Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

TÌNH HÌNH KINH tế TRUNG cận ĐÔNG ĐƯƠNG đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.53 KB, 22 trang )

MỞ ĐẦU
Trung Cận Đông là tên gọi các nước phương Tây dùng để chỉ
vùng lãnh thổ nối tiếp nhau của 3 châu lục: Á, Âu và Phi. Trung
Cận Đông thường được xem là một khái niệm có tính chất ước
lệ, biên giới khu vực thay đổi theo đặc điểm của giai đoạn lịch
sử cụ thể hoặc theo không gian Ả – Rập Hồi giáo, hoặc là theo
quan điểm chiến lược của các nước ngoài khu vực.
Căn cứ theo tiêu chí địa lý, thổ nhưỡng, lịch sử thì vùng này
chia làm 4 tiểu vùng gồm:
1.Bán đảo Ả - Rập với 7 nước: Ả Rập Xê út, Yemen, Oman,
UAE, Quata, Cô – oet và Barain.
2.Tiểu vùng lưỡi liềm phì nhiêu với 6 nước:Iraq, Xyri, Libăng,
Ixrael, Palestin, Gioocđani.
3. Bán đảo tiểu á: Thổ Nhĩ Kì…
4.Tiểu vùng Trung Đông với 2 nước là Apganixtan và Iran.
Toàn bộ các nước Trung Cận Đông chiếm diện tích là 9,6 triệu
km2 và dân số là 300 triệu người (1999).
Nông nghiệp: ở đây chỉ có 14% đất có thể trồng được, họ xây
dựng để làm kênh sản xuất nước ngầm, đưa vào ruộng. Sản
phẩm nông nghiệp chủ yếu là lúa mạch, ngô và kê.
Công nghiệp: Dầu lửa là ngành kinh tế có vai trò chủ đạo.
Năm 1997 các nước này khai thác 672,7 tỉ thùng dầu.
Theo thống kê trong 18 nước sản xuất dầu lửa hàng đầu thế giới,
trong đó có 6 nước thuộc khu vực Trung Cận Đông.Cùng với
ngành công nghiệp chế biến dầu mỏ, công nghiệp khai khoáng
cũng phát triển.
Thương mại là ngành truyền thống của vùng, tuy nhiên đến
thế kỷ XX bị công nghiệp dầu lửa chi phối.


NỘI DUNG


1.

Tiêu chí đánh giá
Nước giàu: thu nhập bình quân đầu người trên 7.000
USD/người. Nước giàu cũng có thể là nước phát triển, cũng có
thể là không phát triển, nhưng nước phát triển là một nước giàu.
Nước phát triển: GDP đạt trên 7.000 USD/người. Có nền
kinh tế phất triển bền vững, đưa ra chiến lược phát triển toàn
diện, có tính khoa học và mang tính khả thi cao. Cấu trúc kinh tế
hợp lý dựa trên nguồn tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân
lực, trong đó tài nguyên nhân lực giữ vai trò chủ đạo. Tạo ra nền
kinh tự chủ tự sinh và phát triển bền vững. Do đó có thể tiếp cận
mọi thành tựu khoa học kỹ thuật của nhân loại để áp dụng vào
công cuộc phát triển kinh tế.
Nước giàu nhưng không phát triển: nước có thu nhập GDP
cao, thậm chí rất cao, luôn cao hơn 7.000 USD/người.Nhưng lại
lệ thuộc chủ yếu vào tài nguyên thiên nhiên chứ không khai thác
tốt và chú trọng đến nguồn tài nguyên nhân lực. Chỉ tận dụng
những nguồn lợi tự nhiên có sẵn, không đưa ra được chiến lược
phát triển kinh tế toàn diện, lâu dài và bền vững, Vì vậy nền
kinh tế mang tính bấp bênh, lệ thuộc và dễ đổ vỡ. Cơ cấu kinh tế
thiếu hợp lý làm nền kinh tế mất cân đối, từ đó không có nền
tảng vững chắc để có thể tiếp thu những thành tựu khoa học kỹ
thuật hiện đại của nhân loại vào công cuộc phát triển kinh
tế.Như thế, dù là những nước giàu có thu nhập rất cao nhưng
nguồn thu nhập đó rất bấp bênh và không ổn định, nền kinh tế
thì mất cân đối và lệ thuộc, không có chiến lược phát triển vững
chắc.



2.
Sự nghiệp phát triển kinh tế và cố kết xã hội ở một số
nước tiêu biểu.
2.1 Israel.
Là nước “phương Tây” duy nhất ở Trung Cận Đông, nước
duy nhất có chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và gặt hái được
nhiều thành tựu to lớn. Cũng là nước duy nhất phát triển trong
khu vực. Từ khi lập quốc (1948) đến nay, Israel đã trải qua hai
giai đoạn phát triển kinh tế với mốc phân kì là 1972.
2.1.1 Giai đoạn 1948-1972: Tạo dựng mô hình phát triển
kinh tế-xã hội đặc thù.
Là quốc gia được tạo lập thông qua phong trào phục quốc nên
nhà nước Israel lập tức bị các nước Ả-rập chống phá.
Nhà nước Israel đang được hình thành, giữa tháng 5 năm 1948,
trong một cuộc chiến với những người Ả rập láng giềng. Những
vấn đề kinh tế trước mắt rất nghiêm trọng: để đảm bảo đủ tiền
chi trả cho cuộc chiến, và để thu hút càng nhiều người nhập cư
càng tốt (ban đầu là những người tị nạn tại các trại ở châu Âu và
Cyprus), để cung cấp các đồ dùng căn bản cho người già và dân
số mới, và để tạo lập một bộ máy chính phủ quan liêu nhằm đối
phó với những thách thức đó. Việc thành lập một chính phủ diễn
ra khá êm xuôi, bởi các định chế bán chính phủ Do Thái vốn đã
phát triển trong thời gian Uỷ trị hiện trở thành các cơ quan của
chính phủ.
Những thoả thuận ngừng bắn được ký kết năm 1949. Tới cuối
năm đó, tổng cộng 340.000 người nhập cư đã tới, và tới cuối
năm 1951 có thêm 345.000 người (những người này gồm cả
người nhập cư từ các nước Ả rập), tăng gấp đôi số dân Do Thái.
Những nhu cầu cấp bách được đáp ứng bằng một chương trình
thắt lưng buộc bụng chặt chẽ và chính sách tài chính lạm phát

của chính phủ, được kìm nén bằng các biện pháp quản lý giá và
cung cấp các nhu yếu phẩm bằng tem phiếu. Tuy nhiên, các vấn


đề như cung cấp nhà cửa và sử dụng lực lượng lao động mới chỉ
được giải quyết dần dần. Một Chính sách Kinh tế Mới được đưa
ra đầu năm 1952. Nó bao gồm việc phá giá trao đổi ngoại tế, dần
giảm các biện pháp quản lý giá và cung cấp tem phiếu, và kìm
chế mở rộng tiền tệ, chủ yếu bằng cách kiềm chế ngân sách.
Những biện pháp khuyến khích nhập cư bị cắt bớt, để chờ đợi sự
hội nhập của những người di cư trước đó.
Từ năm 1950 tới 1965, Israel đã đạt mức tăng trưởng cao: GNP
Thực (Tổng Sản phẩm Quốc dân) tăng trưởng ở mức trung bình
11% và GNP trên đầu người ở mức hơn 6%. Nhân tố nào đã
khiến điều này trở thành hiện thực?Israel may mắn nhận được
những dòng vốn lớn: sự hỗ trợ của Hoa Kỳ dưới hình thức
chuyển vốn và những khoản cho vay đơn phương, sự bồi thường
thiệt hại của Đức và sự hoàn trả các khoản tiền tư nhân, việc bán
Khế ước nợ của Nhà nước Israel ra nước ngoài, và việc đơn
phương chuyển các khoản hoàn trả công cộng, chủ yếu là Cơ
quan Do Thái, vốn chịu trách nhiệm thu hút người nhập cư và
các khu định cư nông nghiệp. Vì thế, Israel có được những
nguồn tài nguyên lớn để sử dụng trong nước – cho tiêu thụ công
cộng và cá nhân và đầu tư - khoảng 25% lớn hơn chính GNP của
họ. Điều này khiến họ có khả năng tiến hành một chương trình
đầu tư ở diện rộng, chủ yếu được cung cấp tài chính thông qua
một khoản ngân sách đặc biệt của chính phủ. Cả những nhu cầu
tội phạm và triết lý xã hội của đảng chính trị lớn trong các liên
minh chính phủ dẫn tới sự can thiệp sâu của chính phủ vào nền
kinh tế.

Ngân sách chính phủ và các biện pháp bảo vệ mạnh mẽ để thay
thế nhập khẩu, cho phép phát triển các ngành công nghiệp mới,
chủ yếu là dệt may, và các khoản trợ cấp giúp tăng trưởng xuất
khẩu, ngoài món hàng xuất khẩu truyền thống là các sản phẩm
cam quýt và gia công kim cương.


Mô hình kinh tế được xây dựng ở thời kì này là kinh tế thị
trường có sự điều tiết tích cực của chính phủ. Đó là một nền
kinh tế có kế hoạch, có chiến lược với tầm nhìn xa dựa trên một
chính phủ thông minh và tài nguyên con người. Xây dựng một
nền kinh tế toàn diện dựa vào trí thức (công nghiệp nặng, nông
nghiệp sinh học và cải tạo sa mạc…). Tốc độ tăng trưởng bình
quân những năm 1948-1975 là 10%.
Theo đuổi mô hình xã hội kiểu thức chủ nghĩa xã hội dân chủ:
chăm lo đời sống vật chất, nhà ở cho nhân dân, nhất là người
mới hồi cư…
2.1.2 Giai đoạn 1973-2013: Đẩy mạnh hiện đại nền kinh tế
quốc dân, hình thành mô hình xã hội hiện đại kiểu phương
Tây.
Israel có một nền kinh tế thị trường phát triển cao cùng với sự
điều tiết tích cực của chính phủ. Nước này nhập khẩu các nhiên
liệu hoá thạch (dầu thô, khí tự nhiên và than đá), ngũ cốc, thịt
bò, các nguyên liệu thô và trang thiết bị quân sự. Dù có nguồn
tài nguyên thiên nhiên hạn chế, nhưng trong những thập kỉ qua
Israel vẫn đã luôn phát triển nhanh, nhất là trong các lĩnh vực
nông nghiệp và công nghiệp. Israel tự túc được phần lớn lương
thực trừ ngũ cốc và thịt bò. Kim cương, kỹ thuật cao, trang thiết
bị quân sự, phần mềm, dược phẩm, hoá chất tinh chế (fine
chemical) và các nông sản (hoa quả, rau và hoa) là những mặt

hàng xuất khẩu hàng đầu của nước này. Israel thường xuyên bị
thâm hụt tài khoản vãng lai, song chúng thường được bù đắp
bằng các khoản tài trợ lớn từ nước ngoài và các khoản vay nước
ngoài. Israel sở hữu nhiều cơ sở lọc dầu, đánh bóng kim cương
và nhà máy sản xuất chất bán dẫn lớn. Theo điều tra của Nhóm
Ngân hàng Thế giới, Israel là nền kinh tế có môi trường kinh
doanh tốt nhất và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nghiêm nhất ở khu
vực Trung Đông mở rộng.


Do theo đuổi chiến tranh liên miên nên Israel luôn trong tình
trạng nhập siêu. Song nhờ sự viện trợ của Mỹ và của người Do
Thái hải ngoại mà đất nước vẫn thực hiện được chiến lược phát
triển kinh tế xã hội định sẵn.
Khoảng một nửa khoản nợ của chính phủ là nợ Hoa Kỳ. Đây
cũng là nước cung cấp viện trợ kinh tế và quân sự chủ yếu cho
Israel. Bình quân hàng năm, Israel nhận từ Mỹ khoảng 5,5 tỷ
USD viện trợ. Một tỷ lệ lớn nợ nước ngoài của Israel do các nhà
đầu tư cá nhân nắm giữ, thông qua chương trình Trái phiếu
Israel. Những đảm bảo của Mỹ cho các khoản vay của Israel và
các nhà đầu tư cá nhân có thể đầu tư trực tiếp vào đó giúp cho
lãi suất của những khoản vay này rất thấp và thỉnh thoảng còn
thấp hơn tỷ lệ thị trường.
Dòng người Do Thái nhập cư từ Liên bang Xô Viết cũ lên tới
cực đại khoảng 750.000 người trong giai đoạn 1989–1999, khiến
tổng số người Do Thái đến từ Liên Xô lên tới con số một triệu
(1/6 tổng dân số), làm tăng thêm nguồn chuyên gia và nhà khoa
học- nhân tố làm tăng đáng kể giá trị nền kinh tế trong tương lai.
Dòng người nhập cư, cộng với sự mở cửa của những thị trường
mới từ cuối Chiến tranh Lạnh, đã tạo thêm sức mạnh mới cho

kinh tế Israel, làm nó tăng trưởng nhanh chóng trong những năm
đầu thập kỷ 1990. Nhưng tăng trưởng đã chậm lại vào năm 1996
khi chính phủ áp đặt những chính sách tiền tệ và thuế chặt chẽ
cũng như ngừng trợ cấp nhập cư. Các chính sách đó khiến lạm
phát đã xuống mức thấp kỷ lục vào năm 1999.
Về kinh tế: Hình thành một cơ cấu kinh tế phát triển toàn diện
và hiện đại. Tỉ trọng cụ thể: Công nghiệp chiếm 17%, nông
nghiệp: 2% và dịch vụ: 81% GDP.
Những vấn đề kinh tế nghiêm trọng phát sinh do ngân sách quốc
phòng lớn và hoàn cảnh chính trị đã cản trở thương mại giữa
Israel và các nước láng giềng. Israel là một trong những nước


xuất khẩu nhiều nhất hoa quả họ chanh bưởi. Phần lớn diện tích
của Israel được canh tác do các tập thể và hợp tác xã. Tài
nguyên của Israel nghèo. Gia công kim cương nhập khẩu là
nguồn thu ngoại tệ chủ yếu. Du lịch đến các vùng đất Thánh
cũng đóng vai trò quan trọng cho nguồn thu ngân sách; Xuất
khẩu đạt 23,5 tỷ USD, nhập khẩu 30,6 tỷ USD; nợ nước ngoài:
18,7 tỷ USD.
Nông nghiệp, khoa học - kỹ thuật và quản lý kinh tế rất tiên tiến.
Israel là một trong số những nước có thu nhập đầu người cao
trên thế giới; sản xuất thực phẩm, kim cương đã chế tác, hàng
dệt, thiết bị điện, giao thông, thiết bị quân sự, hàng điện tử công
nghệ cao; sản xuất điện năng đạt 35,4 tỷ kWh, tiêu thụ 31,8 tỷ
kWh
a.
Công nghiệp
Các ngành công nghiệp kỹ thuật cao đã chiếm vai trò quan trọng
trong nền kinh tế, đặc biệt là trong thập kỷ 1990. Những hạn chế

về nguồn tài nguyên thiên nhiên và mức đầu tư cao cho giáo dục
đã đóng vai trò lớn trong việc hướng công nghiệp vào lĩnh vực
kỹ thuật cao, dẫn tới thành công của Israel trong phát triển các
kỹ thuật tiên tiến trong phần mềm, thông tin và khoa học đời
sống. Israel thường được coi là Thung lũng Silicon thứ hai.
Israel có ngành công nghiệp hóa chất phát triển cao với nhiều
sản phẩm nhắm đến thị trường xuất khẩu Công nghiệp kim
cương. Israel là một trong ba trung tâm hàng đầu thế giới về
đánh bóng kim cương, bên cạnh Bỉ và Ấn-độ. Năm 2012, xuất
khẩu ròng kim cương đã đánh bóng của Israel giảm 22.8% còn
5,56 tỷ đô-la từ mức 7,2 tỷ đô-la năm 2011. Xuất khẩu ròng kim
cương thô giảm 20,1% còn 2,8 tỷ đô-la, nhập khẩu ròng kim
cương thô giảm 12,9% còn 3,8 tỷ đô-la. Xuất và nhập khẩu ròng
giảm là do cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, nhất là đối với
khu vực đồng Euro và Mỹ. Mỹ là thị trường lớn nhất chiếm 36%


tổng thị trường xuất khẩu kim cương đã đánh bóng, Hồng Kông
xếp thứ hai với 28% và Bỉ xếp thứ ba với 8%.
-Công nghiệp quốc phòng
Israel là một trong những nhà xuất khẩu hàng đầu về các trang
thiết bị quân sự, chiếm 10% thị trường thế giới năm 2007. Israel
có 3 công ty nằm trong danh sách năm 100 công ty cung cấp vũ
khí và dịch vụ quân sự hàng đầu thế giới năm 2010 của Viện
Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm: Elbit Systems, Israel
Aerospace Industries và RAFAEL. Công nghiệp quốc phòng ở
Israel là một ngành quan trọng về mặt chiến lược và cũng là một
nhà tuyển dụng lớn trong nước. Nó là một người chơi lớn trong
thị trường vũ khí toàn cầu và là nhà xuất khẩu vũ khí đứng thứ
11 trên thế giới năm 2012. Tổng giá trị chuyển giao vũ khí từ

năm 2004 đến 2011 đạt 12,9 tỷ đô-la. Có hơn 150 công ty quốc
phòng có trụ sở ở Israel với tổng doanh thu hằng năm là 3,5 tỷ
đô-la. Xuất khẩu trang thiết bị quốc phòng của Israel đạt 7 tỷ đôla năm 2012, tăng 20% so với năm 2011. Hầu hết hàng được
xuất đi châu Âu và Mỹ. Những khu vực mua nhiều thiết bị quốc
phòng của Israel bao gồm Đông Nam Á và Mỹ La Tinh. Ấn-độ
là thị trường vũ khí lớn nhất của Israel. Israel được xem là nhà
xuất khẩu máy bay không người lái hàng đầu trên thế giới. Theo
Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm, Israel đứng đằng
sau 41% số máy bay không người lái được xuất khẩu trong giai
đoạn 2001 -2011
GDP danh nghĩa bình quân đầu người của Israel vào 28 tháng 7
năm 2005 là 19.248 Dollar Mỹ (đứng thứ 30 trên thế giới), còn
GDP bình quân đầu người tính theo sức mua tương đương là
26.200 USD (cao thứ 26 trên thế giới). Khả năng sản xuất toàn
thể (overall productivity) của Israel là 54.510,40 Dollar, và số
lượng bằng phát minh được cấp là 74/1.000.000 người.
b.
Nông nghiệp


Hầu hết ngành nông nghiệp Israel dựa trên các nguyên tắc về
hợp tác có từ đầu thế kỷ thứ XX. Hai loại hợp tác độc đáo:
Kibbutz, một cộng đồng trong đó sản phẩm làm ra được sở hữu
chung và thành quả lao động của cá nhân đem lại lợi ích cho
mọi người; Moshav, một dạng làng nông nghiệp trong đó mỗi
gia đình sở hữu riêng đất đai trong khi việc mua bán và tiếp thị
được thực hiện chung trong sự hợp tác. Cả 2 loại hình cộng
đồng đều nhằm giúp hiện thực hóa giấc mơ của những người
tiên phong muốn có những cộng đồng công bằng, hợp tác và
tương trợ lẫn nhau nhưng cũng đồng thời tạo ra lợi thế về năng

suất. Ngày nay, 76% nông sản quốc gia là sản phẩm từ các
Kibbutz và Moshav, cũng như rất nhiều thực phẩm đóng hộp.
Trên vùng đất khô cằn và thiếu nước này, người Do Thái đã cải
tạo và biến Israel trở thành “ốc đảo”, là “vườn rau” của châu Âu
trong mùa đông với một nền nông nghiệp có năng suất và hiệu
quả cao nhất thế giới. Với một số dân làm nông nghiệp ít ỏi (chỉ
2,5% trên tổng số gần 8 triệu dân), Israel không chỉ tự túc “an
ninh lương thực”, cung cấp đủ lương thực, thực phẩm chất
lượng cao cho mình, mà mỗi năm nông nghiệp đem về 3,5 tỷ
USD từ xuất khẩu. Một ha đất nông nghiệp của Israel có thể
trồng được tới 300 tấn cà chua bi, còn “Cô gái Do Thái” (bò
Israel) cho ra sản lượng sữa tới 12 tấn/năm, so với 9 tấn của “Cô
gái Hà Lan”. 2,8% GDP Israel là từ nông nghiệp. Trong tổng số
lao động trên toàn lãnh thổ là 2,7 triệu người, 2,6% làm việc
trong sản xuất nông nghiệp và 6,3% trong các dịch vụ liên quan
đến nông nghiệp. Trong khi Israel nhập khẩu một lượng lớn ngũ
cốc (xấp xỉ 80% lượng tiêu thụ), thì nước này đã gần như tự sản
xuất được các sản phẩm nông nghiệp và thực phẩm đóng gói
khác. Trong nhiều thế kỷ, nông dân đã trồng được nhiều loại trái
cây khác nhau thuộc chi cam chanh như bưởi, các loại cam, các
loại chanh. Trái cây thuộc chi cam chanh là mặt hàng nông


nghiệp xuất khẩu chính của Israel. Bên cạnh đó, Israel cũng là
nước hàng đầu về xuất khẩu các thực phẩm được trồng trong
nhà kính. Israel xuất khẩu hơn 1,3 tỷ USD sản phẩm nông
nghiệp mỗi năm, ngoài ra còn xuất khẩu 1,2 tỷ USD các sản
phẩm và công nghệ đầu vào cho nông nghiệp
Một số nguyên nhân chính:
Khoa học nông nghiệp phát triển: Các nhà khoa học Do Thái

nghiên cứu, lai tạo các cây trồng thích hợp với thổ nhưỡng khắc
nghiệt (chịu nhiệt độ cao, khô cằn cần ít nước), nhưng lại cho
năng suất cao;
Sử dụng có hiệu quả và triệt để “vàng trắng” là nước. Israel là
nước đi đầu trên thế giới về công nghệ tái sử dụng nước (khoảng
70% lượng nước đã qua sử dụng); công nghệ biến nước biển
thành nước lợ hoặc nước ngọt; công nghệ tưới nhỏ giọt (họ
không dùng tưới phun vì lãng phí nước). Chẳng hạn, nước biển
được dẫn vào các trang trại nuôi cá nước lợ (sau khi đã khử độ
mặn); còn nước nuôi cá lại được tái sử dụng để tưới cây. Hệ
thống tưới nước nhỏ giọt với các đường ống dẫn nước tới từng
cây trồng trong với hệ thống máy tính đo độ ẩm, mức độ hấp thụ
của cây để tự động điều chỉnh lượng nước tưới nhỏ giọt cho phù
hợp.
c.
Dịch vụ.
Khu vực dịch vụ phát triển vững chắc dựa trên nền kĩ thuật cao,
hướng đến chuyển giao công nghệ và thỏa mãn các nhu cầu
trong nước và quốc tế và các tài nguyên du lịch văn hóa lịch sử
phong phú.
Một ngành kinh tế hàng đầu khác là du lịch nhờ số lượng đông
đảo các địa điểm di tích lịch sử của cả Do Thái giáo và Kitô giáo
cũng như khí hậu ấm áp và khả năng tiếp cận các nguồn nước
của Israel. Du lịch là một nguồn thu lớn của nền kinh tế Israel,
thu hút 3,54 triệu khách quốc tế năm 2013, với tốc độ tăng bình


quân là 2,5% từ năm 2008 với đỉnh điểm là 3% kể từ năm 2012.
Israel có rất nhiều di tích lịch sử và tôn giáo, khu nghỉ mát bờ
biển, địa điểm tham quan khảo cổ, địa điểm tham quan di sản và

du lịch sinh thái.
Israel có số lượng bảo tàng tính trên đầu người cao nhất thế giới.
Địa điểm tham quan thu phí thu hút nhiều du khách nhất là pháo
đài Masada.
Những danh thắng dành cho du lịch, nghỉ ngơi và giải trí: Thành
phố cổ Giê-ru-xa-lem, núi Di-lon, Ta-xpha Hai-pha, biển chết
Ten A-víp, Núi Be-a-ti-tu-dơ, Bet-thơ-lem..
Về xã hội:
Thể chế nhà nước - Theo thể chế Dân chủ nghị viện, chế độ
chính trị đa đảng và hệ thống chính trị đa tầng (chính phủ, công
đoàn và các đoàn thể quần chúng). Hình thành mô hình chủ
nghĩa tư bản hiện đại mô hình Tây Âu, nhà nước giữ chức năng
chỉ đạo, điều tiết các vấn đề kinh tế-xã hội, gọi là “Nhà nước
phúc lợi xã hội chung”. Phúc lợi xã hội được phân bổ khá hài
hòa. Nhà nước xây dựng các khu định cư cung cấp nhà ở xã hội
cho dân chúng nhất là những người mới nhập cư, chênh lệc giàu
nghèo không quá sâu… Trên cơ sở nền kinh tế phát triển mạnh
mà thu nhập bình quân đầu người không ngừng gia tăng, đạt
mức các nước phương Tây.
Người dân được bảo hiểm y tế do Nhà nước đài thọ. Cho cả y tế
tư nhân hoạt động. Thiết bị và chất lượng dịch vụ y tế hiện đại
và cao. Mặt khác, một số chức năng kinh tế của chính phủ đã
tăng lên: một hệ thống y tế quốc gia được đưa ra, dù các nhà
cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế tư nhân vẫn tiếp tục tham gia
vào trong hệ thống y tế quốc gia. Các khoản chi phí xã hội, như
trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp cho trẻ em, trợ cấp cho người già và
hỗ trợ thu nhập tối thiểu, được mở rộng liên tục, cho tới khi
chúng chiếm một phần lớn trong chi phí ngân sách nhà nước.



Tới năm 2003, 15% ngân sách chính phủ chi cho những dịch vụ
y tế, 15% cho giáo dục và 20% nữa cho những khoản chi thông
qua Cơ quan Bảo hiểm Quốc gia.
Số người biết đọc, biết viết 95%, nam: 97%, nữ: 93%.
2.2 Ả Rập Saudi
Ả Rập Saudi là hình ảnh ngược lại về mặt kinh tế xã hội so với
Israel từ khi lập quốc. Ả Rập Saudi không thể đưa ra một chiến
lược phát triển kinh tế hợp lý. Là một nước giàu (nhờ dựa trên
nguồn tài nguyên dầu mỏ) nhưng không phát triển, thu nhập bấp
bênh. Chỉ thuận lợi phát triển công nghiệp dầu mỏ, rất bất lợi
trong phát triển nông nghiệp.
Về kinh tế: Cơ cấu kinh tế lạc hậu: Công nghiệp: 6%; Nông
nghiệp: 53%; Dịch vụ: 41%.
a.
Công nghiệp.
Ả Rập Saudi có nền kinh tế dựa trên dầu lửa với sự kiểm soát
chặt chẽ của chính phủ trên mọi hoạt động kinh tế chính. Việc
khám phá ra dầu mỏ vào tháng 3 năm 1938 đã làm đất nước này
thay đổi toàn bộ về mặt kinh tế và mang lại cho vương triều tính
chính thống to lớn trong nhiều năm. Với giá thành khai thác rất
rẻ chỉ bằng 1/9 so với nơi khác Mỹ đã can thiệp và kí với chính
phủ Ả Rập Saudi hiệp ước Hợp đồng Kinh tế . Công nghiệp khai
thác và chế biến dầu mỏ do ba nhân tố chi phối và thụ hưởng:
Chính phủ (Hoàng tộc), Tư bản nước ngoài (Mỹ) và bốn triệu
công nhân kĩ thuật nước ngoài (có trình độ cao trong khi đó
người Ả Rập không chịu đầu tư phát triển giáo dục nên trình độ
thấp). Năm 2003, Ả Rập Saudi tuyên bố sở hữu 260,1 tỷ barrel
dự trữ dầu, chiếm khoảng 24% tổng lượng dự trữ dầu mỏ đã
được chứng minh của thế giới. Họ là nước xuất khẩu dầu lớn
nhất thế giới và đóng vai trò quyết định trong OPEC. Hơn nữa,

nguồn dự trữ dầu được chứng minh ngày một tăng thêm khi các
giếng dầu không ngừng được phát hiện, trái ngược với hầu hết


các nước sản xuất dầu khác. Năm 2004 lượng dầu mỏ sản xuất
lên tới 9.5 triệu thùng/ ngày, chiếm 11,3% thế giới. Lĩnh vực dầu
khí chiếm gần 75% thu nhập, 40% GDP, và 90% nguồn thu từ
xuất khẩu. Khoảng 35% tới từ lĩnh vực tư nhân. Ả Rập Saudi là
một nước đóng vai trò quan trọng trong những nỗ lực của OPEC
và các nước sản xuất dầu khác nhằm tăng giá dầu năm 1999 tới
mức cao nhất kể từ Chiến tranh vùng vịnh bằng cách cắt giảm
sản lượng. Ả Rập Saudi thông báo các kế hoạch tư nhân hóa các
công ty điện lực năm 1999, tiếp theo sự tư nhân hóa các công ty
viễn thông. Chính phủ đang được trông đợi tiếp tục kêu gọi tăng
trưởng lĩnh vực tư nhân để giảm bớt sự phụ thuộc của đất nước
vào dầu mỏ và tăng các cơ hội việc làm cho dân số đang tăng
thêm của họ. Sự thiếu hụt nguồn nước và mức tăng dân số cao
có thể cản trở những nỗ lực của chính phủ nhằm tăng khả năng
tự cung cấp các sản phẩm nông nghiệp.
Trong những năm 90 của thế kỷ trước, Ả Rập Saudi đã trải qua
một thời kỳ khó khăn khi nguồn thu từ dầu mỏ giảm sút và tốc
độ gia tăng dân số ở mức cao. Chính phủ đã đưa ra kế hoạch tư
nhân hóa một số lĩnh vực kinh tế và phát triển kinh tế tư nhân
trong công nghiệp và nông nghiệp nhưng không thành công.
Song, dân số tăng nhanh, thiếu nước và môi trường xã hội
truyền thống ở đây đã cản trở kế hoạch này. Bên cạnh đó nền
kinh tế kém phát triển, tài sản nằm trong tay hoàng gia nên
những người dân bình thường không thể thành lập công ty tư
nhân của mình.
Để đa dạng hóa nền kinh tế, Ả Rập Saudi đã xây dựng một

thành phố mới ở bờ biển phía tây với khoản đầu tư vượt quá
26.6 tỷ đô-la Mỹ. Thành phố được đặt tên là "Thành phố Công
nghiệp Vua Áp-đu-la" nằm gần thành phố công nghiệp alRabegh phía bắc Giê-đa. Thành phố mới, với công việc xây
dựng được bắt đầu tiến hành từ tháng 5, 2005 gồm một bến


cảng, lớn gấp mười lần cảng lớn nhất thế giới - Rốt-téc-đam - có
thể tiếp nhận những tàu thủy khổng lồ cũng như một vùng công
nghiệp dành cho lĩnh vực hóa dầu, dược phẩm và nghiên cứu.
Thành phố này sẽ trải dài 35 km dọc theo bờ biển, gồm cả một
thành phố giáo dục, một khu du lịch và một trung tâm chứng
khoán nhưng không khả quan.
b.
Nông nghiệp:
Khí hậu và thổ nhưỡng rất bất lợi cho phát triển, nhất là phát
triển kinh tế nông nghiệp. Đất đai chủ yếu là sa mạc, lượng mưa
mỗi năm trung bình 100mm, bên cạnh đó không có con sông
nào có nước quanh năm. Ngoài ra Ả Rập Saudi yếu truyền thống
kinh tế.
Với khí hậu khắc nghiệt không thuận lợi cho nuôi trồng tự nhiên
nên Chính phủ đã thực sự đầu tư phát triển ngành nông nghiệp
bằng cách khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư vào nông
nghiệp qua các gói trợ cấp, giảm lãi cho vay, cấp miễn phí đất
trống. Bên cạnh đó, chính phủ thực hiện xây dựng hệ thống cơ
sở hạ tầng như đường giao thông, công trình thủy lợi, kênh
mương thoát nước, dịch vụ bảo vệ kiểm dịch, cung cấp gói
nghiên cứu và đào tạo cho người lao động làm việc trong lĩnh
vực nông nghiệp. Hiện nay, các sản phẩm nông nghiệp chính của
Ả Rập Saudi là lúa mỳ, lúa mạch, cà chua, khoai tây, dưa hấu,
cam, quýt, cà chua, dưa chuột, quả chà là, cà tím, thịt cừu, thịt

gà, trứng, sữa.
Ả Rập Saudi đã khắc phục được thiên nhiên khắc nghiệt để
không những sản xuất đủ lượng lương thực cho người dân mà
còn xuất khẩu sang các quốc gia khác.
c.
Dịch vụ:
Các ngành dịch vụ ở Ả Rập Saudi khá đa dạng, bao gồm du lịch,
bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng, trong đó ngành du
lịch được khách du lịch trên thế giới biết đến ngày càng nhiều.


Cụ thể là chỉ số BMI (Business Monitor Intelligence) cho tăng
trưởng trong ngành du lịch là 6,7% trong năm 2014, thời báo
The Guardian dự đoán sẽ có 25 triệu khác đến với Ả Rập Saudi
vào năm 2025, gấp đôi con số hiện nay.
Hình thức du lịch phổ biến được biết đến là du lịch tôn giáo (các
cuộc hành hương đến hai nhà thờ nổi tiếng linh thiêng là Mecca
và Medina), du lịch y tế (khách du lịch tiến hành nghỉ ngơi và
chữa bệnh ở đây), du lịch nội địa (dành cho công dân nước này
với các lễ hội được tổ chức trên toàn quốc cùng các sự kiện thể
thao, giải trí, văn hóa, mở ra các bảo tàng mới trưng bày di sản
văn hóa của Ả Rập Saudi).
Về xã hội:
Thể chế trung ương của Chính phủ Ả Rập Saudi là chế độ quân
chủ chuyên chế, không có hiến pháp và quốc hội. Vua nắm mọi
quyền hành, Ả Rập Saudi theo chế độ đẳng cấp hồi giáo, bất
bình đẳng giai cấp đẳng cấp, bất bình đẳng giới, hạn chế lớn đối
với sự phát triển xã hội. Tuy chính phủ rất quan tâm đến giáo
dục, nâng cao dân trí nhưng các rào cản xã hội vẫn đang gây cản
trở cho xu hướng bình đẳng hóa, dân chủ hóa xã hội. Cho đến

nay nước này vẫn chỉ được coi là một nước giàu nhưng không
phát triển. Thu nhập bình quân đầu người rất bấp bênh có xu
hướng sụt giảm. Nếu năm 1981: 19.000 USD/người, thì năm
1998: 9.000, đến năm 2001 chỉ còn lại 7.000. Mặc dù chính phủ
thực hiện đầu tư khá mạnh về xã hội, nhất là kinh tế giáo dục
nhưng do những hạn chế về mặt xã hội, những chính sách này
không phát huy được sức mạnh khi chưa tạo nền tảng để phát
triển kinh tế. Nguyên nhân: Nền kinh tế này phụ thuộc các tài
nguyên thiên nhiên chứ không phải tài nguyên nhân lực. Thu
nhập bình quân đầu người khá cao, nhưng thu nhập tăng theo giá
dầu. Ả Rập Saudi có thể đưa ra chiến lược phát triển kinh tế
nhưng không thành công, không có chiến lược để phát triển kinh


tế hợp lý và hiệu quả. Là nước có dầu mỏ dễ khai thác nhưng
không thể biến lợi thế này để đa dạng hóa nền kinh tế. Ngoài ra
dân số tăng quá nhanh, lại lệ thuộc vào Mỹ, chính phủ phải trả
số tiền nuôi quân đội Mỹ (khoảng 60 tỷ USD). Vì nền kinh tế
bấp bênh nên không có khả năng đảm nhận các lĩnh vực khác.
2.3 Ap-ga-ni-xtan.
Là một trong những nước chậm phát triển nhất và nghèo nhất
khu vực. Những năm 80 dân số nước này có 1.5 triệu người là
dân du mục, là nước có nhiều bộ lạc. Lại nằm ở vị trí địa lý điển
hình chịu sự giao du của nhiều nền văn hóa khác nhau.
Sau thế chiến thứ nhất nước Nga Xô Viết kí hiệp ước bình đẳng
đầu tiên. Sau này bị Nga-Anh-Pháp-Mỹ tranh chấp và duy trì
chế độ phong kiến tập quyền trở thành một nước vùng đệm.
Ap-ga-ni-xtan là đất nước ngã tư đường nơi nhiều nền văn minh
Ấn-Âu đã tương tác và thường xung đột với nhau và đây cũng là
một vị trí quan trọng của hoạt động thời cổ.

Từ những năm 1919-1945 là vùng tranh chấp của các cường
quốc như Liên Xô, Anh, Đức, Mỹ…
Những năm 1945-1979 là vùng tranh chấp của các nước Liên
Xô- Mỹ.
Từ 1979-1993 Đảng Xã hội Dân chủ đã lãnh đạo đất nước
giành được chính quyền kêu gọi sự giúp đỡ của Liên Xô. Đây là
thời kì bị Liên Xô chi phối trực tiếp. Khi Liên Xô vào khống chế
khu vực này nổi lên tình trạng rất phức tạp khi đó Liên Xô mâu
thuẫn với Mỹ và Trung Quốc ở Ap-ga-ni-xtan.
Từ những năm 1993-2001 bất ổn dưới thời Taliban (lực lượng
khủng bố ở Trung Đông) gây ra nhiều tình trạng bất ổn.
Như vậy có thể thấy đất nước Ap-ga-ni-xtan không có khoảng
thời gian yên bình để phát triển đất nước.
Về kinh tế:


Ap-ga-ni-xtan là một nước rất nghèo, một trong những nước
nghèo và kém phát triển nhất thế giới. Hai phần ba dân số nước
này sống với chưa đến 2 dollar Mỹ một ngày. Nền kinh tế đã
phải chịu rất nhiều ảnh hưởng tiêu cực từ tình trạng bất ổn chính
trị và quân sự từ cuộc chiến tranh xâm lược của Xô viết từ năm
1979 và những cuộc xung đột tiếp sau đó, ngoài ra tình trạng
hạn hán nặng nề cũng gây rất nhiều khó khăn cho đất nước này
trong giai đoạn 1998-2001.
Dân số tham gia tích cực vào hoạt động kinh tế năm 2002
khoảng 11 triệu người (trong tổng cộng khoảng 29 triệu). Tuy
không có con số chính thức về tỷ lệ thất nghiệp, ước tính khoảng
3 triệu người, và dường như tăng thêm khoảng 300.000 người
mỗi năm.
Tuy nhiên, Ap-ga-ni-xtan đã đạt được mức hồi phục và tăng

trưởng kinh tế đáng khâm phục từ năm 2002.
Một trong những định hướng chính của việc khôi phục kinh tế
hiện nay là hồi hương cho hơn 4 triệu người tị nạn từ các quốc
gia và phương Tây, những người sẽ mang theo về nguồn nhân
lực mới, mối quan hệ, tay nghề cũng như nguồn vốn cần thiết
cho việc khởi động lại nền kinh tế. Một yếu tố tích cực khác là
con số viện trợ từ 2 đến 3 tỷ dollar mỗi năm từ cộng đồng quốc
tế, việc hồi phục một phần lĩnh vực nông nghiệp, và việc tái xây
dựng các định chế kinh tế. Những kế hoạch phát triển khu vực tư
nhân cũng đang được tiến hành. Con số thâm hụt tài khoản vãng
lai của nước này hiện được bù đắp phần lớn bởi khoản tiền từ
các nhà tài trợ, chỉ một phần nhỏ – khoảng 15% – được lấy từ
ngân sách chính phủ. Số còn lại được chia cho các khoản chi
tiêu không thuộc ngân sách và những dự án do nhà tài trợ chỉ
định thông qua hệ thống Liên hiệp quốc và các tổ chức phi chính
phủ. Chính phủ có một quỹ trung ương chỉ 350 triệu dollar năm
2003 và ước tính đạt 550 năm 2004. Tổng dự trữ ngoại tệ quốc


gia khoảng 500 triệu dollar. Nguồn thu đa số từ hải quan, bởi các
nguồn thuế thu nhập và thuế doanh nghiệp rất nhỏ nhoi.
Lạm phát từng là vấn đề nghiêm trọng tại nước này trước năm
2002. Tuy nhiên, việc hạ giá đồng Afghani năm 2002 sau khi
đồng tiền mới được đưa vào lưu hành (1.000 Afgani cũ tương
đương 1 Afghani mới) cộng với tình trạng ổn định hơn so với
trước kia đã giúp giá cả ổn định và thậm chí giảm bớt trong giai
đoạn tháng 12 năm 2002 và tháng 2 năm 2003, phản ánh sự ưa
thích với đồng Afghani mới. Kể từ đó, chỉ số lạm phát đã trở nên
ổn định, hơi tăng vào cuối năm 2003.
Chính phủ Ap-ga-ni-xtan và các nhà tài trợ quốc tế dường như

muốn chú trọng vào cải thiện các lĩnh vực nhu cầu then chốt,
phát triển cơ sở hạ tầng, giáo dục, nhà ở và cải cách kinh tế.
Chính phủ trung ương cũng tập trung vào việc cải thiện tình
trạng lỏng lẻo trong chi trả lương và chi tiêu công cộng. Việc tái
thiết lĩnh vực tài chính dường như cần một thời gian lâu dài để
đạt tới thành công. Hiện tiền có thể được chuyển ra và vào đất
nước thông qua các kênh ngân hàng chính thức. Từ năm 2003,
hơn mười bốn ngân hàng mới đã được thành lập trong nước,
gồm cả Standard Chartered Bank, Afghanistan International
Bank, Kabul Bank, Azizi Bank, First MicroFinanceBank, và các
ngân hàng khác. Một luật mới về đầu tư tư nhân đã quy định
khoảng thời gian ưu đãi thuế từ ba tới bảy năm cũng như khoảng
thời gian bốn năm miễn trừ thuế xuất khẩu nhằm khuyến khích
các công ty.
Kế hoạch trị giá 9 tỷ dollar nhằm phát triển Kabul thành một đô
thị hiện đại tương lai, Thành phố ánh sáng.
Một số dự án đầu tư tư nhân, với sự hỗ trợ của nhà nước, cũng
đang hình thành tại Ap-ga-ni-xtan. Một bản thiết kế ý tưởng ban
đầu được gọi là Thành phố ánh sáng, do Tiến sỹ Hisham N.
Ashkouri, Giám đốc ARCADD, đề xuất cho một dự án phát


triển và thực hiện dựa trên cơ sở đầu tư hoàn toàn tư nhân đã
được đề xuất với mục tiêu hình thành một khu đa chức năng
thương mại, lịch sử và phát triển văn hóa bên trong Thành phố
Cổ Kabul dọc bờ nam Sông Kabul và dọc Đại lộ Jade Meywand,
đem lại sức sống mới cho một trong những khu vực thương mại
và lịch sử quan trọng nhất bên trong Thành phố Kabul, với nhiều
thánh đường và lăng mộ lịch sử cũng như các khu vực hoạt động
thương mại đã bị tàn phá trong chiến tranh. Trong bản thiết kế

này cũng bao gồm một phức hợp cho Bảo tàng Quốc gia Ap-gani-xtan.
a.
Công nghiệp:
Đất nước này có tiềm năng để nhanh chóng thoát khỏi tình trạng
nghèo đói để trở thành một quốc gia ổn định. Nhiều bản báo cáo
cho thấy đất nước sở hữu nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên và
khoáng sản quan trọng, có giá trị trên thị trường thế giới. Nước
này có thể sở hữu tới 36 nghìn tỷ feet khối khí tự nhiên, 3,6 tỷ
barrel dầu mỏ và tới 1.325 triệu barrel khí gas hóa lỏng. Điều
này có thể đánh dấu bước ngoặt trong những nỗ lực tái thiết Apga-ni-xtan. Xuất khẩu dầu mỏ có thể mang lại nguồn thu Ap-gani-xtan cần để hiện đại hóa cơ sở hạ tầng và mở rộng các cơ hội
kinh tế cho đất nước. Những báo cáo khác cho rằng nước này có
khá nhiều nguồn tài nguyên vàng, đồng, than, quặng sắt và các
khoáng sản giàu khác.
Đất nước này có nhiều mỏ quặng, than và sắt nhưng việc khai
thác rất kém.
Sản xuất điện năng 430 triệu kwh, nhiệt điện 42%, thủy điện
58%, tiêu thụ 510 triệu kwh, phải nhập khẩu 110 triệu kwh. Xuất
khẩu đạt 80 triệu USD, nhập khẩu 150 triệu USD và nợ nước.
Giá trị GDP thực, không tính thuốc phiện, đã tăng 29% năm
2002, 16% năm 2003, 8% năm 2004 và 14% năm 2005. ngoài
5,5 tỉ USD.


b.

Nông nghiệp:
Phần đất đai sử dụng được là đồng cỏ chăn nuôi cừu, ngũ
cốc, đặc biệt là lúa mì và ngô cũng đóng vai trò quan trọng.
Cây thuốc phiện được trồng ở nhiều nơi nhất là ở dưới thời
Taliban. Một phần ba GDP Ap-ga-ni-xtan có từ hoạt động trồng

cây anh túc và buôn bán trái phép các loại chất có nguồn gốc
hay có dẫn xuất từ thuốc phiện, morphine và heroin, cũng như
sản xuất hashish (nhựa cần sa).
Nông nghiệp giờ đây là nguồn thu nhập chính của Afghanistan,
chiếm tới 53% tổng sản phẩm trong nước (GDP) và sử dụng
khoảng 67,2% lực lượng lao động. Ở Ap-ga-nix-tan, các loại cây
lương thực chính là lúa mạch, lúa mỳ, lúa gạo, bắp, khoai tây, củ
cải đường và mía đường. Sản phẩm thịt chủ yếu là bò, gà, lạc đà
và cừu. Nếu tính về giá trị thì các loại nông sản xuất khẩu lớn
nhất trong năm 1998 là da dê, nho, bông và vật liệu hữu cơ. Các
sản phẩm xuất khẩu chính là len, bông, hoa quả tươi và khô, khí
đốt khai thác tại các đồng bằng phía bắc cũng được xuất khẩu.
Tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản trong năm này đạt gần 90
triệu USD, nhưng nhập khẩu lên tới 190 triệu USD.
c.
Dịch vụ:
Những danh thắng dành cho du lịch, nghỉ ngơi và giải trí: Nhiều
tượng phật được tạc vào núi đá cao trên 50 m. xây dựng từ thế
kỷ II sau Công nguyên nhưng hai trong số những bức nổi tiếng
nhất (đã bị tàn phá tháng Ba năm 2001) nhiều nhà thờ đạo Hồi
nổi tiếng.
Về xã hội:
Cuộc nội chiến suốt 23 năm (1978-2001) gây ra cảnh “nồi
da nấu thịt”, đất nước bị tàn phá làm cho nền kinh tế kiệt quệ.
Người dân đói khổ đã bỏ chạy sang Iran và các nước láng giềng
khác…


Chính trị Ap-ga-ni-xtan từ lâu đã bao gồm nhiều cuộc tranh
giành quyền lực, đảo chính đẫm máu, và những cuộc chuyển

giao quyền lực trong tình trạng bất ổn. Đất nước này đã trải qua
hầu như tất cả các hệ thống chính phủ trong thế kỷ qua, từ quân
chủ, cộng hòa, chính trị thần quyền tới quốc gia cộng sản.
Mặc dù chính phủ đưa ra một số dự án, những dự án đó sẽ giúp
xây dựng lại một cơ sở căn bản của quốc gia trong tương lai
nhưng hiện tại một nửa dân số vẫn phải sống trong tình trạng
thiếu lương thực, quần áo, nhà cửa và các vấn đề khác do các
hoạt động quân sự và sự bất ổn chính trị gây ra. Chính phủ
không đủ mạnh để thu thuế và phí từ tất cả các tỉnh vì tình trạng
lãnh chúa địa phương. Tình trạng gian lận lừa đảo và "tham
nhũng xuất hiện trong hàng loạt tổ chức chính phủ Ap-ga-nixtan.
Số người biết đọc biết viết chiếm 31.5% dân số. Nam chiếm
47.2%, nữ chiếm 15%. Phụ nữ chỉ được đi học khi chính phủ
Taliban bị lật đổ.
Dịch vụ y tế hết sức tồi tàn có 1 số cơ sở y tế ở thành phố là do
các tổ chức nhân đạo quốc tế giúp đỡ.

KẾT LUẬN
Nền kinh tế xã hội của các quốc gia ở Trung Cận Đông so
sánh đối chiếu với tiêu chí đánh giá của các quốc gia Trung Cận


Đông là gồm những nước: Nước giàu, nước phát triển, nước
giàu nhưng không phát triển. Cấu trúc kinh tế của các quốc gia
Trung Cận Đông khác biệt về hoàn cảnh, trong khi một số quốc
gia nhờ vào xuất khẩu dầu mỏ và các sản phẩm từ dầu (như Ả
Rập Saudi, UAE, Kuwait), các quốc gia khác có cấu trúc kinh tế
đa dạng hơn (như Síp, Israel, Thổ Nhĩ Kì và Ai Cập). Như Israel
có sự giúp đỡ lớn từ bên ngoài, chính phủ thông minh đưa ra
chiến lược phát triển kinh tế hợp lý có truyền thống kinh tế, xã

hội vững chắc làm cho nền kinh tế có sự phát triển bền vững,
xuất phát từ nội tại của nền kinh tế. Ở các nước vùng vịnh thì
ngược lại với Israel, như Ả Rập Saudi chỉ biết dựa vào nguồn tài
nguyên thiên nhiên để làm giàu thu nhập, chính phủ không thể
đưa ra những chính sách hợp lý, hoạch định cụ thể những chính
sách này để cải thiện nền kinh tế, đưa nền kinh tế đi vào chiều
sâu, bền vững, không lệ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên. Tài
nguyên thiên nhiên không bao giờ là vĩnh viễn, sẽ đến lúc mất
dần và cạn kiệt dần. Bên cạnh đó, Ap-ga-ni-xtan lại là một nước
nghèo và kém phát triển, không thể đưa ra chính sách phát triển
kinh tế, không có chiến lược để phát triển kinh tế hợp lí và hiệu
quả. Là một nước vùng đệm nên không có khoảng thời gian yên
bình để xây dựng đất nước.
Tóm lại, các quốc gia ở Trung Cận Đông phải đưa ra những
chiến lược phát triển kinh tế hợp lí, phù hợp với bối cảnh của
quốc gia. Hạn chế phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên và đầu
tư phát triển tài nguyên nhân lực.



×