HỘI THẢO KHOA HỌC "CHỮ QUỐC NGỮ TẠI BÌNH ĐỊNH"
220
ĐẤT BÌNH ĐỊNH TRONG TIẾN TRÌNH
LỊCH SỬ CHỮ QUỐC NGỮ
ThS. Nguyễn Văn Biểu*
Sự ra đời và phát triển của chữ Quốc ngữ là cả một cơng trình tập thể của nhiều
Linh mục dòng Tên1 (Francisco de Pina, Christoforo Borri, Francesco Buzomi…), với
sự cộng tác âm thầm của một số thầy giảng Việt Nam vào thế kỷ XVII sáng tạo ra,
nhưng người có cơng tập đại thành là Thừa sai Alexandre de Rhodes và được Pigneau
de Behaine, Taberd kế thừa. Trong các thế kỷ XVII, XVIII, XIX, thứ chữ này chủ yếu
được dùng trong giáo hội Cơng giáo. Nhờ tính ưu việt của nó, chữ Quốc ngữ dần dần
chiếm ưu thế và qua nhiều lần cải tiến, đã được sử dụng phổ biến ở đầu thế kỷ XX. Kể
từ khi ra đời ở Nước Mặn (Bình Định) tới nay đã 400 năm, để chữ Quốc ngữ được
hoàn chỉnh và sử dụng như ngày nay.
1. Địa danh Quy Nhơn và Bình Định
Có nhiều nguồn sử liệu chép về địa danh Quy Nhơn 2. Ngồi nguồn sử liệu chính
sử của Việt Nam chép về Quy Nhơn (Hồi Nhơn, Hồi Nhân, Qui Ninh…), thì phần
lớn các tư liệu là của các giáo sĩ, thương nhân phương Tây khi đến Đàng Trong của
Đại Việt hồi thế kỉ XVI-XVII ghi chép lại; trong số đó có khá nhiều là những ghi chép
bằng chữ Quốc ngữ, chép tới địa danh “Nước Mặn”, “Thị Nại”, “Qui Nhơn”,… những
ghi chép này có giá trị rất quan trọng về vùng đất Đàng Trong, Quy Nhơn và nhất là
q trình phơi thai, ra đời của chữ Quốc ngữ.
Tỉnh Bình Định ngày nay, khi xưa là đất “hai thành Chà Bàn và Thi Nại”3
(Chiêm Thành). Năm Bính Dần, Thái Hịa năm thứ 4 (1446), nhà Lê cho “Nhập nội đơ
đốc bình chương Lê Thụ, Lê Khả, Nhập nội thiếu phó tham dự triều chính Lê Khắc
Phục đem hơn 60 vạn quân đi đánh Chiêm Thành…thừa thắng đánh thẳng đến cửa
biển Thi Nại…tiến công thành Chà Bàn”4.
Lịch sử vùng đất này gắn với sự kiện nổi tiếng khi vua Lê Thánh Tông thân chinh
đi đánh Chiêm Thành vào tháng 11 năm Canh Dần (1470), do Trà Toàn ở Thi Nại
mang hơn 10 vạn quân đánh úp châu Hóa, quấy nhiễu vùng biên viễn 5. Ngày 27 tháng
hai năm Tân Mão (1471), “vua tự mình đem đại quân đánh phá thành Thi Nại”6,
“Tháng 6, lấy đất Chiêm Thành đặt làm thừa Tuyên Quảng Nam”7, “chia đất này làm
3 huyện Bồng Sơn, Phù Li và Tuy Viễn, đặt phủ Hoài Nhân, lệ vào Quảng Nam thừa
tuyên”8.
*
Viện Sử học Việt Nam
Dòng Tên được thành lập năm 1534, được Tịa thánh cơng nhận năm 1540.
2
Các nguồn tiếng Pháp chép là “Qui Nhơn”, hay “Qui Nhon”.
3
Quốc Sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, tập 3, Nxb Thuận Hóa, 2006, tr. 6.
Theo sách Khâm định Việt sử thơng giám cương mục chép “Thi Nại” ở địa giới hai thơn Hương Mai và Chánh
Thành, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định bây giờ.
4
Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử ký toàn thư,tập II, Nxb Khoa học xã hội, tr.356-357.
5
Đại Việt sử ký toàn thư,tập II, Sđd, tr.440-441.
6
Đại Việt sử ký toàn thư,tập II, Sđd, tr.449.
7
Đại Việt sử ký toàn thư,tập II, Sđd, tr.452.
8
Đại Nam nhất thống chí, tập 3, Sđd, tr.6.
1
HỘI THẢO KHOA HỌC "CHỮ QUỐC NGỮ TẠI BÌNH ĐỊNH"
221
Năm 1602, chúa Nguyễn đặt dinh Quảng Nam, phủ Hoài nhân vẫn lệ thuộc vào
dinh này9. Cũng trong năm này (1602), chúa Nguyễn cho “đổi phủ Hoài Nhân làm phủ
Qui Nhân (Nhơn)”10.
Năm Tân Mão, Thái Tông thứ 3 (1651), đổi phủ Qui Nhơn làm phủ Qui Ninh11.
Theo Đại Nam thực lục chép: “Tân Mão, năm thứ 3 (1651), đổi phủ Hoài Nhân làm
phủ Qui Ninh”12. Như vậy, cả 2 sách Đại Nam nhất thống chí và Đại Nam thực lục đều
nhắc về sự kiện năm 1651, nhưng nội dung khơng hồn tồn giống nhau.
Năm Nhâm Tuất, Thế Tơng thứ 4 (1742) “lại đổi phủ Qui Ninh làm Qui Nhơn”13.
Đến năm Kỷ mùi, năm thứ 20 (1799), tháng 6, quân của chúa Nguyễn chiếm được
thành Qui Nhơn, Nguyễn Ánh cho đổi tên Qui Nhơn thành Bình Định14, sai Chưởng
Hậu quân là Võ Tánh và Lễ bộ Ngơ Tịng Chu đóng giữ. Năm Minh Mạng thứ 12 đổi
phủ Qui Nhơn thành phủ Hoài Nhơn15.
Như vậy trong chính sử triều Lê và triều Nguyễn sau đó nhắc nhiều đến địa danh
lịch sử Quy Nhơn, gắn liền với quá trình ra đời của chữ Quốc ngữ. Tên gọi Bình Định
xuất hiện thời gian sau đó, khi mà Nguyễn Ánh chiếm được thành Quy Nhơn sau đó
đến năm 1832 vua Minh Mạng chia đặt các tỉnh phía Nam, sách Đại Nam thực lục
chép “Tỉnh Bình Định: thống trị 2 phủ, An Nhân, Hoài Nhân và 5 huyện…” 16, đặt chức
Tổng đốc Phú Bình thống hạt 2 tỉnh Bình Định và Phú Yên. Tỉnh Bình Định xuất hiện
từ đấy cho đến nay.
Địa danh Thị Nại17 xuất hiện nhiều trong sử triều Nguyễn, nhất là giai đoạn giao
tranh giữa quân Nguyễn và Tây Sơn. Cửa biển Thị Nại là một trong những địa danh
xuất hiện từ khá sớm, là một trong những thương cảng sầm uất sau Hội An hồi cuối
thế kỉ XVI, đầu thế kỉ XVII. Tuy nhiên, cái tên Thị Nại và Nước Mặn được ghi chép
nhiều và phổ biến nhất trong thời kỳ đầu của sự ra đời của chữ Quốc ngữ, ở thư từ,
tường trình ghi chép của các giáo sĩ.
2. Quy Nhơn trong quá trình ra đời và phát triển của chữ Quốc ngữ
Khi các nhà truyền giáo phương Tây đến nước ta truyền đạo để thuận lợi cho việc
rao giảng, trao đổi trong cuộc sống hàng ngày, họ đã La tinh chữ viết cho đơn giản, dễ
học, dễ sử dụng, với mục đích ban đầu “là giúp người ngoại quốc học tiếng Việt chứ
không phải là phổ biến chữ Quốc ngữ cho người Việt”18, “Các giáo sĩ khơng có ý đồ
9
Quốc Sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, tập 3, Nxb Thuận Hóa, 2006, tr.388.
Đại Nam nhất thống chí, tập 3, Sđd, tr.7.
Theo Quách Tấn chép: Năm Ất Tỵ (1605) “Chúa Tiên Nguyễn Hoàng đổi tên Hoài Nhơn làm Qui Nhơn”
(Nước Non Bình Định, Nxb Thanh Niên, 1999, tr.6), có lẽ ở đây đã chép nhầm năm.
Sách Đại Nam thực lục chép sự kiện năm Nhâm Dần (1602): “Bấy giờ Khám lý phủ Hồi Nhân (nay thuộc
Bình Định) là Trần Đức Hòa đến Yết kiến, chúa đãi rất hậu”(Đại Nam thực lục, tập Một, Nxb Giáo dục, 2002,
tr.36).
11
Đại Nam nhất thống chí, tập 3, Sđd, tr.7.
12
Quốc Sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, Nxb Giáo dục, 2002, tr.61).
13
Đại Nam thực lục, tập Một, Sđd, tr.150. Đại Nam nhất thống chí, tập 3, Sđd, tr.7.
14
Đại Nam thực lục, tập Một, Sđd, tr.388.
15
Đại Nam nhất thống chí, tập 3, Sđd, tr.8.
16
Đại Nam thực lục, tập Ba, Nxb Giáo dục, 2004, tr.393.
17
Theo sách Đại Nam nhất thống chí nói về Tấn Sở của tỉnh Bình Định, có nói đến Tấn Thi Nại ở phía đơng
huyện Tuy phước, rộng 197 trượng, thủ sở ở địa phận thơn Bình Chính, có bảo đất, chu vi 48 trượng 4 thước, cao
6 thước, mở một cửa.
18
GS.TS Nguyễn Thiện Giáp, Báo cáo đề dẫn “Một số vấn đề về chữ Quốc ngữ” trong Hội thảo Quốc gia Chữ
quốc ngữ: sự hình thành, phát triển và những đóng góp vào văn hóa Việt Nam, 10-2015.
10
HỘI THẢO KHOA HỌC "CHỮ QUỐC NGỮ TẠI BÌNH ĐỊNH"
222
dùng chữ Quốc ngữ thay chữ Nôm. Thực tế là sau khi có chữ Quốc ngữ, đến suốt thế
kỉ XIX, chữ Nôm và cả chữ Hán vẫn tiếp tục được dùng trong giáo hội ở Việt Nam”19.
Một số tài liệu ghi chép, về quá trình đến Đàng Trong của các giáo sĩ phương Tây
từ cuối thế kỉ XVI. Năm 1580, hai linh mục có tên là Luis Fonséca (người Bồ Đào
Nha), và Grégoire de la Motte20, người Pháp, lại sang truyền giáo ở Cao Miên. Nhưng
một vài tác giả khác lại nói “họ truyền giáo ở Quảng Nam vào năm và trong một cuộc
giao tranh giữa quân Chiêm Thành và quân chúa Nguyễn, đã bị bắt đem về Qui Nhơn,
rồi Fonséca bị hạ sát, cịn De la Motte thì bị thương, trốn thoát về Malacca nhưng đã
chết dọc đường”21.
Quy Nhơn là một trong những tỉnh được đặt giáo phận, kiêm hạt mấy tỉnh
(Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên), sớm nhất ở Đàng Trong. Tới nay cịn 3 di tích lịch
sử ghi lại q trình truyền giáo, La-tinh hóa tiếng Việt, sáng tạo ra chữ Quốc ngữ của
các Linh Mục dòng Tên tại Đàng Trong vào thế kỷ XVII. Các di tích nổi bật nhất lưu
giữ dấu tích về q trình này tại Giáo phận Quy Nhơn thuộc về 3 địa danh, đó là:
Cảng thị Nước Mặn, Chủng viện Làng Sơng và nhà thờ Mằng Lăng.
Năm 1615, các tu sĩ đầu tiên của dịng Tên đã theo thuyền bn Bồ Đào
Nha từ Ma Cao cập bến Đàng Trong tại cửa Hàn (Đà Nẵng). Linh mục Busomi(*) được
chúa Nguyễn Phúc Nguyên (trị vì 1614-1635) tiếp đãi và việc truyền đạo khá thuận
lợi. Các giáo sĩ xây dựng được giảng đường đầu tiên, sau đó đi tiếp vào Hội An - nơi
có nhiều người Bồ bn bán.
Năm 1617, các nhà truyền giáo Dịng Tên theo đường biển đến đặt cơ sở truyền
giáo ở Nước Mặn theo lời mời của Trần Đức Hòa 22 Khám lý phủ Hoài Nhơn, “Năm
1618, Khám lý Trần Đức Hoà mời giáo sĩ Borri đến lập giáo xứ ở phố Nước Mặn để
truyền đạo và cho xây dựng “một ngôi nhà thờ bằng gỗ khá tiện nghi tại thành phố
Nước Mặn”23. Tháng 7 năm 1618, các giáo sĩ khác như: Buzomi, Pina, Augustin cũng
được Trần Đức Hoà mời từ Hội An vào Nước Mặn để truyền giáo. Các giáo sĩ này
cho biết:“Quan trấn thủ cho xây một ngôi nhà bằng gỗ rộng rãi ở Nước Mặn. Ông
dùng voi đưa các linh mục tới nhà mới, từ đó các linh mục có cơ sở hoạt động và được
dân chúng kính nể. Cũng năm đó Thánh đường làm sẵn dựng lên ở phố Nước Mặn và
ráp trong vòng 1 ngày trước sự bỡ ngỡ và thán phục của những nhà truyền giáo”24.
Thời điểm các giáo sĩ dịng Tên tới truyền đạo, ngồi việc 1 số quan lại tạo điều kiện
thuận lợi, họ còn được cả chúa Nguyễn cho phép “Chúa Sãi tiếp các Linh Mục rất tử
19
Hoàng Tuệ, Về sự sáng chế chữ Quốc ngữ, Tạp chí Ngơn ngữ, số 4 (1994), tr.20-24. Viện Ngơn ngữ, Hồng
Tuệ tuyển tập, Nxb Giáo dục, 2009, tr.214.
20
Louvet, Cochinchine Religieuse, Saigon, 1885, 2 tomes, tr.226; Hồng Lam, Lịch sử đạo Thiên Chúa ở Việt
Nam, Huế 1944, tr.106; Nguyễn Hồng, Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, Sài Gòn, 1959, tr.39. Dẫn theo Trương
Bá Cần, Lịch sử phát triển Công giáo ở Việt Nam, tập I, Nxb Tôn giáo, 2008, tr.26.
21
Nguyễn Hồng, Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, Sài Gòn, 1959, tr.39.
Marcos Gispert Op, Historia de las Misiones Dominicanas en TungKin, Avila 1928, tr.13, cịn nói: “Đây là hai
vị tử đạo công giáo đầu tiên trên đất nước Việt Nam”.
(*)
Francesco Busomi là Linh mục dòng Tên thứ nhất được cử đến nước ta. Từ năm 1615 đến năm 1639.
22
Theo sách Đại Nam thực lục chép Trần Đức Hịa làm khám lý phủ Hồi Nhân (nay thuộc Bình Định), bấy giờ
gọi là Cống quận cơng, là con Dương Đàm hầu Trần Ngọc Phân , phó tướng dinh Quảng Nam. Cuối năm 1602
đến yết kiến chúa đãi rất hậu.
23
Bastali, Istons della compogne de Jesus, Magoli 1859 (Tài liệu của chủng viện Quy Nhơn), dẫn lại
trong Phố cảng vùng Thuận Quảng thế kỷ XVII-XVIII của Đỗ Bang. Thuận Hoá - Hội Khoa học Lịch sử Việt
Nam, 1996, tr.157.
24
UBND tỉnh Bình Định, Địa chí Bình Định, tập: Lịch sử, Nxb Đà Nẵng, 2006, tr.67.
HỘI THẢO KHOA HỌC "CHỮ QUỐC NGỮ TẠI BÌNH ĐỊNH"
223
tế và việc truyền đạo được triển khai khả quan, vì vậy tới giữa năm 1616, có thêm
Linh Mục Andrea Fernadez, người Bồ Đào Nha sang thay Linh Mục Diego Carvalho,
được gọi về, để tìm đường sang Nhật, làm phụ tá cho Busomi. Đến Năm 1617, lại có
hai Linh mục nữa là Francesco Barreto, người Bồ Đào Nha và Francisco de Pina
người Ý, cùng đến đất thuộc quyền Chúa Nguyễn - Linh mục Francisco de Pina là
người duy nhất trước Linh mục Alexandre de Rhodes, giảng cho dân chúng mà không
cần thông ngôn, đồng thời là thầy dạy tiếng Việt Nam cho Linh mục De Rhodes sau
này”25.
Các nhà truyền giáo Dòng Tên khi ở Nước Mặn đã có những đóng góp nhất định
vào q trình La-tinh hóa tiếng Việt, đó là: Francesco Buzomi, Christoforo Borri,
Francisco de Pina. Linh mục Christoforo Borri góp cơng khởi đầu chữ Quốc ngữ
trong thời gian này và là người viết cuốn “Xứ Đàng Trong” năm 1621, trong đó có
giới thiệu nhiều về Nước Mặn, “trước ơng phải kể các linh mục Francesco Buzomi và
Francisco de Pina, những người thật sự phụng sự ở Đàng Trong…chính ơng và với
những linh mục mà tôi vừa kể tên là những người đầu tiên cải đạo cho người Việt
Nam theo Thiên Chúa giáo, nếu không ở Đà Nẵng, Hội An, Quảng Nam, thì ít nhất
cũng ở Nước Mặn tỉnh Bình Định”26, “Tám ngày qua đi, chúng tôi cho ông(*) biết là
chúng tơi thích ở trong thành để dễ bề rao giảng Phúc Âm hơn,…ông nghe theo điều
chúng tôi sở nguyện và tức khắc truyền cho người ta chọn cho chúng tôi một địa điểm
rất tiện để làm nhà cho chúng tôi ở, trong vùng gọi là Nước Mặn… Sau khi từ biệt,
chúng tơi leo lên lưng voi để cùng đồn tùy tùng đi tới Nước Mặn, một địa điểm dài
chừng hai dặm và rộng tới một dặm rưỡi”27.
Trong Lời tựa cuốn Những người bạn cố đô Huế, (tập XVIII), L.Cadière, có nói
đến nội dung một bức thư nhắc đến địa danh Nước Mặn “…Bức thư thứ hai kể chuyện
cùng thời kỳ đó, nghĩa là vào cuối 1620 và năm 1621 ở Nước Mặn thuộc tỉnh Quy
Nhơn hiện nay thời đó được gọi là Poulocambi”28. Về những đóng góp của Christofo
Borri cho sự ra đời của chữ Quốc ngữ Cadière nói “Ơng đã để cho chúng ta trong bản
tường trình của ông những tiêu bản quý báu về các phác thảo đầu tiên của chữ “Quốc
ngữ”, một thứ “quốc ngữ tiền A.De Rhodes”. Khi người ta dị tìm đến việc nghiên cứu
sự hình thành chữ “quốc ngữ”, những phác thảo của linh mục Christofo Borri sẽ là
một lợi ích lớn lao”29.
Linh mục Christofo Borri, người đã hoạt động ở Quảng Nam – Qui Nhơn (trong
những năm 1618-1622), viết: “Trước khi các linh mục Dịng Tên chúng tơi tới Đàng
Trong, thói quen của người Bồ Đào Nha từ Malacca và Macao, của người Tây Ban
Nha từ Manila, tới đây buôn bán là đem theo họ một vài tuyên úy để dâng thánh lễ và
cử hành các bí tích cho họ trong suốt thời gian họ ở đó, thường là ba, bốn tháng. Các
linh mục tun úy này khơng có trách nhiệm nào khác ngồi việc phục vụ người Bồ
Đào Nha nên khơng quan tâm đến việc lo lợi ích thiêng liêng của dân địa phương, do
25
Phạm Văn Sơn (cb), Quân dân Việt Nam chống Tây xâm (1847-1945), quân sử III, Bộ Tổng tham mưu (Sài
Gòn) xuất bản, 1971, tr.24.
26
“Những người Âu đã thấy Huế xưa: Cristoforo Borri”, Tựa của L.Cadière, trong cuốn Những người bạn cố đô
Huế, tập XVIII, năm 1931 (Nguyễn Cửu Sà dịch), Nxb Thuận Hóa, 2003, tr.333.
(*)
Ý chỉ Trần Đức Hòa, quan Khám lý phủ Quy Nhơn.
27
Christoforo Borri, Xứ Đàng Trong, (Hồng Nhuệ - Nguyễn Khắc Xuyên và Nguyễn Nghị dịch, chú thích), Nxb
Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 2014, tr.99-100.
28
Những người bạn cố đô Huế, tập XVIII, Sđd, tr.335.
29
Những người bạn cố đô Huế, tập XVIII, Sđd, tr.332.
HỘI THẢO KHOA HỌC "CHỮ QUỐC NGỮ TẠI BÌNH ĐỊNH"
224
đó khơng tìm cách học tiếng của người bản xứ… Những người thông ngôn của các
tuyên úy thường chỉ biết một vài tiếng Bồ Đào Nha để mua bán và một vài câu vài lời
để hỏi xem người bản xứ là người có muốn theo đạo khơng. Do đó mà họ có làm được
cho một vài người theo đạo, nhưng chỉ là mang danh có đạo, chứ khơng biết gì về
đạo30…”.
Tới sau các linh mục Dòng Tên đi trước, giáo sĩ Alexandre de Rhodes cũng
thường vào Nước Mặn (phủ Quy Nhơn) để giảng đạo và trở thành một trong những
nơi ra đời Từ điển tiếng Việt - Bồ - la đầu tiên ở Việt Nam. Quy Nhơn là nơi góp phần
hình thành chữ Quốc ngữ dưới thời các giáo sĩ phương Tây mà tiêu biểu là
Alexandre de Rhodes31.
Cuối năm 1624 đầu năm 1625 Alexandre de Rhodes (*) đến Đàng Trong cùng với
Linh mục Gabriel de Mattos, người Bồ Đào Nha, với 5 giáo sĩ dịng Tên khác, trong
đó có một người Nhật giỏi chữ Hán. Tới Đàng Trong, sau 6 tháng Alexandre de
Rhodes đã thạo tiếng bản xứ để giảng kinh… Ông nhiều lần bị trục xuất khỏi cả Đàng
Trong và Đàng Ngồi, vì có những lúc cấm đạo, tới lần thứ 4 thì ơng bị trục xuất hồn
tồn khỏi Việt Nam (1645), “Trong suốt 17 năm ở Đàng Trong và Đàng Ngồi, giáo
sỹ Alexandre de Rhodes tìm hiểu ngơn ngữ, phong tục và lịch sử nước ta và tỏ ra rất
thông suốt”32. Sau khi bị trục xuất khỏi Đại Việt, ơng đi Rơ-ma để trình lên Giáo
Hồng một dự định thành lập ở Việt Nam các Tòa Giám mục Pháp, tới 1649 thì ơng
tới Va-ti-can. Tuy nhiên, kế hoạch của ông không thành công, ông lại quay về Pháp.
Sau đó, ông được cử đi Ba Tư truyền đạo và mất ở đấy vào năm 1660.
Quá trình Alexandre de Rhodes ở Rơ-ma và về Pháp, do có nhiều thời gian, nên
“Ơng viết nhiều sách về nước ta và xuất bản ở châu Âu... Ngồi những sách viết về
nước ta, ơng cịn cho in tại La Mã sách kinh bằng tiếng Việt Nam, để cho người Việt
dùng, và một cuốn Tự điển Việt Nam - Bồ Đào Nha - Latinh cho các giáo sĩ dùng. Ơng
là người có cơng làm giàu cho chữ Quốc ngữ của chúng ta, sau các Linh Mục
Francesco de Pina và Christoforo Borri là những người đã La Mã (La-tinh) hóa cuốn
kinh đầu tiên bằng tiếng Việt vào năm 1621 - trước ngày Alexandre de Rhodes đến
nước ta 4 năm. Rất tiếc cuốn kinh nói trên hiện thất lạc chưa tìm ra, mà chỉ cịn lại
nhiều kinh sách của Alexandre de Rhodes nên người ta cho rằng Alexandre de Rhodes
là “thủy tổ chữ Quốc ngữ”, trong khi ông chỉ có cơng kế tục tu chỉnh và phong phú
hóa chữ Quốc ngữ mà thơi”33. Như vậy có thể nói việc Nhà xuất bản của Thánh Bộ
Truyền giáo cho in các tác phẩm đầu tiên của Alexandre de Rhodes: một Relazioze
de’felici successi della fede nel regno di Tunchino (1650), một cuốn giáo lý bằng tiếng
La Tinh và tiếng Việt (chữ Quốc ngữ)* và nhất là cuốn Dictionarium annamiticum,
lusitanum et latinum (Từ điển Việt-Bồ-La, 1651). Lần đầu tiên, chữ cái La Tinh được
30
Christofo Borri, Relation de la nouvelle mission des pères de la Compagnie de Jésus au Royaume de la
Cochinchine, Lille, 1631, tr.98.
L.Bonifacy, Bulletin des Amis du Vieux Huế (BAVH), 1931, tr.338. Dẫn theo Trương Bá Cần, Lịch sử phát triển
Công giáo ở Việt Nam, tập I, Nxb Tôn giáo, 2008, tr.37.
31
Địa chí Bình Định, Sđd, tr.67.
(*)
Alexandre de Rhodes (tên tiếng Việt là A-Lịch-Sơn Đắc-Lộ hay Cha Đắc Lộ; 1591-1660) là một nhà truyền
giáo dòng Tên và được xem là nhà ngôn ngữ học, được gọi là “ông tổ của chữ Quốc ngữ”. Alexandre de Rhodes
là một con người rất giỏi, thông minh và tài năng.
32
Quân dân Việt Nam chống Tây xâm (1847-1945), Sđd, tr.26.
33
Quân dân Việt Nam chống Tây xâm (1847-1945), Sđd, tr.26.
*
Được Chappoulie dịch sang tiếng Pháp, [Đầu đề tiếng Việt là Phép giảng tám ngày].
HỘI THẢO KHOA HỌC "CHỮ QUỐC NGỮ TẠI BÌNH ĐỊNH"
225
sử dụng một cách có hệ thống chuyển tải âm ngữ của người Việt. Thời điểm này đánh
dấu sự khởi đầu chính thức của chữ Quốc ngữ”34.
Cảng thị Nước Mặn xưa nay đã bị bồi lấp và lùi vào trong đất liền, khơng cịn
dấu tích gì nữa(*), “Nước Mặn là tên gọi của một phố thị cảng sông nằm bên đầm Thị
Nại của phủ Qui Nhơn vào thế kỷ XVII-XVIII…là nơi đóng bản doanh của các tu sĩ
Dịng Tên ở xứ Đàng Trong vào đầu thế kỷ XVII. Cảng thị Nước Mặn xưa kia bao gồm
các thơn: An Hịa, Lương Quang thuộc xã Phước Quang và thôn Kim Xuyên thuộc xã
Phước Hịa, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định ngày nay”35.
Bình Định cịn là nơi đặt Tiểu chủng viện Làng Sơng (**) (nay thuộc huyện Tuy
Phước, tỉnh Bình Định), là một trong 3 xưởng in chữ Quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam
(hai nhà in kia là nhà in Tân Định, Sài Gòn – nhà in của Giáo phận Tây Đàng Trong,
nhà in Ninh Phú, Tây Đàng Ngoài, Hà Nội. Nhà in của Giáo phận Đông Đàng Trong
được đặt ở Tiểu Chủng viện Làng Sông (thuộc thôn Quảng Vân, xã Phước Thuận,
huyện Tuy Phước, Bình Định). Cho đến năm 1922 nhà in Làng Sông đã in được
18.000 tời báo định kỳ, 1.000 bản sách các loại, 32.000 ấn phẩm khác. Báo Lời Thăm
phát hành mỗi tháng hai lần, mỗi số ra 1.500 bản và phát hành cả Đông Dương, tổng
cộng các ấn phẩm trong năm lên tới 63.100 ấn phẩm. Ngoài sách tiếng La-tinh và tiếng
Pháp, nhà in Làng Sông đã in một số lượng lớn sách Quốc ngữ đa dạng về các thể loại.
Tới năm 1932, nhà in Làng Sông bị bão đánh sập, sau đó được sáp nhập vào nhà in
Qui Nhơn. Đến nay, tại Thư viện Quốc gia Việt Nam (tại Hà Nội) còn lưu giữ được
hàng trăm cuốn sách quý do Nhà in Làng Sông và Qui Nhơn xuất bản như: Đức Cha
Thể (Cuénot) xuất bản 1907; Tập đánh vần chữ quốc ngữ cho mau biết coi sách (Qui
Nhơn: Impr. de Qui Nhơn, 1925); Sách địa dư: Có bản đồ (In lần thứ 7. Impr. de Qui
Nhơn, 1926); Sử ký nước Annam kể tắt (Impr. de qui Nhơn, 1930); Địa dư nơng học
tỉnh Bình Định (Tác giả: Bùi Văn Lăng, Qui Nhơn: Impr. de Qui Nhơn, 1933),…
3. Một vài nhận xét
Qui Nhơn trước đây mà ngày nay là Bình Định là nơi chứng kiến sự ra đời của
chữ Quốc ngữ thời kỳ phơi thai, thời kỳ hình thành, phát triển và hồn tất. Có thể xem
địa danh Nước Mặn thuộc Qui Nhơn hồi đầu thế kỷ XVII là một trong những nơi đầu
tiên ra đời chữ Quốc ngữ. Thanh Chiêm và Nước Mặn hồi thế kỷ XVII là những đơn
vị hành chính thuộc dinh Quảng Nam. Ngày nay cảng thị Nước Mặn khi xưa thuộc
huyện Tuy Phước của tỉnh Bình Định là những nơi có điều kiện thuận lợi cho sự ra đời
của chữ Quốc ngữ, và cùng với đó là sự du nhập của đạo Cơng giáo vào Việt Nam.
34
Lê Thành Khôi, Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX , (Nguyễn Nghị dịch, Nguyễn Thừa Hỷ
hiệu đính), Nxb Nhã Nam - Thế giới, tr.337-338.
(*)
Cơ sở truyền giáo Nước Mặn ngày nay được xác định vị trí tại nhà ơng Võ Cự Anh (thơn An Hịa, xã Phước
Quang, huyện Tuy Phước). Sau khi được gia đình ơng Võ Cự Anh đồng ý, ngày 17-9-2009, UBND tỉnh Bình
Định chấp thuận cho Tịa Giám mục Quy Nhơn được xây dựng một hịn Non bộ, có hình một cây đa bê tơng 16
nhánh tượng trưng cho 16 cơ sở truyền đạo Xứ Đàng Trong. Có tấm bia ghi kỷ niệm các Thừa sai Dòng Tên đầu
tiên đến lập cơ sở truyền giáo. Cây đa tưởng niệm, cùng với giếng nước ngọt có tuổi khoảng 300 năm ở vườn
nhà ông Võ Cự Anh được coi là dấu tích một thời cho cảng thị Nước Mặn.
Theo Trương Bá Cần Chủng viện Làng Sơng có từ thời Đức Giám mục Cuénot (Hay còn gọi là Ðức Cha Thể Etienne Théodore Cuénot, Sinh năm 1802 tại Belieu, Besancon, Pháp, Giám mục Hội Thừa Sai Paris, địa phận
Ðông Ðàng Trong. Mất năm 1861 tại Bình Định dưới thời vua Tự Đức cấm đạo) năm 1879 Tiểu chủng viện
Làng Sông được trùng tu.
35
Nguyễn Thanh Quang, Nước Mặn – Nơi phôi thai chữ Quốc ngữ, Tạp chí Xưa Nay, số 301+302, tháng 2-2008,
tr.27.
(**)
Tịa Giám mục của địa phận Đông Đàng Trong cũng đặt cơ sở tại Làng Sông.
HỘI THẢO KHOA HỌC "CHỮ QUỐC NGỮ TẠI BÌNH ĐỊNH"
226
Xét trên nhiều yếu chúng ta có thể phần nào đi đến những kết luận Bình Định là
một trong những cái nơi của chữ Quốc ngữ. Điều đó được thể hiện qua việc các Linh
mục Dòng Tên đến nước ta hồi nửa đầu thế kỉ XVII đã có thời gian lâu dài ở lại Đàng
Trong, am hiểu tình hình xã hội và sáng chế ra chữ Quốc ngữ, để cho người nước
ngoài học tiếng Việt, mà trước tiên là các giáo sĩ khơng cần qua thơng ngơn có thể nói
chuyện và giảng đạo được. Việc chữ Quốc ngữ ngày càng được phổ biến và thông
dụng, trở thành chữ viết của Việt Nam sau đó, nằm ngồi ý muốn ban đầu của các
Linh mục Dịng Tên, vì chữ viết phổ biến lúc bấy giờ là chữ Hán và chữ Nơm.
Các di tích lưu giữ dấu tích về q trình ra đời và phát triển của chữ Quốc ngữ
như cảng thị Nước Mặn, Chủng viện Làng Sông, Giáo phận Đông Đàng Trong ở Qui
Nhơn trước đây mà ngày nay là Bình Định là những minh chứng còn lại của lớp bụi
thời gian của suốt 400 năm tiến trình lịch sử chữ Quốc ngữ cũng như lịch sử vùng đất
Bình Định. Từ những phơi thai ra đời đầu tiên cho đến việc chữ Quốc ngữ được phổ
biến, sự ra đời của nhà in Làng Sơng, sau đó là nhà in Qui Nhơn, là một trong 3 nhà in
đầu tiên đã chứng tỏ Bình Định là một trong những trung tâm ra đời và phát triển nhất
của chữ Quốc ngữ.
Từ chỗ kì thị khinh miệt thứ chữ của bọn Tây dương “ngoằn nghèo như rau
muống”, tới cơng nhận nó, lại cịn nhận là chữ của mình “chữ Quốc ngữ” thì cũng thật
là sự biến chuyển rất lớn. Thậm chí có ý kiến cịn nói “Chữ Quốc ngữ là hồn của
nước”, “nước ta sau này hay hay dở đều ở chữ Quốc ngữ”,36 thì đó là thành cơng lớn,
mà cơng lao, đóng góp thuộc về nhiều người. Điều đó, ít nhiều đã làm cho xã hội Việt
Nam có những biến chuyển, diện mạo mới. Nhìn lại lịch sử dân tộc, suốt một nghìn
năm phong kiến, và cũng có những lúc đạt được văn minh, tác giả Lương Đức Thiệp
trong cuốn Xã hội Việt Nam xuất bản cách nay 65 năm có viết rằng “… nước Việt
Nam ngàn năm văn hiến mà không sản xuất nổi một học thuyết mới lạ nào, một trào
lưu tư tưởng hoặc nghệ thuật mạnh mẽ nào… đẳng cấp nho sỹ Việt Nam bị ý thức hệ
Nho giáo bảo thủ lung lạc, bị chế độ thi cử chi phối khơng cịn một chút hoạt lực nào,
khơng có được một tính cách cấp tiến nào nữa!”37. Thì sự ra đời của chữ Quốc ngữ
được sử dụng như ngày nay đã đóng góp vào văn hóa Việt Nam và Bình Định là một
trong những nơi góp phần vào văn hiến, văn minh ấy.
-----------------------------------------------------------------------CHỮ QUỐC NGỮ VỚI BÌNH ĐỊNH NHƯ LÀ MỘT ĐỊNH MỆNH
QUA BẢN TƯỜNG TRÌNH VỀ KHU TRUYỀN GIÁO ĐÀNG TRONG
PGS.TS. Võ Xuân Hào, khoa Ngữ văn, Trường Đại học Quy Nhơn
36
Nguyễn Văn Biểu, Vài nét về quá trình hình thành và phổ biến chữ Quốc ngữ ở Việt Nam (Từ đầu thế kỷ XIX
đến nửa đầu thế kỷ XX), tham luận Hội thảo khoa học Quốc gia “Chữ Quốc ngữ: Quá trình hình thành, phát
triển và những đóng góp vào văn hóa Việt Nam”, do Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn tp. Hồ Chí
Minh Trường Đại học Phú Yên và Viện Nghiên cứu phát triển Phương Đông phối hợp tổ chức ngày 03/10/2015.
Nguyễn Văn Biểu, Chữ Quốc ngữ góp phần quan trọng vào văn hiến, văn minh của lịch sử Việt Nam, Báo Phú
Yên số 2936 ra ngày Thứ Bảy (3-10-2015).
37
Lương Đức Thiệp, Xã hội Việt Nam, Nxb Liên hiệp (Sài Gòn), 1950, tr.410.
HỘI THẢO KHOA HỌC "CHỮ QUỐC NGỮ TẠI BÌNH ĐỊNH"
227
Báo cáo khoa học này không tranh luận về công và tội của các giáo sĩ Dịng
Tên trong cơng cuộc truyền giáo và sáng tạo chữ Quốc ngữ nhằm mục đích truyền
giáo của họ. Người viết cũng khơng có điều kiện tiếp cận với nguồn ngữ liệu gốc và
vốn ngoại ngữ cũng không đủ để tham khảo các văn bản gốc ngõ hầu luận bàn một
cách thấu suốt quá trình hình thành và phát triển của chữ Quốc ngữ. Đó là chưa nói
đến việc nhiều văn bản sơ khai về sự hình thành chữ Quốc ngữ được các nhà nghiên
cứu xác định là đã thất lạc từ lâu. Dưới đây là những cảm nhận của người viết về chữ
Quốc ngữ với Bình Định như một định mệnh dựa trên những tài liệu đã được tham
khảo. Đặc biệt là dựa vào bản Tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong của
Christophoro Borri.
1. Miền đất và con người được sinh ra từ nơi ấy gắn kết keo sơn như một định
mệnh. Vùng đất và con người Bình Định – một trong ba cư sở truyền giáo lớn của xứ
Đàng Trong đã có ảnh hưởng rất lớn nếu khơng muốn nói là quyết định đến công cuộc
truyền giáo và việc sáng tạo chữ Quốc ngữ phục vụ cho công cuộc ấy. Tại sao cư sở
Nước Mặn, Bình Định (1618) - một vùng đất tận cùng của phương nam xa xôi, cách
trở thời bấy giờ được thành lập trước cư sở Thanh Chiêm, Quảng Nam (1623) đến 5
năm, dẫu biết rằng Thanh Chiêm – trung tâm hành chính của Quảng Nam lúc đó gần
với Cửa Hàn và Cửa Đại – nơi các giáo sĩ phương Tây đặt chân đến đầu tiên trong
công cuộc truyền giáo của mình? Tại sao Cư sở Hội An được thành lập đầu tiên
(1615), vào năm 1920 các cha chỉ rửa tội được 82 người Việt Nam và 27 người Nhật
nhưng cũng trong năm 1620 các cha ở Nước Mặn rửa tội cho 180 người Việt? [3; 66,
68]. Câu trả lời chắc hẳn có liên quan đến vùng đất và con người nơi đây. Cũng chính
vì lẽ đó, các giáo sĩ Dòng Tên đã dành nhiều trang viết giới thiệu về vùng đất và con
người mà ở đó họ sống và truyền giáo.
1.1. Bản “Tường trình về Khu Truyền giáo Đàng Trong -1631”, được viết từ
những năm 1621 – 1622, khi Christophoro Borri hoạt động truyền giáo tại Nước Mặn
(Bình Định) và được xuất bản năm 1631 tại Roma. Christophoro Borri - một giáo sĩ
Dòng Tên người Ý được cử đến truyền giáo tại xứ Đàng Trong từ năm 1618 đến năm
1621, đã miêu tả một vùng đất phương Nam có khí hậu bốn mùa nắng ấm, cây cối
xanh tươi, đất đai trù phú, cảnh vật hữu tình, con người chân chất thân thiện, chan hòa
cùng nhau vui sống. Với năm năm sống tại xứ Đàng Trong, Cha Christophoro đã có
một cái nhìn hết sức trìu mến về vùng đất và con người nơi đây. Ông viết: “Xứ này về
hướng nam thì ở cạnh Chăm, vào vĩ tuyến 11, về hướng bắc xế về đơng bắc, thì là xứ
Đàng Ngồi, về hướng Đông là biển Trung quốc và về hướng tây, xế về tây bắc thì là
nước Lào… Xứ Đàng Trong rộng hơn một trăm dặm theo bờ biển, bắt đầu từ nước
Chàm ở vĩ tuyến 11, cho tới vịnh Hải Nam vào khoảng vĩ tuyến 17. Bắt đầu là xứ của
chúa Đàng Ngồi. Về bề ngang thì khơng rộng, thu hẹp chỉ chừng hai mươi dặm Ý,
đất bằng, một bên là biển và một bên là dãy núi chạy dài có Kẻ Mọi ở, nghĩa là man di.
Mặc dầu họ là người Đàng Trong, nhưng họ không nhận chúa cũng khơng thần phục
ngài. Họ đóng đơ và chiếm giữ miền núi rất hiểm trở... Xứ Đàng Trong chia làm năm
tỉnh. Tỉnh thứ nhất là nơi chúa ở ngay sát xứ Đàng Ngồi gọi là Thuận Hóa, thứ hai là
Quảng Nam, nơi hoàng tử làm trấn thủ, thứ ba là Quảng Nghĩa, thứ tư là Quy Nhơn
người Bồ đặt tên là Pulucambis, thứ năm là ở sát nước Chàm gọi là Phú Yên” [2; 10 –
11]. Quy Nhơn thuộc xứ Đàng Trong và những ân tình của giáo xứ Đàng Trong được
HỘI THẢO KHOA HỌC "CHỮ QUỐC NGỮ TẠI BÌNH ĐỊNH"
228
nhắc đến trong bản tường trình của giáo sĩ Dịng Tên khởi nguồn ở xứ Nước Mặn, Quy
Nhơn chắc hẳn in đậm bóng hình nước non Bình Định.
Với bổn phận là người đi truyền giáo, C. Borri viết tường trình tường tận gửi về
cho Cha bề trên. Từ khí hậu, vùng lãnh thổ của xứ Đàng Trong ơng đều tường trình
khá cặn kẽ dưới con mắt của người lần đầu đến với xứ sở này. Ông tả mùa nước lụt ở
xứ sở Đàng Trong hết sức kì lạ: “Trước hết ở đây mọi người đều mong nước lũ, không
những để được mát mẻ và dễ chịu, lại còn cho đồng ruộng được mầu mỡ. Thế nên khi
tới mùa nước thì họ rất bằng lòng và rất vui mừng tỏ hẳn ra bề ngồi: họ thăm hỏi
nhau, chúc mừng nhau, ơm nhau hò hét vui vẻ nhắc đi nhắc lại: “đã đến lụt, đã đến lụt”
có nghĩa là đã bắt đầu mưa các nơi. Nói tóm lại khơng có ai là khơng tỏ niềm vui, cả
kẻ có thế gia đến chúa cũng vậy” [2; 13]. Nhờ hàng năm có mưa và nước lũ đem phù
sa về nên đất đai màu mỡ phì nhiêu, khí hậu ơn hịa nên vùng đất Đàng Trong được
thiên nhiên ưu ái “mỗi năm có ba vụ lúa, mỗi năm đầy đủ và dồi dào đến nỗi không ai
phải lam lũ vất vả để sinh sống, ai cũng sung túc” [2; 15]. Theo C. Borri xứ Đàng
Trong ngập tràn cây trái thơm ngon và tình người xứ này thấm đậm qua miếng trầu
cay: “Trước khi người khách đến thăm hay từ biệt ra về thì chủ nhà sai người têm trầu
của nhà mình đem ra một khay để mời khách đến thăm, như thể đáp lại sự lịch thiệp
mình đã nhận được” [2; 18]. Những năm tháng sống cùng dân bản địa đã cho C. Borri
những nhận xét chi tiết về cách sống của con người ở vùng đất này. Họ sống chan hòa
với đất trời thiên nhiên xung quanh họ. Họ biết làm “balaciam” từ cá ướp với muối
thành thứ sốt để ăn với cơm cho đỡ nhạt nhẽo. Họ biết lấy một sản phẩm rất quý từ
“một lồi chim be bé giống như chim én, nó làm tổ ở các cồn đá và hốc đá sóng biển
vỗ vào. Con vật nhỏ này dùng mỏ lấy bọt biển và với chất từ dạ dày toát ra, cả hai thứ
trộn lại làm thành một thứ tôi không biết là bùn hay nhựa để làm tổ. Khi đã khô cứng
thì trong suốt và có sắc vừa vàng vừa xanh”. Người dân xứ này đi nhặt tổ của chúng về
chế biến thành món ăn mà theo ơng khơng phải thêm một thứ gì khác thì nó đã có
“hương vị của hết các món thơm ngon nhất, chỉ khác một đàng là do cơng trình của
một con chim bé nhỏ và một đàng là do tay các Thiên thần của Thượng đế nhào nặn”
[2; 20]. Xứ Đàng Trong thực sự là xứ “thiên thời, địa lợi, nhân hịa” như cách nói của
dân gian và cảm nhận của Christophoro Borri.
1.2. Không phải vùng đất nào cũng được thiên nhiên ưu đãi như Bình Định và
xứ Đàng Trong để sản sinh ra những con người hào phóng, rộng lượng như quan trấn
thủ Quy Nhơn Trần Đức Hòa. Trần Đức Hòa người xã Bồ Đề, huyện Bồng Sơn, phủ
Quy Nhơn (nay là thôn Hy Văn, xã Hồi Sơn, huyện Hồi Nhơn, tỉnh Bình Định). Là
bề tơi trung tín của Chúa Tiên (Nguyễn Hồng, 1600 – 1613) và Chúa Sãi (Nguyễn
Phúc Nguyên, 1613 – 1635). Trong thời gian nhậm chức Tuần phủ khám lý phủ Quy
Nhơn, ơng có cơng giữ n trấn lị, tích trữ lương thực cung ứng cho nhu cầu “Định
Bắc” của Chúa Nguyễn. Được Nhà Nguyễn phong Đệ nhất đẳng khai quốc cơng thần
[7]. Đọc những dịng dưới đây của Christophoro Borri ta hiểu thêm về một giai đoạn
cực kỳ khó khăn của các nhà truyền giáo Đàng Trong và việc gặp một tấm lòng nhân
ái như quan trấn Trần Đức Hòa thực sự là một định mệnh mà Chúa giao ban. Định
mệnh này quyết định sự tồn tại một cư sở truyền giáo Nước Mặn, quyết định sự ra đời
và phát triển của chữ Quốc ngữ ngày ấy và bây giờ: “Chúng tôi bỏ Hội An, cha
Buzomi, cha Đơ Pina và tôi, để đi Quy Nhơn theo quan trấn thủ của tỉnh đó. Suốt cuộc
hành trình, ơng đối đãi với chúng tôi rất lịch sự và tỏ ra hết sức tử tế. Ơng ln ln để
HỘI THẢO KHOA HỌC "CHỮ QUỐC NGỮ TẠI BÌNH ĐỊNH"
229
chúng tôi ở cùng nhà với ông và tiếp đãi chúng tơi rất đặc biệt. Thực ra chúng tơi
chẳng có thể giá gì về mặt con người bắt ơng phải xử như thế. Cho nên rất rõ ràng và
hiển nhiên là những sự ơng săn sóc phải coi như hiệu quả của Thiên Chúa quan phịng.
Ơng dành riêng cho chúng tơi một chiếc thuyền để phục dịch một mình chúng tơi và
các người thông ngôn, không muốn cho chúng tôi để đồ đạc ở đó, đã có một thuyền
riêng dành cho việc này. Chúng tôi trẩy đi suốt mười hai ngày với đầy đủ tiện nghi,
sáng chiều đậu bến. Thường thì những hải cảng ở những thành phố đẹp nhất thuộc tỉnh
Quảng Nghĩa. Nơi đây, ơng cũng có quyền như ở Quy Nhơn, mọi người đều ra đón,
chúc mừng và tỏ rõ lòng qui phục cùng nhận quyền với nhiều lễ vật q và chúng tơi
cũng là những người thứ nhất được dự phần, do lệnh quan trấn thủ muốn thế…Tới đâu
ơng cũng cho tổ chức trị chơi và hội vui cơng cộng, khi thì đấu chiến ghe thuyền, lúc
thì đua chèo thuyền…cứ thế, rồi chúng tôi tới tỉnh Quy Nhơn, nhưng còn phải đi mấy
ngày đường trước khi về tới dinh quan trấn thủ…” [2; 72, 73]. Đoạn trích trên giúp
chúng ta biết thêm thông tin về quyền lực và uy tín của quan trấn thủ Trần Đức Hịa
khơng chỉ giới hạn ở địa phận Quy Nhơn. Đoàn rời Hội An đến Nước Mặn trong cơn
hoạn nạn, ngoài các cha cịn có “các người thơng ngơn”. Khơng phải một mà nhiều
thơng ngơn chứng tỏ các cha trước khi đến Bình Định chưa biết sử dụng tiếng Việt.
Và, sự cưu mang, cứu giúp của quan trấn thủ đối với đoàn truyền giáo trong việc đưa
họ đến xứ Quy Nhơn thực sự là một vận may mang tính định mệnh mà Christophoro
Borri “coi như hiệu quả của Thiên Chúa quan phòng”. Về đến Quy Nhơn, quan trấn
còn đáp ứng sở nguyện của các nhà truyền giáo: “Ơng nghe theo điều chúng tơi sở
nguyện và tức khắc truyền cho người ta chọn cho chúng tôi một điểm rất tiện để làm
nhà cho chúng tôi ở, trong vùng gọi là Nước Nặn”. Việc xây cất nhà thờ cũng được
tiến hành khẩn trương ngay sau đó: “tức thì chúng tơi phát giác ra trong cánh đồng kia
một đạo quân lớn hơn một nghìn người đi tới khuân vác các bộ phận của nhà thờ. Mỗi
cột có ba mươi người lực lưỡng và khỏe mạnh khuân vác. Cịn những người khác thì
vác xà, người đem ván đến lắp, người đem nóc, kẻ mang sàn, người khuân cái này kẻ
mang cái khác. Tất cả đều trật tự mang đến, mỗi người một bộ phận. Sân nhà chúng tơi
chật ních người […] Cứ thế tất cả đều làm có trật tự khơng nhầm lẫn. Ai cũng làm
đúng cách thức, tất cả khối lớn lao đó được dựng nội nhật trong một ngày, làm cho
chúng tôi rất mực sung sướng” [2; 77].
Về mặt tinh thần, quan trấn thủ Quy Nhơn cịn có ý thức tạo uy tín cho các cha
trong sự nghiệp truyền giáo bằng một phiên tòa: “Để tỏ lịng kính trọng chúng tơi và
cho chúng tơi được uy tín nơi mọi người, ơng muốn một hơm ơng lập phiên tịa trong
sân nhà chúng tơi, theo cách thức chúng tơi đã nói về tục lệ xứ Đàng Trong. Trong
phiên tịa này ơng xử mấy người trọng tội, mỗi người đều được xử theo phẩm chất của
tội phạm. Trong số đó có hai người bị xử tử bằng võ khí và phải chịu hình tên bắn.
Nhưng trong khi người ta đang trói thì chúng tơi can thiệp xin ân xá. Quan tịa liền tha
ngay. Ơng tun bố lớn tiếng là chưa bao giờ ông ban ân xá này cho một người nào cả.
Nhưng vì những vị nhân đức này, ông nói, những vị giảng đàng thật cứu rỗi linh hồn,
ta khơng thể khước từ được” [2; 75-76]. Trong tình cảnh bị trục xuất ở một miền xa lạ
như vậy, trong tình cảnh khốn cùng, khốn khó, trong tình cảnh thể xác khó giữ, Tin
Mừng sắp lụi tàn ấy khơng những các cha mà ngay cả Đức Thánh Cha và toàn thể giáo
giới đều mừng vui, hạnh phúc với những ân tình của người con Bình Định.
Christophoro Borri một lần nữa cảm tạ Chúa như chúng ta vẫn thường cảm ơn số
mệnh do một lực lượng huyền bí định sẵn - định mệnh tạo hóa ban cho: “Chúng tơi
HỘI THẢO KHOA HỌC "CHỮ QUỐC NGỮ TẠI BÌNH ĐỊNH"
230
cảm tạ thiên chúa quan phịng vì trong khi giáo dân chểnh mảng việc phụng sự Người
thì Người kích động lịng lương dân và thúc đẩy họ sốt sắng dựng nhà thờ để kính thờ
Thiên Chúa cao cả” [2; 77]. Niềm tin được thắp sáng, sự sáng tạo được nhân lên.
Trong niềm tin ấy có niềm tin truyền giáo. Trong ước mong sáng tạo ấy chắc hẳn có
ước mong sáng tạo chữ Quốc ngữ làm phương tiện chuyển tải niềm tin, mang Tin
Mừng đến với người bản xứ.
Theo tường trình của Christophoro Borri, sự sống cịn của ơng quan trấn tỉnh
Quy Nhơn gắn liền với sự sống còn trong nghiệp truyền giáo Đàng Trong của các giáo
sĩ Dòng Tên ở xứ Nước Mặn. Cũng có nghĩa là, gắn liền với sự tồn vong của chữ
Quốc ngữ buổi ban đầu. Có lẽ vì thế C. Borri đã dành chương đầu tiên và chương tiếp
theo của Phần II trong 18 chương của Bản tường trình viết về quan trấn thủ tỉnh này
như một sự hàm ơn của định mệnh dành cho ông và các cộng sự của ông. Quan trấn
thủ tỉnh này là đại diện tiêu biểu cho tính cách người Đàng Trong, một người thuộc
hàng ngũ quý tộc theo cách nghĩ của người Âu châu. Vậy mà qua câu chuyện kể của
C. Borri chúng ta có thể hình dung ra một quan võ nhưng cử chỉ và tính tình hết sức
nho nhã và ân tình. Qua những con người cụ thể, qua thực tế đời sống, Christophoro
Borri nhận xét khi so sánh người Đàng Trong với người Nhật: “Người Đàng Trong dịu
dàng hơn và lịch thiệp hơn khi đàm đạo, hơn tất cả các dân Đông Phương nào khác,
tuy một đàng họ hiên ngang về giá trị của họ, nhưng đàng khác họ lại có cái tội là dễ
nổi giận”. Khác với các dân tộc Đông phương khác là xa lánh người Âu châu và ghét
mặt đến nỗi khi người Âu châu vào xứ sở của họ, họ đều bỏ trốn thì “ở xứ Đàng trong,
họ đua nhau đến gần chúng ta, xin chúng ta trăm nghìn thứ, họ mời chúng ta dùng cơm
với họ. Tóm lại họ rất xã giao, lịch sự và thân mật đối với chúng ta”… “Khi lần đầu
tiên chúng tôi vào xứ này, người ta đã coi chúng tôi như những người bạn rất thân và
như thể người ta đã quen biết chúng tơi từ lâu. Đó là một cửa rất tốt đẹp mở ra cho các
nhà truyền giáo của Chúa Kito đến rao giảng Phúc âm người.” [2; 32]. Tính cách con
người gắn liền với điều kiện và mơi trường sống. Thiên nhiên ưu đãi, tính cách phóng
khống, rộng lượng, bao dung của con người xứ sở này rất phù hợp với những con
chiên ngoan đạo và mục đích truyền giáo của các nhà truyền giáo châu Âu. Kết luận
của C. Borri: “Đó là một cửa rất tốt đẹp mở ra cho các nhà truyền giáo của Chúa Kito
đến rao giảng Phúc âm người” là một kết luận có cơ sở thực tiễn của đời sống Đàng
Trong.
2. Phố cổ Hội An vẫn cịn in bóng nhà xưa với nhiều cơng trình kiến trúc phủ
bụi thời gian, gọi mời du khách. Hội An vẫn là trung tâm văn hóa và du lịch của tỉnh
Quảng Nam thời hiện đại. Hội An đã trở thành thành phố vào tháng 01 năm 2008 trên
cơ sở tồn bộ diện tích tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc của thị xã
Hội An, với 6.146,88 ha, 121.716 nhân khẩu và một phần nhỏ huyện Điện Bàn (nay là
thị xã Điện Bàn). Hiện nay, mật độ dân số Hội An cao gấp 6 lần mật độ dân số cả
nước. Nước Mặn phồn hoa với nhà cửa liền kề, san sát của một bến cảng tấp nập ngày
xưa như trong các bản tường trình của Giáo xứ Đàng Trong chỉ còn là một vệt chấm
trên bản đồ truyền giáo Đàng Trong thế kỷ thứ XVII hay chỉ được nhắc đến trong các
hội thảo bàn về chữ Quốc ngữ. Nhưng vào thế kỷ thứ XVII, Nước Mặn – một trong
những cái nôi khởi sinh ra chữ Quốc ngữ là thủ phủ hành chính của phủ Quy Nhơn lúc
bấy giờ, là thương cảng lớn thứ ba sau Hội An và Đà Nẵng ở xứ Đàng Trong.
Christophoro đã nhận xét về các thương cảng ở xứ Đàng Trong “trong hơn một trăm
HỘI THẢO KHOA HỌC "CHỮ QUỐC NGỮ TẠI BÌNH ĐỊNH"
231
dặm một chút mà đếm được sáu mươi hải cảng, tất cả đều rất thuận tiện để cập bến và
lên đất liền… Hải cảng đẹp nhất, tất cả người ngoại quốc đều tới đó và cũng là nơi có
hội chợ danh tiếng chúng tơi vừa nói, chính là hải cảng thuộc tỉnh Quảng Nam. Người
ta cập bến bằng hai cửa biển: một gọi là Đà Nẵng và một gọi là Hội An” [2; 56]. Ngồi
ra, sau hai cảng kể trên cịn một cảng có tên là Nước Mặn thuộc phủ Quy Nhơn. Khi
viết về cảng thị này, C. Borri còn thiết tha xin với cha Bề trên rằng: “Tơi xin nói rằng
ngài nên ra lệnh cho người Bồ nhận lời đề nghị rất lịch thiệp chúa Đàng Trong đã đưa
ra và sớm xây cất ở đó một thành phố đẹp, làm nơi an tồn và cư trú, lại dùng để
nhanh chóng bảo vệ hết các thuyền tàu đi từ Trung Quốc. Cũng có thể giữ một hạm
đội hồn tồn sẵn sàng chống lại người Hòa Lan đi Tàu đi Nhật, dù muốn dù khơng bó
buộc họ phải qua eo biển nằm trong bờ biển xứ này thuộc về các hoàng tử trấn thủ tỉnh
Phú Yên và Quy Nhơn với những quần đảo Chàm” [2; 57].
Khi đoàn truyền giáo của các cha tới Nước Mặn thì đây đã là một thương cảng
sầm uất trên bến dưới thuyền. Theo C. Borri thì Nước Mặn có diện tích dài chừng hai
dặm, rộng tới một dặm rưỡi, cịn theo Giáo hội Cơng giáo Việt Nam thì nơi này có
diện tích “dài 5 dặm, rộng 2,5 dặm” [5 ;113] mà người các nơi gọi là Pulucambi theo
gốc Chàm, nằm ở phía Bắc của Quy Nhơn ngày nay. Nghiên cứu của Nguyễn Xuân
Nhân về “Cảng thị Nước Mặn và Văn hóa cổ truyền”[6] cho rằng, cảng thị này nằm ở
bờ phía Nam sơng Hà Bạc xưa, kéo dài từ thơn An Hịa tới thơn Nho Lâm, thuộc
Phước Hưng trải qua thôn Lương Quang (Phước Quang), thôn Kim Xun (Phước
Hịa) và chạy dài ra đến tận cửa sơng Hà Bạc ghép vào với sông Nam phái tại thôn
Tùng Giảng, Tuy Phước. Vùng này vào thế kỉ thứ XVII là vùng trung tâm Nước Mặn
có nhiều cảng nhỏ dọc theo bờ tây của cửa Thử kéo dài tới cửa Quy Nhơn gồm có
cảng lớn nhỏ như: An Lợi, Gị Bồi, Dương Thiện, Vinh Quang, Lịng Sơng, các thị
trấn vùng hạ lưu sơng Cơn như Gị Bồi, Cảnh Hàng, Phú Đa, Đại An, Đập Đá, Gò
Găng, An Thái đều là vệ tinh của Nước Mặn. Theo nhiều tài liệu, thưở phồn vinh ấy,
dân số của Nước Mặn có thể lên đến vài ngàn người kể cả người nước ngồi. Vì thế,
theo chúng tôi cảng Nước Mặn là một địa danh gắn liền với văn hóa và lịch sử Bình
Định. Trong đó có lịch sử chữ Quốc ngữ. Chúng ta khơng thể không nhắc đến bến
cảng đã đi vào lịch sử này. Chính nơi đây một thời đã là một trong những cái nôi
truyền giáo, xây dựng và phổ biến chữ Quốc ngữ.
Bản“Tường trình về Khu Truyền giáo Đàng Trong – 1631” xác nhận, xứ Đàng
Trong có nhiều thứ thuận lợi cho sinh hoạt con người cho nên người dân xứ này khơng
ưa và khơng có xu hướng đi đến các nơi khác để buôn bán, họ “chỉ đi gần gần để trông
thấy bờ biển và ven lãnh thổ thân yêu của mình” [2; 54]. Nhưng người ngoại quốc và
những xứ khác lại mong muốn đến xứ sở của họ để bn bán và trao đổi những thứ
sẵn có ở Đàng Trong. “Họ đem theo bạc để trao đổi hàng hóa, lúc cao lúc hạ tùy theo
lượng hàng hóa có sẵn như tơ lụa và những mặt hàng khác” [2; 55]. Cho đến cuối thế
kỷ XVI, người Việt chủ động mở rộng địa bàn cư trú xuống phương Nam. Dần dần
những thương cảng mới hình thành, trở thành những địa bàn giao thương mới cho
người Việt với các dân tộc khác. Sự ra đời và hưng thịnh của thương cảng quốc tế Hội
An thế kỷ thứ XVII là công cuộc tái sinh thần kỳ. Người Tàu và người Nhật là những
người làm thương mại chính yếu ở Đàng Trong. Thời bấy giờ, người Đàng Trong
khơng có đồ kĩ nghệ và thủ công, thêm nữa họ cũng là những người chuộng của lạ từ
những nơi khác đem tới cho nên việc trao đổi, mua bán trở nên rất sầm uất. “Tôi nhớ
HỘI THẢO KHOA HỌC "CHỮ QUỐC NGỮ TẠI BÌNH ĐỊNH"
232
một người Bồ đem từ Macao tới Đàng Trong một lọ đầy kim khâu, tất cả chỉ giá hơn
ba mươi “êcu”, thế mà được lời tới hơn một ngàn, bán mỗi chiếc một đồng “rêan” ở xứ
Đàng Trong” [2; 55].
Đến giữa năm 1618, Nước Mặn là nơi nhóm họp Đại hội của các nhà truyền
giáo để hoạch định chương trình và phương pháp truyền đạo, cùng phân chia sứ vụ
tông đồ. Cha Buzomi rất chú trọng đến bậc nho gia trí thức và cũng không xa rời quần
chúng. “Một số họ đạo được thiết lập, ban đầu với con số năm sáu gia đình, rồi dần
dần thêm lên ” [5 ;116]. Mở đầu cho lớp trí thức cơng giáo ở Quy Nhơn chịu phép rửa
tội là một vị đại thần, sinh quán tại Nước Mặn, sứ giả triều Nguyễn sang cao Miên.
Phu nhân của ông đại sứ là con gái của quan phủ Quy Nhơn, trước khi theo chống đi
sứ sang Cao Miên bà cũng xin được rửa tội. Bà được cha Buzomi rửa tội tại nhà thờ
Nước Mặn, có tên thánh là Ursula [5 ; 117]. Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng ngay
từ những buổi gặp gỡ ban đầu đó, đất và người Quy Nhơn đã nặng ân tình với các cha
truyền giáo Dịng Tên, để mọi người có thể gọi nơi này như cái nơi để manh nha ra
chữ Quốc ngữ. Theo chúng tôi, Quy Nhơn với trung tâm truyền giáo Nước Mặn là
miền đất hứa cho những ý tưởng sáng tạo chữ Quốc ngữ của các nhà truyền giáo tâm
huyết đâm chồi nảy lộc, ra hoa kết quả và tỏa hạt giống ra xa.
Cái nhìn lần đầu tiên từ phương xa, từ nửa phần trái đất bên kia đại dương của
các thừa sai không khỏi ngạc nhiên đầy thích thú về những ước mơ tốt đẹp pha lẫn một
chút huyễn hoặc về tương lai sáng lạn khi đặt chân lên mảnh đất nắng ấm và đầy gió
phương Nam này. Những con mắt nhìn nhau xa lạ, e ngại dọ dẫm. Những cử chỉ, ra
dấu bằng đủ mọi cách để bước đầu làm quen. Công việc truyền giáo bắt đầu. Và hiển
nhiên, người đến trước, người gặp đầu tiên, người có cái cơ duyên như tiền định trong
chuyến tao ngộ trở thành những người đồng hành, những người mở đầu cho kỷ nguyên
Thiên Chúa giáo vào Việt Nam là những dân thuyền chài ở ven biển này. Họ có khác
chi 12 mơn đồ của Chúa lúc bắt đầu ngày Chúa đi rao giảng Tin Mừng. Để rồi đến một
ngày các thừa sai nhận thấy cách nói chuyện bằng cử chỉ, ra dấu, hoặc phải nhờ thông
ngôn khi rao giảng lời Chúa thật là bất tiện, và đôi khi cịn có những sự nhầm lẫn chết
cười. Cho nên họ bắt tay vào học tiếng nói của dân bản địa với sự giúp sức của những
người dân bình dị nơi đây. Sự manh nha hình thành một thứ chữ viết mới cũng bắt đầu
từ đây. Sự trù phú của vùng đất Bình Định gắn liền với thương cảng Nước Mặn và sự
độ lượng, hào phóng của con người nơi đây mà tiêu biểu đó là những ân tình của quan
trấn thủ Quy Nhơn dành cho các cha Dòng Tên như đã trình bày là cái nơi ni dưỡng
những nhà truyền giáo với công cuộc sáng chế chữ Quốc ngữ nhằm mục đích truyền
giáo. Sản phẩm chữ Quốc ngữ là một may mắn lịch sử gắn với vùng đất và con người
nơi này như một định mệnh của tạo hóa giao ban.
3. Gặp quan trấn thủ Quy Nhơn trong tình huống “nghìn cân treo đầu sợi tóc”,
theo chúng tơi là một định mệnh đối với các nhà truyền giáo. Hành trình truyền giáo
của các nhà truyền giáo Dịng Tên gắn liền với việc sáng tạo chữ Quốc ngữ có biết bao
điều khơng thể giải thích khi đột nhiên “gió đổi chiều” nếu không quy về định mệnh?
Từ thế kỉ thứ XVI - XVII, công cuộc truyền giáo của các thừa sai dịng Đa minh và
Phanxico tại Đơng Nam Á đã gặp nhiều trắc trở. Đó khơng phải xuất phát từ những
người bản địa, là những người hết sức dễ thương và trìu mến khi gặp người nước
ngồi, mà do từ chính các cha khơng có sự chuẩn bị cho việc lưu lại dài ngày ở vùng
đất mới. Hoặc cũng có thể do sự khác biệt về khí hậu, về tập quán ăn uống và những
HỘI THẢO KHOA HỌC "CHỮ QUỐC NGỮ TẠI BÌNH ĐỊNH"
233
trắc trở không mong đợi. Thỉnh thoảng họ lại gặp sự đụng độ giữa chính những người
ngoại quốc với nhau “giữa người Bồ Đào Nha và Tây ban Nha”. Kể về chuyến đi của
mình tới xứ Đàng Trong, cha Christophoro đã viết về sự xung đột kiểu như thế này:
khi tới xứ Đàng Trong, trong lúc có hai người Bồ vì một lý do nào đó đánh nhau một
kẻ chết, một kẻ khơng muốn chìm xuống đáy biển sâu đã chạy đến thuyền của các cha
cầu cứu, cha Christophoro dưới hình dạng của một đày tớ đã xuất hiện “Thấy người
khốn nạn này gặp cảnh nguy hiểm thì tơi lấy hết sức bình sinh ra để giúp hắn” [2 ; 68].
Cũng chính vì sự ra tay cứu giúp của C. Borri mà ơng đã gặp rắc rối. Hành trình đến
với Đàng Trong trải qua nhiều gian khó nhưng đó là hành trình mở tràn trề hy vọng
khi cơng cuộc truyền giáo ở Nhật gặp quá nhiều khó khăn.
Năm 1613, phong trào bài ngoại nổi dậy ở Nhật. Ngày 14/02/1614, Nhật Hoàng
Daifusana, tướng quân Tokugawa Ieyasu, ban lệnh cấm giảng đạo, trục xuất hết các
nhà truyền giáo ra khỏi xứ sở Nhật. Nhưng 47 thừa sai đã lén lút ở lại, đợi chờ có ngày
quay trở lại Nhật. Để khỏi lãng phí thời gian và sức người vì tình hình khó khăn ở
Nhật, trong khi các nhà truyền giáo bị trục xuất về Ma Cao q đơng, Dịng Tên cử 4
thừa sai sang Đàng Trong (phía nam Việt Nam) gồm linh mục Francisco Buzomi
(người Ý), Diego Carvalho người Bồ Đào Nha, hai trợ sĩ José và Paolo người Nhật
Bản. Phái đoàn của Cha Buzomi tới Hải Phố (Hội An) ngày 18/01/1615 (gần tết
Nguyên đán) sau 12 ngày ròng rã trên biển cả.
Theo nhiều tài liệu, khi những cha Thừa sai Dòng Tên đầu tiên đến xứ Đàng
Trong, thưở ban đầu họ được tiếp đón trọng thị trong sự hân hoan của người dân bản
địa do bản tính hiếu khách. Lúc bấy giờ chúa Nguyễn ở Đàng Trong đang yếu thế cần
củng cố chính quyền để sau này có thể chống lại chúa Trịnh ở Đàng Ngồi nên họ tìm
cách giao thương với người Bồ Đào Nha để mua súng ống đạn dược. “Người Bồ còn
giúp nhà chúa lập xưởng đúc súng ở Phú Xuân, nơi gọi là Phường Đúc hay Thợ Đúc
ngày nay” [5; 109]. Chính vì vậy, các cha được tự do truyền đạo, lại cịn được kính nể.
“Bởi vì đối với chúa Nguyễn, sự có mặt của các nhà truyền giáo trong nước là sự bảo
đảm trở lại của tàu bn người Bồ, và nếu cần nhà chúa rất có thể nhờ các ngài làm
trung gian điều đình”.
Theo Linh mục Gioan Võ Đình Đệ: “Lúc bấy giờ việc truyền giáo trong vùng
tam giác Đà Nẵng – Hội An – Thanh Chiêm có kết quả tốt. Đầu năm 1617, từ Macao
cha Pina đến Đàng Trong để tiếp sức với cha Buzomi. Tưởng chừng công việc truyền
giáo như đang thuận buồm xuôi gió, nhưng gió đã đổi chiều. Mùa thu năm 1617, trời
hạn hán. Dân khơng có nước làm mùa, nạn đói đe dọa. Họ cho rằng thần phật nổi giận,
không cho mưa vì mấy người ngoại quốc truyền bá một thứ đạo hoàn toàn trái ngược
với việc thờ cúng thần phật. Họ yêu cầu chúa Nguyễn phải trục xuất những người
ngoại quốc nầy. Dù chúa Nguyễn nhận định được vấn đề, nhưng để hợp lòng dân trong
lúc nầy, chúa Nguyễn đành ra lệnh trục xuất các thừa sai. Các thừa sai xuống thuyền
nhưng trời ngược gió, khơng thể nhổ neo, đành lên bờ tá túc trên một cánh đồng xa
cách dân chúng. Cũng theo Cha Christophoro Borri là khơng có gì tốt mãi được khi có
một sự cố khơng hay xảy ra do bị xúi giục của kẻ xấu mà người dân đốt nhà thờ ở Đà
Nẵng. “Đây là một sự rất đau lòng đối với các Cha. Từ ở nơi đày ải, các cha nhìn thấy
cảnh tan tác mà khơng sao chữa chạy được” [2 ; 67]. Lúc bấy giờ Christophoro theo
dự định được cắt cử đi Trung Quốc nhưng do sự cố kể trên nên cha được phái đến xứ
Đàng Trong “Tơi có cơ hội tự hiến thân cho Thiên Chúa vì xứ Đàng Trong và để an ủi
HỘI THẢO KHOA HỌC "CHỮ QUỐC NGỮ TẠI BÌNH ĐỊNH"
234
các cha đang chịu khổ sở”. Lúc bấy giờ các cha phải sống tạm bợ “ở một khu rừng
hoang ven biển”. Trong cảnh tạm bợ thiếu thốn mọi bề, cha Buzomi lâm bệnh sưng
màng phổi, kiệt sức. Cha bề trên ở Ma Cao nắm được tình hình đã cắt cử hai cha khác
đến thay cha Buzomi để cho cha về Macao chữa bệnh. Đó chính là cha Pedro Marques
(người Bồ lai Nhật và cha Christophoro Borri. Trong cuộc hành trình từ Macao đến xứ
Đàng Trong đã nhắc tới ở trên, C. Borri gặp rắc rối khi cứu giúp một trong hai kẻ
người Bồ đang đánh nhau, ơng đã lộ diện chính vì thế mà ơng bị người dân phát giác
rằng ơng chả phải đày tớ, cũng chẳng phải thương gia như những người khác mà là
một trong những tu sĩ muốn cưỡng lại sắc lệnh của Chúa để ẩn nấp trong xứ này. May
mắn làm sao, khi ông biết sự thể và cầm chắc cái chết trong tay thì ơng đi đến một
quyết định muốn chết cho mọi người biết ông là ai. “Thế là tôi liền mặc áo trùng thâm
theo kiểu các cha Dòng Tên và mặc thêm áo dòng trắng với giây stola quàng cổ và
trong phẩm phục này tôi bắt đầu công khai giảng đạo Kito, qua trung gian các người
thông ngôn… Tôi chuẩn bị nhận tất cả những gì Thiên chúa gửi cho tơi thì bỗng dưng
trời đổ mưa như trút ngay đêm không ngừng, làm cho mọi người đều bắt tay vào việc
cày bừa và gieo mạ” [2 ; 69]. Kể từ đó họ cho phép các cha hoàn toàn tự do đi lại trong
toàn cõi.
Nhắc đến cha Buzomi, ân tình của xứ Đàng Trong với ngài chưa cạn, trước khi
tàu nhổ neo đi Macao thì ngài khỏi bệnh, thay vì đi Macao như dự tính thì Ngài đi về
Nước Mặn, phủ Quy Nhơn đem theo hai cha De Pina và C. Borri, bắt đầu một thời kì
truyền giáo mới. Kể về chuyện này, C. Borri viết sau khi nghe mọi người kể về bệnh
tật của cha Buzomi và việc bị trục xuất của ngài vì việc trời hạn hán “quan trấn thủ bỡ
ngỡ về tất cả câu chuyện, nhưng ơng phải phì cười về việc người ta vu cáo cho một tu
sĩ ngoại quốc bần cùng về một việc không thuộc về quyền lực và không hệ chi đến
ngài ” [2;70].
4. Lịch sử của chữ Quốc ngữ gắn liền với công cuộc truyền giáo của các tu sĩ
Dòng Tên. Những chứng cứ lịch sử cho thấy những dấu ấn cịn sót lại trong các bản
tường trình của các cha gửi về cho các cha Bề trên còn được lưu giữ tại Roma là
những chữ cái phiên âm tiếng Việt theo kí tự kiểu Bồ Đào Nha hoặc Latinh, dù là rất ít
ỏi nhưng đó là những nỗ lực của các cha nhằm phiên âm các địa danh nơi bản địa. Dần
dần số lượng các từ xuất hiện nhiều hơn. Ví dụ như trong bản viết tay của Cha Buzomi
cịn lưu tại Roma có từ Thienchu (Thiên chủ) hoặc có một vài từ được xem là phiên
âm tiếng Việt của J. Baldinotti. Mặc dù đến Việt Nam muộn hơn so với một số giáo sĩ
khác, nhưng Francisco de Pina lại là giáo sĩ Châu Âu đầu tiên nói thành thạo tiếng
Việt, điều này đã được các giáo sĩ đến sau như: Gaspar Luiz và Alexandre de Rhodes
xác nhận. Những bản dịch các văn bản Ki-tô giáo đầu tiên ra tiếng Việt có từ năm
1618, và cơng đầu thuộc về Francisco de Pina. Trong công việc của mình, linh mục
Pina nhờ đến sự giúp đỡ rất hữu hiệu của một văn nhân Việt Nam trẻ tuổi có tên thánh
là Phê-rô; kiến thức uyên bác về chữ Hán của người trẻ tuổi này rất hữu ích trong cơng
việc của cha Francisco de Pina.
Để phục vụ cho việc truyền giáo được thuận lợi, các cha đã dày công học tiếng
Việt và soạn Phúc âm “Kinh bổn’ bằng chữ Nôm. Cùng với Francisco de Pina, C.
Borri có cơng sức trong việc ghi chép nhiều từ được cho là tiền thân của việc sáng chế
chữ Quốc ngữ. Theo Lịch sử Văn học Công giáo Việt Nam [8], người ta đã thống kê
được trong các văn bản viết tay của C. Borri có 24 lượt trang có xuất hiện các từ được
HỘI THẢO KHOA HỌC "CHỮ QUỐC NGỮ TẠI BÌNH ĐỊNH"
235
cha phiên âm từ tiếng Việt. Mặc dù lần đầu tiên cuốn sách của C. Borri viết bằng tiếng
Ý xuất bản năm 1931 tại La Mã và đã sơ khởi xuất hiện những từ tiếng Việt, nhưng
những từ tiếng Việt này (chữ Quốc ngữ) là những thứ chữ ông viết trong khoảng năm
năm tại xứ Đàng Trong (1618 – 1621). Cụ thể như:
Anam (An Nam), Tunchim (Đông Kinh), Lai (Lào), Ainam (đảo Hải Nam),
Kemoi (Kẻ Mọi), Quamguya (Quảng Nghĩa), Quignin (Qui Nhơn),Renran (Ren ran –
sông Đà Rằng ở Phú Yên), Dà dèn Lùt, Dà dèn Lùt (đã đến lụt, đã đến lụt),Nayre(n,
nài voi), doij (đói), scin mocaij (xin một cái),chìa(trà, uống trà, cây trà), Sayc Kim
(sách Kinh, tứ thư, Ngũ kinh), sayc Chiu (sách chữ), cị (có), con gno (con nhỏ),
chiam (chăng) … Con gno muon bau tlam laom Hoalaom chiam (con nhỏ muốn vào
trong lòng Hoa Lang chăng. Theo Linh mục Đỗ Quang Chính, người thơng ngơn đã
dùng lầm câu này để hỏi người khác có muốn gia nhập đạo Cơng giáo khơng thì lại gọi
nhầm sang đạo Hoa Lang, mà đạo Hoa Lang có nghĩa là đạo của người Bồ Đào Nha.
Vì thời bấy giờ thương nhân Bồ Đào Nha thường bán một loại vải có in hoa to như
Hoa Lang (thiển nghĩ đây có thể là cách phát âm của người Đàng Trong về Hoa lan ?).
Theo Lịch sử Văn học Công giáo Việt Nam [8; 189 - 190], chúng ta có thể đưa
ra một vài nhận xét về cách thức phiên âm tiếng Việt trong buổi ban đầu ấy như sau:
1. Phiên âm tiên khởi của tiếng Việt theo giọng Ý hay giọng Bồ? Theo Nguyễn
Khắc Xuyên, C. Borri là người Ý nên cách thức phiên âm có xu hướng theo tiếng Ý,
nh được viết thành gn (Quignin - Qui Nhơn), gnoo (nho, nhỏ), x – sc (xin –scin),ch –c(
Chiêm – ciam). Ngược lại Thanh Lãng lại chỉ ra có nhiều từ C. Borri lại phiên âm theo
kiểu Bồ. Ông đưa ra một số dẫn chứng như Chiampa, chiu (chữ), chiuua (vua chúa),
chiam (chăng). Ông lý giải những từ kể trên đều đọc theo tiếng Bồ vì phụ âm kép ch
trong tiếng Ý đọc cứng như k của tiếng Việt, còn ch trong tiếng Bồ đọc như ch trong
tiếng Pháp.
2. Các kí hiệu ghi các thanh tiếng Việt chưa được đầy đủ. Một số chữ được phụ
vào cuối chữ thay cho dấu giọng. Ví dụ như j thay cho dấu hỏi và ngã (doij – đói,
onsaij – ông sãi), o thay cho dấu hỏi (gnoo – nhỏ khác với gno – nho). Hoặc có nhiều
chữ chưa có kí hiệu ghi thanh như lut (lút), da (đã).
3. Chữ Quốc ngữ thời C. Borri còn thiếu một số nguyên âm như ă, â, ê, ô, ơ, ư.
Cho nên mặn thì viết man, muốn – muon, biết – biet, nước – nuoec, ôn – on.
4. Chữ Quốc ngữ thời C. Borri chưa đầy đủ phụ âm. Cụ thể như đ – d (doij –
đói), x – sc (scin – xin), v-b (bũa – vua, bau – vào). Hoặc có nhiều phụ âm kép được
sử dụng và đã bị đào thải sau này như tl – tr, gn – nh, ngh.
5. Giọng tiếng Việt miền Trung đã được phiên âm trong văn bản của C. Borri
với các từ như tui (tôi), gnin (nhơn) thể hiện rằng các cha đã chịu ảnh hưởng nhiều của
tiếng Việt ở xứ Đàng Trong.
Chúng tôi chưa có điều kiện nghiên cứu kỹ càng về phương ngữ Đàng Trong,
đặc biệt là tiếng địa phương Bình Định trong các văn bản của các giáo sĩ Dòng Tên.
Nhưng thiết nghĩ, đó là một cơng việc bổ ích và lý thú, góp phần xác định nguồn gốc
chữ Quốc ngữ. Với những gì trình bày trên, chúng ta có thể khẳng định, Bình Định là
một trong ba trung tâm truyền giáo lớn của xứ Đàng Trong. Gắn liền với công cuộc
truyền giáo là sự ra đời của chữ Quốc ngữ như một phương tiện hữu hiệu nhằm thực
HỘI THẢO KHOA HỌC "CHỮ QUỐC NGỮ TẠI BÌNH ĐỊNH"
236
hiện mục đích truyền giáo của các giáo sĩ Dịng Tên. Chúng ta chưa đủ nguồn ngữ liệu
để chứng minh Bình Định là nơi đầu tiên hình thành chữ Quốc ngữ. Nhưng theo chúng
tơi, Bình Định với trung tâm truyền giáo Nước Mặn và những điều kiện thuận lợi như
đã trình bày, cùng với nỗ lực của tập thể các nhà truyền giáo giàu tâm huyết và uyên
bác, thực sự là miền đất hứa cho những ý tưởng sáng tạo chữ Quốc ngữ. Trải qua hơn
400 năm phơi thai và hình thành, rèn giũa và phát triển, vượt qua bao sự khó khăn gian
khổ, ngày nay chúng ta có được một thứ chữ viết ghi âm vị - một loại hình chữ viết
tiến bộ nhất trong quá trình sáng tạo chữ viết của nhân loại. Hơn nữa, chúng ta tự hào
vì Bình Định là một trong những cái nơi hình thành nên chữ Quốc ngữ của dân tộc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Philipphee Bỉnh, Sách sổ sang chép các việc. Nxb Viện Đại học Đà Lạt, 1968.
2. Christophoro Borri, Tường trình về Khu Truyền giáo Đàng Trong - 1631. NXB
Thăng Long. (Bản dịch của Nguyễn Khắc Xuyên).
3. Đỗ Quang Chính, Sống trong xã hội con Rồng cháu Tiên 1615 - 1773.
4. Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620 -1659. In lại nguyên văn theo ấn
bản của Tủ sách Ra Khơi – Sài Gịn 1972.
5. Giáo hội Cơng giáo ở Việt Nam (Bản in roneo)
6. Nguyễn Xuân Nhân, Cảng thị Nước Mặn và văn hóa cổ truyền. Nxb KHXH,
2010.
7. Nguyễn Thanh Quang – Lê Vân. Quan trấn thủ Quy Nhơn – Trần Đức Hịa qua
tư liệu truyền giáo Đàng Trong. Bình Định Online. Ngày 26/4/2012.
8. Võ Long Tê, Lịch sử văn học Công giáo Việt Nam (cuốn 1). NXB Tư duy, Sài
Gịn 1965.
9. Đồn Thiện Thuật, Chữ Quốc ngữ thế kỉ XVIII. NXB Giáo dục, 2008.
10. Vấn đề cải tiến chữ quốc ngữ - NXB Văn hóa – Viện Văn học, 1961.
PGS.TS. Võ Xuân Hào, khoa Ngữ văn, Trường Đại học Quy Nhơn
Địa chỉ liên hệ: 2/35 An Dương Vương, Tp Quy Nhơn, tỉnh Bình Định
Số ĐT: 0914039270. Email:
----------------------------------------------------------------------------------------------GIÁ TRỊ CHỮ QUỐC NGỮ TRONG SÁNG TÁC
NHĨM THƠ BÌNH ĐỊNH ĐẦU THẾ KỶ XX
Nguyễn Huy Bỉnh*
Chữ quốc ngữ đã được du nhập vào Bình Định từ khá sớm, nó trở thành thứ
chữ có vai trị quan trọng trong việc ghi chép các văn bản và được phát triển mạnh mẽ
trong những năm đầu thế kỷ XX. Có thể nói, trong giai đoạn giao thời cổ – kim ở nước
ta, chữ quốc ngữ đã góp phần đưa quốc gia dân tộc từ đêm trường trung cổ đến ánh
sáng văn minh. Chính sự xuất hiện chữ quốc ngữ đã đem lại những thay đổi kinh ngạc
*
TS. Nguyễn Huy BỉnhViện Văn học, 20 Lý Thái Tổ, Hà Nội. Tel: 0982783132;
HỘI THẢO KHOA HỌC "CHỮ QUỐC NGỮ TẠI BÌNH ĐỊNH"
237
trong đời sống xã hội và trong nền học vấn Việt Nam. Trong đó, việc chữ quốc ngữ
được sử dụng vào việc sáng tạo văn chương nghệ thuật đã mang lại giá trị to lớn cho
nền nghệ thuật dân tộc. Minh chứng rõ nhất là giá trị của nó trong sáng tác của nhóm
thơ Bình Định đầu thế kỷ XX.
Nhóm thơ Bình Định cịn có tên gọi là Trường thơ loạn gồm 4 thành viên là bốn
nhà thơ lớn: Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, Quách Tấn và Yến Lan. Nhóm này còn được
người đương thời còn gọi là Bàn thành tứ hữu. Các nhà thơ thuộc nhóm thơ Bình Định
đã có tun ngơn nghệ thuật riêng, độc đáo; họ sáng tác theo tuyên ngôn ấy và để lại
rất nhiều bài thơ kiệt xuất của phong trào thơ Mới ở nước ta. Có thể nói, nằm trong
mạch nguồn thơ đổi mới giai đoạn 1932-1945, trường thơ loạn Bình Định đã góp tiếng
nói quan trọng trong việc cách tân thơ ca trên cả phương diện nội dung và nghệ thuật
thơ ca. Tất cả các bài thơ của họ viết ra đều được truyền tải bằng phương tiện là chữ
quốc ngữ. Có thể nói, chính chữ quốc ngữ đã trở thành phương tiện nghệ thuật ngôn từ
hữu hiệu và bộc lộ những khả năng ưu việt trong sáng tác của trường thơ loạn Bình
Định, mặt khác cũng bắt nguồn từ các sáng tác thơ ca của họ đã góp phần đưa chữ
quốc ngữ đạt đến đỉnh cao nghệ thuật đương thời.
Trước tiên là về mặt ngữ âm, với chữ quốc ngữ, sự linh hoạt của các kí tự latinh
đã phát huy tối đa về mặt ngữ âm, các hình thức ngữ âm của tiếng Việt đã được phát
triển lên mức cao nhất có thể qua chữ quốc ngữ. Ở chữ quốc ngữ, mọi lời nói, suy
nghĩ và hành vi của con người đều được diễn đạt. Bằng cách sử dụng chữ quốc ngữ,
âm thanh tiếng Việt đã lần đầu tiên được ghi chép như những gì mà bản thân nó tồn
tại, góp phần tạo sự thống nhất chữ viết trong toàn lãnh thổ Việt Nam.
Trong sáng tác của nhóm thơ Bình Định đầu thế kỷ XX, các nhà thơ đã sử dụng
chữ quốc ngữ một cách tài hoa và đạt đến đỉnh cao nghệ thuật trong lịch sử văn
chương Việt Nam, riêng về mặt ngữ âm thì chữ quốc ngữ đã có đóng góp rất lớn trong
sự phát huy vai trị của âm tố, âm tiết, âm vị trong cấu tạo ngữ âm tiếng Việt. Đây là
cách diễn đạt của nhà thơ Quách Tấn: Chim mang về tổ bóng hồng hơn/Vàng lửng lơ
non biếc đọng cồn/Cành gió hương xao hoa tỷ muội/Đồi sương sóng lượn cỏ vương
tơn/Khói mây quanh quẩn hồi chng vọng/Trời biển nơn nao tiếng địch dồn/Thưởng
cảnh ơng câu tình tự quá/Thuyền con chở nguyệt đến cô thôn.(Chiều xuân). Bài thơ đã
miêu tả lại cả không gian thiên nhiên buổi chiều ở nơi cô thôn thật đẹp, với “chim bay
về”, “vàng lửng lơ”, “mây khói quẩn quanh”, “trời biển nơn nao”, “thuyền con chở
nguyệt”… tất cả những suy tư và cảm nhận của nhà thơ đã được bộc lộ, có thể nói với
việc sử dụng chữ quốc ngữ, ở bài thơ đã ghi chép lại một cách chân thực mọi âm tiết
phát ra và nhằm biểu đạt trạng thái cảm xúc và khả năng nghệ thuật của Quách Tấn.
Các ngữ âm thuộc phương ngữ của vùng đất Bình Định cũng được các tác giả
nhóm thơ Bình Định sử dụng phổ biến trong sáng tác. Đặc biệt là nhà thơ Hàn Mặc Tử
- người thường xuyên dùng phương ngữ diễn đạt thơ ca, ông viết: Bốn vách tường nan
sáng mập mờ./Một vài bức họa cảnh nên thơ./Rình nghe kinh – sữ hoa kề cữa./Trộm
liếc văn nhơn nguyệt nép bờ. Các từ như “sữ”, “cữa”, “nhơn” là từ ngữ địa phương của
vùng đất Bình Định. Trong số bài thơ của Hàn Mặc Tử mới được tìm thấy và cơng bố,
thì có khá nhiều bài thơ ông đã sử dụng phương ngữ để truyền đạt thơng điệp nghệ
thuật của mình: Ai mua ta bán túi thơ đây/ Đỗi lấy tiền tiêu với tháng ngày./Vay mãi
non sơng coi bĩ mặt,/Mượn hồi trời đất củng quen tay/Xuân về bố thí dăm ba
chữ,/Tết lại tiêu pha sáu bãy bài…(Ai mua không?). Trong bài thơ này, các từ như
HỘI THẢO KHOA HỌC "CHỮ QUỐC NGỮ TẠI BÌNH ĐỊNH"
238
“bĩ”,“đỗi”, “bãy” là những từ vốn là phương ngữ của người Bình Định đã biểu đạt
trạng thái tác giả muốn diễn đạt nhưng đồng thời cũng lưu giữ lại được từ ngữ của
vùng đất mà ơng gắn bó mật thiết.
Trong sáng tác của thơ ca nhóm thơ Bình Định nói riêng và thơ ca hiện đại Việt
Nam nói chung, việc sử dụng thể thơ tự do hình thức nghệ thuật đã góp phần làm thay
đổi lớn các quy định chặt chẽ về liêm luật trong thơ ca truyền thống. So với các loại
chữ viết trước đây thì ở thơ Mới đã có một cuộc cách tân lớn về mặt thanh điệu. Việc
dùng các dấu hỏi, sắc, huyền, ngã, nặng trong chữ quốc ngữ đã mang lại hiệu quả nghệ
thuật tối ưu so với các loại chữ viết tồn tại trước đó trong lịch sử dân tộc. Đây là sáng
tác của nhà thơ Yến Lan:Nàng từ tuổi sách hoa./Không hay chồng đã hỏi./Chàng liền
bữa đi qua/u mà khơng dám nói./Trưa hào hoa mình lụa,/Thường trời ngơ ngẩn
xanh./Từng nghe qua chuyến ngựa/Trên dải làng quanh quanh./Gặp thuở trời tháng
bảy./Mưa ngâu dài trên sông,/Đường khơng xa gì mấy,/Lịng ơi cách chẳng cùng./Từ
nàng ra bãi sậy,/Cỏ nghẹn sầu cố nhân./Cổng làng mù quạnh ấy,/Ngựa chàng đến
mấy lần./Ừ, sao mà tương tư/Thương gì rêu vách giếng,/Nhớ gì góc sân thu,/Ngựa
chàng sang hàng chuyến?/Đường vẫn nao dịng cũ/Ngựa lần bước chân xưa/Áo chàng
xanh lam lũ,/Trời ơi,trời đừng mưa (Đường xưa).Trong sáng tác của mình, nhà thơ đã
tạo sử dụng kho từ vựng tiếng Việt với rất nhiều thanh điệu, tạo ra nhịp thơ hài hòa,
cân đối, diễn tả được mọi cảm xúc và suy nghĩ của mình. Cũng nằm trong mạch nguồn
cảm xúc thơ ca và sử dụng chữ quốc ngữ, nhà thơ Quách Tấn lại gửi gắm tâm trạng
của mình trong Đêm tình: Giấc thắm tình duyên non gối nước,/Mán sương để lọt ánh
sao băng./Hồn hoa chợp mộng thơm hồn gió;/Tóc liễu dừng thơ đón tóc trăng./Mn
điệu tơ lịng run sẽ sẽ,/Nửa vời sóng nhạc giợn lâng lâng./Phịng hương thương kẻ
ngồi nương triện/Tình gởi mây xa lệ ngập ngừng. Chính việc dùng thanh điệu của chữ
quốc ngữ đã làm cho ngơn ngữ thơ mang đầy tính nghệ thuật, cách gieo vần, hiệp vần
đã tạo nhạc điệu trong thơ. Các nhà nghiên cứu ngữ văn còn căn cứ vào thanh điệu để
định dạng vần bằng, vần trắc trong câu thơ.
Với chữ quốc ngữ, hệ thống dấu câu trong tiếng Việt được biểu đạt một cách
rành mạch, các dấu như: dấu chấm dùng để kết thức câu; dấu hỏi chấm dùng kết thúc
câu nghi vấn; dấu chấm cảm dùng để kết thúc một câu cầu khiến hoặc một câu cảm
thán; dấu phẩy dùng để đánh dấu chỗ ngắt giữa các thành phần câu; dấu chấm phẩy
dùng đánh dấu chỗ ngắt quãng của các câu dài, giữa các vế câu, hoặc giữa các bộ phận
liệt kê nội dung câu dài; dấu hai gạch ngang được dùng ở những đoạn liệt kê trình bày
nội dung ngang hàng nhau…Tất cả góp phần làm sống động nhịp thơ, câu thơ. Chế
Lan Viên viết: Này chiếc sọ người kia, mi hỡi!/Dưới làn xương mỏng mảnh của đầu
mi/Mi nhớ gì, tưởng gì trong đêm tối?/Mi trông mong ao ước những điều chi?/Mi nhớ
đến cảnh pháp trường ghê rợn/Sọ muôn người lần lượt đuổi nhau rơi?/Hay mi nhớ
những đêm mờ rùng rợn/Hồn mi bay trong đốm lửa ma trơi?/Có tìm chăng, những
chiều khơng tiếng gió/Của người mi thi thể rữa tan rồi?/Có tưởng lại mảnh hồn mi
đau khổ/Đang lạc lồi trong Cõi Chết xa xơi? (Cái sọ người). Trong bài thơ, tác giả đã
sử dụng hệ thống dấu câu một cách tài ba. Nó tạo cho nhịp thơ, vần thơ, câu thơ những
điểm nhấn độc đáo, bộc lộ được những xúc cảm nội tâm của nhà thơ. Ở bài thơ Những
sợi tơ lòng, Chế Lan Viên đã sử dụng dấu chấm than hết sức phổ biến, nó phổ biến đến
mức là khó có thể tìm thấy bài thơ nào trong thơ ca Việt Nam lại có mật độ dấu chấm
than nhiều đến như vậy: Tơi không muốn đất trời xoay chuyển nữa/Với tháng ngày
HỘI THẢO KHOA HỌC "CHỮ QUỐC NGỮ TẠI BÌNH ĐỊNH"
239
biền biệt đuổi nhau trôi/Xuân đừng về! Hè đừng gieo ánh lửa!/Thu thơi sang! Ðơng
thơi lại não lịng tơi!/Quả đất chuyển giây lịng tơi rung động /Nỗi sầu tư nhuần thấm
cõi Hư Vô!/Tháng ngày qua, gạch Chàm đua nhau rụng /Tháp Chàm đua nhau đổ
dưới trăng mờ!/Lửa hè đến! Nỗi căm hờn vang dậy! /Gió thu sang thấu lạnh cả hồn
thơ!/Chiều đơng tàn, như mai xn lộng lẫy/Chỉ nói thêm sầu khổ với ưu tư!/Tạo hố
hỡi! Hãy trả tơi về Chiêm quốc!/Hãy đem tôi xa lánh cõi trần gian! /Muôn cảnh đời
chỉ làm tôi chướng mắt!/Muôn vui tươi nhắc mãi vẻ điêu tàn!/Hãy cho tơi một tinh cầu
giá lạnh/Một vì sao trơ trọi cuối trời xa!/Ðể nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh/Những ưu
phiền, đau khổ với buồn lo! (Chế Lan Viên). Trong bài thơ này, Chế Lan Viên đã 17
lần sử dụng dấu chấm than, trong một số câu thậm chí ơng cịn dùng đến hai dấu chấm
than nhằm biểu đạt trạng thái, tình cảm của mình. Bên cạnh các nhà thơ Chế Lan Viên,
Yến Lan, Quách Tấn thì Hàn Mặc Tử cũng nằm trong số tác gia sử dụng một cách
hiệu quả công năng của hệ thống dấu câu trong chữ quốc ngữ: Lá nại - đơng tơ gió đãi
chiều/Bướm vườn hạnh áo xinh đem trẻ/Nhà quan nao cốt cách ra vẻ/Xuân vô ra
không biết bao nhiêu/Pháo nhân duyên nổ đã hơi nhiều/Trầu lịch sự têm mời hai
họ/Đường trai thẹn nên khơng dám ngó/Nói chi Nường là gái đơng lân/Buồng khơng
xa xiêm áo sượng sần/Ơng mai mới cười như ngơ nở/Người ta cưới cả xn cả vợ/Nên
ân tình nổi máu trên mơi/Cịn em sao chưa biết hổ ngươi/Để mai mốt anh đi lễ
hỏi./Cịn em nữa, lịng chưa biết nói/Đơi mắt cịn ngun vẹn mùa thơ/Đứng khơng xa,
sao ngó hững hờ/Anh sốt ruột muốn kêu: Em, quá. (Cưới Xuân Cưới vợ). Các dấu câu
như: gạch ngang, hai chấm, dấu chấm, dấu phẩy…đã tạo ra cho bài thơ âm hưởng du
dương khá độc đáo. Có thể nói, nhóm thơ Bình Định đầu thế kỷ XX đã sử dụng dấu
câu hết sức đa dạng, nó mang tính nghệ thuật đặc trưng của họ.
Với việc sử dụng hệ thống chữ quốc ngữ, nhiều từ mới trong tiếng Việt đã được
ghi lại bằng kí hiệu là chữ viết. Chính chữ quốc ngữ đã giúp tạo ra những từ mới nhằm
hỗ trợ việc diễn đạt tư duy trong chiều sâu của nó. Đặc biệt là các từ tượng thanh và
tượng hình. Trong các sáng tác của nhóm thơ Bình Định đầu thế kỷ XX, các tác gia
của nhóm thơ này đã vận dụng một cách tài tình các tượng thanh vốn vơ cùng đa dạng
trong tiếng Việt, đây là cách nói của Hàn Mặc Tử: Trong làn nắng ửng khói mơ
tan/Đơi mái nhà tranh lấm tấm vàng/Sột soạt gió trêu tà áo biếc/Trên giàn thiên lý
bóng xn sang (Mùa xn chín). Trong câu thơ “sột soạt gió trêu tà áo biếc”, với hai
âm tiết “sột soạt” nhà thơ đã sử dụng hình thức âm thanh quen thuộc trong giao tiếp
hàng ngày, làm tăng thêm sức sống động trong hình ảnh thơ. Sử dung các từ tượng
thanh, Chế Lan Viên là người đã để lại dấu ấn đặc biệt: Có đứa trẻ thơ khơng biết
khóc/ Vơ tình bỗng nổi tiếng cười ran (Xuân). Âm hưởng của câu thơ “tiếng cười ran”
đã tạo lên cảm giác gần gũi với niềm vui của con người; hay câu thơ: Pháo đã nổ đưa
xuân về vang động/Vườn đầy hoa ríu rít tiếng chim trong (Xn về). Với câu thơ này,
hình thức ngữ âm chữ quốc ngữ được bộc lộ hết sức độc đáo “xuân về vang động”,
“ríu tít tiếng chim trong”. Để diễn tả nỗi buồn của mình Chế Lan Viên viết: Trời xuân
vắng. Cỏ cây rên xào xạc (Đêm xuân sầu) hay Những tượng Chàm lở lói rỉ rên than
(Trên đường về). Có thể nói, việc sử dụng từ tượng thanh như “rên xào xạc”, “rỉ rên
than” trong sáng tác đã mang lại cho thơ ca Việt Nam những “âm thanh lạ”, nó vừa
diễn đạt được tâm trạng của nhà thơ, vừa đưa âm thanh của lời nói trong giao tiếp hàng
ngày vào nghệ thuật thi ca một cách hiệu quả.
HỘI THẢO KHOA HỌC "CHỮ QUỐC NGỮ TẠI BÌNH ĐỊNH"
240
Bên cạnh việc sử dụng các từ tượng thanh, khi đọc các tác phẩm của nhóm thơ
Bình Định, chúng ta cịn bắt gặp kho tàng ngơn từ tượng hình được sử dụng hết sức tài
ba. Nhà thơ Quách Tấn viết: Vườn thu óng ả nét thuỳ dương,/Đưa nhẹ đêm thu cánh
hải đường./Lóng lánh rẻo vàng gieo bến nguyệt,/Phất phơ tơ nhện tủa ngàn
sương./Chim hồi hộp mộng cơn mưa lá,/Cúc vẩn vơ hồn ngọn gió hương./Say khướt
hơi men thời Lý Bạch,/Non xa mây phới nếp nghê thường.(Đêm thu). Đọc bài thơ này
chúng ta sẽ cảm nhận được bức tranh thiên nhiên được nhà thơ họa lại bằng ngôn từ
hết sức độc đáo. Chính ý nghĩa biểu đạt của tiếng Việt và việc sử dụng chữ quốc ngữ
tài hoa đã ghi lại được “vườn thu óng ả”, “lóng lánh vàng gieo”, “chim hồi hộp”, “cúc
vẩn vơ”, “non xa mây phới”…Cũng nói về mùa thu, Qch Tấn lại có những câu thơ
giàu tính tượng hình khác:Gầy úa rừng sương đeo giọt sầu/Ðây lịng ta đó một trời
thu/Gió vàng cợt sóng, sơng chau mặt,/Mây trắng vờn cây, núi bạc đầu./Dìu dặt tiếng
ve cịn vẳng đấy./Vội vàng cánh nhạn rủ về đâu ?!/Hỡi người chinh phụ nương rèm
liễu,/Sùi sụt chi thêm bận vó câu!(Cảm thu). Các nhà thơ lãng mạn đầu thế kỷ XX
thường dùng hình ảnh của mùa thơ để biểu lộ nỗi buồn của mình, cho nên những bài
thơ về mùa thu đã chứa chất trong đó nỗi niềm riêng tư, buồn đau đến não nề. Nó
khiến cho cả khơng gian, cảnh vật trong thơ mang một màu u ám.
Khác với Quách Tấn luôn miêu tả hình ảnh mùa thu để gửi gắm nỗi buồn, Chế
Lan Viên đã họa không gian trong tâm trạng u sầu của ngày xuân, ông viết như sau:
Trời xuân vắng./Cỏ cây rên xào xạc/Bóng đêm ln hoảng hốt mãi khơng thơi/Gió
xn lạnh, ngàn sâu thơi ca hát/Trăng xn sầu, sao héo, cũng thôi cười. (Đêm xuân
sầu). Đúng là khi mang trong mình một nỗi buồn đau thì cả đất trời và vạn vật xung
quanh cũng ủ rũ, đau buồn. Nhà thơ đã họa lại không gian buồn đến tang thương ấy
với những từ tượng hình rất ấn tượng “trời xuân vắng”, “đêm đêm luôn hoảng hốt”,
“ngàn sâu thôi ca hát”, “trăng xuân sầu” “sao héo”… Còn trong bài Đêm sầu muộn,
Chế Lan Viên đã sử dụng các từ tượng hình một cách rõ ràng hơn: Trên đồi lạnh, tháp
Chàm sao ủ rũ/Hay hận xưa muôn thuở vẫn chưa nguôi?/Hay lãnh đạm, Hời không về
tháp cũ/Hay xuân sang. Chiêm nữ chẳng vui cười?/Bên tháp vắng, cịn người thi sĩ
hỡi/Sao khơng lên tiếng hát đi, người ơi?/Mà buồn bã, âu sầu trong đêm tối/ Người
vẫn nằm há miệng đớp sao rơi?. Với những câu thơ giàu tính hình tượng như “tháp
Chàm ủ rũ”, “Chiêm nữ chẳng vui cười”, “bên tháp vắng”, “âu sầu trong đêm tối”, “há
miệng đớp sao rơi”…tác giả đã khắc họa được thiên nhiên và lòng người bằng một
kho hình ảnh được vẽ bằng ngơn ngữ. Có thể nói, trong hầu hết các sáng tác của Chế
Lan Viên những năm đầu thế kỷ XX mang theo nỗi u sầu, não nề đến bi thương.
Khi nói về mùa xuân, ngày xuân, nhà thơ Hàn Mặc Tử lại họa không gian vơ
cùng sống động, ơng viết: Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời/Bao cô thôn nữ hát trên đồi;/
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,/Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi./Tiếng ca vắt vẻo
lưng chừng núi,/Hổn hển như lời của nước mây,/Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,/Nghe
ra ý vị và thơ ngây./Khách xa gặp lúc mùa xuân chín,/Cảnh trí bâng khuâng sực nhớ
làng:/ "Chị ấy, năm nay còn gánh thóc/Dọc bờ sơng trắng nắng chang chang?"(Mùa
xn chín). Đọc những câu này, chúng ta như đang xem một thước phim về mùa xuân
của Hàn Mặc Tử, đó là “sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”, trong không gian ấy những
“cô thôn nữ hát trên đồi”…tất cả đã tạo cho một điểm nhấn hài hòa, đan bện vào nhau
giữa thiên nhiên và con người trong ngày xuân.
HỘI THẢO KHOA HỌC "CHỮ QUỐC NGỮ TẠI BÌNH ĐỊNH"
241
Trong sáng tác của nhóm thơ Bình Định đầu thế kỷ XX, hệ thống từ láy được
sử dụng hết sức phổ biến và mang lại hiệu quả nghệ cao: Đôi bướm lượn, cánh vương
làn sương mỏng/Chập chờn bay đem phấn điểm muôn hoa hay trong câu thơ Hàng
dừa cao say sưa ôm bóng ngủ/Vài quả xanh khảm bạc hớ hênh phô… Đây tà áo chuối
non bay phấp phới/Phơi màu xanh lấp lống dưới sương mai/Đây, pháo đỏ lập lịe
trong nắng chói/Đây hoa đào mỉm miệng đón xuân tươi (Xuân về - Chế Lan Viên). Ở
đây, nhà thơ đã sử dụng các từ láy phụ âm đầu như “chập chờn”, “hớ hênh”, “phấp
phới”, “lấp lống”, “lập lịe” vốn là những từ được sử dụng phổ biến trong giao tiếp
cuộc sống thường nhật, nhằm mang lại hiệu quả và ấn tượng nghệ thuật. Ngoài ra, các
nhà thơ sử dụng biện pháp điệp ngữ khá nhiều, tiêu biểu nhất có lẽ phải kể đến Hàn
Mặc Tử, trong bài Trăng vàng trăng ngọc ông viết đã dùng cách điệp từ hết sức độc
đáo: Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng Trăng!/Ai mua trăng tôi bán trăng
cho /Khơng bán đồn viên, ước hẹn hị.../Bao giờ đậu trạng vinh quy đã /Anh lại đây
tôi thối chữ thơ./Không, Không, Khơng! Tơi chẳng bán hồn Trăng. /Tơi giả đị chơi,
anh tưởng rằng /Tơi nói thiệt, là anh dại q:/Trăng Vàng Trăng Ngọc bán sao
đang./Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng!/Trăng sáng trăng sáng khắp
mọi nơi /Tôi đang cầu nguyện cho trăng tôi/Tôi lần cho trăng một tràng chuỗi /Trăng
mới là Trăng của Rạng Ngời /Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng! (Trăng
vàng trăng ngọc – Hàn Mặc Tử). Trong bài thơ của mình, Hàn Mặc Từ đã 28 lần sử
dụng từ “trăng”, trong số đó liên tục dùng biện pháp điệp ngữ. Khảo sát thơ của Hàn
Mặc Tử, ta còn bắt gặp rất nhiều bài thơ dùng biện pháp nghệ thuật này, trong bài
Những giọt lệ, ông viết: Trời hỡi, bao giờ tôi chết đi?/Bao giờ tôi hết được yêu vì,/Bao
giờ mặt nhật tan thành máu/Và khối lịng tơi cứng tựa si?/Họ đã xa rồi khơn níu
lại,/Lịng thương chưa đã, mến chưa bưa.../Người đi, một nửa hồn tôi mất,/Một nửa
hồn tôi bỗng dại khờ. Cách điệp từ được sử dụng trong những câu thơ trên mang hàm
nghĩa khác nhau, tuy nhiên một ý nghĩa biểu đạt chung đó là sự nhấn mạnh những yếu
tố về thời gian “bao giờ”, yếu tố tâm hồn “một nửa hồn tôi”. Yến Lan trong bài Bến
My Lăng có đoạn viết: Vì đìu hiu, đìu hiu, trời tĩnh mịch/ Trời võ vàng, trời thiếu
những vì sao. Ở bài thơ này, cách điệp ngữ đã làm rõ được khung cảnh “đìu hiu” của
đất trời.
Xét dưới góc độ nghệ thuật sử dụng chữ quốc ngữ, các nhà thơ thuộc nhóm thơ
Bình Định đã để lại những bài thơ rất độc đáo trong việc sử dụng các câu hỏi tu từ.
Hàn Mặc Tử viết: Tơi vẫn cịn đây hay ở đâu?/Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?/Sao bông
phượng nở trong màu huyết,/Nhỏ xuống lịng tơi những giọt châu?(Những giọt lệ) hay
trong câu thơ: Sao anh không về chơi thơn Vỹ?/Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.../Ở
đây sương khói mờ nhân ảnh/Ai biết tình ai có đậm đà? (Đây thôn Vỹ Dạ). Chế Lan
Viên cũng là một nhà thơ sử dụng phổ biến các câu hỏi tu từ: Tôi có chờ đâu, có đợi
đâu /Ðem chi xuân lại gợi thêm sầu?/(Xuân); Ai đâu trở lại mùa thu trước/Nhặt lấy
cho tôi những lá vàng?... Ai biết hồn tôi say mộng ảo/Ý thu góp lại cản tình
xn? (Xn), Thu đến đây! Chừ, mới nói răng?/Chừ đây, buồn giận biết sao
ngăn?/Tìm cho những cánh hoa đang rụng/Tôi kiếm trong hoa chút sắc tàn! (Thu I);
Trống cầm canh xa vang nơi cõi thế/Hồn u tinh chợt thấy động tơ lịng? (Xương
khơ); Chiêm nương ơi, cười lên đi, em hỡi!/Cho lòng anh quên một phút buồn
lo! /Nhìn chi em chân trời xa vịi vọi /Nhớ chi em sầu hận nước Chàm ta? (Đêm tàn)
Cô không lụa? hãy cởi phăng mảnh áo!/Áo cũng không ? quăng tuốt cái làn da!(Vo
lụa); Một cô hồn về đây, theo gió lộng/Trên mộ tàn, tìm lại dấu ngày qua?/Trống cầm
HỘI THẢO KHOA HỌC "CHỮ QUỐC NGỮ TẠI BÌNH ĐỊNH"
242
canh xa vang nơi cõi thế/Hồn yêu tinh chợt thấy động tơ lịng?(Xương khơ). Những
câu hỏi tu từ này đã biểu đạt nỗi niềm của nhà thơ đồng thời mang lại cho thơ ca sự
rung động và da diết.
Bên cạnh, việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật chữ quốc ngữ như so
sánh, nhân hóa cũng được các nhà thơ trong nhóm thơ Bình Định đầu thế kỷ XX sử
dụng thuần thục và trở thành những biện pháp nghệ thuật gây ấn tượng mạnh với
người đọc. Nhà thơ Hàn Mặc Tử đã so sánh “làn môi tươi” với “máu” trong câu: Làn
môi mong mỏng tươi như máu. (Hàn Mặc Tử); hay “nỗi lịng” như “làn sóng” trong
câu: Lịng ta dào dạt như làn sóng (Hàn Mặc Tử); Thơ hay như gái đẹp. (Chế Lan
Viên); Anh cách em như đất liền xa cách bể.(Chế Lan Viên)… Các tác giả đã sử dụng
phổ biến biện pháp nghệ thuật so sánh bằng với liên từ “như” để biểu hiện sự ví von và
cách nhìn nghệ thuật của mình.
Đối với biện pháp nghệ thuật nhân hóa, chữ quốc ngữ đã được các nhà thơ
thuộc nhóm thơ Bình Định đầu thế kỷ XX dùng phổ biến trong các bài thơ. Hàn Mặc
Tử trong bài Bẽn lẽn viết:Trăng nằm sóng soải trên cành liễu/Đợi gió đơng về để lả
lơi/Hoa lá ngây tình khơng muốn động/Lịng em hồi hộp, chị Hằng ơi./Trong khóm vi
vu rào rạt mãi/Tiếng lịng ai nói? Sao im đi?/Ơ kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm/Lộ
cái khn vàng dưới đáy khe./Vơ tình để gió hơn lên má/Bẽn lẻn làm sao lúc nửa
đêm/Em sợ lang quân em biết được/Nghi ngờ tới cái tiết trinh em. Trong bài thơ này,
ánh trăng được nhân hóa thành hình ảnh của cô gái. Trăng vốn là vật thể vô tri vơ giác
nhưng khi đi vào thơ Hàn thì sống động và đầy khao khát với các biểu hiện như “nằm
sóng sỗi trên cành liễu”, “đợi gió đơng về để lả lơi”. Nhà thơ Quách Tấn cũng là
người đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa khá độc đáo, trong bài Bên sơng có
những câu thơ mang đậm dấu ấn nghệ thuật ấy: Gió rủ canh đi ngàn liễu khóc,/Sơng
đưa lạnh tới bóng trăng run/Thuyền ai tiếng hát bên kia vẳng?/Ghé lại cho nhau gởi
chút buồn; còn trong bài Lòng thuyền, Quách Tấn lại có câu thơ như: Anh buộc đời
em, bến buộc thuyền/Nước trồi thuyền trở, bến nằm yên/Một mai anh thả thuyền lơi
bến:/Mây nước lòng em lạnh ước nguyền.
Trên thực tế, chữ Quốc ngữ đã mang đến cho người dân Việt Nam những giá trị
to lớn ở nhiều phương diện khác nhau. Đặc biệt trong sáng tác của các nhà thơ, nhà
văn – những người luôn coi con chữ là lẽ sống của mình thì chữ viết này đã góp phần
tạo lên một cuộc “cách mạng” thơ ca thực sự ở nước ta trong những năm nửa đầu thế
kỷ XX. Việc sử dụng chữ quốc ngữ trong sáng tác thơ ca của nhóm thơ Bình Định đầu
thế kỷ này đã đạt được giá trị nghệ thuật to lớn. Về đại thể, chữ quốc ngữ đã đóng góp
cho sáng tác của nhóm thơ Bình Định trên ba phương diện chủ đạo: thứ nhất là về mặt
ngữ âm, thứ hai là về mặt ngữ pháp, thứ ba là về mặt từ vựng. Chữ quốc ngữ đã giúp
diễn đạt tư duy logic, thể hiện những tư tưởng cách trọn vẹn và hồn hảo. Nó có vai
trị hết sức quan trọng trong việc mở rộng chức năng của tiếng Việt, là cơ sở để tiếng
Việt phát triển lên cao nhất khả năng vốn có của nó.
Nhìn từ lịch sử sáng tác thơ ca ở nước ta, chúng ta có thể nhìn phân chia theo
các giai đoạn sử dụng chữ viết khác nhau: Thứ nhất là giai đoạn chưa có chữ viết, ở
giai đoạn này sáng tác thơ ca dân gian chiếm vị trí chủ đạo, các bài thơ đồng thời là
các bài hát được sáng tác theo phương thức tập thể và được lưu truyền trong khơng
gian và thời gian bằng hình thức truyền miệng; thứ hai là giai đoạn sáng tác thơ ca
bằng chữ Hán; thứ ba là giai đoạn sáng tác thơ ca bằng chữ Nôm; thứ tư là giai đoạn
HỘI THẢO KHOA HỌC "CHỮ QUỐC NGỮ TẠI BÌNH ĐỊNH"
243
sáng tác thơ ca bằng chữ Quốc ngữ. Trong suốt tiến trình lịch sử thơ ca, có thể nói
ngơn ngữ dân gian và chữ quốc ngữ đã nói lên được tất cả các trạng thái cảm xúc khó
bộc lộ nhất trong con người qua thơ ca. Việc các nhà thơ thuộc nhóm thơ Bình Định
sáng tạo nghệ thuật của mình qua chữ quốc ngữ đã cho thấy rất rõ những ưu điểm
tuyệt đối đó.
Tài liệu tham khảo
1. Hồi Thanh, Hồi Chân : Thi nhân Việt Nam. Nxb Văn học, H, 1999.
2. Hàn Mặc Tử: Đi tìm tác phẩm Lệ Thanh thi tập. Nxb Hồng Đức, 2015.
3. Phan Cự Đệ (biên soạn): Về một cuộc cách mạng trong thi ca phong trào thơ
mới. Nxb Giáo dục, H, 2007.
4. Cao Xuân Hạo: Tiếng Việt và mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa. Nxb
Giáo dục, H, 2007.
5. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hồng Trọng Phiến: Cơ sở ngơn ngữ học và
tiếng Việt. Nxb Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, H, 1991.
6. Trần Nhật Vy: Chữ quốc ngữ 130 năm thăng trầm. Nxb Văn hóa – Văn nghệ,
2013.
KHẢO SÁT MỤC TỪ KINH TẾ CỦA TỪ ĐIỂN VIỆT - BỒ - LA
TRONG SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CHỮ QUỐC NGỮ
Bạch Hồng Việt
TS. Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam
1. Bình Định - Một trong 5 tỉnh/thành của khu vực ven biển Nam Trung bộ, có
vị trí địa - chính trị quan trọng trong nước cũng như mở rộng hợp tác giao thương với
nước ngoài. Đây vốn là vùng đất hoang sơ, nơi cư trú của các dân tộc bản địa, trong
quá trình khai sơn phá thạch, đấu tranh với thiên nhiên đã xây dựng nên một nền văn
hóa rực rỡ với những quần thể tháp đôi, tháp ba và những thành quách kì vĩ. Từ xưa
đến nay, Bình Định không chỉ được biết đến bởi cảnh đẹp tự nhiên, sự thân thiện của
con người, mà còn được khẳng định thông qua bề dầy lịch sử của nền văn hóa Sa
Huỳnh ở Việt Nam.
Bàn về vai trị của tỉnh Bình Định trong việc hình thành và phát triển chữ quốc
ngữ, nhiều tư liệu lịch sử cho thấy, thế kỷ XVI - XVII, các giáo sĩ phương Tây đã đến
Việt Nam truyền đạo, sử dụng mẫu tự La tinh để xây dựng chữ viết tiếng Việt và dùng
nó mơ tả về đời sống kinh tế, văn hóa và xã hội của địa phương phục vụ cơng tác
truyền giáo. Đó chính là cơ sở hình thành nên chữ quốc ngữ ngày nay.
Có thể khẳng định, sự phát triển của chữ quốc ngữ diễn ra trong một thời gian
dài, mà ở đó ngồi sự đóng góp chủ yếu của các giáo sĩ và học giả nước ngồi, cịn có
sự đóng góp rất lớn của người Việt. Trong khn khổ Hội thảo “Bình Định với sự
HỘI THẢO KHOA HỌC "CHỮ QUỐC NGỮ TẠI BÌNH ĐỊNH"
244
hình thành và phát triển chữ quốc ngữ”, báo cáo của chúng tôi tập trung khảo sát các
mục từ kinh tế theo ngành trong Từ điển Việt - Bồ-La (tác giả Alexander de Rhodes,
xuất bản năm 1651 tại Roma) dưới góc độ kinh tế, mà khơng đi sâu phân tích theo
ngơn ngữ hoặc cách viết. Thông qua việc khảo sát các mục từ kinh tế trong từ điển, có
thể rút ra một số nhận định khái quát về bức tranh kinh tế của Việt Nam trong thế kỳ
XVI - XVII.
2. Nói đến sự hình thành và phát triển chữ quốc ngữ ở Việt Nam, đến nay nhiều
nghiên cứu đã khẳng định, việc sáng tạo ra chữ quốc ngữ ở thế kỷ XVI - XVII nhằm
mục đích truyền giáo ở các giáo đường là chủ yếu. Điều đó đã được chứng minh, trong
nhiều thế kỷ, chữ viết này chỉ lưu hành bên trong nhà thờ giáo đường, ít phổ biến rộng
ra ngồi cộng đồng và xã hội (hơn 2 thế kỷ chữ quốc ngữ chỉ được phổ biến giữa các
giáo sĩ và một số giáo dân). Cho đến thế kỷ XIX, sau khi Pháp chiếm ba tỉnh Gia
Định, Định Tường và Biên Hòa, chữ quốc ngữ mới bắt đầu được đưa vào dạy ở trường
Thơng ngơn (Collège des Interprètes) Sài Gịn (năm 1864). Theo đó, việc tuyên truyền,
sử dụng chữ quốc ngữ được mở rộng ra trong cộng đồng và xã hội, với sự khẳng định
của tờ báo "Gia Định báo". Đây là tờ báo quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam, xuất bản
ngày 15/4/1865.
Trở lại với cuốn Từ điển Việt - Bồ - La, chúng ta thấy, cơng trình được biên
soạn nghiêm túc, cơng phu. Có thể coi cơng trình này là dấu mốc quan trọng cho sự
hình thành và phát triển của chữ quốc ngữ ở Việt Nam. Chữ viết trong từ điển được
cấu tạo theo mẫu tự Latinh, dễ học, dễ sử dụng hơn so với các dạng chữ viết khác thời
bấy giờ (chữ Nôm và chữ Nho). Từ điển Việt - Bồ - La (bản mềm pdf) dầy 521 trang,
phần nội dung chính khơng đánh số trang, mà đánh số cột, mỗi trang 2 cột, tất cả có
900 cột, bắt đầu từ chữ A (cột 1) và kết thúc bằng chữ X (cột 900). Cuối sách có phụ
lục đính chính lỗi, cùng với mục lục tra cứu chữ Latinh xếp theo vần A, B, C, bắt đầu
từ AB và kết thúc là ZA. Toàn bộ nội dung của từ điển đã phản ánh khá rõ đời sống
vật chất và tinh thần của người dân như: ăn, mặc, ở, tổ chức gia đình, hơn nhân, sinh
đẻ, tử vong, kỹ thuật canh tác, công cụ sản xuất ... đến phát triển tiểu thủ công nghiệp,
thương mại và dịch vụ.
Việt Nam là quốc gia nông nghiệp, nên hoạt động sản xuất kinh doanh của cư
dân thời đó chủ yếu diễn ra trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, với đặc trưng nổi bật
là trồng lúa, do vậy các hoạt động kinh tế khác đều gắn với sản xuất nông nghiệp.
Khảo sát và phân tích các mục từ của từ điển cho thấy, từ điển có khoảng 9.000 mục
từ, trong đó gần 100 mục từ phản ánh về đời sống kinh tế và hoạt động sản xuất kinh
doanh của người dân. Số mục từ chuyên sâu về kinh tế không nhiều, chủ yếu liên quan
đến đời sống sinh hoạt hơn là hoạt động sản xuất, kinh doanh. Xét theo ngành kinh tế
(nông - lâm - thủy sản, công nghiệp - tiểu thủ cơng nghiệp và thương mại - dịch vụ),
có khoảng 70 mục từ, trong đó trên 30 mục từ liên quan đến nông nghiệp, 23 mục từ
phản ánh hoạt động tiểu thủ công nghiệp và 13 mục từ gắn với hoạt động thương mại
và dịch vụ, cụ thể như sau:
Về nông - lâm - thủy sản, có 02 mục từ phản ánh hoạt động kinh tế liên quan
đến ngành lâm nghiệp là rừng rậm (cột 635), gỗ tạp (cột 725) và 02 mục từ liên quan
đến hoạt động đánh bắt thủy sản tự nhiên là lưỡi câu (cột 433), mổ cá (cột 474). Điều
này cho thấy sự chậm phát triển của mảng từ ngữ trong hoạt động kinh tế lâm nghiệp
và thủy sản, ngay cả việc săn bắt, hái lượm cũng không được đề cập, mặc dù trên thực