Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

CƠ CẤU HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU THÁI LAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.29 KB, 31 trang )

CƠ CẤU HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU
THÁI LAN


Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của Thái Lan

Chính sách thương mại quốc tế

2


Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của Thái Lan

Chính sách thương mại quốc tế

MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG BIỂU

3


Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của Thái Lan

Chính sách thương mại quốc tế

LỜI MỞ ĐẦU
Xuất nhập khẩu là một trong những hình thức chủ yếu của kinh tế đối ngoại, đối với
mỗi quốc gia, ngoại thương có tác dụng rất lớn, rất quan trọng. Việc mở rộng giao lưu
kinh tế thế giới sẽ mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài,
tiếp thu được khoa học công nghệ tiên tiến, những kinh nghiệm quý báu của các nước


kinh tế phát triển và tạo được môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế. Tuy nhiên
mỗi quốc gia có đặc điểm về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội rất riêng biệt. Do đó
cần phải nhận rõ tầm quan trọng của xuất nhập khẩu, tình hình thực tế về ngoại thương
để đề ra những giải pháp, chiến lược thích hợp để phát triển hội nhập kinh tế. Bên cạnh
đó, việc trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia đem đến nhiều lợi nhuận nhưng cũng gặp
không ít khó khăn, thử thách.
Thái Lan là một quốc gia nằm ở vùng Đông Nam Á, được biết đến như hòn ngọc của
du lịch của khu vực này, mang đến nhiều sự đa dạng ngạc nhiên và một nền văn hóa
thật sự lôi cuốn, cộng với tính hiếu khách của người Thái đã biến nơi đây là một điểm
đến nổi tiếng. Có thể nói, trong khoảng vài ba thập kỷ trở lại đây, Thái Lan là một
trong những nền kinh tế có nhiều đóng góp vào "sự thần kỳ châu Á". Từ một nền kinh
tế nghèo nàn với thu nhập GDP khoảng 80 USD/đầu người một năm vào đầu thập kỷ
60 đã tăng lên tới 3.031 USD/đầu người năm 1996. Có được thành công đó là do Thái
Lan có nhiều chính sách thích hợp trong phát triển kinh tế, trong đó có các chính sách
hướng về xuất khẩu. Để có thể hiểu rõ hơn về sự phát triển vượt bậc này, nhóm chúng
em xin chọn nghiên cứu đề tài “Cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu Thái Lan”.
Trong khuôn khổ bài viết này, ngoài những nghiên cứu sưu tầm ở các tạp chí, công
trình khoa học, các số liệu thống kê từ các trang web tin cậy, chúng em còn đưa ra một
vài nhận xét mang tính chủ quan của mình. Do khả năng có hạn, tầm nhìn hạn chế nên
không thể tránh khỏi các thiếu sót, kính mong thầy cô xem xét và cho ý kiến.
Chúng em xin chân thành cám ơn.

4


Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của Thái Lan

Chính sách thương mại quốc tế

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1.
1.1.

TỔNG QUAN VỀ CƠ CẤU XUẤT NHẬP KHẨU THÁI LAN

Một số khái niệm
Xuất khẩu: là một hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, có thể hiểu
là hàng hóa được sản xuất ra trong nước nhưng được bán ở nước ngoài.
Nhập khẩu: là một hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, là việc các
nhà sản xuất nước ngoài cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho người cư trú trong nước.
Kim ngạch xuất khẩu: lượng tiền thu được từ việc xuất khẩu các hàng hóa, dịch vụ
của một quốc gia tính trong một thời gian cố định thường là tháng, quý hoặc năm.
Kim ngạch nhập khẩu: lượng tiền phải bỏ ra để nhập hàng hóa, dịch vụ từ nước
ngoài về tính trong một thời gian cố định thường là tháng, quý hoặc năm.
Kim ngạch xuất nhập khẩu: tổng số tiền thu về được sau khi xuất khẩu, nhập khẩu
hàng hóa.
Cơ cấu XNK là tổng thể các bộ phận giá trị hàng hóa hợp thành tổng kim ngạch
XNK của một cùng những mối quan hệ ổn định và phát triển giữa các bộ phận hợp
thành đó trong một điều kiện kinh tế xã hội cho trước trong một thời kì nhất định.
Cơ cấu XNK là kết quả của quá trình sáng tạo ra của cải vật chất và dịch vụ của một
nền sản xuất thương mại tương ứng với một mức độ và trình độ nhất định khi tham
gia vào quá trình phân công lao động quốc tế. Nền kinh tế như thế nào thì cơ cấu
XNK như thế và ngược lại, một cơ cấu XNK phản ánh trình độ phát triển tương ứng
của quốc gia đó. Chính vì vậy, cơ cấu XNK phải mang đầy đủ những đặc trưng cơ
bản của một nền kinh tế tương ứng với nó.

1.2. Tổng quan về cơ cấu xuất nhập khẩu của Thái Lan
Ngày nay, xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ đang lôi
cuốn tất cả các nước trên thê giới tham gia, và Thái Lan cũng không phải một ngoại
lệ. Trong vài thập kỉ gần đây, Thái Lan là một trong những nền kinh tế có nhiều

5


Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của Thái Lan

Chính sách thương mại quốc tế

đóng góp vào “sự thần kì Châu Á” và trở thành đối tác quan trọng của nhiều quốc
gia phát triển trên thế giới. Từ một nền kinh tế nghèo nàn với thu nhập GDP khoảng
80USD/người/năm vào đầu thập kỉ 60 đã tăng lên tới 3.031USD/người/năm vào
năm 1996. Có được thành công như vậy là do Thái Lan biết tận dụng lợi thế của
mình và có những chính sách đúng đắn cho sự phát triển của đất nước. Tham gia
vào thương mại quốc tế trên cơ sở vận dụng lí thuyết về lợi thế so sánh của David
Ricardo, nền kinh tế Thái Lan đã và đang phát triển mạnh mẽ nhờ vào hoạt động
xuất nhập khẩu với kim ngạch xuất nhập khẩu chiếm 60% GDP. Với vị trí địa lí
thuận lợi, thủ đô Bangkok là tiêu điểm của hầu hết các hoạt động công nghiệp,
thương mại và tài chính, đồng thời cũng là hải cảng chính của cả nước, việc giao
lưu và phát triển kinh tế càng dễ dàng và thuận tiện.
Ngoài ra để có được thành công to lớn như vậy, không thể không kể đến một cơ cấu
hàng hóa XNK phù hợp với chiến lược hướng về xuất khẩu của Thái Lan. Thái Lan
xuất khẩu nhiều hơn 105 tỷ đô la hàng năm. Các sản phẩm xuất khẩu chính bao
gồm gạo, hàng dệt may, giầy dép, hải sản, cao su, nữ trang, ô tô, máy tính và thiết
bị điện. Các sản phẩm của Thái Lan luôn nhận được các đơn hàng lớn từ các thị
trường tiêu dùng khó tính (Hoa Kì, Nhật Bản, EU…) là nhờ vào việc Thái Lan luôn
cải tiến không ngừng công nghệ mới vào các sản phẩm của mình để nâng cao chất
lượng sản phẩm. Nhờ đó, nông sản xuất khẩu Thái Lan luôn là đối tác tin cậy của
nhiều thị trường lớn và ổn định. Về công nghiệp, trong nhiều năm trở lại đây, Thái
Lan có chiến lược đầu tư vào ngành công nghiệp có hàm lượng chất xám cao (linh
kiện điện tử, linh kiện máy tính và các sản phẩm dân dụng chất lượng cao). Các sản
phẩm của Thái Lan không ngừng được cải tiến về chất lượng, mẫu mã sản phẩm và

ngày càng chiếm được lòng tin của nhiều người tiêu dùng. Bên cạnh đó, cơ cấu
hàng nhập khẩu hợp lý cũng góp phần quan trọng vào sự phát triển của Thái Lan
trong thời gian qua.

6


Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của Thái Lan

Chính sách thương mại quốc tế

CHƯƠNG 2. CƠ CẤU HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU CỦA THÁI LAN GIAI
ĐOẠN 2001-2012
2.1.

Cơ cấu hàng xuất khẩu của Thái Lan giai đoạn 2001-2012

2.1.1.

Xuất khẩu công nghiệp của Thái Lan
Không chỉ là một nước nông nghiệp truyền thống, Thái Lan còn được đánh giá
có tiềm năng của nước công nghiệp hiện đại trong đó ngành công nghiệp chiếm
đến xấp xỉ 50% GDP theo khu vực và xuất khẩu công nghiệp là lĩnh vực mũi
nhọn thúc đẩy nền kinh tế Thái Lan phát triển như ngày hôm nay. Ngành công
nghiệp chế tạo (đặc biệt là công nghiệp ô tô đã đạt tỉ lệ nội địa hóa lên tới 7080%) đã đóng góp lớn nhất cho tăng trưởng trong thời kì bùng nổ kinh tế. Các
ngành có kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh gồm máy tính và đồ điện tử, hàng may
mặc và dày da, thực phẩm đóng hộp, các sản phẩm chất dẻo, đá quý và đồ trang
sức. Hơn nữa các sản phẩm công nghệ như: linh kiện và mạch tích hợp, đồ điện,
xe cơ giới hiện đan dẫn đầu tăng trưởng xuất khẩu công nghiệp của Thái Lan.
Nhắc đến xuất khẩu công nghiệp Thái Lan, người ta nghĩ ngay đến công nghiệp

xe hơi, ngành công nghiệp chế tạo hàng đầu của nước này. Hiện nay, Thái Lan là
nhà sản xuất xe hơi lớn nhất khu vực ASEAN (Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam
Á) và đang hướng tới vị trí thứ 10 trên toàn cầu. Không chỉ công nghiệp ôtô,
ngành công nghiệp điện tử của Thái Lan cũng rất phát triển. Nước này hiện là
nhà sản xuất ổ cứng lớn thứ hai thế giới, xuất khẩu chiếm tới 40% sản lượng của
thế giới. Bên cạnh đó xuất khẩu công nghiệp ở Thái Lan cũng nổi bật với nhiều
ngành khác như xuất khẩu cao su (đứng đầu thế giới), xuất khẩu linh kiện điện
tử,...

7


Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của Thái Lan

Chính sách thương mại quốc tế

Bảng 1: Xuất khẩu của Thái Lan giai đoạn 2001-2012
Đơn vị: tỷ USD
200
1

200
2

200
3

200
4


200
5

200
6

200
7

200
8

200
9

201
0

201
1

201
2

1

Máy
móc

27


28,2

33,9

43,6

48,7

56,1

58,3

66,4

56,9

72,3

72,8

66,4

2

Dệt
may

6,15


6,08

6,56

7,5

7,57

7,88

8,13

8,44

7,47

8,59

9,2

8,07

3

Nhựa
,Cao
su

5,24


6,1

7,88

10,1

12

14,6

16,6

19,7

15,9

23,8

33,6

28,8

4

Kim
khí

2,28

2,38


3,06

4,29

5,13

6,48

8,85

8,97

6,68

7,93

9,38

11,1

5

Hóa
chất

1,96

2,19


2,74

3,51

4,34

5,51

6,48

7,37

7,13

9,02

11,8

12,3

6

Thực
phẩm

4,87

5,19

6,22


6,57

7,3

8,21

9,77

12,1

12,1

14

18.2

18,9

122,98

106,18

135,64

154,98

145,57

7 Tổng 47,5

50,14
60,36
75,57
85,04
98,78
108,13
Nguồn: />
Biểu đồ 1: Xuất khẩu công nghiệp của Thái Lan giai đoạn 2001-2012
Từ biểu đồ trên ta thấy kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp của Thái
Lan có nhìn chung có xu hướng tăng nhưng tăng không đều. (giai đoạn gần đây
nhất tháng 11/2014 giảm 3,5 % so với cùng kì năm 2013). Kim ngạch xuất khẩu
của Thái Lan giai đoạn 2001-2012 đều đạt trên 40 tỷ USD trong đó nổi bật là kim
ngạch xuất khẩu công nghiệp máy móc trung bình là 52,55 tỷ USD.
8


Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của Thái Lan

Chính sách thương mại quốc tế

Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa công nghiệp từ năm 2001 đến năm 2008
tăng dần qua các năm (tăng 75,48 tỷ USD : từ 47,5 tỷ USD lên đến 122,98 tỷ
USD) nguyên nhân chủ yếu là do xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp tăng mạnh
đồng thời giá thế giới tăng cao trong đó kim ngạch xuất khẩu cao su tăng cao
nhất (do được lợi về giá). Năm 2009, hầu hết các mặt hàng công nghiệp của Thái
Lan đều giảm ngoại trừ công nghiệp chế biến vẫn giữ nguyên giá trị là 12,1 tỷ
USD. Kim ngạch xuất khẩu những tháng đầu năm giảm mạnh do ảnh hưởng của
khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tiêu thụ hàng hóa giảm mạnh. Mặc dù có sự tăng
trở lại vào những tháng cuối năm nhưng kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp
của Thái Lan năm 2009 nhìn chung giảm (tổng kim ngạch xuất khẩu hàng công

nghiệp năm 2009 giảm 16,8 tỷ USD so với năm 2008). Bước sang 7 tháng đầu
năm 2010, các mặt hàng xuất khẩu đã bắt đầu tăng trở lại trong đó xuất khẩu dệt
may, giày dép đều có xu hướng tăng cao. Đến năm 2012, xuất khẩu công nghiệp
Thái Lan lại chứng kiến một sự giảm nhẹ đối với các mặt hàng máy móc, dệt
may, nhựa và cao su (xuất khẩu máy móc giảm 6,4 tỷ USD, xuất khẩu dệt may
giảm 1,13 tỷ USD, xuất khẩu nhựa và cao su giảm 4,8 tỷ USD). Nguyên nhân do
nền kinh tế Thái Lan và nhiều nước khác bị ảnh hưởng bởi sự bất ổn của kinh tế
thế giới do khủng hoảng tài chính và khủng hoảng nợ công ở Châu Âu chưa được
giải quyết. Suy thoái trong khu vực đồng euro cùng với khủng hoảng tín dụng và
tình trạng thất nghiệp gia tăng tại các nước thuộc khu vực này vẫn đang tiếp diễn.
Hoạt động sản xuất và thương mại toàn cầu bị tác động mạnh, giá cả hàng hóa
diễn biến phức tạp. Hơn nữa, Kim ngạch xuất khẩu cao su giảm do tăng trưởng
kinh tế chậm lại ở những quốc gia tiêu thụ nhiều cao su như Trung Quốc, Ấn Độ
kéo theo giá cao su trên thế giới giảm mạnh.
1. Ngành tiểu thủ công nghiệp.
Thái Lan là một trong những quốc gia có truyền thống lâu đời trong ngành tiểu
thủ công nghiệp. Các thủ công mỹ nghệ và trang trí nội thất nhà sản phẩm của
Thái Lan hiện đang phục vụ cho các thị trường cao cấp thế giới. Theo Hiệp hội
Sản phẩm Ưa dùng Thái, quốc gia nhập khẩu thủ công mỹ nghệ và các sản phẩm
trang trí nội thất từ Thái Lan bao gồm Mỹ, Nhật Bản và các quốc gia châu Âu 1.
Giá trị thương mại trung bình hiện nay là hơn 3.000 triệu USD
9


Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của Thái Lan

Chính sách thương mại quốc tế

Các ngành công nghiệp tiểu thủ công nghiệp xuất khẩu của Thái Lan gồm 6 loại
chính sau: Đồ chơi & Games; Văn phòng phẩm (giấy,..); Sản phẩm gia dụng;

Quà tặng / trang trí Đồ gỗ / Xây dựng/ Vật liệu; Các thết bị phần cứng và các sản
phẩm từ da khác.

10


Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của Thái Lan

Chính sách thương mại quốc tế

Bảng 2: Giá trị kim ngạch xuất khẩu của ngành tiểu thủ công nghiệp Thái Lan giai
đoạn 2001-2012
Triệu
USD

200
1

200
2

200
3

200
4

200
5


200
6

200
7

200
8

200
9

201
0

201
1

201
2

Sản
phẩm
từ
giấy

867

871


107
0

113
0

131
0

150
0

233
0

305
0

291
0

173
0

651
0

172
0


Sản
phẩm
đồ gỗ

632

697

707

813

759

918

106
0

135
0

126
0

172
0

205
0


208
0

Sản
phẩm
từ da
động
vật

933

728

699

785

104
0

740

814

858

692

838


958

974

Tác
phẩm
nghệ
thuật

3,23

6,98

2,74

2,53

10,8

8,74

3,01

10,4

4,2

5,06


12,2

20,1

Tổng

243
5

230
3

247
9

273
1

312
0

316
7

420
7

526
8


486
6

429
3

953
0

479
4

Nguồn: />
Biểu đồ 2: Giá trị kim ngạch ngành tiểu thủ công nghiệp xuất khẩu Thái Lan giai
đoạn 2001-2012

11


Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của Thái Lan

Chính sách thương mại quốc tế

Từ biều đồ, ta thấy, kim ngạch hàng thủ công nghệ xuất khẩu của Thái Lan nhìn
chung có xu hướng tăng lên.
Giai đoạn 2001-2008, ngành tiểu thủ công nghiệp xuất khẩu của Thái Lan tăng
lên đều đặn qua các năm, đặc biệt là mặt hàng giấy, và mặt hàng đồ gỗ, luôn
chiếm giá trị cao trong tổng giá trị kim ngạch (GTKN) của toàn ngành (2435
triệu USD năm 2001 đến 5268 triệu USD năm 2008). Trước năm 2000, chính
phủ Thái Lan ban hành chính sách cấm chặt phá, hủy hoại môi trường rừng, do

diện tích đất rừng của Thái Lan giảm mạnh (từ 53,3% năm 1961 xuống còn 25%
tổng diện tích lãnh thổ năm 1999) bởi nạn chặt phá, khai thác bừa bãi,…Sau khi
những nỗ lực kích thích trồng rừng, phủ xanh đồi trọc của chính phủ Thái Lan
phát huy tác dụng thì diện tích đất rừng của Thái Lan đã tăng lên đáng kể. Từ
đây, các doanh nghiệp được phép tập trung khai thác và có cơ chế trồng và bảo
vệ, duy trì và phát triển cây con hợp lý, để phát triển ngành công nghiệp giấy và
đồ nội thất gỗ, vốn là mặt hàng xuất khẩu thế mạnh của Thái Lan. Riêng đối với
mặt hàng da từ động vật, trong giai đoạn này lại có xu hướng giảm xuống, rồi
tăng chậm. Thái Lan cũng được biết đến như một đối thủ cạnh tranh chính, nơi
tập trung nhiều ông lớn trên toàn cầu về ngành công nghiệp da phụ trợ, bởi lợi
lao động thủ công lành nghề, cùng sự sẵn có có nguyên liệu đầu vào chất lượng.
Tuy nhiên, sự ngược dòng này, không gây ảnh hưởng nhiều đến xu hướng tăng
lên của GTKN toàn ngành.
Giai đoạn 2008-2010 chứng kiến sự suy giảm trong tổng GTKN xuất khẩu hàng
tiểu thủ công nghiệp Thái Lan. Thái Lan thực sự không nằm ngoài những ảnh
hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008: sản phẩm giấy giảm gần một
nửa (từ 3050 triệu USD năm 2008 xuống 1730 triệu USD năm 2010; đồ gỗ giảm
từ 1350 triệu USD năm 2008 xuống 2160 triệu USD năm 2009; sản phẩm từ da
giảm từ 858triệu USD năm 2008 xuống 692 triệu USD năm 2009…
Những biện pháp thiết thực của chính phủ Thái Lan đã giúp vực dậy nền kinh tế,
thoát ra khỏi những tác động xấu của cuộc khủng hoảng 2008. Giai đoạn 20102012, ngành tiểu thủ công nghiệp của Thái Lan từ đây mà phát đạt trở lại. Trận lũ
lịch sử 2011 không trở thành trở ngại cho sự phát triển của ngành sản xuất giấy,
trái lại, là sự tăng đốt biến trong giá trị mặt hàng này (từ 1730 triệu USD năm
12


Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của Thái Lan

Chính sách thương mại quốc tế


2010 đến 6510 triệu USD năm 2011), đã đẩy tổng giá trị sản phẩm toàn ngành
lên 9530 triệu USD.
Một năm sau đó, ngành tiểu thủ công nghiệp của Thái Lan quay lại mức phát
triển bình thường, với xu hướng vẫn đang tăng lên.
2. Xuất khẩu hàng nông sản
Vốn là một nước nông nghiệp truyền thống với những tài nguyên thiên nhiên
giàu có, cùng với gần 50% dân số tham gia vào các hoạt động nghề nông, Thái
Lan được công nhận là một nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. Hơn nữa, các
sản phẩm nông nghiệp khác, từ cả hai lĩnh vực trồng trọt và đánh bắt, bao gồm cả
các sản phẩm nông nghiệp chế biến, cũng chiếm vị trí hết sức quan trọng trong
cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Thái Lan. Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại, cả lực
lượng lao động và số lượng sản phẩm đang giảm dần trong khu vực nông nghiệp,
trong khi đó công nghiệp và du lịch đã và đang chiếm ưu thế hơn trong tổng sản
phẩm quốc nội của Thái Lan.
Nông nghiệp từ lâu đã là trụ cột của nền kinh tế Thái Lan , với nguồn tài nguyên
thiên nhiên phong phú , và đa số người dân Thái Lan tham gia vào các hoạt động
nông nghiệp .
Các sản phẩm nông nghiệp ở Thái Lan có thể được chia thành bốn loại: trồng
trọt, lâm nghiệp, thuỷ sản và chăn nuôi gia súc :
Trồng trọt, bao gồm cây lúa, được coi là mặt hàng xuất khẩu số một của nước.
Thái Lan cũng là nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới . Ngoài gạo, còn có sắn,
cao su tự nhiên, dầu cọ, ngô, đậu tương, và dứa;
Đối với lâm nghiệp , 40 % diện tích đất được chỉ định là rừng, để duy trì sự cân
bằng tự nhiên của đất nước;
Các sản phẩm thủy sản bao gồm hai loại : thủy sản nước ngọt và thủy sản nước
mặn. Xuất khẩu thủy sản chính của Thái Lan là tôm và mực;
Các sản phẩm chăn nuôi chủ yếu là thịt gà, trứng và thịt lợn. Đây cũnglà những
sản phẩm đang có nhu cầu cao trên thị trường trong nước.

13



Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của Thái Lan

Chính sách thương mại quốc tế

Bảng 3: Giá trị xuất khẩu nông sản của Thái Lan giai đoạn 2001-2012
Năm

2001

200
2

200
3

200
4

200
5

200
6

200
7

200

8

200
9

201
0

201
1

201
2

Nông
12,6 11,1 12,3 14,7
5,98 5,5 6,08 6,95 6,54 7,52 9,27
12,9
sản
7
6
6
9
Nguồn: />
Biểu đồ 3: Giá trị hàng nông sản xuất khẩu của Thái Lan giai đoạn 2001-2012

Từ biểu đồ trên, ta thấy cơ cấu xuất khẩu hàng nông sản của Thái Lan có xu
hướng tăng, nhưng tăng không đều. Giai đoạn gần đây (2012) có xu hướng giảm.
Giá trị hàng nông sản xuất khẩu năm 2001 đạt 5,98 tỷ USD, và giảm nhẹ năm
2002 (5,5 tỷ USD) trước khi tăng lên hơn 6 tỷ USD và xấp xỉ 7 tỷ USD vào hai

năm sau đó. Sở dĩ có sự gia tăng trong giá trị hàng nông sản Thái Lan lúc này là
do chính sách kinh tế “đường đôi” (Thaksinomics) của chính quyền Thaksin mới
nhậm chức (kết hợp kích thích nội địa với xúc tiến các thị trường mở và đầu tư
nước ngoài) đã giúp phục hồi xuất khẩu, đẩy GDP thực của Thái Lan tăng (6.3%
2003)
Năm 2005, chứng kiến sự giảm nhẹ của hàng nông sản Thái Lan xuất sang nước
ngoài. Nguyên nhân chính là hậu quả của trận động đất ở Thái Bình Dương cuối
năm 2004, đã để lại những hậu quả to lớn về người và hoa màu; đồng thời khiến
cho hoạt động vận chuyển, lưu thông những mặt hàng nông sản xuất khẩu dễ hư
hỏng (như rau, hoa quả,…) gặp nhiều khó khăn, thậm chí bị đình trệ. Tại thời
điểm này, giá các mặt hàng nông sản xuất khẩu cũng từ đó mà tăng lên đột biến.
Đây dường như một bước lùi để tạo đà cho một bước tiến nhanh hơn. Ba năm sau
đó (2006-2008), giá trị hàng xuất khẩu nông sản của Thái Lan chứng kiến sự tăng
nhanh vượt bậc (từ 7,52 năm 2006 và đạt đỉnh 12,67 tỷ USD năm 2008). Đây là
kết quả của chính sách theo đuổi tăng trưởng kinh tế dựa vào xuất khẩu của chính
phủ Thái Lan, đã giúp hoạt động xuất khẩu nói chung và hoạt động xuất khẩu
hàng nông sản nói riêng có được bước nhảy vọt này.
14


Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của Thái Lan

Chính sách thương mại quốc tế

Khủng hoảng Kinh tế cuối năm 2008 bắt nguồn từ Mỹ là nguyên nhân chính dẫn
đến sự sụt giảm của hàng nông sản xuất khẩu của Thái Lan vào năm 2009 (giảm
1,51 tỷ USD). Đó là khi nhu cầu nhập khẩu của các nước phát triển giảm, đã ảnh
hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế Thái Lan, trong đó hoạt động xuất khẩu ảnh
hưởng mạnh mẽ.
Giai đoạn 2009-2011, chứng kiến sự vực dậy trong xuất khẩu hàng nông sản

Thái Lan. Vào thời điểm này, khủng hoảng kinh tế về cơ bản đã được khống chế;
mặt khác nhờ những nỗ lực, những chính sách thiết thực của chính phủ Thái Lan,
đã giúp giảm nhẹ mức độ ảnh hưởng của đợt khủng hoảng kinh tế lịch sử này.
Năm 2012 chứng kiến sự đi xuống trong giá trị xuất khẩu hàng nông sản Thái
Lan. Nguyên nhân trực tiếp là do đợt đại hồng thủy vào quý III, quý IV năm
2011. Đây được coi là một trong những trận lũ lụt trong lịch sử Thái Lan, đã phá
hoại nhiều ha hoa màu, và nông sản xuất khẩu của Thái Lan (100000 ha lúa và
hoa màu bị hư hỏng nặng, 600 hồ nuôi cá tôm bị ngập nước, hàng trăm gia súc,
vật nuôi bị chết…)
1. Xuất khẩu nguyên vật liệu của Thái Lan
Thái Lan là nước đứng đầu Đông Nam Á về công nghiệp phụ trợ, trong đó có các
ngành chế biến khoáng sản , nguyên liệu thô. Vì vậy mà các mặt hàng xuất khẩu
khoáng sản chủ yếu của Thái Lan là các nguyên liệu đã qua chế biến như các sản
phẩm từ dầu mỏ, xi măng,… ngoài ra là các khoáng sản thô như thạch cao, dầu
mỏ chiếm tỷ trọng thấp hơn.
Xuất khẩu khoáng sản là ngành khởi đầu và tiên phong cho chính sách thương
mại hướng về xuất khẩu của Thái Lan. Giúp giá trị xuất khẩu của Thái Lan tăng
nhanh trong giai đoạn đầu mở cửa. Hiện nay đây cũng là một trong những ngành
xuất khẩu có tỷ trọng lớn, đóng góp lớn trong cơ cấu xuất khẩu của Thái
Lan,trong đó xuất khẩu các sản phẩm lọc dầu đang chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Các sản phẩm khai khoáng từ Thái Lan khá đa dạng, có thể chia thành 6 loại:
Khoáng sản nhiên liệu như dầu mỏ, than các loại; Khoáng sản phi kim; Khoáng
sản kim loại (hay quặng); Nguyên liệu đá màu; Nguyên liệu khoáng hóa.

15


Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của Thái Lan
Mặt
hàng


200
1

200
2

200
3

200
4

200
5

Chính sách thương mại quốc tế
200
6

200
7

200
8

200
9

201

0

201
1

201
2

Khoáng
3.67 3.64 3.41 4.12 4.76 5.42 5.1 6.62 5.18
5
5.64 5.17
sản
Bảng 4: Tỷ trọng xuất khẩu ngành khai khoáng , khoáng sản Thái Lan.
Nguồn: />Nhìn chung xuất khẩu khoáng sản của Thái Lan có xu hướng tăng trong giai
đoạn 2001-2012, nhưng xu hướng này không lớn, không đều và không rõ ràng,
tính biến động lớn. Giai đoạn gần đây có xu hướng giảm dần.
Tỷ trọng của ngành trong 3 năm đầu tiên biến động nhỏ và có xu hướng giảm
nhẹ (từ 3.67% năm 2001 xuống 3.41% năm 2003). Thực tế giá trị xuất khẩu
khoáng sản có tăng nhờ việc kinh tế đang trên đà phục hồi, nhưng các ngành lớn
như cơ khí và cao su có tốc độ phục hồi nhanh hơn nên tỷ trọng vẫn giảm.
Sang giai đoạn 2004-2006, tỷ trọng ngành xuất khẩu khoáng sản tăng khá nhanh
(lên đến 5.42% năm 2006). Tuy nhiên đây lại là một tác động của đợt sóng thần
Ấn Độ Dương và cuộc khủng hoảng chính trị của người Thái. Các tác động tiêu
cực trên khiến nền kinh tế Thái có những sự bất ổn nhất định, các ngành xuất
khẩu đứng đầu như máy móc, cao su và thực phẩm tăng trưởng chậm lại. Bất ổn
mở đầu cho xu hướng tiết kiệm của người dân và doanh nghiệp. Các nguồn vốn
cho đầu tư đột ngột giảm khiến các doanh nghiệp khai khoáng của người Thái gia
tăng sản xuất và xuất khẩu.
Giai đoạn 2007-2009 là một giai đoạn đầy biến động cho ngành khoáng sản.Tỷ

trọng xuất khẩu giảm xuống 5.1% vào năm 2007, rồi lại tăng lên 6.62% năm
2008 và lại giảm xuống 5.18% năm 2009. Biến động này không nằm ngoài ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nó đã khiến cho các ngành xuất
khẩu chủ lực khác của Thái gặp khó khăn. Thái Lan đã phải sử dụng các gói kích
cầu của mình, chính phủ thực hiện chính sách tài khóa mở rộng, họ mở rộng đầu
tư vào xây dựng và khai khoáng, thêm vào đó là việc giá dầu thế giới gia tăng
liên tục trong giai đoạn này đã khiến tỷ trọng của ngành tăng lên 6.62%(2008).
Tới giai đoạn 2010-2012, nền kinh tế Thái đã có được sự phục hồi khá mạnh mẽ,
chính phủ đã cắt bớt các gói kích cầu, các ngành xuất khẩu chủ lực tăng trưởng
16


Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của Thái Lan

Chính sách thương mại quốc tế

trở lại. Tỷ trọng của xuất khẩu khoáng sản Thái Lan quay trở về mức 5% năm
2010 và sau đó có sự biến động nhỏ từ việc tăng giá dầu thô năm 2011(tăng lên
5.64%). Sang năm 2012 khi giá dầu ổn định trở lại thì ngành cũng quay về mức
ổn định ở ngưỡng 5% ( 5.17 vào năm 2012)

2.2.

Nhập khẩu Thái Lan

2.2.1. Nhập khẩu hàng nông sản của Thái Lan
Có lợi thế về nông nghiệp, Thái Lan có không chỉ có đủ khả năng sản xuất lương
thực đáp ứng đủ nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu ra thế giới. Cơ cấu hàng
nông sản xuất khẩu chiếm tỉ trọng khá cao và ngày càng tăng. Do vậy, hàng nông
sản nhập khẩu có tỷ trọng ít hơn, hầu hết là một số mặt hàng không có lợi thế tự

nhiên để sản xuất hay nằm trong diện ưu tiên sau trong chính sách sản xuất, ưu
tiên nhập khẩu từ nước ngoài.
Hàng nông lâm nghiệp nhập khẩu của Thái Lan chủ yếu ở một số mặt hàng sau:


Nông nghiệp thì chủ yếu là các mặt hàng như đậu tương, ngô, đậu nành, bạch
đàn, dầu cọ…được nhập khẩu. Gạo cũng góp một phần vào giá trị nông sản



nhập khẩu, tuy nhiên rất ít do năng lực sản xuất gạo của Thái Lan khá lớn.
Lâm nghiệp: chủ yếu nhập khẩu gỗ từ nước ngoài do Nhà nước có chỉ định
bảo vệ rừng để không gây ảnh hưởng đến môi trường sống, ngăn chặn thiên
tai, bão lũ và các biến động thiên nhiên.



Thủy sản: Thái Lan nhập khẩu chủ yếu là cá đông lạnh nguyên con, nhuyễn
thể, giáp xác, cá phi lê đã cắt miếng, tươi hoặc đông lạnh, cá khô, hun khói…
là những mặt hàng đã chế biến, có giá trị cao.

Bảng 5: Bảng số liệu tỷ trọng nhập khẩu hàng nông sản Thái Lan giai đoạn
2002 – 2012
Đơn vị: Tỷ USD
Năm 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Nông
2.05
sản

2.33


2.63

2.91

3.02

3.67
17

4.96

4.23

5.15

6.76

7.6


Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của Thái Lan

Chính sách thương mại quốc tế

Nguồn: />
Biểu đồ 4: Tỷ trọng hàng nông sản nhập khẩu Thái Lan giai đoạn 2002-2012
Biểu đồ cho thấy xu hướng tăng nhanh và liên tục của mặt hàng nông sản nhập
khẩu tại Thái Lan trong giai đoạn 2002-2012. Về cơ bản, có rất ít biến động lớn
trong nhập khẩu nhóm hàng này.

Trong giai đoạn 2002-2007, mặt hàng nông sản nhập khẩu có tăng nhưng có thể
nói là tăng rất ít, tỷ trọng dường như không có mấy thay đổi khi sau 5 năm chỉ
tăng lên 1,62 tỷ USD, một lượng tăng khá là nhỏ khi mà chỉ một năm sau, từ
2007-2008, nhập khẩu tăng lên tới 1,29 tỷ USD, từ 3,67 tỷ USD lên 4,96 tỷ USD.
Điều này hoàn toàn không mâu thuẫn với lượng xuất khẩu nông sản tăng vọt của
Thái Lan giai đoạn bấy giờ. Bộ Thương mại cho biết, Chính phủ Thái Lan đã phê
duyệt đề xuất miễn thuế nhập khẩu một số mặt hàng nông sản từ các nước láng
giềng theo Chiến lược Hợp tác Kinh tế Ayeyawady - Chao Phraya - Mê Kông
(ACMECS) giữa Thái Lan và các nước láng giềng. Theo đó, loại bỏ thuế nhập
khẩu dành cho hàng nông sản được sản xuất theo hợp đồng tại Campuchia, Lào,
Myanmar và Việt Nam. Những mặt hàng nông sản sẽ được miễn thuế nhập khẩu
gồm ngô, đậu nành, bạch đàn và dầu cọ, các mặt hàng có thể sử dụng làm nguồn
năng lượng thay thế tại đất nước này. Do đó, việc các mặt hàng nông sản được
tăng cường nhập khẩu đã làm kim ngạch nhập khẩu nông sản của Thái Lan năm
2007-2008 tăng vọt. Và cũng từ đấy, nhập khẩu nông sản của Thái Lan tăng
nhanh và liên tục.
Với mọi mặt hàng, trong cả nhập khẩu và xuất khẩu, cuộc khủng hoảng 2008 đều
đem lại một sự tụt dốc bất ngờ. Với mặt hàng nông sản nhập khẩu cũng không
ngoại lệ. Việc giảm gần 1 tỷ USD từ 4,96 tỷ USD xuống còn 4,23 tỷ USD, nền
kinh tế Thái Lan thể hiện sự hạn chế tiêu dùng rõ rệt trong cơn bão khủng hoảng
đang càn quét.
Tuy nhiên, sau những nỗ lực kiềm chế khủng hoảng, nền kinh tế Thái Lan được
vực dậy và tiếp tục duy trì sự phát triển. Nông sản lại tiếp tục được nhập khẩu
với tỷ trọng lớn, lượng nhập tăng đều qua các năm. Từ 2009-2012, mỗi năm lại
nhập khẩu xấp xỉ 1 tỷ USD (0,92; 1,61; 0,84 tỷ USD).
18


Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của Thái Lan


19

Chính sách thương mại quốc tế


Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của Thái Lan

Chính sách thương mại quốc tế

2.2.2. Nhập khẩu hàng công nghiệp
Bảng 6: Giá trị nhập khẩu công nghiệp giai đoạn 2001-2012
Đơn vị: tỉ USD
2001

200
2

2003

200
4

200
5

200
6

200
7


2008

Công
35.0
41.9
74.6
nghiệ
34.1
49.6 56.7 62.4 65
9
7
4
p
Nguồn: />
200
9

201
0

201
1

2012

61.2

82


92.2

96.6
6

Giá trị nhập khẩu công nghiệp giai đoạn 2001 – 2012 có xu hướng tăng mạnh (từ
35 lên 96) nhưng không đều, giảm bất thường ở năm 2010. Mặc dù vậy nhưng tỷ
trọng hàng nhập khẩu công nghiệp lại giảm nhẹ.
Kim ngạch nhập khẩu của Thái Lan giai đoạn 2001-2012 đều đạt trên 35 tỷ USD
trong đó nổi bật là kim ngạch xuất khẩu công nghiệp máy móc trung bình là
35.47 tỷ USD.
Là 1 nước xuất khẩu công nghiệp lớn với sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là xe hơi,
linh kiện điện tử… nhưng Thái Lan có giá trị các mặt hàng công nghiệp nhập
khẩu (đặc biệt là máy móc) ở mức khá cao, các sản phẩm như máy tính, máy móc
văn phòng… chiếm tỉ trọng lớn. Theo các số liệu có được, điện thoại các loại và
linh kiện là mặt hàng lớn nhất được các doanh nghiệp Thái Lan nhập khẩu từ
Việt Nam trong năm 2012 với trị giá đạt 692 triệu USD, tăng mạnh 75,3% so với
năm 2011. Bên cạnh đó, một số mặt hàng khác như: máy móc thiết bị dụng cụ và
phụ tùng; sắt thép các loại; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện… cũng là
những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của các doanh nghiệp Việt Nam sang Thái
Lan trong các năm qua.
Nguyên nhân khiến hàng công nghiệp nhập khẩu có tỷ trọng lớn trong tổng các
sản phẩm nhập khẩu là do chính sách nhập khẩu máy móc, thiết bị cũ có thời hạn
không quá 10 năm kể từ ngày sản xuất nhưng không giới hạn số năm đã sử dụng
khi nhập khẩu do vậy các doanh nghiệp nhập khẩu nhiều máy móc công nghiệp
để sản xuất. Mặc dù vậy nhưng những quy định của Thái Lan cũng rất chặt chẽ
20


Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của Thái Lan


Chính sách thương mại quốc tế

trong quản lý việc nhập khẩu các loại máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ
đã qua sử dụng. Đối với Thái Lan, biện pháp quản lý là không kiểm soát nhập
khẩu, song khi đưa vào sử dụng nếu vi phạm pháp luật về môi trường, chất lượng
và an toàn thì bị tịch thu hoặc tiêu hủy. Để được hưởng các ưu đãi của Chính phủ
thì những máy móc, thiết bị đã qua sử dụng không quá 10 năm và còn tuổi thọ
trên 5 năm. Bên cạnh đó Thái Lan cũng dành những ưu tiên cho việc đầu tư
thông qua miễn hoặc giảm thuế nhập khẩu từ 50% đến 100% đối với các loại
máy móc thiết bị cho từng địa phương và từng dự án (khu vực đầu tư).
2.2.3. Nhập khẩu tiểu thủ công nghiệp
Bảng 7: Giá trị nhập khẩu tiểu thủ công nghiệp giai đoạn 2001-2012
Đơn vị: triệu USD

Tiểu
thủ
công
nghiệp

2001 2002

200
3

200
4

200
5


200
6

200
7

200
8

200
9

2010

2.26
7

2.97

3.51

4.25

4.58

5.2

6.5


5.81

7.9

2.43

201
1

9.03 9.16

Nguồn: />Xu hưởng nhập khẩu các mặt hàng tiểu thủ công nghiệp của Thái Lan có xu
hướng tăng trong giai đoạn 2001 – 2012, nhưng tăng không đồng đều, năm 2010
giảm.
Tỷ trọng nhập khẩu các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp trung bình là 4.16% trong
tỷ trọng các hàng nhập khẩu (giai đoạn 2001 – 2012)
Giá trị nhập khẩu các sản phẩm từ giấy và da động vật cao trong giá trị nhập
khẩu tiểu thủ công nghiệp, năm 2012 sản phẩm từ giấy chiếm 27%, từ da động
vật là 11.7%.
Giá trị nhập khẩu tiểu thủ công nghiệp ở mức thấp và không có biến động bất
thường qua các năm là do các chính sách về thuế, thuế suất, quy định về nhập
khẩu của Thái Lan. Các mức thuế suất thuế nhập khẩu hiện đang được Thái Lan
áp dụng như sau: nguyên vật liệu thô và thiết bị điện: 1%, tư liệu sản xuất và
21

201
2


Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của Thái Lan


Chính sách thương mại quốc tế

nguyên liệu đầu vào cho sản xuất: 5%, bán thành phẩm, hàng hóa trung gian:
10%, sản phẩm hoàn chỉnh: 20%, những mặt hàng “cần được bảo vệ đặc biệt”:
30%
2.2.4. Nhập khẩu nguyên liệu và khoáng sản của Thái Lan
Thái Lan cũng là một nước có khá nhiều tiềm năng và lợi thế trong việc khai thác
khoáng sản trong khu vực. Tuy nhiên, trong công nghiệp khai khoáng, kim ngạch
nhập khẩu lớn hơn rất nhiều so với kim ngạch xuất khẩu. Điều này thể hiện sự
phân công quốc tế rất rõ ràng từ Thái Lan. Tập trung cho các mặt hàng có lợi thế,
giá trị thu về sẽ là ngân sách cho việc nhập khẩu những mặt hàng có giá trị cao từ
những nước có công nghệ cao hơn, có lợi thế hơn trong công nghiệp khai
khoáng. Thái Lan là một nước nhập khẩu ròng khoáng sản, chủ yếu là do các hóa
đơn nhập khẩu lớn của nó đối với than đá, dầu thô, sắt, thép, nhôm nguyên, đồng
tinh chế, vàng, chì tinh luyện, và bạc. Nguồn lực của hầu hết các khoáng sản kim
loại và khoáng sản nhiên liệu của Thái Lan là nhỏ. Việc khai thác và khai thác đá
khu vực, chiếm 2% GDP vào năm 2000, tăng 7,5% trong năm 2000 và 9,1% vào
năm 1999, chủ yếu là kết quả của một sự gia tăng đáng kể trong việc sản xuất
dầu thô và khí đốt tự nhiên.
Bảng 8: Giá trị nhập khẩu khoáng sản Thái Lan giai đoạn 2002-2012
Đơn vị: tỷ USD
Năm

200
2

200
3


200
4

200
5

200
6

200
7

200
8

200
9

201
0

201
1

Khai
7.08 8.56 12.7 19.5 23.4 24.3 33.8 22.8 28.8 38.7
khoáng
Nguồn: />
2012
17.9


Biểu đồ 5: Giá trị khoáng sản nhập khẩu của Thái Lan giai đoạn 2002-2012

Lượng khoáng sản nhập khẩu của Thái Lan có xu hướng tăng đều trong thời gian
đầu, nhưng sau đó, thay đổi một cách rõ rệt với nhiều biến đổi lớn sản lượng
nhập khẩu, giảm cũng mạnh và tăng trở lại cũng vô cùng mạnh mẽ. Đơn cử trong
giai đoạn từ 2009-2012, lượng nhập khẩu khoáng sản có thời điểm tụt xuống còn
20 tỷ USD (2009), có thời điểm lại tăng vọt chạm tới mốc 40 tỷ USD (2011).
22


Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của Thái Lan

23

Chính sách thương mại quốc tế


Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của Thái Lan
2.

Chính sách thương mại quốc tế

ĐÁNH GIÁ CƠ CẤU HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU VÀ CÁC TÁC
DỘNG ĐẾN NỀN KINH TẾ THÁI LAN

1.

Nhận xét cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu Thái Lan
Đánh giá nói chung về cơ cấu hàng hóa nhập khẩu Thái Lan, ta có thể thấy rõ

qua biểu đồ sau:

Nguồn: />Biểu đồ 6: Tỷ trọng cơ cấu hàng hóa nhập khẩu của Thái Lan giai đoạn 2001-2012
Biểu đồ thể hiện rất rõ hướng chuyển dịch cơ cấu của Thái Lan trong 12 năm
qua. Sự tăng, giảm của từng thành phần thể hiện hướng đi tiếp theo của Thái Lan
trong điều chỉnh cơ cấu hàng nhập khẩu.
Ngành công nghiệp luôn giữ vị trí đầu bảng với miền màu xanh lớn nhất trong cả
12 năm. Dù đang có xu hướng hẹp dần đi do năng lực sản xuất trong nước nâng
cao, hướng ra cả xuất khẩu nhưng hàng hóa công nghiệp nhập khẩu vẫn chiểm tỷ
trọng lớn, việc nhập khẩu máy móc công nghệ hiện đại để sản xuất vẫn không thể
thiếu. Ngoài ra, các hàng hóa khác như: nhựa và cao su, hóa chất, kim khí….
Nguyên nhiên liệu khoáng sản là khu vực có sự thay đổi rõ rệt nhất. Trong 12
năm, tỷ trọng của nhóm hàng này tăng lên nhanh chóng, có những giai đoạn xấp
xỉ
Hàng tiểu thủ công nghiệp thì gần như không có sự thay đổi tỷ trọng trong cơ cấu
hàng hóa nhập khẩu trong 12 năm qua. Sự dao động chỉ vòng quanh mức 5-7%,
thấp nhất là năm 2001 với 5,976% và đạt đỉnh điểm 7,917% tại trong năm 2012.
Nông lâm thủy sản có xu hướng tăng lên nhưng thật sự không nhiều do trong
nước vẫn có lợi thế sản xuất về nhóm hàng này. Tuy nhiên, nó vẫn chiếm một
phần đáng kể trong cơ cấu do trong cơ cấu nội nhóm, gạo- lợi thế lớn nhất của
Thái Lan nên đang được đầu tư toàn bộ năng lực sản xuất để hướng ra xuất khẩu,

24


Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của Thái Lan

Chính sách thương mại quốc tế

do đó, các sản phẩm khác được ưu tiên nhập khẩu để đáp ứng đủ cầu thị trường

trong nước.
Nhóm khác bao gồm khá nhiều các mặt hàng khác nhau, chủ yếu là do chiểm tỷ
trọng còn thấp trong cơ cấu nên được xếp vào chung một nhóm. Có thể kể đến
một số mặt hàng sau: kim loại quý, nhạc cụ, linh kiện điện tử…. Tuy vẫn còn
chiếm tỷ trọng thấp nhưng nhóm hàng này có tiềm năng khá lớn trong hướng
chuyển dịch cơ cấu trong giai đoạn sắp tới.

Nguồn: />
Biểu đồ 7: Tỷ trọng cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Thái Lan giai đoạn 2001-2012

25


×