BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN
------o0o------
BÀI THUYẾT TRÌNH
HANG ĐỘNG VÀ ĐỒI NÚI TRONG
THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG
GVHD: PGS.TS Lê Thu Yến
Nhóm 1
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2016
DANH SÁCH NHÓM
1. Lâm Minh Trí
K40.606.045
2. Phạm Quốc Bảo
K40.606.052
3. Nguyễn Ngọc Quỳnh Anh
K40.606.050
4. Nguyễn Thị Mỹ Hòa
K40.606.072
5. Nguyễn Thị Kiều Oanh
K40.606.036
6. Hà Nguyễn Thiên Lý
K40.606.082
7. Cao Hoàng Anh Thư
K40.606.111
2
MỤC LỤC
1. Hồ Xuân Hương – cuộc đời và sự nghiệp
1.1. Thời đại của Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương sống trong một thời đại có nhiều biến thiên dữ dội và mâu
thuẫn giai cấp trở nên gay gắt cực độ. Bà sinh ra vào cuối triều Lê (1592-1788),
một thời kì đầy những biến loạn xã hội bởi nội chiến phong kiến và bão táp của
phong trào nông dân khởi nghĩa mà đỉnh cao là khởi nghĩa Tây Sơn. Chế độ phong
kiến đi từ khủng hoảng đến suy thoái. Cuộc khởi nghĩa của người anh hùng áo vải
Nguyễn Huệ đã cùng một lúc lật đổ các tập đoàn phong kiến Đàng Trong (chúa
Nguyễn), Đàng Ngoài (vua Lê, chúa Trịnh), đánh tan các cuộc xâm lược của quân
Xiêm ở phía nam, quân Thanh ở phía bắc, khởi đầu một triều đại ngắn ngủi của
mình (1788-1802) rồi cũng sớm bị mất vào tay nhà Nguyễn. Giai đoạn nửa cuối thế
kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX là giai đoạn suy sụp của chế độ phong kiến, có thể
nói đây là giai đoạn đen tối nhất của lịch sử dân tộc ta. Văn học phản ánh cuộc
sống với bối cảnh lịch sử đầy biến động, hẳn nhiên có sự tác động, ảnh hưởng lớn
đến quá trình sáng tác thơ Nôm của Hồ Xuân Hương. Một điểm lưu ý là trước đây
Nho giáo giữ vai trò độc tôn với biết bao cái gọi là lễ giáo, đạo đức, luân lý mà bọn
phong kiến đặt ra cho người bình dân và nhất là với phụ nữ như đạo tam tòng: tại
gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử, hoặc khuôn mẫu tứ đức: công,
dung, ngôn, hạnh. Điều đáng nói là Nho giáo suy thịnh theo bước thăng trầm của
triều đình phong kiến. Giờ đây giai cấp phong kiến vào thời tàn lụi thì hẳn nhiên
Nho giáo cũng không còn giữ được vị trí độc tôn như trước nữa. Trước đây dưới
sức ép khắt khe của lễ giáo, con người không dám nói theo cách suy nghĩ của mình,
nhưng giờ đây họ dám đả kích cái giả dối, họ có điều kiện trút bỏ cái giả tạo của
chính mình, họ dám nói thẳng những điều mà trước đây họ không dám nói. Chính
Hồ Xuân Hương đã chịu ảnh hưởng của cách nói đó từ nhân dân và tự ngay cá tính
3
của bà cũng đã dám nói lên sự thật một cách mạnh mẽ, khẳng khái. Cho nên yếu tố
thời đại đã ảnh hưởng lớn đến sáng tác thơ Nôm của nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Cùng
với sự suy tàn của chế độ phong kiến là sự trỗi dậy mãnh liệt của phong trào khởi
nghĩa nông dân. Bởi vì trước sự áp bức bóc lột của giai cấp phong kiến, nhân dân
đã nổi dậy khởi nghĩa chống lại, từ đây ý thức về quyền sống của con người bắt đầu
được khẳng định, sự kiện này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sáng tác của Hồ
Xuân Hương trong việc lên tiếng đòi quyền sống, quyền tự do cho người phụ nữ,
và điều đó được thể hiện ở chỗ bà đã nêu bật được những nỗi bất hạnh mà những
người phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ phải chịu đựng và bằng thơ của mình bà tin
tưởng đấu tranh để bảo vệ bênh vực quyền lợi cho người phụ nữ. Thêm nữa, lúc
bấy giờ đồng tiền bắt đầu xuất hiện với vai trò làm vật trung gian trao đổi, là một
hiện tượng mới mẽ trong xã hội. Mối liên hệ giữa nhà nước và nhân dân mất đi sự
hài hòa cân đối. Chính trong bối cảnh xuất hiện đồng tiền với nền kinh tế hàng hóa,
có sự giao lưu, trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia lân cận, mở rộng quan hệ buôn
bán với nước ngoài từ khá sớm. Khi chính quyền Tây Sơn làm chủ hầu hết khu vực
Đàng Trong, Nguyễn Nhạc đã tạo điều kiện cho các thương gia người Anh buôn
bán trong vùng đất mà ông quản lý. Thể theo nguyện vọng của thương nhân Anh,
Nguyễn Nhạc cho họ buôn bán cả vụ, chỉ cần trả một khoản thuế nhất định. Ngoài
Bắc, trung tâm buôn bán là Thăng Long, phía nam là kinh đô Phú Xuân. Phú Xuân
trở thành nơi nhiều người dân đến tụ họp buôn bán, sầm uất hơn những nơi khác
trong nước. Do chính sách cởi mở của Nguyễn Nhạc, nền kinh tế hàng hóa được
kích thích phát triển, thương nhân các nước đến kinh doanh dễ dàng. Từ đó, ý thức
cá nhân của con người cũng càng được nảy sinh, con người dần dần ý thức được
giá trị của mình và từ đó nhận thức về quyền sống, quyền làm chủ mạnh mẽ hơn.
Hồ Xuân Hương đã bắt kịp với mạch sống đó. Thời đại Hồ Xuân Hương đang sống
chính là thời đại phục hưng lại những giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc. Nó đã
làm xuất hiện những hình ảnh mang tính chất kỳ vĩ, những con người ngang tầm vũ
4
trụ, qua đó thể hiện tư tưởng nhân văn cao cả. Cho nên sự gặp gỡ của Hồ Xuân
Hương với nhiều tác giả đương thời là ở cảm hứng giải phóng tình cảm, giải phóng
đời sống tình cảm, và chính chỗ gặp gỡ này, điểm tương đồng này là một trong
những yếu tố tạo nên tinh thần phục hưng trong văn học đương thời. Đó là tiếng nói
khao khát tình cảm, là bênh vực người phụ nữ bất hạnh và đòi quyền bình đẳng cho
người phụ nữ. Tất cả tinh thần nhân văn đó đã đi sâu vào sáng tác thơ Nôm của Hồ
Xuân Hương. Nhưng với cách diễn đạt của bà nó rất riêng và gần gũi với phong
cách dân gian. Sở dĩ, con người và thời đại là hai yếu tố góp phần làm cho thơ Nôm
Hồ Xuân Hương ảnh hưởng dòng văn hóa dân gian vì về mặt chủ quan: bà có cá
tính mạnh mẽ, sự tự ý thức về cái tôi trong quá trình giao du và gần gũi với con
người và thiên nhiên. Đồng thời nhà thơ cảm nhận được sâu sắc nỗi đau khổ của
giai cấp mình. Còn về mặt khách quan, đó là thời đại Hồ Xuân Hương sống có
nhiều biến thiên dữ dội và truyền thống văn học, văn hóa dân gian đã tác động
mạnh mẽ đến quá trình sáng tác thơ nôm của bà.
1.2. Cuộc đời
Theo tài liệu nghiên cứu Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương của GS. Lê Trí
Viễn thì Hồ Xuân Hương là người xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ
An. Họ Hồ ở Quỳnh Lưu là một họ nổi tiếng, từng có nhiều người đỗ đạt cao và
làm quan to như Hồ Sĩ Đống (anh Xuân Hương) đỗ hoàng giáp, chức đô ngự sử.
Xuân Hương sinh ra ở đâu, năm nào, chưa rõ. Chỉ truyền ngôn là gia đình một thời
ở Thăng Long, lúc ở phường Khán Xuân, lúc ở thôn Tiên Thị, và tuổi trưởng thành
Xuân Hương lại dựng một ngôi nhà gần Hồ Tây, đặt tên là Cổ Nguyệt Đường bạn
bè lai tới nhiều là ở ngôi nhà này. Hồ Xuân Hương theo nề nếp gia đình có được đi
học nhưng không nhiều. Cứ thơ ca thì ứng với bạn bè cả Nôm lẫn Hán, không kể
tài thơ. Về kiến thức cũng làm các bậc mày râu kính nể. Xuân Hương sinh sống
như thế nào, không đâu chép. Chỉ thấy ghi nhà nghèo và có mẹ già. Có thời gian
Xuân Hương giao thiệp với nhiều bạn bè. Được Xuân Hương tặng thơ và cùng
5
xướng họa đều là trí thức, quan lại. Xưa kể Chiêu Hổ (Chiêu Hổ không chắc, hoặc
không phải là Phạm Đình Hổ). Lưu Hương ký cho thấy thêm khá nhiều: Sơn Phủ,
Cư Đình, Tốn Phong Thị, Thạch Đình, Chí Hiên, hiệp trấn Sơn Nam hạ, hiệp trấn
Trần hầu (tức Trần Phúc Hiển)... kể cả một “người cũ” là ông Cần chánh học sĩ
Nguyễn hầu, người Tiên Điền, Nghi Xuân là Nguyễn Du. Khách khứa ngâm vịnh
như vậy, muốn tao nhã, chủ nhân trong nhà không phong lưu cũng đủ chi dùng, và
cũng đủ nhàn nhã để nghe thơ và xướng họa. Mùa xuân năm Giáp Tuất (1814), ông
bạn Tốn Phong Thị đến thăm. Trước đó Xuân Hương đã có những 10 bài tám câu
bảy chữ đưa tặng và 21 bài họa lại. Đường chồng con của bà nhiều long đong. Đến
nay mới rõ tên một người chồng là Trần Phúc Hiển, vào những năm 10 thế kỳ XIX
làm tri phủ Tam Đái về sau là Vĩnh Tường, rồi tiếp theo giữ chức tham hiệp An
Quảng và mất năm 1819. Còn ông Phủ Vĩnh Tường có phải là Trần Phúc Hiển hay
một người khác? Tổng Cóc là ai? Có phải là Nguyễn Bình Kình ở phủ Lâm Thao
hay là người nào? Trong ba hay hai người đó Xuân Hương lấy ai trước? Trong mấy
mươi bài xướng họa giữa Xuân Hương và Tốn Phong Thị được sáng tác quãng
1807-1814, mà giọng chân thực không có gì đáng nghi ngờ, lại cho thấy Xuân
Hương không còn mười tám đôi mươi, mà trong tâm tư đã cho mình thuộc số má
đào phận bạc và lấy làm xấu hổ khi nghĩ đến chuyện chồng còn. Một điều thường
được ghi nhận là Xuân Hương đi đây đi đó nhiều nơi, lên tận Tuyên Quang, vào tới
Thanh Hóa, ra đến An Quảng, sang cả Ninh Bình, còn Vĩnh Yên, Sơn Tây, Hà
Đông đều có vết chân của nữ sĩ. Thời xưa, với phụ nữ, chu du như vậy rất khó. Có
người không dám tin, nhưng thơ Xuân Hương lại là bằng chứng. Xuân Hương lãng
du như thế vào thời gian nào? Khó mà xác định, nhưng bao nhiêu cảnh, bấy nhiêu
tình là chỗ từng trải của Xuân Hương. Xuân Hương mất năm nào? Chưa đâu đáng
tin bằng lời thơ của Miên Thẩm: trước 1842. Như vậy, Xuân Hương thuộc vào thế
hệ các nhà thơ cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX và nhỏ tuổi hơn Nguyễn Du.
6
1.3. Sự nghiệp thơ ca của Hồ Xuân Hương
Về sáng tác của Hồ Xuân Hương, thì xem như có hai mảng: mảng thơ Nôm
truyền tụng và Lưu Hương Ký.( Theo Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương, Lê Trí Viễn,
NXB Sở Giáo dục Nghĩa Bình, 1987.)
1.3.1. Tập thơ Lưu Hương Ký
Lưu Hương Ký không chắc còn đầy đủ. Gom tất cả lại thì có được 31 bài
thơ và văn chữ Hán, 28 bài thơ chữ Nôm, bao gồm thơ năm chữ, bảy chữ, ca, từ,
phú. Trong bản chép tay còn giữ được lẫn lộn cả thơ người khác xướng họa với
Xuân Hương. Hồi mới phát hiện tài liệu quý báu này, Trần Thanh Mại có bài giới
thiệu tương đối kỹ. Từ đó đến nay không mấy ai bàn tới. Gần đây, Nguyễn Lộc hai
lần đề cập trở lại nhưng để chỉ nhận xét nó không cùng phong cách với mảng thơ
Nôm quen biết và chờ đợi tài liệu tin cậy dứt khoát hãy coi nó cùng tác giả với các
bài thơ truyền tụng kia. Lưu Hương Ký với mấy mươi tác phẩm như đã được tập
hợp, chủ yếu là một tập thơ tình yêu. Dù là miêu tả ngoại cảnh hay đối thoại với
bạn bè cũng đều là một giọng trữ tình. Có buồn vui, có nhớ thương, trách móc, tủi
phận, có thề sâu, có tiễn đưa, dặn dò, có tin và có sợ….Nhưng tất cả chỉ là những
cung bậc của một tiếng lòng chân thực, cởi mở, tha thiết muốn yêu và được yêu,
tha thiết với một mối tình chung thủy, bền lâu, ước mong cháy bỏng mà đáp lại chỉ
thoảng qua. Cho nên, chủ âm của tập thơ là một niềm khắc khoải khôn nguôi.
1.3.2. Tập thơ Xuân Hương thi tập (thơ Nôm truyền tụng)
Cũng theo tài liệu nói trên của Giáo sư Lê Trí Viễn thì thơ Nôm truyền
tụng được ghi lại và xuất bản lần đầu tiên với nhan đề Xuân Hương thi tập năm
1913 thì có quãng 40 bài. Nhưng khảo sát theo tiêu chuẩn phong cách rồi thận
trọng coi như chỉ có khoảng 30 bài có nhiều khả năng là của Xuân Hương, còn 10
bài kia, nét này, nét nọ giống giống nhưng không phải là thơ Xuân Hương. Chính
vì thế mà có ý kiến cho rằng thơ Xuân Hương là hiện tượng văn học dân gian xâm
7
nhập vào văn học viết. Bởi tập thơ thể hiện phong cách đa dạng và độc đáo, lời thơ
diễn đạt rất gần gũi với văn học dân gian.
2. Đề tài hang động và đồi núi trong thơ nôm Hồ Xuân Hương
2.1. Thơ Nôm Hồ Xuân Hương – bức tranh bao quát cuộc đời
Nữ sĩ tài năng độc đáo Hồ Xuân Hương, một cái tên kì diệu ấy vượt qua mọi
không gian và thời gian, vượt qua mọi cuộc tranh luận xưa nay, tự mình sừng
sững chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong làng thơ Việt Nam. Bởi thơ Nôm
của bà có sự thành công rực rỡ cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Không những thế thơ
Nôm Hồ Xuân Hương còn đa dạng về đề tài sáng tác, trong thơ bà cả một thế giới
hiện ra, từ cái tầm thường vô thức cho đến cái cao sang hữu hình. Hồ Xuân Hương
đã có những vần thơ để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Với giọng điệu
dí dỏm, hồn nhiên, mạnh mẽ, táo bạo chưa từng có ở thời đó, thơ của bà như những
lời thách đố với những ai thích tìm tòi, khám phá cái hay, cái đẹp, cái thanh khiết
ẩn đằng sau ngôn từ của nữ sĩ. Tuy nhiên, việc tìm hiểu, nghiên cứu thơ Hồ Xuân
Hương gặp không ít những vấn đề khó khăn. Hầu hết các vấn đề từ cuộc đời đến sự
nghiệp thơ ca, cũng như phong cách thơ của nữ sĩ chưa có ý kiến thống nhất, có
những đánh giá, những nhận định khác nhau, thậm chí có những ý kiến tranh luận
đối lập nhau gay gắt. Song, khi tiếp nhận thơ Nôm Hồ Xuân Hương, nhìn chung
các nhà chuyên môn, các nhà nghiên cứu đều ngợi khen, đều khẳng định vai trò và
vị trí quan trọng trong lịch sử văn học dân tộc. Có thể nói, Hồ Xuân Hương là tác
giả huyền ảo nhất, lạ lùng nhất, bí ẩn nhất từ trước đến nay. Thơ Nôm truyền tụng
của Hồ Xuân Hương có năm đề tài chính. (Theo Sức hấp dẫn của thơ Nôm Hồ
Xuân Hương, Lê Thu Yến, Nxb Văn học, 2008.)
Các đề tài chính
Một số bài thơ tiêu biểu
8
Hang động và đồi núi
-
Đồ vật, con vật, bánh trái
-
Thầy tu và chùa chiền
-
Vua chúa, quan lại, hiền nhân, quân tử,
học trò
-
Người phụ nữ
-
9
Hang cắc cớ
Hang Thánh Hóa
Động Hương Tích
Kẽm Trống
Đá Ông Chồng Bà Chồng
Quán Khánh
Đèo Ba Dội
Vịnh cái quạt 1, 2
Giếng thơi
Chơi đu
Đánh cờ
Tát nước
Bánh trôi nước
Quả mít
Ốc nhồi (Con ốc)
Đồng tiền hoẻn
Trống thủng
Dệt cửi
Mời trầu
Hỏi trăng
Trăng thu
Cảnh thu
Sư hổ mang
Đài Khán Xuân
Sư bị ong châm
Chùa Quán Sứ
Kiếp tu hành
Chợ trời chùa thầy
Cảnh chùa ban đêm
Đền Sầm Nghi Đống
Khóc ông phủ Vĩnh Tường
Khóc Tổng Cóc
Mắng học trò dốt 1,2
Nhớ người cũ, viết gửi Cần
chánh học sĩ Nguyễn Hầu
Quan thị
Tự tình 1,2,3
Làm lẽ
Dỗ người đàn bà khóc chồng
(Dỗ người đàn bà chồng chết)
Không chồng mà chửa
Thiếu nữ ngủ ngày
Tranh tố nữ
Bởn bà lang khóc chồng
Cái nợ chồng con
(Được tham khảo theo Thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Lộc (tuyển chọn và giới
-
thiệu), NXB Văn học, 1984.Và Hồ Xuân Hương tác phẩm và lời bình, Tuấn Thành
(tuyển chọn), NXB Văn học, 2015.)
2.2. Hang động và đồi núi luôn hiện hữu trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương
Thơ Nôm Hồ Xuân Hương là một mảng đề tài rất phong phú cho các
nhà chuyên môn nghiên cứu, khảo sát. Và đến nay có rất nhiều nhà khoa học,
nhà chuyên môn đã nghiên cứu nhiều công trình có giá trị. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ
tìm hiểu về đề tài hang động, đồi núi trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương. Ẩn sâu
trong đề tài hang động, đồi núi là cả một biểu tượng đá và nước hùng vĩ.
Trong thơ nôm Hồ Xuân Hương có gần năm mươi bài thơ và gồm nhiều vấn
đề gây bàn cãi, tuy nhiên hệ thống đề tài hang động, núi đồi đóng góp một phần
không nhỏ trong hệ thống chùm thơ nôm của Hồ Xuân Hương. Hình ảnh hang
động, đồi núi trong thơ nôm Hồ Xuân Hương thật độc đáo và đầy ấn tượng đối với
người đọc. Với những hang động mà Hồ Xuân Hương mô tả đều có chung đặc
điểm là tròn, sâu và đầy những huyền bí. Ở Hang Cắc Cớ và Động Hương Tích đều
là những hang động có cái lỗ hỏm hòm hom. Với cái lỗ hỏm hòm hom làm hiện lên
cái hang tròn, sâu mà nhỏ, ở đó có con thuyền vô trạo (không có bơi chèo), con
đường vô ngạn (không có thành bờ tay vịn), có giọt nước rơi từ thạch nhũ, có gió
thổi vào hang nghe phập phòm. Với cách mô tả như vậy, làm cho người đọc có sự
hấp dẫn, kích thích sự tò mò để khám phá, chinh phục.
10
Ở Hang Thánh Hóa thì có những ngoàm đá với các hõm to, nhỏ, với lườn đá
có cỏ leo rậm rạp, có nước rỉ lách khe mó lam nham. Với sự cấu tạo của hang
động tự nhiên đầy sự bí ẩn, nguy hiểm như vậy nhưng mọi người vẫn muốn tò mò
tìm hiểu, vẫn ham muốn được trèo. Ở Kẽm Trống, Đá Ông Chồng Bà Chồng, Quán
Khánh, Đèo Ba Dội là những hang động, đồi núi có những đặc điểm chung là cảnh
thiên nhiên đẹp, sống động, đầy màu sắc và tràn đầy sức sống. Ở đó có Gió giật
sườn non, Sóng dồn mặt nước, Ở trong hang núi, Ra khỏi đầu non, có Cửa son đỏ
loét, Hòn đá xanh rì, Tầng trên phơ đầu bạc, Thớt dưới đượm má hồng, Gan nghĩa
giãi ra, Khối tình cọ mãi, Đường đi thiên thẹo... Qua đó, cho ta thấy được Hồ Xuân
Hương đã mô tả thế giới hang động, đồi núi thật phong phú và đa dạng bởi tác giả
đã đến tận nơi và nhìn thực tế những cảnh đẹp của thiên nhiên đất nước nên hình
ảnh rất thực tế và sống động.
Đó là dòng đời của người phụ nữ, mà đó là chính tác giả Xuân Hương Xuân
Hương lúc mềm mại trong sáng, “uốn éo vì chữ duyên” có khi cứng rắn mạnh mẽ,
phê phán đàn ông trên cõi đời.
Dù trong vấn đề tìm hiểu của chúng tôi chủ yếu về hang, núi nhưng hình
tượng nước vẫn gây ấn tượng, bởi cái thế chủ động của nó. “Hang biểu trưng cho
sự thám hiểm cái tôi bên trong, đặc biệt hơn là cái tôi thô sơ, bị nén ẩn dưới những
tầng sâu vô thức”. Giọt nước trong hang chính là yếu tố động của sức sống trong
lành, nhỏ nhoi, nép mình, nối kết giữa vô thức và ý thức, giữa sống và chết, giữa
nhẹ nhàng và cứng rắn. Điều này sẽ được chúng tôi nói rõ hơn qua các bài thơ của
Hồ Xuân Hương qua đề tài đồi núi, hang động.
2.3. Phân tích và làm rõ đề tài hang động và đồi núi qua các bài thơ Nôm tiêu
biểu
2.3.1. Hang Cắc Cớ
Nếu như tài hoa của Xuân Hương bay bổng trên những vần thơ ngắn thì tài
hoa ấy lại được bà khẳng định trong việc sử dụng hình ảnh châm biến, liên tưởng,
11
đầy biến hóa tuy dâm nhưng đầy thanh tục. Điều này đã được Hồ Xuân Hương thể
hiện trong bài thơ “Hang Cắc Cớ”.
“Trời đất sinh ra đá một chòm,
Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom.
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn,
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm.
Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm,
Con đường vô ngạn tối om om.
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm!”
Đọc xong mấy vần thơ nổi bậc trên vần thơ ấy là phong cảnh đất nước hiện
lên vô cùng hùng tráng với “đá một chùm”, “rêu mốc”. Sự to lớn phủ đầy một màu
hoài cổ, âm u nhưng vô cùng kì vĩ. Ở Hang Cắc Cớ là những hang động có cái lỗ
hỏm hòm hom. Với cái lỗ hỏm hòm hom làm hiện lên cái hang tròn, sâu mà nhỏ, ở
đó có con thuyền vô trạo (không có bơi chèo), con đường vô ngạn (không có thành
bờ tay vịn), có giọt nước rơi từ thạch nhũ, có gió thổi vào hang nghe phập phòm.
Với cách mô tả như vậy, làm cho người đọc có sự hấp dẫn, kích thích sự tò mò để
khám phá, chinh phục.
Sâu hơn trong bài thơ, độc giả hẳn sẽ liên tưởng đến âm vật của người phụ nữ.
Đặc biệt, các từ ngữ bà Hương dùng quá là “rõ mồn một”, đọc là hiểu liền, viết hết
sức gợi hình, trần trụi và thô ráp như “nứt hai mảnh”, “hỏm hòm hom”, “trơ hoen
hoẻn”, “vỗ phập phòm”, “giọt nước hữu tình”, “hớ hênh”,… Những từ ngữ thô ráp
gợi dục ấy đã nói lên điều gì về người phụ nữ phong kiến kỳ lạ này?
Thứ nhất, nó thể hiện rằng bà chúa thơ Nôm rất phóng túng khi phá tan nhiều
rào cản Đường Luật để đưa cái thanh tục vào thơ. Thứ hai, trí tưởng tượng của bà
quả là phong phú, tài quan sát tỉ mỉ khi miêu tả hang động tuy tục nhưng thanh, tức
12
là đúng với hình ảnh thực của hang Cắc Cớ. Thứ ba, nó thể hiện khát vọng tình
yêu, mà chính xác hơn là khát vọng tình dục của người phụ nữ. Người phụ nữ họ
cũng cần được thỏa mãn tình dục như đàn ông muốn thỏa mãn vậy, thậm chí nó
còn rất mãnh liệt. Mãnh liệt nhưng lại bị rào cản phong kiến kìm hãm nên nó phải
giấu diếm, phải che lấp chứ không phải là không có. Xã hội phong kiến cho phép
đàn ông năm thê bảy thiếp nhưng lại trói buộc người phụ nữ phải tiết hạnh một
mực theo chồng trong mọi chuyện. Bà Xuân Hương thấy bất công nên bà lên tiếng,
bà nói thẳng vào cái xã hội phong kiến ấy, bà giãi bãy một cách lộ liễu và thô bạo
cho cái xã hội ấy “trố mắt xem”, mà nhìn, mà xem cho kỹ.
Một số người khị đọc thơ của bà cho rằng bà quá ham mê dâm dục, cho bà
cái danh khủng hoảng tình dục đến độ của một “thiên tài hiếu dâm đến cực điểm”,
đánh giá như vậy là hoàn toàn sai trái mà hạ thấp một hồn thơ phóng túng. Hãy
nhìn lại xem, ngày nay, chuyện giường chiếu, quan hệ được bày ra nhan nhản, được
giảng dạy trong các tiết học giới tính, được tư vấn công khai cho tất cả mọi người,
vậy không lẽ những người trong chúng ta khi học, khi xem, khi nghe tư vấn như thế
cũng bị phê phán là quá dâm dục hay sao? Xin thưa rằng, ham thích tình dục là
không sai bởi nó là bản năng tự nhiên của con người và sinh vật, song từ ham thích
đến mức độ dâm dục hay đồi trụy lại có một khoảng cách xa. Ham thích tình dục
nhưng không làm việc sai trái, không phá đi thành trì đạo đức, không phá hoại hạnh
phúc gia đình khác, không xâm phạm đến nhân phẩm của bất kỳ ai thì lấy gì làm
sai trái đâu mà chê, mà trách, mà đánh giá lệch lạc?
Cắc Cớ – nhiều ngõ ngách để gán cho nó cái cớ, cái lý do, cái trí tưởng
tượng của con người. Bà Xuân Hương quả là có tài quan sát và liên tưởng phong
phú thật, để lại cho hậu thế một bài thơ thú vị, sâu sắc, và chắc hẳn ai đọc xong bài
thơ lần đầu cũng sẽ cười nhẹ một tiếng mà thốt rằng: “Cái bà Xuân Hương này tục
quá!” Cái thốt ấy chỉ đơn giản là một tiếng cười thú vị và hài hước mà thôi, còn ai
13
đã hiểu thơ Hồ Xuân Hương, hiểu bà Chúa thơ Nôm này thì sẽ có một tiếng cười to
lớn, tiếng cười khoái chí.
2.3.2. Hang Thánh Hóa
Khen thay con tạo khéo khôn phàm,
Một đố giương ra biết mấy ngoàm.
Lườn đá cỏ leo sờ rậm rạp,
Lách khe nước rỉ mó lam nham.
Một sư đầu trọc ngồi khua mõ,
Hai tiểu lưng tròn đứng giữ am.
Đến mới biết là hang Thánh Hoá,
Chồn chân mỏi gối vẫn còn ham!
Qua một số khảo dị khác, chúng tôi nhận thấy có một số dị bản về bài thơ
này. Theo bản Quốc văn tùng ký của Hải Châu tử, bài thơ Hang Thánh Hóa còn có
tên Vịnh hang Thánh Hóa – Chùa Thầy. Câu thơ thứ ba biến thể “Sườn đá cỏ leo sờ
rậm rạp” và câu thơ thứ tư “Lách khe nước chảy mó lam nham” (Kiều Thu Hoạch,
Thơ nôm Hồ Xuân Hương, NXB Văn học, 2008)
Giống như bài Hang Cắc Cớ, bài thơ Hang Thánh Hóa của Hồ Xuân Hương
cũng dùng ngôn ngữ tục mà thanh để miêu vẻ về hang động, thể hiện khát khao
thầm kín của người phụ nữ phong kiến về dục vọng, đồng thời cũng thể hiện tài
quan sát của thi sĩ. Cùng với bài Hang Cắc Cớ, bài thơ Hang Thánh Hóa – chùa
Thầy thể hiện nét phóng túng, nghịch ngợm và giỏi tưởng tượng của thi sĩ Hồ Xuân
Hương, một nét riêng trong phong cách thơ của bà, đồng thời thể hiện khát vọng
của người phụ nữ được phá đi cái xiềng xích luật lệ phong kiến để làm những điều
mình thích, rất đỗi đời thường của con người là khát khao tình dục.
14
Qua cách miêu tả hang động của “bà chúa thơ Nôm” ta thấy hang Thánh Hóa
hiện lên trước mắt với vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ và đầy bí ẩn. Với các hang hốc
chìm trong bóng tối lờ mờ. “Một đố giương ra biết mấy ngoàm” qua đó ta thấy
được các hốc trong hang không rộng lắm nhưng tạo thành các khe, rãnh chằng chịt
chạy xung quanh, rồi các vết nứt như những sợi dây vây quanh lấy chiếc hang nhỏ.
Ánh nắng quá giờ Ngọ chiếu qua từng tán cây rậm rạp làm cho cảnh vật nơi đây
lung linh huyền ảo và thần bí. Từng tán cây, lớp cỏ rậm rạp mọc trên những triền
đá và cùng những khe nước từ các thạch nhũ rỉ xuống. Tác giả không chỉ dùng thị
giác mà còn dùng cả xúc giác để cảm nhận hết vẻ đẹp nơi đây.
Các từ tượng hình mang tính tục trong bài thơ như “sờ”, “mó”, “rỉ” và “rậm
rạp”, “lam nham”, “chồn chân mỏi gối”, “vẫn còn ham”. Tuy có phần gợi tục
nhưng không tục tĩu, tục này chỉ đủ làm cho người đọc mỉm cười vì sự hài hước và
khéo tưởng tượng cũng như tinh nghịch của bà chúa thơ Nôm. Đọc xong mấy vần
thơ trên hẳn sẽ liên tưởng đến âm vật của người phụ nữ. Đặc biệt, các từ ngữ nhà
thơ dùng quá là “rõ mồn một”, cách viết hết sức gợi hình, trần trụi và thô ráp. Qua
đó, nó thể hiện rằng bà chúa thơ Nôm rất phóng túng khi phá tan nhiều rào cản
Đường Luật để đưa cái thanh tục vào thơ. Cùng với trí tưởng tượng của bà quả là
phong phú, tài quan sát tỉ mỉ khi miêu tả hang động tuy tục nhưng thanh. Không
những thế, nó thể hiện khát vọng tình yêu, mà chính xác hơn là khát vọng tình dục
của người phụ nữ. Người phụ nữ họ cũng cần được thỏa mãn tình dục như đàn ông
muốn thỏa mãn vậy, thậm chí nó còn rất mãnh liệt. Mãnh liệt nhưng lại bị rào cản
phong kiến kìm hãm nên nó phải giấu diếm, phải che lấp chứ không phải là không
có. Xã hội phong kiến cho phép đàn ông năm thê bảy thiếp nhưng lại trói buộc
người phụ nữ phải tiết hạnh một mực theo chồng trong mọi chuyện. Những trắc ẩn
đó không một ai nói ra hoặc có chăng nữa cũng nữa úp nữa mở bởi những ước lệ
khắc khe của Nho giáo của đạo đức xã hội, vì vậy mà không dám “vi phạm” dù
15
dưới hình thức nào của chữ nghĩa. Nhưng Xuân Hương thấy bất công nên bà lên
tiếng, bà nói thẳng vào cái xã hội phong kiến ấy, bà giãi bãy một cách lộ liễu và thô
bạo.
2.3.3. Đèo Ba Dội.
Có câu bình phẩm thơ nhận xét: "thi trung hữu họa", "thi trung hữu nhạc".
Nhưng có ý kiến của một nhà Nho nào đó cho rằng thơ Hồ Xuân Hương là "thi
trung hữu quỷ". Có thể hiểu ý của chữ "quỷ" ở đây chính là nghệ thuật điều khiển
chữ nghĩa của nữ sĩ họ Hồ đã đạt tới mức tuyệt đỉnh và khả năng cuốn hút, ám ảnh
của thơ bà thật siêu phàm, ma mị. Điều này thể hiện rất nhiều trong bài thơ “Đèo
Ba Dội”.
“Một đèo, một đèo, lại một đèo,
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo.
Cửa son đỏ loét tùm bum nóc,
Hòn đá xanh rì lún phún rêu.
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc,
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo.
Hiền nhân quân tử ai là chẳng?
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo.”
Đèo Ba Dội hay còn gọi là đèo Tam Điệp là ranh giới tự nhiên giữa hai tỉnh Ninh
Bình và Thanh Hóa, gồm ba dốc cao nối tiếp nhau. Đèo có một cổng giống như
cổng thành sơn màu đỏ. Lâu năm, cây cỏ mọc um tùm trên nóc làm tăng thêm vẻ cổ
kính. Trên con đường thiên lý từ Bắc vào Trung, lữ khách bắt buộc phải qua đèo Ba
Dội vì không có con đường nào khác.
Hồ Xuân Hương rất thạo niêm luật thơ Đường và bà đã có tập Lưu hương ký bằng
chữ Hán. Thơ Đường đã được bà "Nôm hóa" một cách tài tình qua rất nhiều bài thơ
Nôm nổi tiếng. Ấy vậy mà ở bài thơ này, câu phá đề rất lạ:
16
“Một đèo, một đèo, lại một đèo”
Sao nữ sĩ không viết là: Một đèo, hai đèo, lại ba đèo? Vì viết như thế thì lộ rõ vị trí
của người đếm là nhìn từ xa. Còn viết: Một đèo, một đèo, lại một đèo thì nhạc điệu
câu thơ cho thấy tư thế, thậm chí cả hơi thở mệt nhọc của người đang cố leo đèo.
Vừa hết dốc này, chưa kịp nghỉ ngơi cho khỏe thì dốc khác lại sừng sững trước
mắt.
Lên đến đỉnh đèo, lữ khách thở phào sung sướng trước cảnh quan thiên nhiên
hùng vĩ hiện ra trước mắt và bật thốt lên lời khen ngợi:
“Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo”
Ở những bài viết về đề tài thiên nhiên khác, Hồ Xuân Hương gọi đấng sáng
tạo ra muôn vật trên mặt đất là Tạo hóa, Tạo hóa công... thì ở bài này, bà dùng đại
từ phiếm chỉ "ai" và như thế là nữ sĩ đã hạ bớt quyến năng tối thượng của siêu
nhiên để cho gần với con người hơn. Con người sáng tạo ấy lại hóm hỉnh và tinh
nghịch khác thường khi "khéo tạc cảnh cheo leo" của đèo Ba Dội.
Hai câu thực tả chi tiết:
“Cửa son đỏ loét tùm bum nóc,
Hòn đá xanh rì lún phún rêu.”
Cửa son, hòn đá... là những sự vật bình thường nhưng Cửa son đỏ loét và Hòn
đá xanh rì thì đã thấp thoáng dấu ấn Xuân Hương. Thêm hai tính từ đỏ loét và lún
phún đã rõ ràng là Xuân Hương chẳng lẫn bởi bà rất giỏi trong sáng tạo và chơi từ
độc!
Hai câu luận tiếp tục tả cảnh đèo Ba Dội:
“Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo”
Ngay cái kiểu đưa tính từ lên trước danh từ chỉ sự vật cũng thể hiện chủ ý của
nữ sĩ là muốn nhấn mạnh tính chất, đặc điểm của sự vật đang hiện hữu trước mắt.
17
Thử đảo lại theo đúng trật tự thông thường trong câu: Cành thông lắt lẻo...,Lá liễu
đầm đìa... thì ý nghĩa đặc tả đã giảm đi nhiều, chưa nói tới niêm luật. Nghệ thuật
đối ở cặp câu luận quá chỉnh: Lắt lẻo cành thông/ Đầm đìa lá liễu; cơn gió
thốc / giọt sương gieo.
Nếu như ở cặp câu thực, hình ảnh cửa son và hòn đá là những sự vật tĩnh trở nên
sinh động bởi màu đỏ loétcủa sơn và xanh rì của rêu thì ở cặp câu luận, mọi sự vật
đều sống động lạ kỳ như có linh hồn: cành thông thì lắt lẻo, gió thì thốc, lá
liễu thì đầm đìa, giọt sương thì gieo. Toàn là động từ, tính từ rất mạnh!
Liên tưởng bất ngờ và thú vị nằm ở hai câu kết:
“Hiền nhân quân tử ai là chẳng?
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo.”
Cái này mới thật sự Hồ Xuân Hương đây. Tả thực mà ám chỉ, thanh mà tục,
tục mà thanh. Ngày xưa, người dân ít khi ra khỏi địa phương mình sinh sống. Còn
những đệ tử của nho giáo theo đòi nghiệp bút nghiên hay muốn học hành đỗ đạt để
ra làm quan với mục đích tốt đẹp là phò vua giúp nước hay mục đích tầm thường
và vinh thân phì gia thì đều phải vào Kinh ứng thí (kinh đô Huế). Muốn vào Huế
thì bắt buộc phải leo qua đèo Ba Dội cheo leo, hiểm trở, cho dù mỏi gối chồn chân.
Cái cười tinh nghịch, giễu cợt của Xuân Hương ngụ trong bốn chữ hiền nhân quân
tử và chữ “muốn”. Ngày xưa, bậc vua chúa, quan lại và tầng lớp nho sĩ thường tự
xếp mình vào tầng lớp cao sang nhất của xã hội và tự xưng là hiền nhân quân
tử.Muốn thành tầng lớp ấy thì bắt buộc phải học hành, thi cử tới nơi tới chốn. Vào
kinh đô Huế thi Đình để được thành Trạng Nguyên, Thám hoa, Bảng nhãn hoặc
ông Nghè... rồi được bổ nhiệm, thăng chức quan lớn quan bé "phụ mẫu chi dân".
Cái bả công danh như mùi rượu thơm đầu gió, hấp dẫn thế cơ mà! Vậy thì trèo!
Khó mấy cũng trèo, mệt mấy cũng trèo!
18
Nhưng chữ “muốn” khác chữ “phải” xa lắm về mặt hàm ý: phải là bắt buộc,
miễn cưỡng chấp nhận; còn muốn là hoàn toàn tự nguyện. Những bậc hiền nhân
quân tử không hề ngán ngại cái đèo Ba Dội trong liên tưởng kia, mà ngược lại: Mỏi
gối chồn chân vẫn muốn trèo; sức cùng lực kiệt vẫn muốn trèo!!! Chứng tỏ "cái
đèo" ấy có sức cuốn hút ghê gớm khó mà cưỡng lại!
Vậy là từ sự vật này, Hồ Xuân Hượng khiến người đọc hình dung ra sự vật
khác. Từ hành động trèo đèo Ba Dội sang hành động "trèo đèo" khác vốn dĩ là bản
năng tự nhiên xảy ra hằng ngày của con người. Ấy thế nhưng cái đám tự xưng
là hiền nhân quân tử cao quý kia tuy luôn tỏ vẻ khinh bỉ, coi thường nhưng chẳng ai
là không thích, không muốn. có khi còn ham hố nữa là đằng khác. Giống như trong
bài thơ Vịnh cái quạt:
“Yêu đêm không đủ lại yêu ngày!
Khinh bỉ, coi thường mà thế đấy!”
Đúng là tiếng cười châm biếm của nữ sĩ họ Hồ đau như roi quất vào mặt và tiếng
cười khanh khách ấy còn vọng mãi tới bây giờ - khi đám đạo đức giả đang nhan
nhản trong xã hội!
2.3.4. Đá Ông Chồng Bà Chồng
Trong mọi hoàn cảnh trước mọi cảnh vật Hồ Xuân Hương đều có thể làm
thơ, bà đặc hồn mình vào từng cảnh vật diễn tả nó một cách sinh động, hấp dẫn và
đầy chân thật; hình tượng, hang động, đồi núi đi vào thơ bà là một minh chứng cho
những điều nói trên. Qua hang Thánh Hóa, hang Cắc Cớ, đèo Ba Dội, Kẽm Trống,
… và cả những hòn đá như: đá Ông Chồng Bà Chồng đều hiện lên trong thơ bà một
cách đầy tinh tế.
“Khéo léo bài trò tạo hóa công
Ông Chồng đã vậy lại Bà Chồng
19
Từng trên tuyết điểm phơ đầu bạc
Thớt dưới sương pha đượm má hồng
Gan nghĩa dãi ra cùng nhật nguyệt
Khối tình cọ mãi với non sông
Đá kia còn biết xuân già dặn
Chả trách người ta lúc trẻ trung.”
Tạo hóa thật hay, thật khéo léo khi đã bài trò cho thiên nhiên những hình tượng
hết sức giống con người. Đá Ông Chồng Bà Chồng đã hay lại quí, một tảng đá lớn
đè lên trên một tảng đá nhỏ hơn. Qua ngòi bút của Hô Xuân Hương, nó trở thành
một tác phẩm điêu khắc cảnh làm tình của thiên nhiên, đá thành người và người
đang yêu nhau ở những thời điểm mà lại là ông và bà, những người già. Tưởng
tượng của thi nhân đã đẹp lại còn bao dung. Tầng trên đá bạc rêu trắng như tuyết
điểm, tầng dưới má thẹn ửng hồng. Ngắm nghía đá Ông Chồng Bà Chồng, Hồ
Xuân Hương đã hào hứng phả tình vào đá, tình đá vượt hóa tình xuân. Hồ Xuân
Hương đã đón nhận thiên nhiên bằng tất cả các giác quan, đã truyền sức sống vào
cảnh vật, truyền cái đa tình của mình vào đá. Đọc thơ Hồ Xuân Hương ta thấy cảnh
vật không còn là những vật vô tri vô giác, mà nó đã bừng tỉnh giấc, tràn đầy sức
sống mang những xúc cảm và nhất là để yêu. Xuân Diệu đã ngợi ca Hồ Xuân
Hương rằng: bà là một nhà điêu khắc truyền cả hơi sống, cả tình yêu vào đá, đến
nổi đá cũng ửng hồng lên như có máu chạy: đá cứng lắm, nặng lắm, mà nó chẳng
nằm chết như đá, nó dãi ra, nó cọ mãi, nó già dặn với tình xuân. Đá yêu nhau quấn
quýt vào nhau, cái ân tình ấy “dãi ra cùng nhật nguyệt”, cái khối tình ấy “cọ mãi
với non sông” như để minh chứng rằng trải qua nhiêu thời gian, qua bao nhiêu biến
động thăng trầm thì tình yêu của đá vẫn sống vẫn hiện hữu, vẫn quấn quýt ái ân mà
không có gì có thể ngăn cách được.
20
Xuân Hương yêu thiên nhiên và sau Xuân Hương, thiên nhiên trong độ phát
triển sung sức của nó. Nhưng không cứ gì thiên nhiên, tất cả những gì dồi dào sức
sống, biểu hiện được cuộc sống phơi phới là Xuân Hương đều trìu mến.
Tóm lại, đứng trước thiên nhiên, ngay trước những vật tầm thường nhỏ nhoi
nhất, hình như bao giờ Xuân Hương cũng có một sự ngạc nhiên thú vị, bao giờ
cũng tìm thấy một vẻ mới mẻ, một lí do để càng gắn bó với cuộc sống:
“Đá kia còn biết xuân già dặn
Chớ trách người ta lúc trẻ trung.”
Xuân Hương khao khát là một cuộc sống tự do thoải mái, trong đó người ta
có quyền hưởng lạc thú chính đáng ở đời. Ta nói ngay rằng cuộc sống tự do, những
bức tranh lạc thú ở đời mà Xuân Hương đòi hỏi đó, chủ yếu là dựa trên bản năng.
Nhưng đó là thứ bản năng hồn nhiên, lành mạnh, cái bản năng của người bính dân
trong ca dao. Xuân Hương cho rằng việc ân ái là một cái gì đó rất tự nhiên, nó
không chỉ là một nhu cầu mà còn là quyền của tất cả mọi người. Xuân Hương cười
ông “quan thị” vì ông không biết đến cái “xuân tình”. Xuân Hương cũng không tha
các cô thiếu nữ trong tranh vì dù cho “ ngàn năm còn mãi cái xuân xanh” thì cái
đẹp, trẻ kia cũng chỉ là sắc đẹp chết, cái trẻ trung vô ích. Cho nên Xuân Hương rất
rộng lượng với tuổi trẻ:
“Chả trách người ta lúc trẻ trung.”
Chúng ta thấy quí mến cái phần thể tất nhân tình, cái thái độ che chở cho kẻ
yếu bị vùi dập dưới sự nguyền rủa và bị xử phạt nặng của xã hội phong kiến. Và
trong một chừng mực nào đó cũng cần có thái độ bướng bỉnh như ở Xuân Hương
để ném vào mặt xã hội khắc nghiệt, không tôn trọng nhân phẩm và nhu cầu chính
đáng của con người. Bản thân Bà cũng hai lần goá bụa, một lần làm lẽ, nên Xuân
Hương cảm thông sâu sắc với nỗi khổ đau của bao kiếp hồng nhan và hiểu được cái
21
khát khao hạnh phúc, hiểu được cái ái ân nhục thể, cái cảnh tình nghe tưởng tục
nhưng thanh nó sâu sắc như thế nào.
2.3.5. Động Hương Tích
Nếu ai đã từng yêu quý thơ Nôm thì không thể nào không nhớ đến nữ thi sĩ
họ Hồ. Với một chất thơ đầy tài năng vá trí tuệ và tiếng nói giải phóng phụ nữ khỏi
những ràng buộc phong kiến, ấy thế mà còn pha giọng thơ dí dỏm, lúc thanh, lúc
tục, những điều ấy đã góp phần tạo nên Hồ Xuân Hương đặc biệt không thể lẫn
vào đâu trong nền văn học Việt Nam. Nữ sĩ đã rất khéo léo mượn những hình ảnh
của thiên nhiên hữu tình, hữu ý để nói lên quan điểm và chủ đề trong thơ mình.
Hình ảnh của hang động, đồi núi là một điển hình, khi nó xuất hiện khá nổi bật
trong thơ của bà. Không đơn thuần miêu tả thiên nhiên, đọc nó ta còn khám pha ra
một thế giới khác, thế giới trong tâm thức người phụ nữ vừa mạnh mẽ, vừa khát
khao sự yêu thương như nữ sĩ Hồ Xuân Hương.
“Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm,
Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom.
Người quen cõi Phật chen chân xọc,
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm.
Giot nước hữu tình rơi thánh thót,
Con thuyền vô trạo cúi lom khom.
Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại,
Rõ khéo trời già đến dở dom!”
Bài thơ động Hương tích là trong những bài thơ tiêu biểu cho mảng thơ về
hang động và đồi núi trong thơ Hồ Xuân Hương. Động Hương Tích là một địa danh
có thật thuộc huyện Mỹ Đức , Hà Tây nay là Hà Nội. Một cảnh đẹp của đất nước
22
mà có lần chúa Trịnh Sâm có đến tham quan và đặt tên cho động là “Nam Thiên đệ
nhất động” tức động đẹp nhất trời Nam. Nó đã làm nữ sĩ rung động và bật lên lời
khen:
“Bày đặt kia ai khéo khéo phòm,
Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom,”
Nữ sĩ chỉ tay vào cảnh vật khéo khen ai đã sắp đặt nên một động Hương Tích
căn đối ở bên trái, bên trái, phía trên, phía dưới hoài hòa cùng với cảnh non nước
nơi này. Trước cảnh non nước đẹp ấy, chắc hẳn ai cũng phải đắm say, mê mẩn theo
nó, nhưng đọc thơ Hồ Xuân Hương có cảm giác như bà đang đứng ngoài cảnh đẹp
ấy. Con người mạnh mẽ, ngạo ngễ đang đứng bên ngoài quan sát vào trong để thấu
đáo những việc mà nhân gian chưa tường rõ. Phải chăng “ cái lỗ hỏm hòm hom” ấy
còn ẩn chứa nhiều hơn ý nghĩa của cái đơn thuần là cảnh vật.
“Người quen cõi Phật chen chân xọc,
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm.”
Đọc thơ Hồ Xuân Hương ta không khỏi liên tưởng, và càng phải liên tưởng
về hình ảnh của người phụ nữ bởi nó là đặc trưng tiêu biểu cho thơ của bà. Hình
ảnh của hang động được liên tưởng nhiều đến hình ảnh của âm vật người phụ nữmột hình ảnh ít nhiều người ta ngại miêu tả trong thơ ca. Nhưng với ngồi bút của
mạnh mẽ và phóng khoáng như nữ sĩ thì điều này thật bình thường, thẩm chí trong
nhiều bài thơ khác trong chùm thơ này của bà thì hình ảnh ấy lại còn được miêu tả
rõ ràng và độc đáo hơn nữa. Đó vừa là cái thanh vừa là cái tục trong thơ bà, nó tục
bởi cách miêu tả chi tiết và đầy ẩn ý của bà và nó thanh bởi lẽ thông qua hình ảnh
đó nữ sĩ sẽ truyền tải những thông điệp về người phụ nữ một cách nhân văn nhất.
Trời “khéo kheo” ban cho thế gian bao cái đẹp để những “người quen cõi phật”,
“kẻ lạ bầu tiên” xọc chân, mỏi mắt nhìn ngắm. giống như tạo hóa đã sinh ra người
23
phụ nữ đẹp mà cứ để lũ bướm ong vô tình đến dạo chơi đôi lúc rồi bay đi. Nàng
Xuân Hương ở đây còn nhắc đến cõi phật, bầu tiên giống như lời vạch trần những
người đàn ông thanh cao, bậc trên mà lại vô tình với người phụ nữ đã từng “ xọc
chân”, “ mỏi mắt dòm” rồi cũng chỉ là “ kẻ lạ”, “người quen” chứ không thể nào
thân thiết hơn được.
Bốn câu thơ trên như tiếng phản kháng của người phụ nữ về thân phận của
mình. Kẻ ông bướm, người nhởn nhơ chứ mấy ai nghĩ cho thân phận phụ nữ như
nàng. Lối miêu tả sắc sảo cùng với việc sử dụng hệ thống từ láy khéo léo đầy hình
ảnh “ hỏm hòm hom” đã góp phần tạo nên những khoảnh khắc giàu cảm xúc cho
người đọc như lời nói đầu đầy ẩn ý sâu cay của nữ sĩ.
“Giọt nước hữu tình rơi thánh thót,
Con thuyền vô trạo cúi lom khom.
Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại,
Rõ khéo trời già đến dở dom!”
Cảnh trong thơ là cảnh động, ngoài cảm nhận được nó đang diễn ra, có cảm
giác như ta được sờ, chạm vào từng “ giọt nước”, hay đang cúi lom khom dưới
những mái đá. Những từ láy “thánh thót”, “lom khom” làm câu thơ như uyển
chuyển ,mềm mại hơn. Những giọt nước rơi là cái ví von dí dỏm về những thạch
nhũ trong động, rồi trông xa hơn những vòm động giống như hình chiếc thuyền,
mặt trăng,…nhưng trên tay không có mái chèo nên phải lom khom đi trong hang
động. Tả cảnh động nhưng nữ sĩ không quên ngụ ý, trao tình. Giọt nước hữu tình
rồi cũng phải rơi, con thuyền muốn đi nhưng không có mái chèo phải đi lom khom
giống như những chuyện tình yêu hữu tình mà vô duyên. Cuộc đời mấy khi được
như ý muốn, tình duyên muôn kiếp vẫn phải người thiếu, người thừa.
24
“Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại,
Rõ khéo trời già đến dở dom.”
Nơi “ Lâm tuyền”( rừng suối) mà cuốn hút lại đây cảnh phồn hoa đô hội như
thế thì khen thay “trời già” kia khéo sắp đặt cảnh dở dang. Lời than trách ấy giống
như đang kêu thay cho số phận người phụ nữ, khéo cho trời sinh người phụ nữ đẹp,
nhiều người yêu, kẻ mến nhưng lại sống đời dỡ dang, không trọn vẹn như mong
ước của mình. Dẫu biết có than, có trách thì cũng không thể thay đổi được tạo hóa,
nhưng khi nỗi lòng bật dậy nhìn mây, nước bốn bề không thể nào không ta thán cho
vơi đi những nhọc nhằn, đau đớn. Thương thay cho cảnh sắc đẹp như động Hương
Tích nhưng cũng không thoát khỏi quy luật mấy khi đời vẹn tròn.
Nói về nghệ thuật trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương, ta nhận ra sự gần gũi,
thân quen bởi nó còn mang nhiều dáng vóc dân gian như việc sử dụng từ láy, lấy
thiên nhiên nói ý ngụ tình, rồi gieo vần lưng, vần chân,…Nhưng lại mới lạ bởi cách
miêu tả và hình ảnh miêu tả độc đáo mà thật chân thành. Trên hết điều mà tác giả
muốn gửi gắm là tâm sự về sự vùng lên mạnh mẽ của những thân phận vốn “ ba
chìm bảy nổi” biết bao thế hệ qua của người phụ nữ. Sau đó như tiếng lòng nàng
Hương đang nghĩ cho mình cho số người đa tài nhưng hẩm hiu đường tình, mối
duyên.
Hồ Xuân Hương là người phụ nữ tiêu biểu cho một tinh thần mới,suy nghĩ
mới và sức sống mới không những thơ ca mà còn cả cho cả thời đại. Đã đến lúc
người phụ nữ chủ động bảo vệ mình và bảo vệ quyền lợi của mình chứ không thể
nào cam chịu và phải sống trọn vẹn với hương, sắc trời ban chứ đừng dỡ dang
những bóng hồng.
25