Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Tìm hiểu các lễ hội truyền thống của các dân tộc ở tỉnh hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (962.41 KB, 62 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được khóa luận này cùng với sự nỗ lực, cố gắng của bản
thân, tôi còn nhận được sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của cô giáo Bùi Thị
Nguyệt Quỳnh. Ngoài ra tôi còn nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của các thầy,
cô trong khoa Sử - Địa, thư viện trường Đại Học Tây Bắc, thư viện tỉnh Hòa
Bình cũng như gia đình và bạn bè.
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới cô
giáo Bùi Thị Nguyệt Quỳnh - Giảng viên khoa Sử - Địa cũng như toàn thể
các thầy cô trong khoa Sử - Địa Trường Đại Học Tây Bắc.
Qua đây tôi cũng xin chân thành cảm ơn thư viện trường Đại Học Tây
Bắc, thư viện tỉnh Hòa Bình, gia đình và bạn bè đã giúp đỡ, động viên, tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi thực hiện và hoàn thành khóa luận này.
Đề tài hoàn thành chắc chắn sẽ không tránh khỏi nhiều thiếu sót, rất
mong nhận được ý kiến đóng góp của quý thầy cô cùng bạn đọc để đề tài
được hoàn thiện hơn.
Sơn La, tháng 5 năm 2016
Tác giả
Hà Huyền Trang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 3
4. Cơ sở tư liệu, phương pháp nghiên cứu ........................................................... 3
5. Cấu trúc đề tài .................................................................................................. 3
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ LỄ HỘI Ở TỈNH HÒA BÌNH ........................... 4
1.1. Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên của tỉnh Hòa Bình .................................... 4
1.1.1 Vị trí địa lí ................................................................................................... 4
1.1.2. Điều kiện tự nhiên ....................................................................................... 4


1.2. Tình hình dân cư ............................................................................................ 7
1.2.1. Dân số ......................................................................................................... 7
1.2.2. Dân tộc ........................................................................................................ 7
1.3. Khái quát về các lễ hội ở tỉnh Hòa Bình ....................................................... 8
1.3.1. Chuẩn bị chung của các lễ hội..................................................................... 8
1.3.2. Quy mô của các lễ hội ở tỉnh Hòa Bình ...................................................... 9
1.3.3. Lễ hội của các dân tộc ở tỉnh Hòa Bình mang đậm các tín ngưỡng dân
gian…… .............................................................................................................. 10
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 13
CHƯƠNG 2. CÁC LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA CÁC DÂN TỘC Ở HÒA
BÌNH….. ............................................................................................................. 14
2.1. Lễ hội xuống đồng (khuống mùa) của người Mường .................................. 14
2.2. Hội sắc bùa (xéc bùa) của người Mường .................................................... 17
2.3. Lễ cầu mùa của người Mường..................................................................... 19
2.4. Lễ Cầu mưa của người Mường.................................................................... 22
2.5. Lễ rửa lá lúa của người Mường ................................................................... 22
2.6. Lễ Cơm mới của người Mường ................................................................... 23
2.7. Lễ hội đu tre của người Mường ................................................................... 23
2.8. Lễ hội đình cổi ............................................................................................. 26


2.9. Lễ hội đình Vai ............................................................................................ 27
2.10. Hội chùa Kè .............................................................................................. 28
2.11. Lễ hội đền và miếu Trung Báo ................................................................... 28
2.12. Lễ hội đình Xàm ....................................................................................... 29
2.13. Lễ hội chùa Hang ..................................................................................... 31
2.14. Lễ hội đền Bờ ........................................................................................... 32
2.15. Lễ cơm mới của người Thái ..................................................................... 33
2.16. Lễ xên bản, xên mường của người Thái .................................................... 35
2.17. Lễ hội chá chiêng của người Thái............................................................ 37

2.18. Lễ Uá Nhụ Đang của người Mông ............................................................. 38
2.19. Lễ đặt tên - cấp sắc (đằng mai sẩy cò - thênh sẩy cò) của người Dao Quần
Chẹt …………………………………………………………………………….39
2.20. Tết nhảy của người Dao Quần Chẹt ......................................................... 40
2.21. Lễ hội Nàng Hai của người Tày ................................................................. 41
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 42
CHƯƠNG 3: GIÁ TRỊ VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO TỒN, PHÁT
HUY CÁC LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA CÁC DÂN TỘC Ở TỈNH HÒA
BÌNH 43
3.1. Lễ hội của các dân tộc ở Hòa Bình biểu hiện giao lưu văn hóa................... 43
3.2. Giá trị cố kết và biểu dương sức mạnh cộng đồng: ..................................... 45
3.3. Giá trị hướng về cội nguồn........................................................................... 46
3.4. Giá trị cân bằng đời sống tâm linh: .............................................................. 46
3.5. Giá trị sáng tạo và hưởng thụ văn hóa: ........................................................ 47
3.6. Giá trị bảo tồn và trao truyền văn hóa: ......................................................... 48
3.7. Giá trị trọng mỹ tục, chống hủ tục ............................................................... 49
3.8. Một số giải pháp bảo tồn và phát huy lễ hội truyền thống ........................... 50
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ...................................................................................... 53
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 54
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 56
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt nam là một quốc gia có bề dày truyền thống lịch sử - văn hóa. Từ khi
hình thành cho đến ngày nay dân tộc ta đã trải qua biết bao những thăng trầm và
biến cố lịch sử. Đó là cả một qúa trình dựng nước và giữ nước lâu dài, từng
bước đánh đuổi các thế lực ngoại xâm, giành quyền tự chủ cho dân tộc. Có được
những thành quả đó là sự đóng góp, đoàn kết, đấu tranh chung của cả cộng đồng

dân tộc. Tất cả các dân tộc dù ít hay nhiều đều chung vai sát cánh chiến đấu
dũng cảm quên mình bảo vệ độc lập dân tộc.
Cho đến nay trải qua một quá trình hòa huyết lâu dài trên lãnh thổ Việt
Nam có 54 dân tộc cùng sinh sống, mỗi tộc người đều có những nét văn hóa đặc
sắc riêng, nhưng vẫn có những gắn bó chặt chẽ nhau. Các dân tộc bao gồm:
Mường, Tày, Thái, H’Mông… là các dân tộc chiếm số lượng khá đông ở các
tỉnh miền núi phía Bắc, trong đó có tỉnh Hòa Bình, các dân tộc phân bố ở khắp
huyện trong tỉnh tạo nên những nét văn hóa vô cùng đặc sắc.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, các dân tộc trên khắp cả nước nói
chung và các dân tộc trên tỉnh Hòa Bình nói riêng đã cùng nhau đoàn kết một
lòng xây dựng bảo vệ quê hương đất nước. Hiện nay, đất nước đã được hòa
bình, thống nhất, đang trên con đường đổi mới và hội nhập. Vấn đề văn hóa các
cộng đồng dân tộc nói chung và các dân tộc trên tỉnh Hòa Bình nói riêng cần
được bảo tồn và phát huy. Các dân tộc trên tỉnh Hòa Bình với những nét văn hóa
riêng của mình đã góp phần vào công cuộc gìn giữ, xây dựng nền văn hóa Việt
Nam đậm đà bản sắc dân tộc.
Tuy nhiên, cho đến nay, những hiểu biết và nghiên cứu về các dân tộc thiểu
số trên đất nước ta nói chung và ở Hòa Bình nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế,
đặc biệt là vấn đề văn hóa trong các lễ hội truyền thống. Các lễ hội truyền thống
là một trong những nét văn hóa tiêu biểu của các dân tộc ở tỉnh Hòa Bình. Vì
vậy, việc nghiên cứu về các lễ hội truyền thống phần nào làm rõ thêm những nét
đặc sắc trong văn hóa các dân tộc ở tỉnh Hòa Bình. Hơn nữa, trong giai đoạn
hiện nay với sự biến đổi của văn hóa các dân tộc thiểu số, đặt ra yêu cầu cần bảo
1


tồn và phát huy những giá trị tốt đẹp văn hóa của các dân tộc. Chính vì vậy, tôi
đã chọn đề tài: “Tìm hiểu các lễ hội truyền thống của các dân tộc ở tỉnh Hòa
Bình’’ làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Trong những năm gần đây việc nghiên cứu về văn hóa các dân tộc thiểu số
ở nước ta được đẩy mạnh và thu hút được khá nhiều những thành tựu đáng kể,
góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hóa Việt Nam. Trong đó, việc
nghiên cứu về các lễ hội truyền thống cũng được khá nhiều người quan tâm. Có
rất nhiều công trình nghiên cứu có giá trị như:
+ Cuốn “Địa chí Hòa Bình” của Tỉnh ủy - Hội đồng nhân dân - Ủy ban
nhân dân tỉnh Hòa Bình có đề cập đến các lễ hội truyền thống của các dân tộc ở
tỉnh Hòa Bình nhưng chưa đầy đủ, chủ yếu vẫn là các lễ hội của dân tộc Mường
và chưa đi sâu vào giá trị của các lễ hội. [11]
+ Cuốn “Văn hóa truyền thống một số tộc người ở tỉnh Hòa Bình” của
tác giả Nguyễn Thị Thanh Nga cũng có đề cập đến các lễ hội truyền thống
nhưng là khái quát chung, chưa đi tìm hiểu sâu vào các lễ hội. [7]
+ Cuốn “Văn Hóa dân gian Mường” của tác giả Bùi Thiện đã đề cập đến
một số lễ hội truyền thống, nhưng chỉ là lễ hội truyền thống của người Mường
mà chưa đề cập đến lễ hội của các dân tộc khác. [9]
+ Cuốn “Lễ hội cổ truyền” của tác giả Lê Trung Vũ cũng đã đề cập đến
một số lễ hội cổ truyền ở Hòa Bình nhưng chưa đầy đủ. [15]
Ngoài ra còn có rất nhiều công trình của nhiều nhà nghiên cứu, tác giả, nhà
văn, nhà báo, các cán bộ, ban ngành quan tâm như: Sở văn hóa thông tin tỉnh
Hòa Bình, Bảo tàng tỉnh Hòa Bình… Tuy nhiên, các công trình ít đi sâu vào giá
trị của các lễ hội.
Vì vậy, để ngiên cứu về các lễ hội truyền thống của các dân tộc trong tỉnh.
Trên cở sở nguồn tư liệu trên và quá trình tìm hiểu, tôi đã chọn đề tài “Tìm hiểu
các lễ hội truyền thống của các dân tộc ở tỉnh Hòa Bình” nhằm góp phần làm
rõ vấn đề đáng quan tâm hiện nay.

2


3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng
Đối tượng của đề tài là các lễ hội truyền thống của các dân tộc ở tỉnh
Hòa Bình.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Để đi sâu tìm hiểu nội dung nghiên cứu của đề tài. Đề tài chủ yếu nghiên
cứu về các lễ hội truyền thống của các dân tộc ở tỉnh Hòa Bình.
4. Cơ sở tư liệu, phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở tư liệu
Đề tài được hoàn thành dựa trên những nguồn tư liệu sau đây:
Các văn kiện của Đảng và Nhà nước ban hành về vấn đề văn hóa.
Các tài liệu, các bài viết liên quan đến đề tài nghiên cứu.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng những phương pháp
nghiên cứu chủ yếu sau:
Thực hiện phương pháp nghiên cứu bộ môn, phương pháp lịch sử và
phương pháp logic.
Ngoài ra còn kết hợp các phương pháp khác như: phân tích, so sánh, tổng hợp.
5. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, đề tài gồm có 3
chương:
Chương 1. Khái quát về lễ hội ở tỉnh Hòa bình.
Chương 2. Các lễ hội truyền thống của các dân tộc ở tỉnh Hòa Bình.
Chương 3. Giá trị của các lễ hội truyền thống của các dân tộc ở tỉnh
Hòa Bình.

3


CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ LỄ HỘI Ở TỈNH HÒA BÌNH
1.1. Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên của tỉnh Hòa Bình

1.1.1 Vị trí địa lí
Hòa Bình là một tỉnh miền núi giáp với đồng bằng sông Hồng và vùng núi
Tây Bắc; phía Bắc giáp Phú Thọ, phía Tây giáp Sơn La, phía Nam giáp Thanh
Hóa và Ninh Bình, phía Đông giáp Hà Nội và Hà Nam. Tỉnh Hòa Bình trải dài
từ 20018’ đến 2108’ vĩ độ Bắc và từ 104 độ 50’ đến 1050 52’ kinh độ Đông. Hòa
Bình có diện tích tự nhiên là 4.811 km2 với dân số là 757.637 nghìn người
(1999) và 803,3 nghìn người năm 2003. [10; tr 79]
Hòa Bình án ngữ miền Tây Bắc của tổ quốc, tiếp giáp với thủ đô Hà Nội
đi theo quốc lộ 6. Hòa Bình có vị trí địa lí quan trọng, là đầu mối giao thông nối
liền miền xuôi với miền núi Tây Bắc trên trục kinh tế Hà Nội - Hà Đông - Hòa
Bình - Mộc Châu - Sơn La - Điện Biên - Lai Châu. Theo các tuyến đường 12A,
12B, 21A, đường Hồ Chí Minh, Hòa Bình ở vào vị trí trung chuyển giữa Tây
Bắc và Bắc Trung Bộ qua Ninh Bình, Thanh Hóa. Hơn hết, Hòa Bình chiếm vị
trí trung chuyển giữa miền núi Tây Bắc núi non trùng điệp, giàu tiềm năng tài
nguyên thiên nhiên nhưng thiếu lao động với miền đồng bằng châu thổ sông
Hồng phì nhiêu nằm trong tam giác tăng trưởng kinh tế quan trọng, có nguồn lực
lao động lớn nhất cả nước. Với vị trí đó đã tạo ra được những điều kiện thuận lợi
cho Hòa Bình phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.2. Điều kiện tự nhiên
* Điều kiện tự nhiên:
Địa hình: Địa hình tỉnh Hòa Bình tương đối phức tạp bị chia cắt nhiều và
thấp dần theo hướng Tây - Đông. Núi rừng Hòa Bình có địa thế địa hình khá
hiểm trở chia thành hai tiểu vùng.
Tiểu vùng thứ nhất, trải dài từ Đà Bắc qua Tân lạc, Lạc Sơn, Mai Châu nối
liền với núi thượng du Thanh Hóa. Đó là núi cao nối tiếp giữa dãy Hoàng Liên Sơn
và dải Trường Sơn. Vùng này có độ cao trung bình 400 - 500m so với mực nước
biển, với nhiều ngọn núi cao trên 1000m như ở Hang Kia (1044m), dải núi đá vôi
Pà Cò (1343m), Pu Chanh (1420m) [10; tr 84]. Đây là vùng cao của Hòa Bình.
4



Tiểu vùng thứ hai, bao gồm các huyện Kì Sơn, Lương Sơn xuống đến Lạc
Thủy, Yên Thủy đây là vùng thấp của tỉnh Hòa Bình có độ cao trên 100m so với
mực nước biển, chủ yếu là núi đá vôi, nhiều hang động và nhiều rừng thứ sinh,
đồi cỏ, nhiều thung lũng và sông suối. Địa hình rừng núi trong tỉnh bị chia cắt
bởi nhiều thung lũng, hàng trăm con suối lớn nhỏ. Xen giữa các rặng núi, có
thung lũng trải rộng, kéo dài thành những cánh đồng tương đối bằng phẳng và
các triền bãi ven sông.
Khí hậu: Hòa Bình nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, mang đặc
trưng khí hậu của vùng Tây Bắc được chia làm hai mùa rõ rệt, mùa khô trùng
với mùa đông từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, nhiệt độ trung bình từ 16 –
220C, ít mưa, khô hanh và lạnh; mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10 và mưa tập
trung vào các tháng 7, 8, 9 nhiệt độ trung bình từ 25 – 320C với lượng mưa
tương đối lớn khoảng 300 - 400 mm. Vì thế lượng mưa bình quân năm ở Hòa
Bình tương đối lớn từ 1800 - 2200 mm, độ ẩm cao.
Nhìn chung khí hậu Hòa Bình tương đối mát mẻ, lượng mưa vừa phải, nhiệt
độ cao, ánh sáng dồi dào, lượng nước khá phong phú với nhiều sông, suối, ao,
hồ… đã tạo điều kiện cho phát triển Nông - Lâm nghiệp đặc biệt là các cây
lương thực, thực phẩm, cây ăn quả, các loại cây công nghiệp, đặc biệt là trồng
rừng nguyên liệu… Tuy nhiên khí hậu cũng tương đối phức tạp như có mùa
đông lạnh, hanh khô, lũ quét vào mùa mưa, đặc biệt ở những vùng núi cao của
tỉnh như Mai Châu, Đà Bắc, gây nhiều khó khăn cho đời sống con người cũng
như sản xuất.
Sông ngòi: Hòa Bình có mạnh lưới sông ngòi phân bố tương đối dày trong
tỉnh có 11 con sông chính thuộc các hệ thống sông Đà, sông Mã, sông Bưởi và
được phân bố đều khắp ở các huyện. Có sông Đà là sông lớn nhất nằm trong hệ
thống sông Hồng chảy qua các huyện Mai Châu, Đà Bắc, Tân Lạc, Kì Sơn Và
thành phố Hòa Bình với tổng chiều dài trên 100km. Sông Đà có đặc điểm là
tương đối dốc và chảy siết chính vì vậy có tiềm năng thủy điện rất lớn như thủy
điện Hòa Bình đồng thời còn có giá trị giao thông tương đối lớn. Ngoài sông Đà,

trong tỉnh còn có nhiều con sông như: sông Bưởi, sông Bôi, sông Bùi, sông
5


Lãng… Bên cạnh đó còn có nhiều con suối rải rác khắp các huyện trong tỉnh
như suối nước khoáng Kim Bôi là suối nước khoáng lớn… tạo điều kiện cho
việc cung cấp nước tưới tiêu cho đồng ruộng, giao thông đường thủy, thủy điện
và cung cấp nguồn nước cho sinh hoạt, ngoài ra hàng năm mang lại nguồn thủy
sản khá lớn và hơn nữa còn có thể phát triển du lịch.
* Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên đất đai: Đất đai trồng trọt của Hòa Bình không nhiều. Trước
cách mạng tháng tám năm 1945, diện tích đất cấy lúa chỉ có 4500 ha vì chủ yếu
dựa vào điều kiện tự nhiên. Sau cách mạng tháng tám năm 1945 đến nay, sau
nhiều năm nỗ lực làm thủy lợi, cải tạo đồng ruộng, khai phá đất đai diện tích cấy
lúa nước đã lên tới 28.000 ha và hàng năm diện tích ngày càng tăng lên.
Về tính chất đất, do tác động của khí hậu địa hình Hòa Bình có 7 nhóm đất
chính với 23 loại đất khác nhau. Song nhìn chung loại đất Feralit là nhóm đất
chủ yếu ở Hòa Bình, với 302.350 ha, chiếm phần lớn diện tích toàn tỉnh (68%)
và gấp 18 lần đất phù sa và chủ yếu phát triển trên độ dốc dưới 200C, ngoài ra ở
Hòa Bình còn có các loại đất khác như đất phù sa ở ven các con sông tạo điều
kiện cho phát triển trồng cây hàng năm như: lạc, đậu, lúa, rau củ… và cây lâu
năm như chè, vải, nhãn… đặc biệt là trồng rừng nguyên liệu.
Tài nguyên khoáng sản: Hòa Bình là tỉnh có tài nguyên khoáng sản khá
phong phú với tiềm năng ở mức độ khác nhau. Nhiều loại khoáng sản đã được
thăm dò, khai thác, sử dụng từ lâu. Có loại đang được nghiên cứu và khai thác
bước đầu.
Khoáng sản trong tỉnh có thể chia làm một số loại như: khoáng sản nhiên
liệu, kim loại, phi kim… Nhóm nhiên liệu quan trọng nhất là than với khoảng 9
triệu tấn và tập trung ở Lạc Thủy và Yên Thủy; nhóm kim loại gồm sắt, vàng,
đồng, chì, kẽm, đặc biệt là có trữ lượng đá vôi khá lớn… hơn nữa còn có nguồn

nước khoáng khá phong phú ở Kim Bôi.
Với tiềm năng khoáng sản trên tạo điều kiện cho phát triển ngành khai thác,
chế biến khoáng sản và phát triển ngành kinh tế của tỉnh.

6


Tài nguyên rừng: Ở địa bàn miền núi, nông - lâm nghiệp là tiềm năng
kinh tế quan trọng hàng đầu của tỉnh, đặc biệt là tiềm năng lâm nghiệp. Trong đó
diện tích lâm nghiệp của tỉnh có 367.300 ha, với diện tích tương đối lớn tạo cho
Hòa Bình có nguồn tài nguyên rừng phong phú, với nhiều loại cây gỗ quý như:
Tứ thiết, chò, de, lát, lim… dùng trong xây dựng và nhiều loại dùng trong dân
dụng như: Tre, nứa, song, mây… Ngoài ra còn có nhiều sản vật quý như: Nấm
hương, linh chi, măng, mộc nhĩ… Rừng Hòa Bình còn có nhiều cây thuốc quý,
theo điều tra có tới 400 cây thuốc trong đó có quế, sa nhân, hoài sơn, hà thủ ô,
ngũ gia bì, thổ phục linh. Trong rừng có nhiều loại động vật quý hiếm gà ôi, sóc,
khỉ, báo…
1.2. Tình hình dân cư
1.2.1. Dân số
Theo thống kê dân số toàn quốc năm 1999, dân số tỉnh Hòa Bình đạt
757.645 người. So với năm 1975 khi còn là một bộ phận của tỉnh Hà Sơn Bình dân số Hòa Bình khi đó mới có 432.200 người, đã tăng thêm 325.445 người,
bình quân mỗi năm tăng 3,01%. Hòa bình là tỉnh có biến động dân số vào loại
mạnh và kéo dài ¼ thế kỉ qua Với việc xây dựng nhà máy thủy điện Hòa Bình
tạo ra một làn sóng nhập cư lớn mức tăng dân số cao liên tục trong suốt thập kỉ
80: 1980 - 1985 là 3,1%, 1986 - 1990 là 4,25% Bước sang thập kỉ 90, dân số
tăng bình quân mỗi năm là 1,39%, cũng là lúc công trình thủy điện Hòa Bình
hoàn thành. [10; tr 91]
Với dân số như trên Hòa Bình có mật độ dân số năm 1999 là 152 người
trên 1km vuông vào loại trung bình so với các tỉnh miền núi phía Bắc và cao so
với các tỉnh miền núi Tây Bắc (Sơn La 61 người trên 1km vuông) và Mai Châu

(72 người trên 1km vuông). [10; tr 96]
Cho đến nay dân số Hòa Bình có khoảng trên 800.000 người. Với số dân
trên tạo điều kiện thuận lợi cho việc cung cấp nguồn lao động cho tỉnh và cả
nước, thúc đẩy nền kinh tế tỉnh phát triển.
1.2.2. Dân tộc
Hòa bình là tỉnh có nhiều dân tộc sinh sống, song người Mường chiếm đại
7


bộ phận dân cư tập trung ở hầu khắp các huyện như: Lương Sơn (90,2% dân số),
Kim Bôi và Tân Lạc (trên 80%), Kì Sơn và Yên Thủy (trên 60%) và các huyện
trong tỉnh. Hòa Bình Chiếm 43,4% số dân tộc Mường của cả nước [10; tr 95].
Hòa Bình chính là cái nôi văn hóa Mường của Việt Nam. Người Mường
đóng vai trò là chủ thể của mọi mặt kinh tế - xã hội của tỉnh. Đồng bào Mường
Đã tạo dựng nền văn hóa Mường độc đáo trong kho tàng văn hóa các dân tộc
Việt Nam.
Ngoài người Mường trong tỉnh còn có các dân tộc khác sinh sống: Kinh,
Thái, Dao, Tày, H’Mông… Trong đó dân tộc Kinh chiếm khoảng 30% dân số
toàn tỉnh chỉ đứng sau dân tộc Mường, tập trung ở thành phố Hòa Bình (chiếm tỉ
lệ 70% số dân thành phố) và các trung tâm của các huyện trong tỉnh. Bên cạnh
đó dân tộc Thái tụ cư chủ yếu ở Mai Châu (chiếm 61% dân số toàn huyện), tộc
người Tày chủ yếu sinh sống ở Đà Bắc. tất cả các dân tộc trong tỉnh đã đoàn kết
xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, đã tạo nên cộng đồng đa dân tộc
với nền văn hóa đa dạng.
1.3. Khái quát về các lễ hội ở tỉnh Hòa Bình
1.3.1. Chuẩn bị chung của các lễ hội
Thông thường địa phương nào mở hội cũng đều tiến hành theo ba bước sau:
Chuẩn bị: Chuẩn bị lễ hội được chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn chuẩn
bị cho mùa lễ hội sau và khi ngày hội đã đến gần. Chuẩn bị cho mùa lễ hội sau
được tiến hành ngay sau khi mùa hội trước kết thúc, mọi khâu chuẩn bị đã có

sự phân công, cắt cử mọi việc để đón mùa lễ hội năm sau. Khi ngày hội sắp
diễn ra, công việc kiểm tra lại đồ tế lễ, trang phục, quét dọn, mở cửa nơi tổ
chức lễ hội, chuẩn bị các đồ tế tự,…
Vào hội: Nhiều hoạt động diễn ra trong các ngày lễ hội, đó là các nghi
thức tế lễ, lễ rước, dâng hương, tổ chức các trò vui. Đây là toàn bộ những hoạt
động chính có ý nghĩa nhất của một lễ hội. Lễ hội thu hút nhiều đối tượng hay
ít khách đến với lễ hội, diễn ra trong nhiều ngày hay một ngày hoàn toàn chi
phối bởi các hoạt động trong những ngày này.
Kết thúc hội: Ban tổ chức làm lễ tạ, đóng cửa nơi tổ chức lễ hội.
8


1.3.2. Quy mô của các lễ hội ở tỉnh Hòa Bình
Theo thống kê, trên địa bàn tỉnh Hòa Bình, hàng năm có hàng trăm điểm tổ
chức lễ hội, trong đó một số lễ hội nổi tiếng được tổ chức vào dịp đầu năm mới
như lễ Khai hạ Mường Bi, Đền Bờ, Xên bản Xên Mường... Các lễ hội truyền
thống của các dân tộc Hòa Bình đều gắn với đặc điểm cụ thể về địa lý, tự nhiên
và đời sống xã hội của cộng đồng dân cư tồn tại từ lâu đời như các lễ hội khai hạ
xuống đồng, cầu mưa, đi săn, đánh cá... gắn với tín ngưỡng tại các đền, chùa...
Do hoàn cảnh địa lí và lich sử, người Hòa Bình có những nét riêng trong
sinh hoạt văn hóa lễ hội, điều đó nói lên một bản sắc riêng của vùng đất này,
đồng thời một mặt nào đó cũng phản ánh điều kiện sống của các cư dân đang
sinh sống ở đây.
Ở Hòa Bình không có những lễ hội quy mô, đồ sộ có sự tham gia của
đông người với những trang phục, lễ vật, đồ tế khí cùng những quy định bài bản
như các lễ hội của người Kinh dưới xuôi, không có những lễ hội tầm cỡ như lễ
hội Kate của người Chăm, Ooc om booc của người Khơ me, cũng không có
những hội chơi núi mùa xuân hay chợ tình lãng mạn mà tha thiết của người
Mông ở vùng Tây Bắc… Tuy vậy, cộng đồng các dân tộc sống trên đất Hòa
Bình có những lễ hội riêng mang đậm nét văn hóa. Phải chăng, do mật độ dân cư

của các dân tộc Mường, Dao, Thái, Tày… ở đây thường tập trung thành các khu
riêng, có vẻ khép kín mà các lễ hội của họ không có quy mô lớn, không nổi trội,
vượt ra xa khỏi khu vực họ sống. Ngay cả người Mường cũng được chia ra
thành bốn mường chính, có những sự tự tri nhất định ở mỗi nơi, làm cho nó có
phần nào hơi bị khép kín.
Cả người Kinh, Mường, Thái, Dao, Mông,… sống ở đây đều không có
một lễ hội nào có quy mô lớn. Song những lễ hội của họ như lễ Khuống Mùa
(xuống đồng), Sắc Bùa, Chá Chiêng,… không kém phần đặc sắc và bao hàm
nhiều ý nghĩa nhân văn.
Lễ hội của các dân tộc ở tỉnh Hòa Bình gắn liền với những đặc điểm cụ
thể về địa lí, tự nhiên và đời sống xã hội của các cộng đồng cư dân tồn tại ở đây
từ lâu đời. Đặc biệt, những cộng đồng người Mường có những mối quan hệ hết
9


sức gần gũi với người Việt và đã có một nền văn hóa khá phong phú mà nhiều
sắc thái còn giữ được cho đến ngày nay. Nền văn hóa đó đã góp một phần lớn
vào nền văn hóa Hòa Bình và đã trở thành một hện tượng văn hóa được thế giới
công nhận.
1.3.3. Lễ hội của các dân tộc ở tỉnh Hòa Bình mang đậm các tín ngưỡng
dân gian
Ở người Kinh, những tín ngưỡng dân gian ngày càng có sự thay đổi do quá
trình giao lưu văn hóa kể từ thời du nhập văn hóa phương Tây. Ngay cả những
yếu tố tín ngưỡng cũng được khoác lên những yếu tố hiện đại như lễ vật thờ,
hình thức tiến hành, nghệ thuật trang trí. Lấy ví dụ như ở hội Gióng, Gia Lâm,
Hà Nội, những tín ngưỡng thờ vị thần nông nghiệp được phủ lên bằng hình ảnh
anh hùng làng Gióng đánh giặc Ân, hình ảnh 28 tướng giặc Ân mang bóng dáng
của 28 vì sao trong tư duy thiên văn cổ… Những nghi lễ nông nghiệp thuần chất
trong những lễ hội đó may ra chỉ còn thấy ở một vài tục hèm như thờ bát cơm
quả cà ở hội Gióng, tục thả 100 bánh trôi ở hội làng Bình Đà, Hà Tây; thổi cơm

thi, bánh chưng bánh dày ở những lễ hội khác…
Các nghi lễ truyền thống hầu hết đã được phủ một lớp văn hóa nghệ thuật
mang đậm tính biểu tượng. Cũng là đĩa xôi nhưng đây phải đóng khuôn, hoặc
được nặn tròn, đẹp, lại còn dán lên đó giấy trang kim hình chữ Thọ; cũng là con
gà, nhưng phải luộc cho thật khéo để không bị nứt, không bị bục da, được bôi
mỡ, bôi nghệ cho da vàng rộm lên, hình gà phải được uốn cho thật khéo, miệng
ngậm bông hoa hồng đỏ tươi… Tất cả đã nâng lên thành trình độ nghệ thuật với
những giá trị thẩm mĩ cao, thành một thú chơi. Tín ngưỡng nhiều khi chỉ còn lại
bóng dáng hoặc là cái cớ để người ta trổ tài nghệ thuật vào đó mà thôi.
Trong khi đó, ở các dân tộc tỉnh Hòa Bình, những tín ngưỡng dân gian vẫn
còn hết sức phổ biến và vẫn giữ được nguyên những nét hồn nhiên, mộc mạc ở
trong nó. Ví như mâm cỗ cúng ở lễ hội Khuống Mùa của người Mường: “Mâm
cỗ ngoài thịt nai, thịt lợn rừng, còn có cá suối, mụn măng, ruột cây lay (đằng
lau), lá lốt (đắc lốt), cá mọc, nếp đồ, rượu cần…”. Tất cả đều là những thứ mà
hàng ngày người ta phải kiếm để ăn và là cái để sinh sống, tồn tại thường xuyên
10


của họ. Dù có khác nhau đôi chút do phong tục của mỗi dân tộc, do điều kiện
sống ở vùng này vùng kia, song về cơ bản, lễ vật dùng cho lễ hội của các dân tộc
ở tỉnh Hòa Bình vẫn là những thứ đó. Chúng được săn bắn từ rừng về, bắt từ
suối lên, lấy từ ruộng và xung quanh khu vực sống của các dân tộc. Nó vừa có
tính chất tươi nguyên của thiên nhiên, vừa chứa đựng sự tinh khiết của tấm lòng
những người sơn cước dâng lên thần thánh của họ.
Còn các vị thần ở đây là ai? Họ là những hiện tượng thiên nhiên như mưa,
gió, nắng…; là những dòng suối, ngọn núi, hòn đá, cây rừng; là những con vật
hay bất kể cái gì có ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của những người dân
chất phác nơi đây. Đây hoàn toàn không phải là một sự mê tín dị đoan đối với
những một góc độ nào đó, những nghi lễ này biểu hiện một cuộc sống hòa mình
cùng thiên nhiên, tôn trọng thiên nhiên, coi mình là một bộ phận của thiên nhiên,

chứ hoàn toàn không áp đặt, chinh phục, phá hoại thiên nhiên một cách vô tội
vạ. Đó chính là tư tưởng bảo vệ thiên nhiên và phát triển bền vững trong thời
hiện đại này. Người Mường vì thế mà:
“Chắp tay lạy bốn đức vua
Lạy vua Dù, vua Khói, vua Lò
Bên trên là Tần, Kẻ, Khang
Bên bang lạy Kem, Cả, Chấu, Khụ
Mụ, Chí, Ý, Chầu, Chấu, Tịch, Quen, Tài, Kem Vua”.
(Lời khấn lễ cầu mùa)
Hay: “Thỉnh mời cả vua Út, vua Ả, Thánh Tản núi Ba Vì, vua Cun, vua
Hải ở đền Trắng, đền Vành” (lễ hội Đình Cổi). Đương nhiên, những nhân
thần, những người có công với bản, với mường luôn được những người dân
lưu ý thờ phụng.
Như vậy, có thể thấy hệ thống tín ngưỡng của các dân tộc ở tỉnh Hòa Bình
là vô cùng phong phú, từ đó dẫn đến sự phong phú của các nghi lễ thờ phụng,
những lễ cầu mùa, cầu mưa, lễ cơm mới, lễ xên bản, xên mường, thờ đức Thánh
Tản, thờ ma núi, ma nước, thần lúa, thần cây,… Mỗi một nghi lễ ấy lại kèm theo
những hình thức sinh hoạt văn hóa như đánh chiêng cồng, mo, đánh trống, thổi
11


kèn, múa kiếm,… Những hình thức nghệ thuật này từ chỗ để truyền đạt lên thần
linh niềm mơ ước, khát vọng, sự biết ơn của con người, sau đó trở thành những
hoạt động nghệ thuật để đáp ứng chính đời sống trần tục hang ngày của họ.
Trước một cuộc sống vất vả vì miếng cơm manh áo, giữa rừng thiêng nước độc
với bao hiểm nguy rình rập, con người muốn xóa đi sự cô đơn, nỗi buồn luôn ám
ảnh bên cạnh họ. Vì vậy, họ phải tập hợp bên nhau, co cụm lại, đoàn kết lại để
đối phó với bên ngoài, đồng thời cũng là để an ủi chính bản thân mình. Vì vậy,
những dịp tiến hành nghi lễ cộng đồng là những nét sinh hoạt văn hóa hết sức
quan trọng đối với họ. Cũng chính từ những hiện tượng tín ngưỡng ấy mà bộ

mặt văn hóa của các dân tộc ngày càng được bồi đắp, phát triển phong phú, tạo
nên nền văn hóa Việt Nam đặc sắc, đa dạng mà vẫn chứa đựng bản sắc riêng của
mỗi dân tộc.
Qua sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng này, người dân được vui chơi, ăn uống
thoải mái hơn ngày thường, tạo cho họ được những giây phút nghỉ ngơi thư giãn
trước khi bước vào một giai đoạn mới của cuộc đời. Đây là dịp họ tích hợp vào
trong cơ thể và tâm linh của mình một sức mạnh, một niềm tin mới để họ sẵn
sàng bước lên phía trước. Tuy mâm cỗ, chỗ ngồi của người dân thường khác với
ậu, với lang, song trước mặt thần linh, trước cộng đồng, họ cũng là một thành
viên bình đẳng trong một cộng đồng chung, dù vai vế, địa vị của họ thấp hơn.
Cuộc sống lam lũ đời tường có thể là nô lệ, người ăn kẻ ở của nhà lang tạm lắng
xuống nhường chỗ cho những giờ phút thăng hoa, ngây ngất và hi vọng về cuộc
sống tốt đẹp hơn về ngày mai biết đâu sẽ đến. Cái ý nghĩa hết sức nhân văn này
của lễ hội dân gian góp phần làm cho cuộc sống thú vị và đáng sống biết bao.

12


TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Với số dân khá đông, tỉnh Hòa Bình có rất nhiều lễ hội truyền thống đặc
sắc, mang đậm nét văn hóa của các dân tộc trong tỉnh Hòa Bình nói riêng và các
dân tộc trên đất nước Việt Nam nói chung.
Lễ hội ở tỉnh Hòa Bình từ khâu chuẩn bị đến khâu kết thúc đều được chuẩn
bị rất chu đáo, tỉ mỉ, mỗi người được phân công công việc riêng và tất cả mọi
người đều hoàn thành tốt công việc của mình. Các lễ hội cũng được diễn ra trên
một quy mô nhất định, mặc dù các lễ hội không phải là các lễ quá lớn so với các
lễ hội trong nước, mà các lễ hội ở tỉnh được tổ chức với quy mô vừa và nhỏ,
mang đậm nét văn hóa của từng vùng từng dân tộc.
Ngoài ra, các lễ hội của các dân tộc ở tỉnh Hòa Bình còn mang đậm phong
tục của dân tộc mình và các tín ngưỡng dân gian vẫn rất phổ biến và giữ được

những nét mộc mạc trong các lễ hội, tạo cho người dân những không gian thoải
mái, vui vẻ sau những ngày làm việc vất vả, cho họ cảm nhận được cuộc sống
này vui vẻ biết bao.

13


CHƯƠNG 2. CÁC LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA CÁC DÂN TỘC
Ở HÒA BÌNH
2.1. Lễ hội xuống đồng (khuống mùa) của người Mường
Đây là một lễ hội rất phổ biến ở người Mường xưa, giống như lễ hội Lồng
Tồng của người Tày - Nùng vùng Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang... Mục đích
của lễ hội là để cầu cho mùa màng của một năm mới thịnh vượng, may mắn.
Đồng thời, việc thực hành những nghi lễ cầu mùa cũng là dịp để người Mường
nghỉ ngơi, vui chơi giải trí và bày tỏ những ước vọng của mình về một cuộc
sống tươi đẹp và bình yên.
Lễ hội này thường diễn ra vào dịp đầu xuân, như ở vùng Mường Bi tổ chức vào
dịp lễ Khai Hạ (ngày 7 tháng giêng) và chậm nhất đến ngày 10 tháng giêng phải
kết thúc. Vào ngày này, người ta lựa chọn một địa điểm có thể thu hút được sự
tham gia của toàn mường. Ở xã Phong Phú, huyện Tân Lạc, người ta tổ chức hội
Xuống Đồng ở xóm Luỹ. Tại đây, người ta dựng một miếu lớn bằng gỗ thờ Đức
Thánh Tản Viên, trong hậu cung miếu có tượng người bằng đá.
Thay mặt cho toàn dân bản, ông thầy mo mặc áo thụng, đội mũ tai én làm lễ
khấn Thánh Tản phù trợ cho mùa màng tươi tốt. Dân xã mổ một con hoẵng (nếu
không có hoẵng thì mổ bò cúng thay, chứ không mổ trâu), sau đó thịt hoẵng
(hay bò) sẽ được mọi người ăn chung, người đi hội tự mang theo cơm nắm.
Dân xã tổ chức rước kiệu đưa Thánh Tản từ ngoài bãi vào miếu, đám rước
có kèin nhạc. Ớ giữa bãi cỏ có treo một lá cờ thần lớn và trên bãi rộng này, đội
cồng của các xóm và mường bạn đến để đua tài với nhau. Người dự hội vui chơi
thoải mái. Xung quanh bãi có các lán bày sẵn rượu cần. Mọi người tự do chơi,

khi nào muốn ăn thì vào lán ăn uống rồi lại vui chơi cho đến hết hội.
Cũng ở Mường Bi, Tân Lạc, xã Địch Giáo tổ chức hội xuống đồng với việc
dùng một con trâu làm lễ tế thần nhưng ở quy mô lớn, đón dân chúng toàn mường
đến dự (toàn mường xưa gồm 7 xã: Do Nhân, Quy Mỹ, Phong Phú, Địch Giáo,
Tuân Lộ, Mỹ Hoa và Phú Vinh) và tu sửa con mương Lò bắt nguồn từ suối Kem
thuộc xóm Kem đến xóm Lầm. Người đến dự đem theo một gói cơm, tu sửa
mương xong thì về đình ăn cơm cùng với thịt trâu sau khi đã dùng dể tế thần.
14


Lễ hội khuống mùa ở Tùng Mường Chiềng, Mường Tôm, xã Tân Lập,
huyện Lạc Sơn cũng là một lễ hội lớn ở vùng này. Không gian diễn ra lễ hội
cũng tại một miếu thờ chính đặt ở Đầm Đụn, trong đó có thờ một cái đầu lâu
không rõ tung tích, chỉ biết rằng cái đầu lâu này trôi theo dòng suối, lũ trẻ chăn
trâu Mường Chiềng, Mường Vó nhặt được đưa lên gò giả thờ. Hai đám trẻ đó
thách đố nhau nếu bên nào thua thì đi trộm vịt về cho bên thắng ăn. Sau khi nhận
lời thách đố, bọn trẻ đến vái lạy đầu lâu cầu mong được thắng, không ngờ ứng
nghiệm. Cứ thế, tin đầu lâu linh thiêng lan truyền đến tai nhà lang. Nhà lang bèn
lấy đầu lâu về lập miếu thờ. Nhà miếu đặt ở Đầm Đụn, xóm Rậm, nơi trung tâm
của cả vùng. Nhân dân vùng này còn truyền lại chuyện binh lính đi đánh giặc Cờ
Đen, trước khi xuất trận đến miếu cầu xin phù hộ.
Ở vùng này, lễ hội Khuống Mùa không định trước thời gian mà phụ thuộc
vào kết quả của các cuộc đi săn và đánh cá. Để chuẩn bị cho lễ hội này có những
hoạt động như:
- Hội "đoọc moong” (săn thú rừng) do nhà lang tổ chức. Cả lang, ậu và
thường dân đều đi săn, nhưng mỗi người đi một phía. Nếu săn được nai và lợn
lòi mới phải nộp. Lang và dân đều chia làm nhiều phường với nhiều người cùng
chó săn. Phường săn được dẫn đầu bằng một người đánh chiêng chót. Từ sáng
đến tối, khắp núi rừng vang lên tiếng chiêng boong, boong... lúc to lúc nhỏ vọng
lại từ những ngọn núi, con suối. Khi cuộc săn thắng lợi, mọi người trở về. Tất cả

các thành viên và chó săn đều được chia phần, người bắn trúng con thú được
chia thêm phần thịt thăn.
- Hội đánh cá bến lấp. Sau mùa lũ, nhà lang cho ngăn các khúc suối thành
vũng cho cá ở, chờ đến dịp khuống mùa mới tổ chức đánh bắt. Thời gian bắt cá
thường là vào giờ ngọ. Khi dân đã tụ tập đông hai bên bờ suối, tay lăm lăm chài,
lưới, vó, vợt... thì hiệu lệnh của nhà lang vang lên, mọi người cùng lúc ào xuống
suối. Chỉ chốc lát, cả khúc suối sôi lên đục ngầu, cá say loạn xạ. Khi không còn
bắt được con cá nào, cuộc đánh cá mới kết thúc. Mọi người dù bắt được ít nhiều
đều phải nộp cho nhà lang một, hai con cá để làm lễ.

15


- Trước lễ hội khuống mùa, nhà lang còn thông báo nhốt lợn. Nhà nào còn
có lợn thả rông sẽ bị đập chết. Các ậu lang cử khoảng 20 người chuyên đi lùng
lợn thả rông, khi gặp thì đập chết. Người đập chết lợn phải vác lợn chạy qua suối
sang miếu Đầm Đụn, nếu không vác được thì phải đền. Chủ lợn có thể xin lại
lợn chết khi người vác lợn chưa qua khỏi suối.
- Những ngày trước lễ hội khuống mùa, ông từ coi miếu Đầm Đụn có
quyền đi bắt trộm vịt bất cứ nhà ai.
- Cũng những ngày này, nhà lang ra lệnh cấn tất cả mọi người không được
đi soi nhái, ếch ban đêm khi thấy "đỏ bờ ruộng” ở khu vực cánh đồng cạn, nơi sẽ
diễn ra hội xuống đồng.
"Đỏ bờ ruộng” là bờ ruộng đã được phát quang sạch sẽ để chuẩn bị cấy.
Chuyện kể rằng, có một đêm, thấy hang trăm ngọn đuốc nối đuôi nhau đi trên bờ
ruộng, tiến về phía Mường Chiềng, lang Mường Chiềng cảnh giác, cho quân hầu
dò la. Quả không sai, lang ở Quý Hoà đang đêm cho quân về bắt lang Mường
Chiềng để cướp ngôi, nhưng đã bị lang Mường Chiềng phát hiện và cho quân
đuổi bắt. Lang Quý Hoà không thể sống yên ở đất cũ, đành kéo dân ra sinh cư
ngoài Hoà Bình (cũng lấy tên mường là Rậm, Mát thuộc xã Dân Chủ bây giờ).

Sau tất cả những hoạt động trên đây, nhà lang ấn định ngày mở hội. Mở đầu
là thủ tục dâng lễ ở các nơi trong vùng.
Cả ba địa điểm miếu Đầm Đụn, khu ruộng người Mường Tôm và chùa
Vóng ở xóm Đồng đều được dâng cỗ cùng một lúc để cúng vào buổi sáng sớm.
Mâm cỗ ngoài thịt nai, thịt lợn rừng còn có cá suối, mụn măng, ruột cây lay
(đằng lau), lá lốt (đắc lốt), cá mọc, nếp đồ, rượu cần do ậu lang, ậu viềng (người
giúp việc lang) sắm sửa và dâng lên trường thờ. Sau lễ dâng là lễ xuống ruộng.
Cánh đồng được chọn là cánh đồng Cạn (bao gồm cả ruộng lang và ruộng của
dân), mỗi mường một khu ruộng riêng.
Bắt đầu ngày cày bừa, ậu cháu xuống ruộng cày trước. Bắt đầu ngày cấy,
các vợ ậu cháu cấy trước, sau đó thường dân mới được lội ruộng. Trong số ậu
cháu được "xông” ruộng phải chọn những người ăn nên làm ra, tính tình mát mẻ,
hiền hoà.
16


Vì là lễ mang tính tượng trưng, nên cả khu vực ruộng đồng Cạn chỉ chốc lát
đã được cấy xong. Mọi người vui vẻ ai về nhà nấy ăn cơm tại gia đình, chỉ có
lang, ậu ăn uống tập trung tại một địa điểm nào đó.
Buổi chiều bắt đầu diễn ra các trò chơi ở sân mường như đánh quay, chơi
còn, chơi máng (quả máng tròn bằng miệng chén), đi cà kheo, thi bắn nỏ, chọi
gà, chọi cỏ,... Ớ sân nhà lang có sắc bùa và đâm đuống. Tiếng đâm đuống rộn
ràng cùng tiếng sắc bùa trầm bổng ngân vang làm cho lòng người thêm náo nức,
không khí ngày hội thêm tưng bừng.
2.2. Hội sắc bùa (xéc bùa) của người Mường
Theo người Mường, sắc bùa hay còn gọi là xéc bùa, có nghĩa là xách cồng,
là một hội vui có tính chất giải trí diễn ra vào dịp đầu năm mới ở những bản
mường để người ta cầu chúc nhau may mắn, mạnh khoẻ. Ngoài ra, những dịp
vui khác người ta cũng sắc bùa như đón khách quý từ xa đến, dựng nhà mới, đón
dâu hoặc những dịp vui khác.

Sắc bùa bao giờ cũng do những người biết hát, biết đánh cồng và biết đối
lập thành một phường. Phường bùa bao giờ cũng có một ông chủ phường, là
người biết hát giỏi, biết đánh cồng, ứng phó tốt và là người lựa chọn những con
hát cho phường bủa của mình. Để có một phường bùa tốt, chủ phường phải lựa
chọn kỹ các con hát cho phường. Vào phường bùa không phân biệt giới tính và
tuổi tác, song để cho vui vẻ và sinh động, thường các ông trùm lựa chọn những
cô gái trẻ, xinh xắn, biết múa hát tốt. Ngoài ra, cũng có những phường bùa mà
trùm phường là một phụ nữ, có những thanh niên, trung niên và các cô gái tham
gia. Thường một phường bùa như vậy có khoảng 12 người đánh chiêng, 2 người
khiêng thúng đựng đồ tặng phẩm đi cuối, tất nhiên còn có ông trùm.
Từ sau ngày mồng 2 Tết, phường bùa tiến hành đi sắc bùa các gia đình
trong bản, những ngày sau đó họ có thể đi sắc bùa ở những làng bên.
Trang phục của những người sắc bùa phải đẹp. Nam mặc áo dài chít khăn
đầu rìu. Nữ mặc áo khoác màu vàng, màu hồng, đội nón bằng, đeo vòng tay,
kiềng bạc và xích... Đoàn sắc bùa đi theo thứ tự cụ thể, ngoài trùm phường là

17


đến chiêng boong beng, rồi đến chiêng đủm, tiếp theo là đến chiêng khô, cuối
cùng là đến chiêng dàm.
Đoàn sắc bùa đi đến đâu rộn vang tiếng chiêng đến đó. Chiêng là loại nhạc
cụ âm nhạc độc đáo, có giá trị cả về vật chất và tinh thần của người Mường.
Những bài chiêng truyền thống của phường bùa đánh trên đường phù hợp
với hoàn cảnh đường đi: khi đi đường thì đánh bài "Đi đường", lúc lên dốc có
bài "Leo dốc". Từ xa, các gia đình đã biết phường bùa đang sắp đến nhà mình để
chuẩn bị nghênh tiếp, thường là được hẹn trước như lối hẹn người phúc hậu đến
xông nhà đầu năm của người Kinh.
Do đã chuẩn bị trước, các gia đình tập trung đầy đủ bà con họ hàng ở trong
nhà để đón phường bùa, song theo lệ, cổng nhà vẫn đóng. Vì thế, khi đến nơi,

phường bùa đứng ngoài ngõ đánh cồng, hát bài "Khoá rác". Hát xong, cổng
được mở ra, phường bùa tiến vào sân nhà, vừa đi vừa đánh cồng, sau đó là
những bài hát gồm những lời chúc tụng, ngợi ca gia đình sang năm mới sức
khoẻ, hạnh phúc, phát đạt:
“Anh em phường bùa chúng tôi bước vào.
Ở ngoài trông thấy rào chung quanh cắm rợ.
Cột cửa kén chạm đuôi con cá.
Xà cửa cả chạm đuôi con muông...”.
Hoặc:
"Đất ông chào ông
Đất chúa chào chúa
Lúa nhà ông cấy từ trong năm
Đã mọc xanh xanh rười rượi
Con dưới vươn ngọn lên
Con trên rủ ngọn xuống...".
Cứ như vậy người hát và cồng say sưa hát, còn những người trong gia đình
đón nhận một cách nồng nhiệt món ăn tinh thần này. Sau khi các bài hát chúc đã
hết, người trùm phường theo lệ cất tiếng hát mời:

18


Thương thiết hỡi lại thương nồng
Thương công ở đây rồng bỏ vắng
Núi cái Tản Viên, Ba Vì
Chúng tôi dậy đi
Chưa kịp chào hết cây vu (mục)
Chưa kịp chào hết tổ kiến bống
Con trai đến nhà này chẳng muốn lại
Con gái đến nhà này chẳng muôn về

Chúng tôi bước chân đi lòng còn luyến tiếc...
Đó là lúc phường bùa kết thúc và gợi ý, nếu gia chủ là những người giỏi
thường rang, bọ mẹng - những bài hát dân ca đối đáp, thì có thể cất lên lời hát
để giữ chân phường bùa. Nếu không, gia chủ đem tặng gạo, tặng quà cho
phường bùa thì phường sẽ đi sang nhà khác tiếp tục cuộc hát vui vẻ của mình
trong không khí ngày xuân ấm áp. Đó là diễn biến cơ bản của một hội xéc bùa
của người Mường. Riêng ở Mường Vang (Lạc Sơn), phường xéc bùa còn tham
gia một lễ gọi là "Xớc pôông kơm klải lỏ” (Rước bông cơm trái lúa). Trong lễ
này, phường bùa hộ tống một đoàn thiếu nữ, nâng cao trên đầu một tấm vải
trắng trải dài, gọi là "cái cầu". Đoàn người đi rước xuất phát từ một hang núi có
tên là "Khụ Dụng". "Cái cầu” - tức tấm vải trắng - được các cụ giải thích là dòng
nước chảy ra từ một mỏ nước ngầm (vó rác).
2.3. Lễ cầu mùa của người Mường
Cũng như nhiều dân tộc khác, người Mường làm lễ cầu mùa để cầu cho
mùa màng được tươi tốt, bội thu, không có bệnh dịch phá hoại, không bị mất
mùa, thiên tai. Lễ cầu mùa tiêu biểu diễn ra ở vùng Mường Vang, Lạc Sơn, là lễ
cầu mùa của 7 xã vùng Cộng Hoà tham gia. Trước đây, khi thấy xuât hiện sâu
bọ cắn phá mùa màng, các quan lang trong mường nhóm họp bàn việc tổ chức
cúng. Có năm sâu bọ nhiều, sau khi làm lễ cúng, tự nhiên có đàn chim sà xuống
cánh đồng bắt hết sâu bọ, làm cho lúa sạch sâu mà lại tốt tươi, từ đó người ta tin
tưởng vào lễ cầu mùa cho nên hàng năm thường tổ chức lễ này.

19


Lễ cầu mùa được tổ chức tại ngôi miếu thờ ông Quách Đốc - người tự xưng
là vua Dù đất Mường Vang. Chuyện kể về ông còn được lưu truyền trên đất này
như sau: ông dấy binh cát cứ một cõi khiến nhà vua ở kinh thành tức giận, gọi
lên chặt đầu. Ông không chết ở kinh thành mà ôm cái đầu bị chém về đến đất
Mường Vang mới tắt thở. Dân ở đây bèn lập miếu thờ. Bên cạnh ông còn có các

vị quan hầu được thờ cúng, cho nên khi đọc bài khấn còn nhắc đến tên các vị đó:
Chắp tay lạy ba bốn đức vua
Lạy vua Dù, vua Khói, vua Lò
Bên trên là Tần, Kẻ, Khang
Bên bang lạy Kem, Cả, Chấu, Khụ, Mụ,
Chí, Y, Chầu, Châu'Tịch, Quen, Tài, Kem Vua.
Miếu thờ vua Dù lúc đầu đặt tại xóm Ngọc (Trụm), sau lần lượt chuyển qua
Đa Đình, Bưa Kiệu, Suối Khăng, Đống Loóc (còn gọi là đồi Miếu) thuộc xóm
Cáo, xã Quý Hoà, huyện Lạc Sơn. Năm 1945, miếu bị phá huỷ.
Lễ vật dâng cúng trong lễ cầu mùa bao gồm: xôi nếp, thịt trâu, bánh khoai,
rượu cần, một gánh khoai sọ, bánh dồi (khoai nhồi lòng lợn), bánh khoai vuông
(khoảng hơn gang tay), bánh đóng ba, đóng bốn (nặn bằng tay hình thù như củ
gừng). Trâu tế lễ phải là con có vòng bụng 12 nắm tay trở lên.
Người đứng ra tổ chức lễ là các quan lang trong mường. Ngoài quan lang
còn có ậu các xóm làm nhiệm vụ vận động nhân dân đóng góp lương thực, thực
phẩm. Ngoài ra, người tổ chức lễ còn mời thầy mo thạo bài khấn cúng và những
người đánh trống, kẹt, bạt (xập xeng), một số thiếu niên con nhà dân thường.
Những người tham gia lễ này chỉ là đàn ông, tất cả đều vấn khăn, mặc quần áo
mới, riêng ông thầy mo mặc quần đỏ, áo lụa dài, thắt khăn màu quanh eo, mũ
mão diêm dúa, tay cầm kiếm, tay cầm quạt, vai đeo túi khót (túi vải đựng đồ
thiêng của thầy mo).
Trước ngày hội, không khí cả mường nhộn nhịp. Người ta chuẩn bị củi,
bánh, góp tiền, góp gạo, đổi trâu vì phải tìm cho được con trâu đúng tiêu chuẩn
làm vật tế lễ.

20


Tại miếu thờ, người coi miếu được gọi là chúa quan, có nhiệm vụ quét dọn
hàng ngày, thắp hương vào các dịp ngày sóc, ngày vọng hàng tháng. Tối hôm

đầu của lễ hội, các lang, ậu tụ tập mổ lợn ăn uống và làm bánh, sáng hôm sau
mới mổ trâu và sắp mâm cỗ dâng cúng.
Sáng hôm đó, mâm cỗ sau khi đã chuẩn bị xong được trịnh trọng dâng lên
miếu. Thầy mo bắt đầu đọc bài khấn:
Hôm nay ngày này
Quan dân toàn xã
Các ậu, đầu đạo, chúa quan
Năm xã, chín mười làng
Muôn nhắc đường bùa săn săn
Muốn nhắc đường cầy xá xá
Muôn vái mạ góc chiêm, góc mùa
Một hạt một mọc, một thóc một nên
Đừng cho sâu bông
Chớ cho vàng lá.
Đọc xong bài khấn, thầy mo cùng tất cả mọi người vái lạy đức vua linh
thiêng.
Khu vực miếu có hai nhà: nhà dài dùng làm nơi thờ cúng, nhà thứ hai dựng
sàn hai bên để các lang, ậu ngồi. Thường dân bẻ lá ngồi ngoài sân.
Sau khi cúng xong, những người phục vụ hạ cỗ xuống, chia phần thịt trâu
như sau: thầy cúng được hưởng một vai, người làm bánh khoai một vai, xương
đùi dành cho người hát cúng, đầu trâu cho chủ coi miếu (chúa quan), phần còn
lại chia ăn tại chỗ. Ăn cỗ xong là lúc kết thúc lễ hội.
Ngoài lễ cầu mùa ở miếu thờ vua Dù ở Đống Loóc (đồi Miếu), cũng có lễ
cầu mùa thường được tổ chức vào tháng 2 hàng năm. Người ta chọn ngày mồng
8 âm lịch (theo lịch Mường) để làm lễ, đó là ngày lành nhất trong tháng. Tuy
nhiên, quy mô của lễ cầu mùa Đống Loóc không được lớn và tiêu biểu như lễ
cầu mùa ở Cộng Hoà trên miếu vua Dù.

21



2.4. Lễ Cầu mưa của người Mường
Vào những năm hạn hán hay mùa mưa đến muộn, dân chúng đội nước để
làm ruộng mà trời vẫn không cho mưa, dân làng tổ chức lễ cầu mưa. Đây là lễ
hội của người dân Mỹ Hoà, Tân Lạc. Dân bản Đống Chuông thực hành lễ cầu
mưa tại bãi Tênh Lìm do xóm Đon làm chủ lễ. Lễ vật gồm một con gà trắng
được luộc chín đặt lên mâm cùng hương và các sản vật khác. Người ta chọn xóm
Đon vì nơi đó có mó nước chảy từ núi đá ra, từ xa xưa dân ở đây đã thờ vua
Nước. Người dân quan niệm rằng, do ma Khú ngủ quên không nghe thấy sấm
gọi nên không dậy lấy nước cho dân chúng làm mùa. Vì thế, trên mâm lễ, ngoài
gà còn có trứng và gạo vì người ta nghĩ ma Khú ăn các thứ đó.
Sau khi làm lễ xong, dân chúng kéo đến mó nước lấy đá ném xuống vũng
nước cạn có ý đánh thức ma nước dậy. Cùng với việc ném đá, người ta còn hò
reo vang dậy như để cho ma Khú nghe thấy rõ mà dậy. Nhiều người còn mang
theo cả súng bắn chỉ thiên lên trời.
Hai xóm Đon và Chuông còn bày binh diễn trận, trong đó xóm Chuông
đóng vai bên giặc và hai bên đánh trận giả với nhau. Khi đó, chủ tế xóm Đon
mới cầu khấn vua Nước gây ra mưa để tiêu diệt quân của đối phương.
2.5. Lễ rửa lá lúa của người Mường
Lễ rửa lá lúa thường được tổ chức vào lúc lúa đang đứng cái, khoảng tháng
7, tháng 8 âm lịch. Các gia đình đan các sọt tre, có cắm 6 lông gà vòng quanh
sọt và làm nhiều chiếc gậy cao trên 1m, có cắm chéo lông gà trên ngọn làm cánh
rồi đem những sọt đó đặt ở đầu ruộng và đem những chiếc gậy ra cắm ở ruộng.
Người ta còn cho trẻ em đem lông gà ra cắm quanh bờ ruộng.
Lễ vật cúng là một mâm bày nhiều bát cháo thịt gà. Mâm lễ được mang đặt
ở đầu ruộng để thầy mo cúng. Trong lời khấn của mình, thầy mo cầu mong cho
mùa màng ít sâu bệnh, lúa tốt và kể về thời tiền sử, ngày đất đai chưa có hạt lúa
để nuôi người. Vua Dịt Dàng sai các con vật đi tìm. Cuối cùng, con chuột lên
gặp bà Chu Mường ở trời cao xin về cho người hạt lúa đỏ cùng với 40 giống lúa
ruộng, 30 giống lúa nương. Cho nên, chuột giao ước với người là người nhận số

giống đó gieo trồng đến khi cây ra hạt thì chuột được quyền đến ăn. Bà Chu
22


×