A.
QUAN HỆ VIỆT NAM – CAMPUCHIA.
I.Những nhân tố hình thành, quyết định mối quan hệ hữu nghị Việt
Nam – Campuchia, Campuchia – Việt Nam
Campuchia và Việt Nam là hai nước có mối quan hệ lâu đời. Trải qua
nhiều thời kỳ lịch sử, vận mệnh của hai quốc gia luôn gắn kết với nhau
chặt chẽ, điều này đã được thực tế chứng minh: Nếu một giai đoạn nào
đó, quan hệ hai nước trục trặc thì đều tổn hại đến lợi ích của cả
Campuchia và Việt Nam. Ngược lại, nếu quan hệ giữa hai nước tốt đẹp
thì tạo cơ hội và sự ổn định cho sự phát triển của hai bên. Mặt khác, sự
gần gũi về mặt địa lý và sự gắn bó, tương đồng về lịch sử khiến cho
nhân dân hai nước luôn có sự hiểu biết, thông cảm và chia sẻ, đồng thời
là điều kiện thuận lợi để thúc đẩy quan hệ hai nước trong tình hình mới.
1. Nhân tố lịch sử
Từ lâu trong lịch sử, Campuchia đã có mối quan hệ với Việt Nam, trong
cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược. Những năm 1930
-1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương nhân dân hai
nước đã cùng chống thực dân Pháp xâm lược. Đến năm 1954, nhân
dân hai nước lại cùng kề vai sát cánh chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm
lược. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược (1954-1975), lực
lượng của Trung ương Cục Miền Nam Việt Nam đã sử dụng phần lãnh
thổ Campuchia giáp biên giới Việt Nam để làm căn cứ địa để chống lại
chính quyền Việt Nam Cộng hòa nên Hoa Kỳ đã ném hàng loạt bom
xuống các vùng ở Campuchia. Một số nguồn tin cho biết ước tính số
thương vong dân sự tại đây đạt tới con số 100.000 người.
Ngày 24/6/1967, đã đánh dấu sự kiện quan trọng hai nước chính thức
thiết lập quan hệ ngoại giao, khi nhân dân Việt Nam còn đang trong giai
đoạn đấu tranh quyết liệt chống Mỹ cứu nước. Đây là sự ủng hộ có ý
nghĩa cao cả của Campuchia đối với Nhà nước và nhân dân Việt Nam
trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng và thống nhất đất nước dưới sự
lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sự kiện này cũng khẳng định sự
ủng hộ chân tình của nhân dân Việt Nam đối với cuộc đấu tranh bảo vệ
độc lập, nền trung lập của Vương Quốc Campuchia do Cựu Quốc
Vương Norodom Shihanouk đứng đầu.
Thời kỳ 1975 - 1993: Từ những năm 1975 - 1979 Việt Nam giúp nhân
dân Campuchia xóa bỏ chế độ diệt chủng Pôn Pốt - Ieng Sary. Trong 10
năm (1979 -1989), Việt Nam giúp Campuchia khôi phục đất nước sau
nội chiến. Giai đoạn 1989 –1993, quan hệ Campuchia Việt Nam chủ yếu
1
xoay quanh việc giải quyết vấn đề hòa bình, hòa hợp dân tộc ở
Campuchia. Đây cũng là giai đoạn cực kỳ khó khăn trong quan hệ hai
nước.
Thời kỳ 1993 đến nay, quan hệ Việt Nam - Campuchia không ngừng
được củng cố và phát triển về mọi mặt. Hai bên đã trao đổi nhiều
chuyến thăm cấp cao, đặc biệt là chuyến thăm chính thức Campuchia
của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh tháng 3/2005, hai bên đã nhất trí
phương châm phát triển quan hệ hai nước trong thời kỳ mới "Láng
giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu
dài".
2. Nhu cầu và chính sách đối ngoại của Campuchia và Việt Nam
2.1. Nhu cầu hợp tác của hai nước
Nhu cầu quan hệ hợp tác Campuchia -Việt Nam được hình thành
trong lịch sử, nhất là trong các thời kỳ cả hai dân tộc bị ngoại bang xâm
lược và cai trị, nhân dân hai nước đã chủ động liên minh trong chiến
đấu bảo vệ độc lập, toàn vẹn lãnh thổ. Ngày nay, trong công cuộc xây
dựng và đổi mới đất nước, đứng trước những thuận lợi và khó khăn của
tình hình khu vực và thế giới, nhu cầu hợp tác Campuchia - Việt Nam
càng trở nên thiết thực hơn nhằm bảo vệ và phát huy những thành quả
đã đạt được.
Về phương diện kinh tế, là hai quốc gia có nền kinh tế đang phát
triển, có vị trí địa lý liền kề, do đó, hợp tác kinh tế giữa hai nước đã đưa
lại những lợi ích quan trọng. Về phương diện an ninh - chính trị, lịch sử
đã chứng minh Campuchia và Việt Nam có lợi ích căn bản và sống còn
trong việc duy trì và phát triển quan hệ với nhau.
2.2 Chính sách đối ngoại của Campuchia
Đối với Việt Nam, quốc gia láng giềng lâu đời của Campuchia, đất
nước đã từng giúp đỡ Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng Khmer Đỏ,
sau cuộc Tổng tuyển cử năm 1993, Nhà nước và nhân dân Campuchia
luôn dành cho Việt Nam một vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại
của mình. Phát huy tình đoàn kết cách mạng trước đây, trong giai đoạn
mới, Campuchia hết sức coi trọng quan hệ với nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam, coi đó là một phần tất yếu nhằm giữ vững
ổn định và phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước.
Mục tiêu của Campuchia trong chính sách đối với Việt Nam là đảm bảo
quan hệ hòa bình, ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh
2
tế, hợp tác hữu nghị đôi bên cùng có lợi, giữ vững an ninh quốc phòng
vì lợi ích của mỗi nước và khu vực. Mặc dù còn nhiều khó khăn và thách
thức, nhất là chế độ chính trị hai bên khác nhau; đồng thời, nhiều đảng
phái tại Campuchia vẫn có thái độ thù địch với Việt Nam, song vượt lên
trên tất cả là chính sách nhất quán của lãnh đạo và nhân dân
Campuchia dành cho Việt Nam luôn tốt đẹp, thân thiện.
Nhìn
trên tổng thể, nền ngoại giao của Campuchia trong thời kỳ mới nói
chung đều nhằm vào phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và giữ
vững an ninh - quốc phòng, ổn định đất nước. Đối với Việt Nam,
Campuchia luôn dành ưu tiên trong chính sách đối ngoại của mình. Năm
2007, kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Campuchia Việt Nam
(1967 -2007), Thủ tướng Campuchia S.Hunsen đã một lần nữa tái
khẳng định “cùng nhau chúng ta sẽ hành động để thúc đẩy quan hệ
giữa hai dân tộc lên mức cao hơn vì lợi ích của nhân dân hai nước cũng
như của đại gia đình ASEAN nói chung”.
2.3. Chính sách đối ngoại của Việt Nam
Đối với Campuchia, Việt Nam thực hiện xây dựng mối quan hệ láng
giềng thân thiện giữa hai nước trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không dùng vũ lực và đe dọa dùng
vũ lực, giải quyết mọi vấn đề trong quan hệ hai nước bằng con đường
hòa bình, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi và cùng tồn tại hòa bình. Trong
chính sách “coi trọng các nước láng giềng” này, Campuchia có một vị trí
rất quan trọng. Việt Nam và Campuchia cùng ở khu vực Đông Nam Á khu vực phát triển kinh tế năng động. Ngoài sự tương đồng về văn hóa,
phong tục, tập quán... hai nước còn có những lợi thế so sánh có thể bổ
sung cho nhau. Đặc biệt, sự giúp đỡ vô tư, trong sáng thân tình, đã làm
cho hai nước luôn đoàn kết gắn bó với nhau từ trước đến nay. Chính
điều này là nền tảng quan trọng để hai nước tiếp tục nương tựa vào
nhau cùng phát triển trong bối cảnh mới. Nhận thức rõ vai trò vị trí của
Campuchia cũng như các quốc gia lân cận, Nghị quyết Trung ương VIII
(khóa IX) một lần nữa nhấn mạnh “ưu tiên hàng đầu cho việc củng cố
quan hệ với các nước láng giềng”. Với Campuchia, chính sách ngoại
giao tốt đẹp giữa hai nước được nâng lên thành 16 chữ vàng “Láng
giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu
dài”. Đây chính là tâm điểm trong chính sách đối ngoại của Việt Nam đối
với Campuchia trong giai đoạn hiện nay cũng như về lâu dài.
II.Những thành tựu có ý nghĩa quan trọng trong quan hệ Việt Nam –
Campuchia, Campuchia – Việt Nam.
3
1. Quan hệ toàn diện giữa hai nước
1.1. Trên lĩnh vực chính trị, ngoại giao
Năm 1930, Đảng cộng sản Đông Dương ra đời, sau một thời gian
lãnh đạo đã tách ra thành 3 đảng độc lập đó là Đảng Lao động Việt Nam
năm 1951, Đảng nhân dân cách mạng Khơmer năm 1951, Đảng nhân
dân cách mạng Lào năm 1955.
Từ 1954-1970, chính quyền Sihanouk thực hiện chính sách hoà bình
trung lập tích cực, từng bước có quan hệ tốt với các lực lượng cách
mạng Việt Nam, ủng hộ cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước thống nhất
đất nước của nhân dân Việt Nam.
Tháng 3/1965, Hội nghị nhân dân các nước Đông Dương họp ở
Phnom Pênh, Mặt trận đoàn kết chống Mỹ của nhân dân các nước Đông
Dương được hình thành.
Ngày 24/6/1967, Việt Nam - Campuchia thiết lập quan hệ ngoại giao.
Tháng 4/1975 - 7/1/1979, Chế độ diệt chủng Pôn Pốt cầm quyền ở
Campuchia. Chúng thi hành chính sách thù địch với Việt Nam, gây ra
nhiều cuộc xung đột ở khu vực biên giới Tây Nam và tiến hành cuộc
chiến tranh Biên giới chống Việt Nam.
Ngày 7/1/1979, nước Cộng hòa nhân dân Campuchia thoát khỏi chế
độ diệt chủng. Từ 1979 - 1989, quân đội và chuyên gia Việt Nam đã giúp
nhân dân Campuchia lật đổ và ngăn chặn chế độ diệt chủng Pôn Pốt
quay trở lại, giúp Campuchia hồi sinh. Cuối năm 1989, Việt Nam rút hết
quân tình nguyện và chuyên gia về nước.
Tháng 10/1991, Hiệp định Pari về Campuchia được ký kết.
Campuchia tiến hành Tổng tuyển cử tháng 5/1993 do Liên hiệp quốc tổ
chức bầu Quốc hội lập hiến và Chính phủ Hoàng gia Campuchia được
thành lập.
Từ 1993 đến nay, quan hệ Campuchia - Việt Nam trên lĩnh vực chính
trị, ngoại giao đạt được nhiều thành tựu và có phần khởi sắc trên nhiếu
cấp độ:
Kênh ngoại giao Chính phủ: Trong những năm 1993 - 1996, nhiều
đoàn lãnh đạo cấp cao Việt Nam đã sang thăm Campuchia, có thể kể
đến đó là chuyến thăm của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm,
Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Chủ tịch nước Lê Đức Anh...
4
Về phía Campuchia trong giai đoạn này đáng ghi nhận là chuyến
thăm Việt Nam của Quốc vương Nôrôđôm Shihanuc (14-16/12/1996),
đồng Thủ tướng Ung Huot và Hunsen...Sự kiện được đánh giá làm thay
đổi sâu sắc diện mạo quan hệ Campuchia - Việt Nam là chuyến thăm
Việt Nam của Thủ tướng S.Hunsen vào ngày 13-14/12/1998 (kết thúc
thời kỳ 2 Thủ tướng).
Việc lựa chọn Việt Nam làm điểm đến đầu tiên trên cương vị Thủ
tướng Chính phủ Liên hiệp mới của S.Hunsen đã tạo ra triển vọng mới
trong quan hệ hai nước và tái khẳng định sự ưu tiên đối với Việt Nam
trong chính sách ngoại giao của Campuchia. Sự kiện Tổng Bí thư Lê
Khả Phiêu tới Campuchia là biểu hiện cơ bản nâng tầm quan hệ hợp tác
ngoại giao giữa hai nước sau cuộc tổng tuyển cử tháng 7/1998 tại
Campuchia. Đặc biệt là chuyến thăm chính thức Campuchia của Tổng
Bí thư Nông Đức Mạnh tháng 3/2005, hai bên đã nhất trí phương châm
phát triển quan hệ hai nước trong thời kỳ mới “láng giềng tốt đẹp, hữu
nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài”.
Những năm gần đây, lãnh đạo cấp cao hai nước thường xuyên có các
chuyến thăm, làm việc nhằm tiếp tục củng cố và thúc đẩy quan hệ tốt
đẹp giữa hai nước:
- Các lãnh đạo cấp cao Việt Nam thăm Campuchia có: Tổng bí thư
Nguyễn Phú Trọng thăm hữu nghị cấp Nhà nước (6-8/12/2011). Thủ
tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng dự Hội nghị cấp cao ASEAN 20
(tháng 4/2012), Phó Chủ tịch Quốc hội Huỳnh Ngọc Sơn thăm
Campuchia (tháng 4/2012); Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân
Phúc thăm, làm việc tại CPC (tháng 8/2012); Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng thăm và làm việc tại Campuchia từ ngày 12-14/01/2014; Chủ tịch
nước Trương Tấn Sang cùng Đoàn đại biểu cấp cao nước CHXHCN
Việt Nam đã thăm cấp Nhà nước Vương quốc Campuchia từ ngày 23 24/12/2014.
- Các lãnh đạo CPC sang Việt Nam có: Quốc Vương Nôrôđôm
Shihamôni thăm cấp nhà nước từ ngày 24-26/9/2012, Thủ tướng Chính
phủ Hoàng gia CPC Hun Sen sang Việt Nam hai lần cùng Thủ tướng
Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng dự lễ khánh thành Khu di tích tại địa điểm
thành lập đơn vị 125 - tiền thân lực lượng vũ trang đoàn kết cứu nước
CPC tại Đồng Nai ngày 02/01/2012 và đồng chủ trì Lễ khánh thành cột
mốc 314 trên tuyến Biên giới đất liền Việt Nam - Campuchia và Hội nghị
hợp tác đầu tư, Việt Nam - Campuchia lần thứ 3 tại Kiên Giang ngày
24/6/2012; Chủ tịch Quốc hội Heng Samrin thăm hữu nghị chính thức
5
Việt Nam từ ngày 20-25/7/2012 và sang Việt Nam đồng chủ trì Hội nghị
quan hệ hữu nghị Quốc hội Việt Nam - Campuchia (23-25/8/2012); Phó
Thủ tướng Thường trực Men Sam On dự lễ mít tinh kỷ niệm 33 năm
ngày chiến thắng chế độ diệt chủng ở Campuchia (07/01/1979 07/01/2012) ngày 07/01/2012; Bộ trưởng Nội vụ CPC Sar Kheng sang
Việt Nam đồng chủ trì Hội nghị hợp tác và phát triển các tỉnh biên giới
Việt Nam – Campuchia lần thứ 7 (08-09/3/2012).
Trong tình hình nền chính trị đa đảng ở Campuchia, Việt Nam chủ
trương duy trì, củng cố quan hệ Nhà nước, Chính phủ và với hai đảng
cầm quyền là Đảng CPP và Đảng FUNCINPEC. Kênh “ngoại giao nhân
dân ”Giao lưu hợp tác giữa các tổ chức hữu nghị của nhân dân hai
nước cũng có những bước phát triển như sự ra đời của Liên minh xã
hội dân sự vì an ninh con người, đoàn kết nhân dân hai nước vì sự phát
triển của đất nước Campuchia... Đáng chú ý là những hoạt động tích
cực của Hội Hữu nghị Việt Nam - Campuchia đã góp phần tăng cường
sự hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân hai nước và thúc đẩy sự gắn kết
giữa hai dân tộc láng giềng. Các địa phương cũng đã tạo lập mối quan
hệ gắn bó, nhất là những tỉnh giáp biên giới với Campuchia.
Ngoài ra, hai bên còn phối hợp triển khai nhiều hoạt động thiết thực
chào mừng “Năm hữu nghị Việt Nam – Campuchia 2012” và kỷ niệm 45
năm thiết lập quan hệ ngoại giao hai nước (24/6/1967 - 24/6/2012).
1.2.Trên lĩnh vực an ninh
1.2.1. Vấn đề biên giới lãnh thổ
Campuchia và Việt Nam có chung đường biên giới trên đất liền dài
1.137 km đi qua 10 tỉnh biên giới của Việt Nam và 10 tỉnh biên giới của
Campuchia, toàn tuyến biên giới có 10 cửa khẩu quốc tế, 12 cửa khẩu
chính và nhiều cửa khẩu phụ khác tạo điều kiện cho việc thông thương
hàng hóa, qua lại giữa nhân dân hai nước. Do đó, vấn đề biên giới luôn
được hai bên quan tâm và tạo mọi điều kiện để giải quyết ổn thỏa, nhằm
phát triển kinh tế - xã hội mỗi nước và của cả khu vực. Campuchia và
Việt Nam đã ký nhiều Hiệp định, biên bản thỏa thuận về việc phân định
biên giới trên bộ và trên biển:
- Hiệp ước về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới giữa nước
CHXHCN Việt Nam và nước CHND Campuchia năm 1982 và Hiệp định
về quy chế biên giới năm 1983.
- Hiệp ước Hoạch định biên giới quốc gia giữa nước CHXHCN Việt Nam
và nước CHND Campuchia năm 1985.
6
- Hiệp ước Hoạch định biên giới quốc gia năm 1985 giữa nước
CHXHCN Việt Nam và Vương quốc Campuchia và ký Hiệp ước bổ sung
năm 2005.
- Hiệp định về vùng nước lịch sử giữa CHXHCN Việt Nam và CHND
Campuchia được ký kết ngày 7/7/1982 tại thành phố Hồ Chí Minh...
Hoạch định và phân định biên giới giữa Campuchia và Việt Nam đã tiến
một bước dài. Tuy nhiên, công việc còn lại vẫn không ít, tình hình chính
trị nội bộ của Campuchia vẫn tiếp tục đặt ra nhiều thách thức cho vấn đề
hoạch định và phân định đường biên giới trên đất liền và trên biển giữa
hai nước. Trong bối cảnh hợp tác an ninh - chính trị giữa hai nước ngày
càng đi vào chiều sâu, Campuchia và Việt Nam đang cố gắng giải quyết
đầy đủ và hợp lý, công bằng và khách quan về vấn đề hoạch định và
phân định đường biên giới, đặc biệt là phân định đường biên giới trên
biển, trên cơ sở bình đẳng, hữu nghị, tôn trọng lẫn nhau, vì hòa bình và
phát triển.
1.2.2. Hợp tác đối phó với những thách thức an ninh phi truyền
thống
Từ năm 1993 đến nay, Việt Nam và Campuchia đã có những hợp tác
chặt chẽ nhằm đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống
ngày càng xuất hiện nổi trội với những khái niệm an ninh toàn diện như
an ninh kinh tế, an ninh lương thực, an ninh môi trường, an ninh con
người, an ninh tiền tệ, an ninh thông tin...
Hai nước tiếp tục tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực như trao đổi
thông tin, kinh nghiệm, đào tạo, phối hợp bảo vệ biên giới, ngăn chặn sự
xâm nhập và phá hoại của các thế lực thù địch, chống âm mưu diễn
biến hoà bình, phòng chống tội phạm..
Có thể kể đến một số hợp tác như chống nạn buôn bán phụ nữ, trẻ
em và buôn lậu qua biên giới, phòng chống tình trạng sản xuất, buôn
bán, vận chuyển, lạm dụng ma tuý ...và nhiều loại tội phạm khác làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định an ninh - chính trị, kinh tế - xã
hội, cũng như sự phát triển bền vững của từng quốc gia, dân tộc.
Hai
nước cũng có nhiều hoạt động hợp tác an ninh thông qua các diễn đàn
khu vực như ASEAN, ARF, GMS(hợp tác Tiểu vùng Mê Công), Tam giác
phát triển Việt Nam - Lào -Campuchia....nhằm tạo điều kiện cho nhau
phát triển, đặc biệt là việc thống nhất đẩy mạnh tuyên truyền và ngăn
chặn những âm mưu phá hoại sự nghiệp xây dựng đất nước của mỗi
7
bên, đập tan âm mưu “diễn biến hoà bình”,“bạo loạn lật đổ” của các thế
lực thù địch trong và ngoài nước.
Hợp tác đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống giữa
Campuchia và Việt Nam trong khoảng hai thập niên qua kể từ khi đất
nước Campuchia đi vào hòa hợp dân tộc đến nay đã đạt những thành
tựu lớn lao, tạo điều kiện tiền đề vững chắc cho cả hai nước hợp tác
sâu rộng hơn nữa trong thời gian tiếp theo vì mục tiêu phát triển hòa
bình của hai nước và của cả khu vực.
1.3. Trên lĩnh vực kinh tế
1.3.1. Quan hệ thương mại
* Về tình hình xuất nhập khẩu:
Từ năm 1993 đến nay, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Campuchia và
Việt Nam tăng trưởng nhanh. Nhìn chung tốc độ tăng trưởng bình quân
của những năm sau cao hơn những năm trước và mang lại hiệu quả
tích cực cho cả hai phía. Những nỗ lực của Campuchia và Việt Nam đã
tạo điều kiện thuận lợi cho việc đẩy mạnh hợp tác thương mại giữa hai
nước ngày càng phát triển và đạt hiệu quả cao hơn.
Theo Hội đồng Phát triển Vương quốc Campuchia, hiện nay
Campuchia là thị trường xuất khẩu lớn thứ 16 của Việt Nam và Việt Nam
là nước xuất khẩu lớn thứ 4 vào Campuchia sau Trung Quốc, Thái Lan,
Hồng Kông. Ngược lại, Campuchia là nước xuất khẩu lớn thứ 25 vào
Việt Nam và Việt Nam là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của Campuchia
sau Hoa Kỳ và EU.
* Về cán cân thương mại, theo thống kê của Tổng Cục Hải quan Việt
Nam và số liệu chính thức của Phòng Thương mại Campuchia (CCC)
công bố. Từ năm 1993 đến năm 2010, trao đổi thương mại hàng hóa
giữa Campuchia và Việt Nam ngày càng tăng, trong đó Việt Nam luôn
đứng ở thế xuất siêu với giá trị thặng dư thương mại ngày càng lớn.
*Về cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu, so với các quốc gia trong khu
vực, Campuchia và Việt Nam là hai nước có sức sản xuất và tiêu thụ ở
mức tương đối. Tuy nhiên, trong phạm vi có thể, Campuchia và Việt
Nam vẫn luôn tìm mọi biện pháp đẩy mạnh quá trình trao đổi hàng hóa
giữa hai bên được thuận lợi.
Hàng xuất khẩu Việt Nam sang Campuchia rất đa dạng về chủng loại,
đủ các loại sản phẩm như nhóm hàng lương thực, thực phẩm, vật liệu
xây dựng, xăng dầu, dược phẩm, rau hoa quả tươi, máy móc thiết bị,
8
sản phẩm dệt may, vật liệu dụng cụ ngành tẩy rửa, phân bón, giống cây
trồng, dụng cụ ngành giáo dục...
Mặt hàng của Việt Nam nhập khẩu chủ yếu là gỗ nguyên liệu đã chế
biến, cao su, hạt nông sản như thóc gạo, mè, đậu, điều... Đặc biệt, mặt
hàng thép và sản phẩm sắt thép có kim ngạch xuất khẩu sang
Campuchia lớn nhất, sau đó là các mặt hàng vải sợi các loại, vật liệu
xây dựng, mì ăn liền. Đây là những mặt hàng truyền thống mà Việt Nam
có thế mạnh và Campuchia đang rất cần để xây dựng cơ sở hạ tầng,
nhà cửa, tiêu dùng hàng ngày, phù hợp với thị hiếu và giá cả phải chăng
nên dễ dàng thâm nhập vào thị trường Campuchia trong thời gian qua.
1.3.2. Hợp tác đầu tư
Quan hệ hợp tác đầu tư giữa Campuchia và Việt Nam ngày càng có
dấu hiệu khởi sắc, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội
của mỗi nước, cũng như tăng cường hơn nữa mối quan hệ truyền thống
hai nước trong thời kỳ hội nhập.
Trong giai đoạn hiện nay, nhất là khi đất nước Campuchia dần đi vào
thế ổn định sau cuộc bầu cử Quốc hội năm 1993 và đổi tên từ Nhà
nước Campuchia thành Vương quốc Campuchia thì quan hệ đầu tư
giữa hai nước được gia tăng mạnh mẽ. Trong những năm gần đây,
Campuchia và Việt Nam đã thực hiện có hiệu quả chiến lược đầu tư, kể
cả ngắn hạn và dài hạn của các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp
thuộc nhà nước lẫn tư nhân.
Trong giai đoạn 1999 - 2010, nhiều dự án đầu tư của các tập đoàn,
doanh nghiệp nhà nước cũng như tư nhân Việt Nam tại Campuchia tăng
nhanh cả về số lượng lẫn quy mô. Hiện nay, có rất nhiều doanh nghiệp
Việt Nam đã mạnh dạn thành lập công ty, mở chi nhánh hoặc văn phòng
đại diện và đi sâu tìm hiểu để tiến tới hiện thực hóa việc đầu tư tại đất
nước gần 14 triệu dân này. Ngoài nguồn vốn FDI, Việt Nam còn tăng
cường hợp tác đầu tư với Campuchia bằng vốn viện trợ chính thức
(ODA) và vốn tín dụng ưu đãi của Chính phủ Việt Nam dành cho Chính
phủ Campuchia. Mặc dù số vốn của hai chương trình đầu tư này không
lớn nhưng cũng góp phần giúp Campuchia thực hiện một số dự án cơ
bản, đồng thời nâng cao uy tín và hình ảnh tốt đẹp về Việt Nam trong
lòng nhân dân Campuchia.
Về phía Campuchia, mặc dù còn nhiều khó khăn, hạn chế về tiềm lực
kinh tế, song Chính phủ và các doanh nghiệp Campuchia vẫn có những
nỗ lực xúc tiến đầu tư một số dự án tại Việt Nam, nhất là trong những
9
năm gần đây số dự án và vốn đầu tư có sự gia tăng đáng kể. Tính đến
tháng 4/2006, Campuchia là nước có vốn đầu tư vào Việt Nam đứng thứ
58 trong tất cả các quốc gia, vùng lãnh thổ có vốn đầu tư vào Việt Nam
với 4 dự án đang hoạt động và tổng số vốn đăng ký 4 triệu USD.
1.3.3. Hợp tác về giao thông vận tải
Về đường bộ: Ngày 1/6/1998, Hiệp định vận tải đường bộ giữa Chính
phủ CHXHCN Việt Nam và Chính phủ Hoàng gia Campuchia đã được
ký kết tại Hà Nội và Nghị định thư thực hiện Hiệp định vận tải đường bộ
giữa Chính phủ CHXHCN Việt Nam và Chính phủ Hoàng gia Campuchia
ngày 10/10/2005, Thông tư hướng dẫn số 02/VBHN-BGTVT ngày
06/01/2014 là cơ sở đánh dấu bước phát triển mới trong hợp tác giao
thông vận tải của hai nước. Một số dự án tiêu biểu trong hợp tác giao
thông vận tải giữa hai nước: Dự án nâng cấp, cải tạo Quốc lộ 78 của
Campuchia, triển khai đầu tư xây dựng cầu Long Bình - Chrey Thom
dưới dạng Hiệp định cho vay ưu đãi.
Về đường hàng không: Hợp tác giữa hai nước không ngừng mở rộng
và thu được những tín hiệu khả quan. Hiệp định giữa Chính phủ nước
CHXHCN Việt Nam và Chính phủ Vương quốc Campuchia về vận tải
hàng không ký ngày 19/4/1996 tại Hà Nội đã mở ra cơ hội hợp tác trong
lĩnh vực hàng không dân dụng. Đặc biệt, ngày 26/7/2009, Hiệp định hợp
tác của Hàng không Quốc gia Campuchia (Cambodia Angkor Air) với
hãng hàng không Vietnam Airlines được ký kết. Theo những thỏa thuận
đạt được, Vietnam Airlines sẽ hợp tác toàn diện và hỗ trợ tối đa cho
Cambodia Angkor Air trong quá trình triển khai hoạt động, mở rộng và
phát triển, trong đó, Vietnam Airlines nắm giữ tỷ lệ 49% vốn điều lệ ban
đầu.
Về hợp tác giao thông đường thủy: Campuchia và Việt Nam đã ký
Hiệp định vận tải đường thủy đầu tiên vào năm 1998. Tuy nhiên, để đáp
ứng yêu cầu hội nhập và phát triển giữa hai nước, ngày 17/12/2009
Hiệp định giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ
Hoàng gia Campuchia về vận tải đường thủy được ký kết thay thế cho
Hiệp định năm 1998, với 5 chương, 39 điều. Hiệp định là văn bản pháp
quy cao nhất giữa hai nước về hợp tác giao thông vận tải bằng đường
thủy trong thời kỳ mới, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho quá trình đi lại,
giao lưu của các phương tiện và nhân dân hai bên, nhất là sự di chuyển
trên dòng sông Mekong.
1.4. Trên một số lĩnh vực khác
10
1.4.1. Hợp tác về giáo dục và đào tạo
Giáo dục và đào tạo là một trong những lĩnh vực quan trọng không
chỉ đối với Campuchia và Việt Nam mà còn đối với tất cả các quốc gia
trên thế giới. Do đó, từ rất sớm hai nước đã có những hợp tác trên lĩnh
vực đặc biệt này nhằm đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đổi mới đất nước. Trong bối
cảnh hội nhập quốc tế, khu vực cùng với sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học và công nghệ hiện nay, hợp tác giáo dục và đào tạo giữa
Campuchia và Việt Nam càng được quan tâm và đẩy mạnh nhằm đáp
ứng ngày càng cao công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, cũng như
tăng cường mối quan hệ truyền thống giữa hai dân tộc
Về phía Việt Nam:
Việt Nam đã giúp đào tạo cho Campuchia hàng ngàn học sinh, cán bộ
bậc cao đẳng, đại học, nghiên cứu sinh trong hầu hết các ngành kinh tế,
văn hóa, khoa học - kỹ thuật, y tế... Kể từ năm 1998, trung bình hàng
năm Việt Nam nhận đào tạo cho Campuchia 100 LHS, trong đó có 20
LHS sau đại học. Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam
trong 10 năm (1994 -2003), Campuchia đã gửi sang Việt Nam đào tạo
2.091 LHS, trong đó đã tốt nghiệp 1.667; và 136 nghiên cứu sinh, trong
đó đã tốt nghiệp 50 nghiên cứu sinh.
Về phía Campuchia:
Mặc dù còn nhiều khó khăn hơn so với Việt Nam nhưng Chính phủ
Campuchia vẫn ưu tiên nhiều suất học bổng dành cho LHS Việt Nam
sang học tại Campuchia theo diện Hiệp định, Nghị định thư đã ký kết
giữa hai Chính phủ. Từ năm 1992, Việt Nam đã bắt đầu gửi LHS sang
tại Campuchia, chủ yếu để đào tạo ngôn ngữ Khơmer và kiến thức văn
hóa, xã hội Campuchia nhằm phục vụ công tác đối ngoại, mở rộng quan
hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước. Trong giai đoạn 1992 -2005 có
khoảng 80 LHS Việt Nam được đào tạo tại Campuchia.
1.4.2. Hợp tác về du lịch
Campuchia và Việt Nam được biết đến là những quốc gia có nhiều di
sản văn hóa và thiên nhiên hấp dẫn, đặc biệt có nhiều di sản lớn được
UNESCO công nhận. Trong thời kỳ hội nhập quốc tế, Campuchia và Việt
Nam đều chú trọng đến hiệu quả và lợi ích mà ngành du lịch mang lại, vì
vậy hợp tác du lịch giữa hai nước cũng được đẩy mạnh trên nhiều
phương diện từ hợp tác về khai thác, quảng bá các sản phẩm du lịch
11
đến hợp tác hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển
đổi mới của mỗi nước.
Đặc biệt, việc quan hệ hợp tác chặt chẽ trong lĩnh vực này nhằm khai
thác triệt để lợi thế so sánh ngành, nhất là lợi thế về mặt địa lý gần kề,
mở rộng giao lưu kết nối văn hóa, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế,
bảo vệ an ninh, ổn định chính trị mỗi nước cũng được hai nước đặc biệt
chú ý. Số lượng khách du lịch qua lại giữa Campuchia và Việt Nam ngày
càng tăng lên. Du lịch hai nước còn mở rộng hợp tác với các nước và
khu vực.
1.4.3. Hợp tác về y tế
Hợp tác y tế giữa Campuchia và Việt Nam là một trong những lĩnh
vực quan trọng, được Chính phủ và nhân dân hai nước đặc biệt quan
tâm, nhất là giai đoạn hiện nay. Đặc biệt, Việt Nam luôn tạo mọi điều
kiện giúp đỡ Campuchia trong lĩnh vực y tế, việc tiếp nhận thường
xuyên và khám chữa bệnh cho người dân Campuchia tại các trung tâm
y tế tuyến huyện, tỉnh giáp biên giới và bệnh viện TW của Việt Nam là
minh chứng thiết thực cho quá trình hợp tác này. Việt Nam đã hỗ trợ
giúp Campuchia xây dựng một số cơ sở hạ tấng y tế quan trọng.
Trong năm 2004, thành phố Hồ Chí Minh đã tài trợ kinh phí xây dựng
một bệnh viện tại Phnom Penh trị giá 20 triệu USD. Đặc biệt, năm 2010,
dự án Bệnh viện Chợ Rẫy - Phnom Penh được khởi công là một trong
những công trình quan trọng nhất có ý nghĩa xã hội rất to lớn, tạo điều
kiện thuận lợi phục vụ khám chữa bệnh cho nhân dân Phnom Penh nói
riêng và nhân dân Campuchia nói chung, góp phần to lớn thúc đẩy mối
quan hệ láng giềng hữu nghị giữa hai quốc gia. Chính phủ Việt Nam và
các cơ quan liên quan còn tích cực giúp đỡ Campuchia bằng cách tổ
chức các đợt khám chữa bệnh và phẫu thuật miễn phí cho bệnh nhân
nghèo ở các tỉnh vùng biên giới Campuchia, đặc biệt là mổ đục thủy tinh
thể, phẫu thuật vá môi hở hàm ếch...
II.Tình đoàn kết, hữu nghị giữa hai nước Việt Nam – Campuchia
trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng như công
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay.
Cách đây 48 năm, ngày 24 tháng 6 năm 1967, trong bối cảnh cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta bước vào giai đoạn
khó khăn, ác liệt nhất, Việt Nam dân chủ cộng hòa và Vương quốc
Campuchia chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Đây là một sự kiện
12
chính trị quan trọng, tạo cơ sở vững chắc cho việc phát triển mối quan
hệ bền vững lâu dài giữa hai nước Việt Nam và Campuchia.
Trong quá trình phát triển, nhân dân hai nước đã xây đắp nên mối
quan hệ: “Láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện,
bền vững lâu dài”. Mối quan hệ truyền thống quý báu đó đã được lãnh
đạo và nhân dân hai nước khẳng định là tài sản chung vô giá, một nhân
tố đảm bảo thành công của cách mạng mỗi nước, cần phải giữ gìn, phát
huy và truyền tiếp cho các thế hệ mai sau.
Chúng ta đều biết, vào nửa cuối thế kỷ XIX, Việt Nam, Campuchia và
Lào lần lượt bị thực dân Pháp xâm chiếm, biến thành các xứ bảo hộ,
thuộc địa của Pháp dưới cái tên “Đông Dương thuộc Pháp”. Họa mất
nước, số phận nô lệ đã sớm gắn bó nhân dân Việt Nam và nhân dân
Campuchia trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa thực
dân Pháp.
Ngay từ những ngày dầu thực dân Pháp đặt chân lên đất nước Việt
Nam và Campuchia, những người yêu nước Việt Nam và Campchia đã
đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong đấu tranh. Năm 1930, trước những đòi
hỏi khách quan của lịch sử, một tổ chức cách mạng có tên gọi là Đảng
cộng sản Đông Dương đã ra đời để đảm đương sứ mệnh lãnh đạo nhân
dân ba nước Việt Nam, Campuchia và Lào đoàn kết đấu tranh vì mục
tiêu chung là làm cho ba nước Việt Nam, Campuchia và Lào hoàn toàn
độc lập.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương, phong trào đấu
tranh của nhân dân Việt Nam và nhân dân Campuchia phát triển mạnh
mẽ, rộng khắp và ngày càng đi vào chiều sâu; tình thần yêu nước và
truyền thống đấu tranh dũng cảm của nhân dân Việt Nam và nhân dân
Campuchia đã được phát huy cao độ, trở thành một cao trào cách mạng
rộng lớn. Nhằm tăng cường sức mạnh đoàn kết của nhân dân mỗi nước
với sức mạnh đoàn kết của nhân dân hai nước, lần đầu tiên các chiến sĩ
cánh mạng, quân tình nguyện Việt Nam đã sang Campuchia, cùng đồng
cam cộng khổ, kề vai sát cánh với nhân dân Campuchia tổ chức kháng
chiến cho đến ngày thắng lợi hoàn toàn.
Hiệp định Giơnevơ về Đông
Dương năm 1954 là cơ sở pháp lý quốc tế cao nhất xóa bỏ ách thống trị
của thực dân Pháp; độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt
Nam, Campuchia và Lào được thế giới công nhận và tôn trọng. Đó là
thắng lợi vĩ đại, có ý nghĩa lịch sử của tình đoàn kết và liên minh chiến
đấu đặc biệt giữa nhân dân ba nước Việt Nam – Campuchia – Lào.
13
Thực dân Pháp rút đi, đế quốc Mỹ nhảy vào, thi hành chính sách can
thiệp vũ trang xâm lược Việt Nam, Campuchia và Lào. Với tinh thần
“không có gì quý hơn độc lập tự do” (Hồ Chí Minh), nhân dân ba nước
lại sát cánh bên nhau để bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Hội nghị nhân dân ba nước Việt Nam – Campuchia – Lào, tháng
3/1965 tại Phnôm Pênh, một lần nữa khẳng định tình đoàn kết, liên minh
chiến đấu chống kẻ thù chung của nhân dân ba nước. Trong cuộc chiến
đấu với đối thủ được coi là mạnh nhất thế giới, hai nước Việt Nam –
Campuchia đã dành cho nhau sự giúp đỡ quý báu, chí tình, chí nghĩa,
lần thứ hai Việt Nam đưa quân trở lại chiến trường Campuchia, phối
hợp cùng với lực lượng vũ trang và nhân dân Campuchia chiến đấu
chống lại những cuộc hành quân xâm lược của quân đội Mỹ và tay sai.
Đỉnh cao của tình đoàn kết chiến đấu vĩ đại của nhân dân hai nước là
sự phối hợp hành động trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân
năm 1975.
Với thắng lợi năm 1975, lần đầu tiên trong lịch sử 100 năm, hai nước
Việt Nam và Campuchia mới thực sự giành được độc lập hoàn toàn.
Tiếc rằng, tiếng súng chống Mỹ vừa chấm dứt, nhân dân hai nước chưa
một ngày được hưởng niềm vui thái bình thì ngay lập tức tập đoàn phản
động Pôn Pốt, núp dưới chiêu bài dân chủ, giả danh Chủ nghĩa xã hội
đã thi hành chính sách diệt chủng đối với nhân dân Campuchia, đồng
thời phát động cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam chống lại Việt Nam.
Đáp lại lời kêu gọi khẩn thiết của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước
Campuchia trước nguy cơ dân tộc bị diệt chủng, lần thứ ba các chiến sĩ
quân tinh nguyện Việt Nam lại có mặt kịp thời, cùng với lực lượng vũ
trang và nhân dân Campuchia tiến hành cuộc cách mạng. Ngày
7/1/1979, lật đổ chế độ diệt chủng tàn bạo của Pôn Pốt, tiếp đó cùng với
Chính phủ và nhân dân Campuchia tiến hành công cuộc hồi sinh dân
tộc, xây dựng cuộc sống mới, tạo nên thế nương tựa, hỗ trợ lẫn nhau
đối phó với sự bao vây, cấm vận và tiến công quân sự của các thế lực
thù địch; phối hợp đấu tranh đi tới một giải pháp chính trị toàn diện, công
bằng cho vấn đề Campuchia, đảm bảo độc lập, chủ quyền của
Campuchia, bảo vệ thành quả cách mạng của nhân dân Campuchia.
Sau Hiệp định Pari về Campuchia (tháng 10/1991), trước những biến
động nhanh chóng và phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, mối
quan hệ đoàn kết, hữu nghị truyền thống, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau giữa
hai nước ngày càng phát triển sâu săc với những cơ chế đặc biệt và sự
hợp tác toàn diện.
14
Hằng năm, lãnh đạo cấp cao hai nước đều có các cuộc gặp gỡ, tiếp
xúc và thực hiện các chuyến thăm viếng lẫn nhau dưới nhiều hình thức,
đạt được nhiều thỏa thuận chiến lược, vừa định hướng cho tổng thể
quan hệ giữa hai nước, vừa kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng
mắc nhằm thúc đẩy sự hợp tác toàn diện, thiết thực, hiệu quả trên tất cả
các lĩnh vực giữa hai nước.
Các hình thức gặp gỡ trao đổi thông tin, kinh nghiệm, nhất là những
kinh nghiệm về xây dựng đất nước giữa hai nước ngày càng được mở
rộng, các hoạt động giao lưu hữu nghị, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau giữa
các cấp, các nghành, các địa phương, các doanh nghiệp được thúc đẩy
mạnh mẽ; sự phối hợp trong công tác tuyên truyền, giáo dục truyền
thống quan hệ đoàn kết, hữu nghị trong các tầng lớp nhân dân, đặc biệt
là thế hệ trẻ hai nước tiếp tục được tăng cường.
Quan hệ hợp tác giữa hai nước trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh và
đối ngoại là lĩnh vực hợp tác truyền thống từ những năm tháng hai nước
kề vai sát cánh, đồng cam cộng khổ đấu tranh giành độc lập dân tộc,
thống nhất đất nước, tiếp tục được phát huy, góp phần quan trọng trong
việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội và phát triển của mỗi nước trong
giai đoạn hiện nay.
Cùng với những tiến triển tốt đẹp trong quan hệ nhiều mặt giữa hai
nước, các vấn đề về biên giới, kiều dân…cũng từng bước giải quyết
trên tinh thần hữu nghị, phù hợp với luật pháp của mỗi nước và thông lệ
của quốc tế. Việc hai nước đã ký và phê chuẩn hiệp ước bổ sung Hiệp
ước hoạch định Biên giới quốc gia ký năm 1985, theo đó các Bộ, ngành,
địa phương của hai nước đang tích cực triển khai phân giới cắm mốc
trên thực địa, dự kiến sẽ hoàn thành mục tiêu cơ bản vào cuối năm
2012 nhưng chưa đạt được do gặp một số khó khăn và sự chống phá
của các thế lực thù địch. Khi công tác phân giới cắm mốc hoàn thành sẽ
góp phần quan trọng vào việc xây dựng đường biên giới hòa bình hữu
nghị, hợp tác và phát triển bền vững.
B.QUAN HỆ VIỆT NAM – LÀO
I. Bản chất, thành quả, ý nghĩa và bài học lịch sử
1. Bản chất, đặc điểm
Quan hệ thân thiện lâu đời giữa hai dân tộc Việt Nam, Lào phát triển
đột biến thành quan hệ đặc biệt vào năm 1930, khi sự nghiệp cách
mạng giải phóng dân tộc của Việt Nam và Lào được tiến hành theo con
15
đường cách mạng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vạch ra, đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng mácxít - lêninnít chân chính.
Bản chất của quan hệ đặc biệt đó bắt nguồn từ lòng yêu nước nồng nàn
kết hợp với chủ nghĩa quốc tế trong sáng; tình đoàn kết thủy chung và
niềm tin về lòng chân thành, trong sáng mà hai dân tộc Việt Nam, Lào
dành cho nhau; sự giúp đỡ đến mức cao nhất nhằm thực hiện thắng lợi
các nhiệm vụ cách mạng và tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển
tương lai của hai dân tộc.
Mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam không giống bất
cứ mối quan hệ nào trong lịch sử thế giới đương đại, được xây đắp,
nuôi dưỡng bằng công sức, của cải, xương máu của nhiều thế hệ cách
mạng người Việt Nam và Lào. Trải qua rất nhiều gian nan, thử thách
khắc nghiệt, quan hệ đó vẫn vẹn nguyên, không hề bị rạn nứt và phá vỡ
cho dù các thế lực thù địch dùng nhiều thủ đoạn chống phá, chia rẽ.
Tính đặc biệt của quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam được tạo
dựng trên nền tảng quan điểm, nguyên tắc, phương pháp và cơ chế phù
hợp với điều kiện cụ thể của hai dân tộc Việt Nam - Lào.
Bản chất của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, được
nuôi dưỡng, phát triển bằng sức cảm hóa sâu sắc của quan điểm“giúp
bạn là mình tự giúp mình” do Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ dẫn. Đây là câu
nói cô đọng, giàu ý nghĩa chính trị, nhân văn, mở ra phương hướng xử
lý hài hòa lợi ích của hai dân tộc; là vũ khí sắc bén chống tư tưởng dân
tộc hẹp hòi, ban ơn.
Dựa trên luận điểm về quyền dân tộc tự quyết, cơ quan lãnh đạo cấp
cao Việt Nam, Lào đã nhất trí tiến hành liên minh, hợp tác theo nguyên
tắc tôn trọng độc lập tự chủ của bạn như Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định:
“Cán bộ Việt Nam sang công tác ở Lào phải hoàn toàn ở dưới sự lãnh
đạo của Chính phủ Trung ương Lào, nhất là của Thủ tướng
Xuphanuvông. Tuyệt đối không được tự cao, tự đại, không được bao
biện…”.
Về phía Lào, Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản nhấn mạnh : “Sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta phải do nhân dân ta tự làm lấy. Đảng ta là
một Đảng lãnh đạo cách mạng thực sự, do đó phải giữ vững nguyên tắc
độc lập, tự chủ”.
Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam còn đòi hỏi cả hai
bên thực hiện tự phê bình và phê bình như Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc
nhở : “Mong cán bộ Việt Nam làm việc ở Lào thành khẩn, thật thà tự phê
16
bình và mong các đồng chí Lào cũng phê bình anh em Việt Nam thật thà
không nể nả... Vì cách mạng, vì đoàn kết ba dân tộc mà phê bình”.
Xuất phát từ sự tôn trọng quyền độc lập tự chủ và tình nghĩa anh em,
tại cuộc Hội đàm ngày 9 tháng 7 năm 1961, hai đoàn đại biểu cấp cao
của Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân Lào bàn thảo và nhất
trí với phương pháp quan hệ công tác của hai Đảng do đồng chí Lê
Duẩn đề xuất : “Cách mạng Lào do đồng chí Lào lãnh đạo. Đường lối,
chủ trương do Đảng Lào đề ra, Việt Nam góp ý kiến. Cũng có lúc Việt
Nam thấy vấn đề trước thì Việt Nam sẽ đề xuất ý kiến trước nhưng
quyền quyết định vẫn do Đảng Lào”.
Về quan hệ giữa hai nước, hai Chính phủ, đồng chí Lê Duẩn cho rằng
: “Những vấn đề lớn trong quan hệ giữa hai Chính phủ thì hai Đảng
cũng cần có sự trao đổi ý kiến trước với nhau”. Nhiệm vụ giúp đỡ nhau
giữa hai dân tộc đã được tiến hành theo phương pháp giúp bạn nâng
cao năng lực để tự giải quyết các nhiệm vụ cách mạng của dân tộc
mình, không áp đặt, dập khuôn.
Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam có sức nhanh nhạy,
đáp ứng kịp thời các nhiệm vụ chiến lược và cả các tình huống bất ngờ,
do hai Đảng, hai Nhà nước Việt Nam, Lào áp dụng cơ chế điều hành
linh hoạt các hoạt động liên minh, hợp tác trong đấu tranh chống ngoại
xâm và hòa bình xây dựng đất nước.
Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào Việt Nam có những đặc
điểm sau đây:
- Quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam phát triển từ quan hệ truyền
thống lên quan hệ đặc biệt
Quan hệ truyền thống thân thiết của nhân dân hai nước Việt Nam Lào được chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ hướng, soi
đường đi tới độc lập tự do, đã biến thành quan hệ đặc biệt và sức mạnh
vĩ đại, đưa tới nhiều thắng lợi lịch sử của Việt Nam và Lào trong đấu
tranh giành chính quyền, kháng chiến chống đế quốc Pháp, Mỹ xâm
lược và tiến hành thành công sự nghiệp đổi mới đưa hai nước cùng
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Quan hệ đặc biệt Việt Nam Lào do Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng nền
móng và chính Người cùng đồng chí Cayxỏn Phômvihản, đồng chí
Xuphanuvông và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước dày công
vun đắp; đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng
Nhân dân cách mạng Lào và Đảng Cộng sản Việt Nam
17
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là người vạch đường, cho sự
nghiệp giải phóng và phát triển của hai dân tộc Việt Nam, Lào, cũng là
người trực tiếp chỉ đạo xây dựng, phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam Lào, Lào - Việt Nam và tự mình nêu tấm gương sáng về đạo đức cần
kiệm liêm chính, chí công vô tư trong xử lý mối quan hệ quốc gia, quốc
tế Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.
Các thế hệ lãnh đạo Đảng, Nhà nước và quân, dân hai nước do thấm
nhuần và thực hiện lời dạy của Người mà vượt qua mọi gian nguy để
giành nhiều thắng lợi, kết thúc vẻ vang các chặng đường cách mạng và
đang vươn tới những thắng lợi mới.
- Xây dựng, bảo vệ và phát huy quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào Lào Việt Nam là sự nghiệp của nhân dân Việt Nam, Lào
Mục tiêu phấn đấu của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt
Nam bao quát những nguyện vọng tha thiết nhất của nhân dân Việt
Nam, Lào, là đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng chống kẻ thù chung, xây
dựng quan hệ bình đẳng, tự chủ, hữu nghị, hợp tác giữa hai quốc gia.
Trong gần một thế kỷ qua, họ chung sức, chung lòng, vừa xây dựng
lực lượng, vừa anh dũng, sáng tạo, giữ vững mục tiêu cách mạng, đánh
thắng nhiều kẻ thù hùng mạnh mà không tính thiệt hơn, chỉ dành cho
nhau sự quý mến, trân trọng và biết ơn sâu nặng.Truyền thống tốt đẹp
đó tiếp tục được phát huy trên trận tuyến bảo vệ và xây dựng Tổ quốc
trên con đường đổi mới của hai nước.
- Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào mang tính xuyên suốt, toàn diện và
bền vững
Trong sự nghiệp đấu tranh lâu dài của hai dân tộc, quan hệ đặc biệt
Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là nhân tố xuyên suốt các chặng đường
và bước trước chuẩn bị cho bước sau nối tiếp phát triển.
Mỗi thời kỳ lịch sử tương ứng với một nhiệm vụ chiến lược cách
mạng của hai nước và gắn liền với sự vận động của quan hệ Việt Nam Lào, Lào - Việt Nam trên các lĩnh vực tư tưởng, chính trị, quân sự, ngoại
giao, kinh tế, xã hội, văn hoá. Tuy mỗi thời kỳ có những nhiệm vụ trọng
tâm, song nhìn tổng thể, vẫn nhận rõ tính toàn diện, phong phú mang
bản chất cách mạng, nhân văn trong tư tưởng và hoạt động thực tiễn.
Tất cả nhân tố trên đều lắng đọng, kết tinh và qua kiểm nghiệm trên
nhiều bước đường gian khó, hiểm nghèo đã biến quan hệ đặc biệt Việt
18
Nam - Lào, Lào - Việt Nam thành giá trị văn hoá nhân văn trường tồn và
phát triển cùng thời gian.
2.Thành quả cơ bản
Từ bước khởi đầu thiết lập quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và các cấp lãnh đạo tối cao của hai
nước đã thấu hiểu tính tất yếu khách quan gắn bó vận mệnh của hai
dân tộc Việt Nam, Lào trên cùng trận tuyến đấu tranh giải phóng dân tộc
theo con đường cách mạng vô sản. Cả hai bên đều chung sức, chung
lòng tận dụng được lợi thế tự nhiên hiếm có của dãy Trường Sơn hùng
vĩ, kết hợp với biển cả, đất đai, tài nguyên thiên nhiên quý giá khác; khơi
dậy tối đa tinh thần gan góc, ý chí đấu tranh quật cường, sáng tạo của
hai cộng đồng dân tộc trong một khối thống nhất bền chặt, đấu tranh vì
độc lập, tự do và thịnh vượng của đất nước dưới ánh sáng soi đường
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Đảng
Cộng sản Việt Nam. Các nhân tố đó kết tụ thành quy luật giành thắng lợi
của cách mạng Việt Nam, Lào.
Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam thể hiện rõ tính quy
luật giành thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Lào được phản ánh ở
hiệu quả to lớn trên các chặng đường liên minh, hợp tác, giúp đỡ qua lại
giữa hai dân tộc trong giáo dục, đào tạo đội ngũ cán bộ, xây dựng lực
lượng chính trị, lực lượng vũ trang, tạo lập địa bàn chiến lược cho hai
bên hoạt động, nương tựa, bảo vệ lẫn nhau. Đồng thời, mỗi bên đều
sẵn sàng đáp ứng yêu cầu giúp bạn, phối hợp với bạn trên các lĩnh vực
hoạt động. Tất cả đã diễn ra theo quy trình phát triển lực lượng từ yếu
đến mạnh, từ nhỏ đến lớn, từ phá vỡ thế bị bao vây, cấm vận đến hội
nhập khu vực và quốc tế.
Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam ghi lại nhiều
kỳ tích của hai dân tộc, xuất hiện hầu như cùng thời điểm từ khởi nghĩa
giành chính quyền đến phát hiện con đường đổi mới phù hợp với quy
luật phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa của hai nước Việt Nam
- Lào. Các hiện tượng đó xác nhận sức mạnh tổng hợp đưa tới những
thắng lợi lịch sử tất yếu của hai dân tộc.
2.1.Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là nguồn lực vô
tận quý giá nhất.
Quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào là nguồn lực vô tận quý giá
nhất của hai dân tộc Việt Nam, Lào. Đó là thành quả lý luận cách mạng
19
của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, được các thế hệ lãnh đạo kế tiếp của Đảng
Cộng sản Đông Dương, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Đảng Cộng
sản Việt Nam kế thừa, phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể của hai
nước Việt Nam, Lào, trở thành ngọn cờ dẫn đường cho hai dân tộc kề
vai sát cánh đi tới thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc và xây
dựng đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nét ưu việt đặc sắc của lý luận đó là ở khả năng khắc phục sự biệt
lập của các dân tộc phương Đông khi phải đối địch với họa xâm lược
của nhiều nước tư bản phương Tây
Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là động lực nhân lên
gấp bội sức mạnh của hai dân tộc do mỗi bên đều tự giác phát huy tinh
thần tự lực, tự cường kết hợp với sự giúp đỡ vô tư của phía bạn. Mặt
khác, nó còn tạo ra ảnh hưởng qua lại tích cực thuận chiều cho sự phát
triển của cả hai nước trên các chặng đường lịch sử từ cách mạng giải
phóng dân tộc đến sự nghiệp đổi mới.
Đó cũng là di sản văn hóa thiêng liêng của hai dân tộc Việt Nam,
Lào, nơi hội tụ biết bao giá trị cao đẹp và sâu sắc mà trí tuệ và tình cảm
của nhân loại hằng ngưỡng mộ, tôn vinh, rất phù hợp với cách diễn đạt
của Chủ tịch Xuphanuvông: “Tình hữu nghị anh em giữa nhân dân Lào
và nhân dân Việt Nam thật là vĩ đại mà bất cứ bài ca, bản nhạc nào, bất
cứ bài thơ nào hay nhất cũng không sao diễn tả trọn vẹn được. Tình
hữu nghị đó cao hơn núi, dài hơn sông, rộng hơn biển cả, đẹp hơn trăng
rằm, ngát hương thơm hơn bất cứ đóa hoa nào thơm nhất. Tình hữu
nghị cao đẹp đó đã được vun trồng, xây đắp với tất cả tấm lòng thành
thật của chúng ta. Do đó, không thể có hung thần nào, không thể có kẻ
thù nào phá vỡ nổi”.
2.2. Hai dân tộc Việt Nam, Lào sát cánh bên nhau giành độc lập dân
tộc
Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, ách thống trị của thực
dân Pháp và phát xít Nhật đã đẩy mâu thuẫn giữa những kẻ cướp nước
với nhân dân Đông Dương đến cực điểm, khiến ai cũng chán ghét cuộc
đời nô lệ và sẵn sàng tham gia công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trong tình thế đó, lãnh tụ Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Đông Dương đưa ra nhiều quyết định độc lập, sáng tạo:
đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc ở vị trí hàng đầu và cho rằng, sau lúc
lật đổ chế độ thuộc địa, mỗi dân tộc đều có quyền tự quyết định vận
mệnh của dân tộc mình; mặt khác, ba dân tộc cần đoàn kết chặt chẽ
mới có thể chiến thắng kẻ thù xâm lược và xây dựng đất nước phồn
20
vinh. Đối với các dân tộc Lào và Campuchia, dân tộc Việt Nam có nghĩa
vụ giúp đỡ trên con đường đấu tranh vì độc lập, tự do.
Hướng tới các mục tiêu trên, công tác xây dựng Đảng, đào tạo cán bộ
và tổ chức các lực lượng chính trị, vũ trang được khẩn trương tiến hành.
Trong đó, Trung ương Đảng nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng Đảng tại
Lào, Campuchia và phân công Đảng bộ Trung Kỳ đảm nhiệm công tác
xây dựng Đảng tại Lào, Đảng bộ Nam Kỳ thực hiện nhiệm vụ đó ở
Campuchia.
Nhiệm vụ thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất tại Việt Nam, Lào,
Campuchia rất được coi trọng theo chủ trương thu hút rộng rãi nhất các
giai cấp và tầng lớp yêu nước bằng cách thi hành các chính sách ích
nước, lợi dân. Đồng thời, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương chỉ
đạo các cấp bộ Đảng tổ chức đoàn thể cứu quốc, lực lượng vũ trang,
lập căn cứ địa ở Việt Nam và Lào làm chỗ dựa để tập hợp và phát triển
lực lượng cách mạng.
Cũng vào lúc này, Trung ương Đảng xác định quy trình khởi nghĩa
từng phần ở từng địa phương tiến tới tổng khởi nghĩa.
Trung tuần tháng 8 năm 1945, thời cơ giành độc lập cho Đông Dương
xuất hiện, lãnh tụ Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Đông Dương quyết định Tổng khởi nghĩa và tiến hành Hội
nghị toàn Đảng tại Tân Trào, Tuyên Quang (ngày 14, 15 tháng 8 năm
1945). Vào thời điểm này, lãnh tụ Hồ Chí Minh gặp các đồng chí đại biểu
Xứ uỷ Lào, Người dặn: “thời cơ rất thuận lợi cho nhân dân Đông
Dương, ở đâu có điều kiện, phải giành được chính quyền trước khi
Đồng minh vào”.
Nhân dân hai nước Việt, Lào chớp thời cơ, tiến hành khởi nghĩa
thành công tháng 8 năm 1945.
Đó là kỳ tích đầu tiên của hai nước Việt Nam, Lào, của quan hệ đặc
biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.
Thành công của Tổng khởi nghĩa tại Việt Nam và khởi nghĩa tại Lào
bắt nguồn từ sáng tạo lý luận và chỉ đạo thực tiễn của lãnh tụ Hồ Chí
Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương về cách mạng giải phóng dân tộc
và vấn đề dân tộc ở Đông Dương, về huy động tối đa sức mạnh đoàn
kết các tầng lớp nhân dân, các lực lượng yêu nước nổi dậy giành chính
quyền khi thời cơ khởi nghĩa xuất hiện.
21
2.3.Hai dân tộc Việt Nam, Lào kề vai, sát cánh, xây dựng thực lực,
kiên cường chiến đấu, đưa cuộc chiến tranh cách mạng kéo dài 30
năm (1945-1975) đi tới thắng lợi hoàn toàn
Trong khó khăn, gian khổ của cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, sức mạnh cơ bản của thắng lợi đã được tạo lập.
Một là, bốn năm đầu cuộc kháng chiến (1945-1949), chiến trường
Đông Dương bị kẻ thù bao vây, cô lập. Nhưng chúng vẫn không thể
ngăn chặn quân dân hai nước vạch rừng, băng qua sông, suối mở
đường từ Việt Nam xuyên qua đất Lào tới Thái Lan, Miến Điện, rồi tỏa
rộng ra nhiều nước Á, Âu, tuyên truyền cho cuộc kháng chiến chính
nghĩa của nhân dân Đông Dương; thu hút sự ủng hộ, chi viện của bạn
bè quốc tế; chuyển về Lào và Việt Nam nhiều cán bộ, chiến sĩ Việt kiều,
bổ sung lực lượng kháng chiến.
Hai là, xây dựng đội ngũ lãnh đạo chủ chốt đầu tiên của quan hệ đặc
biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt đầu tiên của quan hệ đặc biệt Việt Nam Lào, Lào - Việt Nam vốn đã được chuẩn bị từ trước tháng 8-1945; đến
kháng chiến chống thực dân Pháp, bao gồm các nhà lãnh đạo xuất sắc
của cách mạng Việt Nam và cách mạng Lào.
Phía Việt Nam, đó là nhiều cán bộ cấp cao của Trung ương Đảng
Cộng sản Đông Dương.
Phía Lào, những nhà cách mạng tiêu biểu như đồng chí Cayxỏn
Phômvihản, đồng chí Xuphanuvông và nhiều đồng chí lãnh đạo khác
đều đứng trong đội ngũ này. Trong thời gian học tại trường Bưởi (nay là
trường Chu Văn An) và trường Đại học Luật Hà Nội (1935-1945), cũng
là lúc đồng chí Cayxỏn Phômvihản tiếp xúc với những người bạn cùng
chí hướng cách mạng và tiếp nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng cách
mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Đến cuối năm 1944, đồng chí được
kết nạp vào Đoàn Thanh niên Cứu quốc.
Trên các chặng đường cách mạng tiếp theo, với trọng trách của
người lãnh đạo cách mạng Lào và chung sức với các đồng chí lãnh đạo
cách mạng Việt Nam vun đắp, phát triển quan hệ Lào - Việt Nam, Việt
Nam - Lào, đồng chí Cayxỏn Phômvihản đã đảm đương xuất sắc hai sứ
mệnh đó.
22
Cuộc gặp gỡ thân tình giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và Hoàng thân
Xuphanuvông diễn ra gần trọn tháng 9 năm 1945, tại Hà Nội, tác động
tích cực tới sự nghiệp cách mạng của Hoàng thân như ông cho biết:
“Tôi bắt đầu sự nghiệp đấu tranh vào năm 1945… Nhờ có dịp được gặp
Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hà Nội, tôi đã học được rất nhiều điều bổ ích…
Sau đó tôi về nước để lãnh đạo đấu tranh giải phóng cho nhân dân
Lào”. Cũng từ lúc bấy giờ, Hoàng thân Xuphanuvông trở thành nhà cách
mạng chân chính trong các lãnh tụ nổi bật nhất của nhân dân Lào và là
người có nhiều cống hiến to lớn cho quan hệ đặc biệt Lào - Việt Nam.
Tiếp tục bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cách mạng
Lào được Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm thực hiện. Đồng chí
Phumi Vôngvichít cho biết, sau khi bế mạc Đại hội quốc dân Lào tại
chiến khu Việt Bắc, tháng 8 năm 1950: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành
bốn ngày đêm liền để giảng giải chủ nghĩa Mác-Lênin cho chúng tôi
nghe rất dễ hiểu, rõ ràng, giúp cho chúng tôi thấy rõ hơn con đường
mình đi và tin tưởng vào thắng lợi một cách vững chắc hơn trước.
Ba là, gây dựng cơ sở chính trị và căn cứ địa, phát triển chiến tranh
du kích tại Lào
Đây là một nhiệm vụ cơ bản của cuộc chiến tranh cách mạng giải
phóng dân tộc Lào và cũng là một nhiệm vụ trọng yếu mà phía Việt Nam
tự nguyện góp phần thực hiện.
Tư tưởng chủ đạo của nhiệm vụ trên được nêu ra rất sớm tại Chỉ thị
về kháng chiến kiến quốc của Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương, tháng 11 năm 1945 là: cần tiến hành vận động nhân dân ở vùng
nông thôn Lào tiến hành chiến tranh du kích. Điều đó có quan hệ khăng
khít và cấp bách với sự phát triển thực lực của cách mạng Lào, đặc biệt
là trên địa bàn nông thôn, nơi chưa xây dựng được lực lượng chính trị
và vũ trang rộng khắp.
Từ cuối năm 1948, việc thành lập khu kháng chiến được bắt đầu tiến
hành. Các khu kháng chiến Thượng Lào, Hạ Lào, Tây Bắc Lào … lần
lượt xuất hiện.
Phương pháp vận động quần chúng là cán bộ tìm cách đến với dân,
tuyên truyền, vận động dân các bộ tộc đoàn kết và thắt chặt quan hệ
giữa hai dân tộc Lào, Việt Nam cùng ra sức chống thực dân Pháp xâm
lược; xây dựng Mặt trận và các đoàn thể, tổ chức du kích, thiết lập chính
quyền…; hướng dẫn dân sản xuất lương thực, thực phẩm và nhiều loại
23
sản phẩm tiêu dùng, cải tạo đời sống văn hóa tiến bộ, mở lớp học chữ
Lào.
Cùng năm 1949, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương chỉ đạo
thành lập Chính phủ Lào kháng chiến và Mặt trận dân tộc thống nhất
Lào (Neo Lào Ítxala); cử một đơn vị cán bộ, chiến sĩ sang Thái Lan và
Lào đón Hoàng thân Xuphanuvông và các nhà lãnh đạo cách mạng Lào
tới Việt Bắc để thực hiện chủ trương trên.
Giữa tháng 8 năm 1950, tại tỉnh Tuyên Quang (Việt Nam), Đại hội
Quốc dân Lào quyết định những vấn đề quan trọng về cách mạng Lào,
thành lập Chính phủ Lào kháng chiến và Neo Lào Ítxala. Sự kiện đó tạo
ra bước phát triển mới về việc tăng cường cơ quan chỉ đạo kháng chiến
và mở rộng hơn nữa khối đại đoàn kết các tầng lớp nhân dân, các phần
tử yêu nước và phát huy mạnh mẽ hơn sức mạnh của cuộc chiến tranh
cách mạng Lào góp phần tăng cường quan hệ đặc biệt Lào - Việt Nam.
Bốn là, xây dựng tại mỗi nước Việt, Campuchia, Lào một Đảng
mácxít-lêninít và thành lập Mặt trận liên minh Việt - Campuchia - Lào.
Tại Đại hội lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương, tháng 2 năm
1951, đồng chí Hồ Chí Minh đề nghị thành lập tại mỗi nước Đông
Dương một Đảng Cộng sản.
Đồng chí Cayxỏn Phômvihản phát biểu: “Chúng tôi, người cộng sản
Lào hiểu rõ và tán thành đề nghị đó không chút thắc mắc”. Đại biểu
Đảng bộ Campuchia phát biểu: “Chúng tôi rất hoan nghênh đề nghị
sáng suốt của Báo cáo chính trị”.
Đồng chí Hồ Chí Minh nói: “Sau khi nghe các đồng chí Miên, Lào phát
biểu ý kiến, chắc Đại hội cũng như tôi, chúng ta rất cảm động. Nhưng
cảm động đây không phải là buồn, trái lại là cảm động vui. Vì chúng ta
như con một nhà, một nhà cộng sản, một nhà cách mạng. Bây giờ con
cái đã khôn lớn rồi phải chia nhà, chia của ở riêng. Con trai có vợ, con
gái có chồng (vỗ tay), sau này đẻ con, đẻ cháu đông đúc, từ gia đình
nhỏ tiến lên gia đình lớn rất mạnh, từ gia đình lớn đến họ hàng, họ hàng
càng to, càng mạnh, đông người nhiều việc, nhất định thành công”.
Theo Nghị quyết Đại hội II Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Cộng
sản ở Việt Nam lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam ; Ban Vận động
thành lập Đảng Nhân dân Lào có sự hỗ trợ của Trung ương Đảng Lao
động Việt Nam, tiến hành các công tác chuẩn bị để thành lập Đảng
Nhân dân Lào
24
Nối tiếp Đại hội II Đảng Cộng sản Đông Dương, cũng tại Việt Bắc,
diễn ra Hội nghị thành lập Mặt trận liên minh Việt - Miên - Lào. Nghị
quyết Hội nghị biểu thị ý chí thống nhất của nhân dân ba nước đoàn kết
đánh đuổi xâm lược Pháp và can thiệp Mỹ, làm cho ba nước Việt Nam,
Campuchia, Lào hoàn toàn độc lập, nhân dân ba nước được tự do,
sung sướng và tiến bộ.
Năm là, đấu, lập nhiều chiến Việt Nam, Lào đồng tâm, hiệp lực chiến
công
Khi phải đối đầu với mưu đồ và hành động xâm lược của thực dân
Pháp, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đưa ra một quyết định
quan trọng: “Về quân sự, Việt Nam, Cao Miên, Ai Lao là một chiến
trường, phải đánh theo một chiến lược chung”.
Tháng 4-1953, liên quân Lào - Việt mở chiến dịch Thượng Lào. Trong
vòng một tháng, liên quân giải phóng một vùng rộng lớn với trung tâm là
Sầm Nưa tạo ra một địa bàn đứng chân vững chắc của cách mạng Lào.
Tiếp đó, trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, thắng lợi của các
chiến dịch Trung Lào, Hạ Lào đã củng cố và mở rộng căn cứ ở vùng
trọng yếu này, buộc đối phương phải đưa quân tới đây để đối phó với
liên quân Lào - Việt.
Hạ tuần tháng 1-1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay đổi phương
châm tác chiến tại chiến dịch Điện Biên Phủ từ “đánh nhanh, giải quyết
nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”, bộ đội Việt Nam phối hợp với quân
giải phóng Lào và được nhân dân Lào chi viện vật chất, tấn công khu
vực sông Nậm Hu, tiến sát kinh đô Luông Phabăng, tiêu diệt một bộ
phận sinh lực địch đẩy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của đối phương
vào thế hoàn toàn cô lập.
Ngày 13 tháng 3 năm 1954, quân và dân Việt Nam mở màn cuộc
quyết chiến chiến lược ở Điện Biên Phủ. Quân, dân Lào đã anh dũng
chiến đấu, chặt đứt con đường chiến lược của địch chi viện cho Điện
Biên Phủ từ phía Lào; góp phần xứng đáng vào thắng lợi của chiến dịch
Điện Biên Phủ, đưa tới sự kiện ký kết Hiệp định Giơnevơ. Tuy chưa
phản ảnh đầy đủ thắng lợi của quân dân ba nước, song Hiệp định
Giơnevơ đã công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia.
Trong kháng chiến chống Mỹ xâm lược, quan hệ đặc biệt Việt Nam Lào, Lào - Việt Nam phát triển vượt bậc tạo nên sức mạnh kỳ diệu mới,
đưa cách mạng giải phóng dân tộc của hai nước tới thắng lợi hoàn toàn.
25