnh nhân bị bệnh, bắt mạch tay trái (thuộc huyết) mà
không có bệnh (bình mạch) thì biết chắc rằng bệnh nằm ở phần
khí, hay là bộ mạch bên tay phải sẽ đi theo dạng mạch bệnh và
ngược lại
9
HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG, THIÊN ĐỊA
NHÂN
ÂM – DƯƠNG
THIÊN – ĐỊA – NHÂN
Quan niệm chỉnh thế thống nhất là nhận thức của Đông y về mối quan hệ
qua lại của sự vật. Người xưa nhận rằng: trong quá trình tồn tại và phát
triển, trời ( thiên ), đất ( địa ) , và người ( nhân ) không tách rời khỏi nhau.
Quan hệ ấy sách kinh điểm gọi là “ tam tài”. Lý luận đông y xây dựng
trên quan niệm chỉnh thể ấy.
Các tạng phủ trong cơ thể con người có quan hệ chặt chẽ với nhau cũng
là dựa trên nguyên tắc đó. Hệ kinh lạc phân bố trong khắp cơ thể, tuần
hoàn không ngừng, hình thành một hệ thống; đường liên lạc giúp cho chức
năng sinh lý của toàn bộ cơ thể được thăng bằng, hoàn chỉnh từ bên trong
ra ngoài và từ ngoài vào trong. Căn cứ vào chức năng, mỗi tạng và phủ có
quan hệ biểu lý. Ví dụ: tạng tâm có quan hệ biểu lý với phủ tiểu trường,
tạng can có quan hệ biểu lý với phủ đởm…Quan hệ biểu lý giúp cho người
thầy thuốc hiểu rõ rằng: hoạt động sinh lý và biến hóa bệnh lý của tạng và
phủ, trong quan hệ ấy có ảnh hưởng qua lại. Biến hóa bệnh lý của từng
tạng phủ còn biểu hiện ra ở nhiều mặt: bệnh thuộc về nhiệt hay hàn? Bệnh
lâu hay mới phát ( hư hay thực ). Nói chung dựa vào quan niệm chỉnh thể
toàn diện,đông y mỗi khi biện chứng đều phải dựa vào vấn đề: biểu – lý ;
hàn – nhiệt; hư – thực để điều trị cho đứng đắn. Tính chất về bệnh tật của
tạng phủ vừa nói trên đều nằm trong lý luận của học thuyết âm dương vì
Đông y tổng hộp hiện tượng biểu lý nói trên như sau:
Biểu , nhiệt , thực thuộc dương chứng
Lý, hàn, hư thuộc âm chứng.
10
Học thuyết âm dương sẽ giúp cho người thầy thuốc dựa vào tạng phủ có
bệnh, phân biệt âm chứng hay dương chứng để điều trị, vì nguyên tắc chữa
bệnh của đông y là: “điều hòa âm dương”.Nói chung: các hiện tượng thiên
về hàn; về suy nhược, về ức chế thuộc âm chứng; các hiện tượng thiên về
nhiệt,về hưng phấn, kích thích thuộc dương chứng.
Trị liệu bằng châm cứu là vận dụng các tính chất của âm dương. Khi có
bệnh tức là âm dương đã mất cân bằng, mất điều hòa, có sự thiên lệch vậy
người châm phải bắt mạch và sử dụng huyệt lục khí ra làm sao để âm
dương trong cơ thể trở lại thăng bằng điều hòa. Ngoài ra, còn vận dụng cả
tính chất đối lập, nhưng thống nhất của âm dương trong khi chữa bệnh
bằng châm cứu. Ví dụ, dùng huyệt tại tay chữa cho bệnh ở chân, dùng
huyệt của bộ huyết chữa cho bệnh của bộ khí, dùng âm chữa cho dương,
dùng dương chữa cho âm, dùng hữu lực chữa cho vô lực, dùng vô lực
chữa cho hữu lực …
Học thuyết âm dương giúp người thầy thuốc phân tách quy luật mâu
thuẫn, nhưng thống nhất của hoạt động sinh lý và biến đổi bệnh lý của
tạng phủ, cũng giúp người ta biết quan hệ của tạng với phủ trong cơ thể
con người. Nhưng trong nhiều trường hợp, chỉ dùng học thuyết âm dương
thì chưa giải thích được tường tận và đầy đủ các quan hệ mật thiết giữa
hoạt động sinh lý và biến đổi bệnh lý của nội tạng đối với hoàn cảnh thiên
nhiên bên ngoài. Do đó cần phải vận dụng thêm những kiến thức của Kinh
Dịch và Y dịch lục khí để giải thích đầy đủ hơn quan hệ chỉnh thể thống
nhất giữa cơ thể với môi trường bên ngoài.
11
TỨ TƯỢNG & Y HỌC THỂ CHẤT TỨ
TƯỢNG
Y học thể chất tứ tượng chi con người theo 4 loại thể tạng là Thái dương
||, thái âm ::, thiếu dương:| , thiếu âm |: dựa trên sự khác nhau về chức
năng tạng phủ dẫn đến sự khác nhau về hệ thống sinh lí và bệnh lý.Lý
luận này cũng cho rằng tùy vào thể tạng mà có sự khác nhau về ngoại
hình, tâm tính, triệu chứng, đồng thời việc chữa trị và chăm sóc dự phòng
đối với các căn bệnh cũng có những phương pháp khác nhau.
Y học thể chất tứ tượng không chỉ căn cứ trên sự phân biệt nguyên nhân
gây bệnh khác nhau để điều trị bệnh tât, mà còn đưa ra phương pháp tu
dưỡng về thân thể, về mặt tinh thần theo từng loại thể chất.
Y học thể chất tứ tượng là hệ thống chăm sóc sức khỏe phù hợp theo thể
chất. Y học thể chất Tứ tượng đã và đang được pháp triển và áp dụng để
chăm sóc sức khỏe về thể chất và tinh thần cho xã hội con người.
Xét đây là phương pháp hay, đơn giản trong chẩn đoán và hiệu quả trong
việc áp dụng vào việ c chăm sóc sức khỏe cho từng người bệnh. Nên
chúng tôi giới thiệu ra đây để góp thêm vào kho tàng kiến thức cho những
ai đang châm cứu lục khí nhằm hoàn thiện hệ thống kiến thức về chẩn
đoán, điều trị và tư vấn sức khỏe, phòng bệnh và chữa bệnh. Mong các
thầy thuốc có thêm được đầy đủ kiến thức về nhiều mặt để mỗi lần tiếp
xúc với người bệnh chúng ta lại mang được nhiều lợi lạc nhất đến với họ.
Sau đây là tiêu chuẩn để phân biệt 4 thể người
Người Thái dương (tượng ||)
Người Thiếu dương :|
Ta thấy khí thái dương và tượng của Khí Thiếu dương là khí dương mới
thái dương thể hiện một tình sinh, còn bé, còn ít và xu hướng là sẽ
trang dương khí trong người lúc nào đi lên, bốc ra ngoài,thể hiện một trình
trạng là dương khí có xu hướng bốc
12
cũng vượng, tràn trề, đầy đủ nên họ lên bất cứ khi nào có điều kiện. Đông
có đặc điểm.
y xếp vào dạng vị nhiệt. Người thuộc
thể tạng này có đặc điểm sau:
Ngoại hình: Đầu và gáy lớn, vai và
lưng rộng,ngược lại eo và mông Ngoại hình:
nhỏ.Những người có ngoại hình như
vậy khi đi bộ hoặc đứng rất khó khăn. Có thể hình phần trên ngực rộng,
ngược lại phía dưới mông hình tam
Trán rộng, ánh mắt dữ tợn
giác ngược, ánh mắt sắc sảo tinh
nhanh, đầu lồi ra phía sau
Tính cách: Cương trực, rộng lượng và Tính cách:
sáng tạo. Thông minh, tham vọng và
cương trực nên khó hòa hoặt với Hành động nhanh gọn, có tinh thần
hy sinh, tinh thần xã hội cao, tính tình
những người xung quanh.
trong sáng, vui tính và hay mắc lỗi do
tính hấp tấp, thích xen vào chuyện
người khác.
Người Thái âm ::
Người Thiếu âm |:
Khí thái âm thể hiện âm khí đã đầy Khí thiếu âm thể hiện ấm đang còn
đủ, trầm lắng, hài hòa. Đông y xếp nhỏ, đang phát triển lên. Đông y xếp
vào thể đàm trệ. Người này có đặc vào thể tỳ vị hư hàn. Người này có
điểm sau:
đặc điểm sau:
Ngoại hình:
Ngoại hình:
Eo và bụng ta, đầu và gáy yếu. Thông
thường hay bị béo phì. Tai mắt mũi
miệng to dầy tạo ấn tượng phúc hâu.
Da sẫm màu và thô.
Vai hẹp, ngực nhỏ, xương chậu rộng
và mông lớn. Đa phần có thân thể gầy
yếu. Đuôi mắt trễ, tai mũi miệng mắt
nhỏ và thanh tú, da mềm mại mịn
màng.
Tính cách:
13
Hành động đàng hoàng và rộng rãi,
đáng tin cậy nên thường được cho là
bền bỉ trong mọi việc, bản tính chậm
chạp và có phần lười biếng. Đôi khi
tỏ ra trầm lắng, ít nói nên có thể khiến
hiểu lần là nham hiểm.
14
Tính cách:
Hiền lành, nội tâm, là người khéo léo
và cẩn thận, nhiều tài lẻ song khi đưa
ra quyết định có khuynh hướng do dự
không quyết đoán nên thường bị phụ
thuộc.
LỤC KHÍ TỒN TẠI Ở ĐÂU
Trong hệ thống lý luận của bộ môn châm cứu lục khí, có một vấn đề làm
nhiều người khó hiệu đó là chính là lục khí. Mời các bạn cùng theo dõi
bài viết ở dưới để hiểu rõ về lục khí trong hệ thống lý luận y dịch lục khí
và châm cứu lục khí:
15
16
17
LÀM RÕ HỌC THUYẾT THỦY HỎA
BẰNG Y DỊCH LỤC KHÍ
1) Về thuỷ hoả:
Theo Dịch thì vô cực sinh thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi
sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái âm sinh ngũ hành(chất) &
dương sinh lục khí (khí). Là người thầy thuốc ta cần nhận thức rõ một
điều là mọi thứ trong trời đất dù là vô hình, hữu hình đều do sự vận động
của trời đất mà có, hay nói cách khác là do có sự giao hợp lẫn nhau giữa
khí vô hình (lục khí) và chất đất (ngũ hành) mà tạo nên. Khí vô hình bao
gồm: khí trời là dương, trong khí trời có cả ảnh hưởng của mặt trời. Đất
là âm, trong khí đất có cả hơi nước ở đất. Khí trời, khí đất là khí vô hình
tạo thành lục khí; ánh lửa, hơi nước... là hữu hình tạo nên ngũ hành.
Vì thế khi nói là khí âm dương là đã có sự trung hoà lẫn nhau giữa khí vô
hình( lục khí) và chất – ngũ hành. Khí là dương, chất là âm . Trong chất
là âm có ánh lửa thuộc dương, hơi nước thuộc âm, trong khí dương có khí
trời thuộc dương, khí đất thuộc âm. Đó là trong dương và âm đều có âm
dương. Xét như vậy mới thấy trong lục khí có ngũ hành, trong ngũ hành
có lục khí vì đơn giản là đều do sự vận hành của càn khôn mà tạo ra cả
mà thôi.
Trời đất hoá dục muôn vật đều phải do sự xâm nhập của lục khí và ngũ
hành trong bốn mùa, rồi mới có thể phát triển được công năng: sinh,
trưởng, thu, tàng; để làm chung thuỷ cho muôn vật. Vì vậy trời đất lấy lục
khí và ngũ hành mà hoá sinh muôn vật như là con đường từ vô cực đến
bát quái rồi đến lục thập tứ quái và muôn vật vậy. Tối – Sáng = Thuỷ Hoả = Nước – Lửa = Khí - Huyết = Phù – Trầm = Biểu – Lý = Tạng –
Phủ = Kinh Âm – Kinh Dương = Tế - Đại = Trì - Sác = Kim – Mộc =
Thổ - Thử = Hư – Thực….như vậy thông qua cặp phạm trù tượng trưng
Thuỷ - Hoả người thầy thuốc sẽ hiểu được lý lẽ của âm dương và cũng
thông qua lý lẽ đó thì sẽ hiểu được sự tương quan và tác động lẫn nhau
18
giữa các đường kinh âm, dương trong cơ thể, vai trò của các huyệt lục khí
toàn thân cũng như vai trò của huyệt lạc, huyệt khích và huyệt kì kinh bát
mạch trong việc đảm bảo chu kì vận hành của khí huyết trong cơ thể
Ẩn ý của phạm trù Thuỷ – Hoả trong thiên nhiên dưới góc nhìn của y
dịch lục khí
Thuỷ hay thủy khí hay là âm khí là nước, chỗ nhiều nước nhất là biển;
gốc của nước là mặn. Nước còn có nhiều dạng khác nhau, ở nhiều chỗ
khác nhau: nước thể lỏng, hơi, mây, mù, sương, mưa, tuyết, nước trong
đất, nước ở trong động vật và thực vật. Nước ở trong ko gian: sông, ngòi,
suối… vì thế khi nói đến thủy(khảm) là ta không thể không nói tới mộc
khí(tốn) và thổ khí(đoài) tức là 3 hành mộc, thủy, thổ tạo nên tam giác với
đỉnh hướng xuống dưới trong đồ hình của lục khí
Hoả hay hỏa khí là lửa hay là dương khí, chỗ có nhiều lửa nhất là mặt trời.
Lửa có nhiều dạng khác nhau, ở nhiều chỗ khác nhau: lửa mặt trời, lửa
trong lò, trong lòng đất, trong sấm, chớp… vì thế khi nói đến hỏa(ly) là ta
không thể không nói tới kim khí(cấn) và thử khí(chấn) tức là 3 hành hỏa,
kim, thử tạo nên tam giác với đỉnh hướng lên trên trong đồ hình của lục
khí
2) Sự giao hợp của thuỷ hoả
Mọi sự sống trên trái đất đều do sự giao nhau của thuỷ và hoả. Mặt trời
chiếu xuống, hơi nước bốc lên, thì mới có mây mưa- mới có mọi sinh vật
trên trái đất.
Ta thấy mọi sự sống đều phải nhờ có mặt trời, có nước. Nếu chỉ có mặt
trời mà ko có nước thì tất cả sẽ bị đốt khô hoặc nếu chỉ có nước mà ko có
mặt trời thì tất cả tối tăm lạnh lẽo thì làm gì có sự sống được. Cho nên
mọi sự sống xuất hiện đều do ở sự giao tiếp lẫn nhau giữa thuỷ và hoả.
Thuỷ hoả giao nhau gọi là thuỷ hoả ký tế, ký tế thì sinh ra vật. Ngược lại
thuỷ hoả ko giao tiếp với nhau gọi là thuỷ hoả vị tế, vị tế thì vạn vật tiêu
tan. Trong cơ thể con người cũng vậy, nếu kinh âm không đi lên đều đặn,
kinh dương không đi xuống uyển chuyển và sự đi lên, đi xuống của những
19
kinh âm và dương không hài hòa, cần bằng với nhau thì sẽ làm đảo lộn sự
cân bằng âm dương ở trong cơ thể, hay nói cách khác sẽ làm đảo lộn sự
hài hòa của lục khí trong nội bộ các đường kinh âm hoặc đường kinh
dương đó nói riêng cũng như lục khí trong toàn bộ cơ thể của con người
nói chung. Thì chắc chắn cơ thể người đó sẽ từ thủy hỏa kí tế chuyện sang
hỏa thủy vị tế, hay là từ một cơ thể khỏe mạnh chuyển sang một cơ thể
mang trong mình những rối loạn và mầm mống của bệnh tật hiện tại và
tương lai.
Khí nuôi sống mọi vật gọi là ôn dưỡng, huyết nuôi sống muôn vật gọi là
nhu dưỡng. Ôn là ấm ko phải là nóng, nhu là mát chứ ko phải là ướt…
làm có sự ôn, sự nhu là nhờ có khí huyết giao nhau. Sự sống được bình
thường là do ôn dưỡng và nhu dưỡng luôn luôn ở trong sự cân bằng tương
đối.
3) Thuỷ hoả trong con người:
Trong cơ thể con người, làm nền của ôn dương gọi là khí, làm nề của nhu
dưỡng gọi là huyết. Khí huyết luôn luôn tồn tại và hỗ căn lẫn nhau, hai
mà một, một mà hai. Đó là sự hiện hình của âm dương, cũng là thực thể
của khí huyết giao hợp với nhau trong nhân thể.
Khí huyết tiên thiên là nguồn gốc sinh ra con người. Từ nam giới (dương)
và nữ giới (âm), có giao hợp thì mới sinh được con cái. Âm dương có giao
nhau thì khí huyết mới tụ lại những thứ ấy hợp lại là một thì gọi là giao
khí, giao khí: là thứ khí có từ ban đầu gọi là khí tiên thiên. Từ khí tiên
thiên có bẩm khí hậu thiên mới phát triển thành hình thể và thần khí của
con người. Hình thể là âm từ ngũ hành mà sinh ra, thần khí là dương từ
lục khí sinh ra. Nhưng ngũ hành và lục khí đều có chúng nhau một gốc
nên ngũ hành = lục khí, lục khí = ngũ hành. Tùy thời điểm, tùy duyên,
tùy phương pháp trị liệu mà ta sẽ coi cơ thể con người là ngũ hành hay
lục khí. Ví dụ như khi áp dụng môn châm cứu thì chắc chắn phải coi cơ
thể là lục khí vì như thế mới ứng hợp được với 6 đường kinh trong cơ thể.
Không thể nào coi cơ thể thể là ngũ hành rồi dựa trên đó mà thực hành
châm cứu được.
20
Người ta vì có chân thuỷ, chân hoả hay khí huyết trong bẩm khí tiên thiên
nên trong cơ thể mới luôn luôn có sự ôn dưỡng và nhu dưỡng. Chân thuỷ,
chân hoả là cái gốc bẩm sinh từ tiên thiên và được hoàn thiện đầy đủ nhờ
hậu thiên chúng vận hành trong kinh âm và kinh dương, nên người xưa có
câu nói đầy tính triết lý: “Toàn bộ nhan thể ko ra ngoài hai chữ âm dương
tức là ngũ hành và lục khí từ đó mới có thuỷ với hoả, mà hai chữ thuỷ hoả
tức là khí huyết”
21
PHÂN BIỆT HỌC THUYẾT NGŨ VẬN VÀ
Y DỊCH LỤC KHÍ
Ngũ vận - lục khí trong sách Tố Vấn
Gọi tắt là học thuyết vận khí
Giải thích sự biến hóa của khí hậu thời tiết đối với vũ trụ và đối với
con người
Lấy học thuyết Âm dương ngũ hành làm hạt nhân
Cơ sở quan điểm chỉnh thể: thiên – địa – nhân
Ngũ vận = kim mộc thủy hỏa thổ kết hợp với thiên can để biết
được năm nào thuộc về vận nào
Lục khí tức là sáu khí bao gồm: phong, hàn, thử , thấp, táo, hỏa kết
hợp địa chi để biết được năm nào thuộc khí nào
Học thuyết ngũ vận lục khí được trình bày trong sách hoàng đế nội
kinh tố vấn là công cụ lý luận đơn giản hóa, thuyết minh mọi phương
diện trong hoàn cảnh tự nhiên và mọi thứ quan hệ trong y học
Mục đích: nắm vững quy luật biến hóa của thời tiết, khí hậu để biết
nhân tố gây bệnh của ngoại cảnh lục dâm à biết tình hình phát triển
bệnh theo ngày, tháng, năm sau đó. Lấy cơ sở để phòng bệnh và
chữa bệnh
Y dịch lục khí của Việt Nam
Giải thích sự biến đổi của lục khí trong vũ trụ và con người
Lấy y dịch lục khí làm cốt lõi
Y dịch: đạo dịch nằm trong y đạo
22
Lục khí gồm có thổ khí , kim khí, thủy khí, thử khí, mộc khí, hỏa
khí. Sáu khí này mang ý nghĩa rộng lớn hơn nhiều so với lục khí
của học thuyết vận khí trong sách Tố Vấn. Theo y dịch lục khí thì
sáu khí này không còn chỉ là sáu khí tự nhiên trong trời đất nữa. Cần
phân biệt cho rõ đây là hai từ đồng âm mà khác nghĩa. Học và thực
hành châm cứu lục khí thì sẽ nắm rõ và hiểu được ý nghĩa thực sự
của sự khác nhau này
Cần phân biệt cơ sở quan điểm chỉnh thể:
Học thuyết vận khí nói về Thiên – Địa – Nhân khi nói điều này thì
đã ngầm mặc định thứ tự trên dưới của con người và trời đất, điều
này có được do sự quan sát và tổng hợp dựa trên tư duy của con
người sau nhiều thế hệ.
Y dịch lục khí nói là Thiên – Địa – Nhân, khi nói điều này thì ta hiểu
rằng đất vạn vật và con người không 1 cũng không 2 tất cả đều được
tạo thành khi đã hội tụ đủ nhân và duyên. Lý luận này có được do
sự “tu tập” trong một thời gian không hề ngắn và được nhận thức
không phải bằng con mắt bằng da bằng thịt mà bằng con mắt của trí
tuệ
Y dịch lục khí: công cụ lý luận để tìm căn nguyên bệnh tật, xem lý
ở đâu, vì sao lại có sự bất hòa …tức là tìm đến cái gốc của bệnh tật
để mà chuyển hóa nó.
Mục đích : lập lại sự hòa thuận, hòa hợp của lục khí trong cơ thể từ
đó bệnh tật tự dưng hết duyên mà hình thành, cơ thể con người tạo
có cơ hội để khỏe mạnh và biết cách duy trì sức khỏe.
23
CHÂM CỨU LỤC KHÍ - CON ĐƯỜNG
TRUNG ĐẠO
Các phương pháp châm cứu ngày nay trên thế giới có rất nhiều loại hình
khác nhau, có loại thì dễ học, dễ tiếp thu nhưng kết quả bình thường không
có gì độc đáo cho lắm, và cũng dùng để chữa những bệnh thông thường
mà thôi. Khi gặp bệnh phức tạp, khó chữa, nhiều bệnh phối hợp với nhau
thì các cách châm thông thường tỏ ra khá “vất vả” khi chọn huyệt, chọn
kĩ thuật bổ hay tả để chữa trị bệnh tật. Bên cạnh những phương pháp châm
theo kiểu “công thức” sẵn có, thì cũng vẫn có những người sử dụng các
phương pháp châm cứu rất độc đáo, chữa được những bệnh khó, phức tạp.
Cách họ chữa bệnh bằng châm cứu thường là sau một thời gian đọc sách,
học tập lâu dài, cộng với một quá trình tiếp thu kinh nghiệm từ những bậc
tiền bối khác. Tuy nhiên có thể nói là những phương pháp đó là nằm xung
quanh việc áp dụng lý luận của ngũ hành vào châm cứu mà thôi. Còn các
bậc tiền bối, châm thật là giỏi, thật là tác dụng thì có thể là do trong các
bậc thầy đó đã có sẵn hành Thử rồi, tức là chính họ không ngờ rằng mình
đang sử dụng châm cứu lục khí rồi chứ không còn sử dụng châm cứu theo
ngũ hành nữa. Ranh giới giữa châm cứu ngũ hành và châm cứu lục khí
quả là mong manh nhưng không dễ để vượt qua nếu như không có đầy đủ
mong muốn vượt qua. Châm cứu lục khí là trung đạo không phải theo hệ
ngũ hành, cũng không phải theo hệ ngũ vận lục khí, đơn giản nó chỉ
là châm cứu lục khí mà thôi. Học vừa khó vừa dễ, vừa đơn giản và uyên
thâm, vừa nhanh lại vừa chậm…đây là cái đạo của châm cứu vậy.
24