BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
ĐINH THỊ HUỆ
QUÁ TRÌNH XÁC ĐỊNH ĐƯỜNG LỐI
CÁCH MẠNG MIỀN NAM GIAI ĐOẠN 1954 - 1960
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
SƠN LA, NĂM 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
ĐINH THỊ HUỆ
QUÁ TRÌNH XÁC ĐỊNH ĐƯỜNG LỐI
CÁCH MẠNG MIỀN NAM GIAI ĐOẠN 1954 - 1960
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Người hướng dẫn: ThS. Bùi Mạnh Thắng
SƠN LA, NĂM 2016
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn chân thành, sâu sắc đến thầy giáo
Th.S. Bùi Mạnh Thắng đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em trong suốt thời gian
nghiên cứu và hoàn thiện khóa luận.
Em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Sử Địa, Thư viện Trường Đại học Tây Bắc đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt
thời gian thực hiện khóa luận.
Xin cảm ơn sự động viên giúp đỡ của các thầy cô giáo cùng các bạn sinh
viên Lớp K53 ĐHSP Lịch sử B đã đóng góp ý kiến cho em trong suốt thời gian
sưu tầm tài liệu và nghiên cứu đề tài.
Mặc dù đã cố gắng hết sức, khóa luận này chắc chắn sẽ không tránh khỏi
những khiếm khuyết, em rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô giáo
cùng bạn bè để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Người thực hiện
Đinh Thị Huệ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................ 2
3. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu.................................................... 3
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu ...................................................... 4
5. Cấu trúc khóa luận............................................................................................. 5
CHƯƠNG 1: CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG
MIỀN NAM SAU KHI KẾT THÚC CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP . 6
1.1. Bối cảnh lịch sử sau chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơnevơ............... 6
1.2. Bước đầu xác định đường lối cách mạng miền Nam ................................... 13
CHƯƠNG 2: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG MIỀN NAM TỪ SAU NĂM 1954
ĐẾN CUỐI NĂM 1956....................................................................................... 20
2.1. Tình hình miền Nam từ sau năm 1954 ......................................................... 20
2.2. Đường lối cách mạng miền Nam từ sau năm 1954 đến năm 1956 .............. 23
CHƯƠNG 3: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG MIỀN NAM TỪ CUỐI NĂM 1956
ĐẾN NĂM 1960 ................................................................................................. 34
3.1. Tình hình miền Nam từ cuối năm 1956 đến năm 1958 .............................. 34
3.2. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 15 mở đường cho cách
mạng miền Nam .................................................................................................. 41
3.3. Phong trào Đồng khởi, bước mở đầu chiến tranh cách mạng ở miền Nam . 46
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 55
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt
Nam với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975, kết thúc bằng
Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đã làm chấn động dư luận khắp thế giới. Người
ta rất lấy làm lạ rằng, cuộc chiến đấu kéo dài mấy mươi năm, trải qua mấy thế hệ
đánh Mỹ, thế mà cho đến khi kết thúc lại diễn ra dồn dập, nhanh chóng và đột
ngột, khiến cho kẻ thù bất ngờ trở tay không kịp.
Đế quốc Mỹ đã bị thất bại trong cuộc đụng đầu lịch sử này mà trước hết là
thất bại trong cuộc đọ sức với trí thông minh và sự dũng cảm của quân và dân
Việt Nam, của trí tuệ sáng suốt của Đảng Lao động Việt Nam. Trí tuệ ấy là sản
phẩm của một năng lực tư duy khoa học, là kết quả của quá trình Đảng vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào khoa học cách mạng và nghệ thuật lãnh đạo
chiến tranh. Khoa học và nghệ thuật ấy dựa trên cơ sở đề ra đường lối chính trị,
đường lối quân sự đúng đắn, vạch ra chiến lược tiến công chính xác, tạo ra sức
mạnh tổng hợp, xác định phương pháp cách mạng thích hợp, đó là những nền
tảng vững chắc cho việc tiến hành cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện nhằm
đánh thắng kẻ thù xâm lược.
Để đánh thắng Mỹ, Đảng không chỉ đề ra đường lối chính trị đúng đắn mà
còn vạch ra chiến lược tổng hợp thật sự khoa học và có hiệu lực cao. Sợi chỉ đỏ
xuyên suốt toàn bộ chiến lược tổng hợp là chiến lược tiến công.
Để thực hành chiến lược tiến công có hiệu lực, Đảng đã sử dụng phương
pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo. Phương pháp đó là: sử dụng bạo lực cách
mạng tổng hợp, bao gồm lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ
trang nhân dân, tiến hành khởi nghĩa từng phần ở nông thôn và từ khởi nghĩa
phát triển thành chiến tranh cách mạng, kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh
chính trị và đấu tranh ngoại giao, kết hợp khởi nghĩa của quần chúng với chiến
tranh cách mạng nổi dậy, nổi dậy và tiến công, tiến công và nổi dậy.
Cho đến nay, chưa có công trình khoa học nào đề cập đến vấn đề về đường
lối kháng chiến chống Mỹ nói chung, đường lối cách mạng miền Nam nói riêng
1
một cách hoàn chỉnh, hệ thống. Nhiều vấn đề khoa học, thực tiễn về đường lối
cách mạng miền Nam chưa được làm rõ. Vì thế chúng tôi quyết định chọn đề tài
“Quá trình xác định đường lối cách mạng miền Nam giai đoạn 1954 - 1960”,
làm đề tài nghiên cứu cho khóa luận của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới quá trình xác định đường lối
cách mạng miền Nam giai đoạn 1954-1960. Mỗi công trình nghiên cứu ở những
góc độ và khía cạnh khác nhau trong đó có thể kể đến một số công trình như:
Năm 1963, cuốn “Miền Nam giữ vững thành đồng (tập 1)”, của tác giả
Trần Văn Giàu đã nghiên cứu về đường lối cách mạng ở miền Nam với chủ
trương, phương hướng thực hiện phù hợp với yêu cầu lịch sử tất yếu lúc bấy giờ.
Đến năm 1991, cuốn “Lịch sử cách mạng miền Nam, giai đoạn 1954-1960”
của tác giả Cao Văn Lượng đã đề cập đến quá trình hoạch định đường lối kháng
chiến, chủ trương, cơ sở xác định đường lối cách mạng ở miền Nam.
Năm 1995, cuốn “Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước: thắng
lợi và bài học”. Cuốn sách do Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ
Chính trị công bố. Công trình đã góp phần luận giải nhiều vấn đề quan trọng của
một cuộc chiến tranh có quy mô, tính chất, đặc điểm, tầm quan trọng và ý nghĩa
vượt ra khỏi một quốc gia, qua đó nổi bật lên những thành tựu và bài học bổ ích
không chỉ cho quá khứ, hiện tại và cả tương lai.
Cũng trong năm 1995, Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh đã công bố tác phẩm “Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam tập II
(1954- 1975)”. Đây là công trình khoa học được đánh giá có nhiều ưu điểm, đã
phản ánh rất sinh động và hấp dẫn về một thời kì lịch sử đấu tranh rất oanh liệt
của dân tộc Việt Nam.
Năm 1996, Viện Sử học công bố tác phẩm “Lịch sử Việt Nam 1954-1965”.
Cuốn sách đã trình bày một cách có hệ thống và tương đối toàn diện Lịch sử
Việt Nam giai đoạn 1954-1965, trước hết là lịch sử đấu tranh cách mạng của
nhân dân ta trên cả hai miền đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhằm thực
hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng. Cuốn sách đã trình bày khách quan
2
những thắng lợi, thành tựu to lớn, toàn diện đã giành được và những thiếu sót,
sai lầm đã phạm phải trong quá trình cách mạng, phân tích rõ nguyên nhân và
rút ra một số bài học, kinh nghiệm.
Năm 1997, Viện Nghiên cứu Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng đã cho
xuất bản tác phẩm “Lê Duẩn và cách mạng Việt Nam”. Công trình nghiên cứu
tập hợp 30 bài nói, bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các
tướng lĩnh, sĩ quan quân đội, những nhà hoạt động chính trị, xã hội và các nhà
khoa học, qua đó góp phần làm nổi bật những đóng góp to lớn của đồng chí Lê
Duẩn đối với cách mạng Việt Nam trong gần 60 năm.
Bên cạnh đó năm 2010 với tác phẩm “Phong trào Đồng Khởi 50 năm nhìn
lại”. Công trình nghiên cứu kỷ niệm 50 năm thắng lợi của phong trào Đồng
khởi, Tác phẩm là sự tổng hợp các bài viết, nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác
nhau, tác phẩm đã trình bày những vấn đề liên quan đến quá trình hoạch định
đường lối cách mạng và thắng lợi của phong trào đã đánh dấu bước nhảy vọt
của cách mạng miền Nam khẳng định được đường lối cách mạng lúc này là
đúng đắn.
Gần đây nhất năm 2013, cuốn “Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước
1954-1975 tập II”, do Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam công bố. Cuốn sách trình
bày các sự kiện lịch sử từ sau hiệp định Giơnevơ đến cao trào Đồng khởi vĩ đại
của nhân dân miền Nam năm 1960. Đây là một giai đoạn lịch sử mang tính bước
ngoặt của cách mạng Việt Nam, cả nước thực hiện hai chiến lược cách mạng,
miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục đấu tranh để thống nhất
Tổ quốc.
Những tác phẩm kể trên đã đề cập đến quá trình xác định đường lối cách
mạng miền Nam từ 1954-1960, tuy nhiên, còn tản mạn, chưa có hệ thống. Song
các công trình trên đã cung cấp nguồn tư liệu quan trọng, phong phú, gợi ý
phương hướng để tác giả nghiên cứu đề tài này.
3. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là: Quá trình xác định đường lối cách
3
mạng miền Nam của Đảng Lao động Việt Nam trong giai đoạn 1954-1960.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ bối cảnh lịch sử của cách mạng miền Nam sau chiến thắng Điện
Biên Phủ và Hiệp định Giơnevơ. Bước đầu xác định đường lối cách mạng ở
miền Nam.
Làm rõ đường lối cách mạng miền Nam từ sau năm 1954 đến cuối năm 1956.
Làm rõ đường lối cách mạng miền Nam từ cuối 1956 đến năm 1960, khẳng
định sự đúng đắn về đường lối chủ chương của Đảng.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Giới hạn không gian: Trên toàn lãnh thổ Việt Nam đặc biệt là ở miền Nam
bị đế quốc Mỹ áp đặt sự thống trị.
Giới hạn thời gian: Giai đoạn 1954-1960.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Cơ sở tài liệu của đề tài là các nguồn tài liệu chính thống, các công trình
khoa học nghiên cứu một cách khách quan toàn diện như:
Nguồn tài liệu Văn kiện Đảng: Một số văn kiện của Đảng về chống Mỹ cứu
nước, Văn kiện Đảng toàn tập,… Nguồn tài liệu cung cấp tư liệu về vai trò lãnh
đạo của Đảng đối với cách mạng cả nước trong đó có cách mạng miền Nam.
Nguồn tài liệu lưu trữ, sách Lý luận, Lịch sử, Hồi ký: Lê Duẩn một nhà
lãnh đạo lỗi lạc, một tư duy sáng tạo lớn của cách mạng Việt Nam; Lịch sử cách
mạng miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1960; Miền Nam giữ vững thành
đồng,… Đây là nguồn tài liệu quan trọng, là cơ sở để xây dựng nên khóa luận, là
nguồn tài liệu tham khảo, cung cấp cho chúng tôi thêm những thông tin về quá
trình hoạch định đường lối cách mạng miền Nam giai đoạn 1954-1960.
Bên cạnh những công trình khoa học kể trên, chúng tôi còn tham khảo trên
các sách báo, tạp chí, các nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ nói chung
và sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn 1954-1960.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Đề tài thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ
4
nghĩa Mác - Lênin và những quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước trong
nghiên cứu lịch sử.
Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi sử dụng hai
phương pháp chủ yếu là phương pháp lịch sử, phương pháp logic và sự kết hợp
hai phương pháp đó. Bên cạnh đó đề tài còn sử dụng các phương pháp khác để
hỗ trợ như: Phân tích, tổng hợp, so sánh, đánh giá.
5. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung đề tài
gồm 3 chương:
Chương 1: Chủ trương của Đảng về đường lối cách mạng miền Nam sau
khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp
Chương 2: Đường lối cách mạng miền Nam từ sau năm 1954 đến cuối năm
1956
Chương 3: Đường lối cách mạng miền Nam từ cuối năm 1956 đến năm 1960
5
CHƯƠNG 1
CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG MIỀN
NAM SAU KHI KẾT THÚC CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP
1.1 . Bối cảnh lịch sử sau chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơnevơ
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc thắng lợi, Việt
Nam cùng hai nước bạn Lào, Campuchia bước vào thời kì mới. Tình hình quốc
tế lúc này có nhiều thuận lợi nhưng bên cạnh đó cũng có không ít khó khăn và
phức tạp.
Sự lớn mạnh của Liên Xô, của hệ thống xã hội chủ nghĩa cùng sự giúp đỡ,
hợp tác của hệ thống ấy là một sức mạnh mới của Việt Nam. Năm 1955, Liên
Xô đã hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ năm. Sau khi sản xuất được vũ khí
khinh khí vào năm 1953, tháng 10-1957, Liên Xô lại sản xuất được tên lửa vượt
đại châu. Sự lớn mạnh về kinh tế và quốc phòng dẫn đến cuộc “khủng hoảng tên
lửa” của hệ thống đế quốc nhất là Mỹ. Liên Xô có tên lửa vượt đại châu có nghĩa
là mạng lưới bao vây Liên Xô bằng hệ thống tên lửa tầm trung bình ở Tây Âu
của Mỹ đã giảm tác dụng, lãnh thổ Mỹ không còn bất khả xâm phạm. Chiến
lược quân sự “trả đũa ồ ạt” của Aixenhao bị đảo lộn. Xu hướng “ly tâm” khỏi
Mỹ của các nước Tây Âu do Đờ Gôn khởi xướng đang phát triển. Các nước xã
hội chủ nghĩa ở Đông Âu, được sự giúp đỡ của Liên Xô, đã hoàn thành công
cuộc hợp tác hóa nông nghiệp và bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội với quy
mô lớn.
Trung Quốc tuyên bố hoàn thành kế hoạch 5 năm (1953-1957). Tháng 51955, tổ chức Hiệp ước Vacsava ra đời nhằm đối phó với việc phục hồi chủ
nghĩa quân phiệt Tây Đức và khối Bắc Đại Tây Dương. Cuộc khủng hoảng ở
Hunggari và Ba Lan được giải quyết.
Hội nghị quốc tế các đảng cộng sản và công nhân quốc tế năm 1957 đã
củng cố đoàn kết trong hệ thống xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản quốc
tế. Đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn đầu
đã làm hết sức mình để góp phần vào thành công của hội nghị. Phong trào giải
phóng dân tộc đang tiến những bước mới. Tháng 8-1954, Chính phủ Xatxtrô
6
Amítgiôgiô của Inđônêxia chủ trương độc lập, hòa bình trung lập, tuyên bố hủy
bỏ các hiệp ước hạn chế nền độc lập Inđônêxia của Hà Lan. Tháng 12-1953 Ấn
Độ nhận viện trợ của Liên Xô. Năm 1954, Ấn Độ từ chối viện trợ quân sự của
Mỹ và thu hồi bốn thành phố thuộc địa Pháp. Tháng 12-1956 quân đội Anh Pháp
phải rút khỏi Ai Cập. Ảnh hưởng của Liên Xô ở Trung Đông tăng lên nhưng Mỹ
cũng nhân cơ hội đó nhúng tay vào Ai Cập. Ở Angiêri được sự cổ vũ của thắng
lợi ở Điện Biên Phủ, tháng 7-1954, Đảng Mặt trận giải phóng dân tộc phát động
cuộc khởi nghĩa ở miền rừng núi và mở rộng cuộc chiến tranh du kích ra khắp
nước. Năm 1956, thực dân Pháp phải đưa 400.000 quân viễn chinh sang đàn áp,
nhưng không thể dập tắt cuộc kháng chiến của nhân dân Angiêri. Năm 1958,
Chính phủ lâm thời Cộng hòa Angiêri thành lập. Nhân dân Angiêri đã giành
được thắng lợi, buộc thực dân Pháp kí Hiệp ước Eviăng và rút quân khỏi Angiêri
(2-1962). Tháng 3-1957, Gana, nước châu Phi đầu tiên, tuyên bố độc lập. Ngày
1-1-1959, cách mạng Cuba giàng thắng lợi trong cả nước.
Hòa cùng thắng lợi của ba nước Đông Dương, phong trào giải phóng dân
tộc có ý nghĩa lớn lao làm sụp đổ căn bản chủ nghĩa thực dân cũ và bước đầu
đẩy chủ nghĩa thực dân mới vào cuộc khủng hoảng. Phong trào giải phóng dân
tộc giai đoạn này mang nhiều nét mới, đặc sắc, nổi dậy đều khắp ở ba châu Á,
Phi, Mỹ LaTinh, mang hình thức đấu tranh vũ trang và chĩa mũi nhọn chống
Mỹ. Phong trào độc lập dân tộc thế giới vừa tăng sức cổ vũ cho cách mạng miền
Nam tiến lên, vừa làm suy yếu, phân tán lực lượng chủ nghĩa đế quốc, hỗ trợ
tích cực cho sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sau khi chiến tranh Triều
Tiên chấm dứt, xu thế hòa bình trung lập phát triển trong các nước dân tộc chủ
nghĩa do giai cấp tư sản dân tộc nắm chính quyền. Đây là hiện tượng mới của
phong trào giải phóng dân tộc. Chủ trương dựng khối trung lập Châu Á, yêu cầu
đình chiến ở Đông Dương, đòi cấm vũ khí nguyên tử và lên án chủ nghĩa thực
dân, chủ trương triệu tập các hội nghị Á Phi. Hội nghị Băng Đung họp vào cuối
tháng 4 năm 1955 gồm 29 nước Á, Phi tham dự đã ra tuyên bố 10 nguyên tắc
hòa bình trung lập là một đóng góp quan trọng vào phong trào chống chủ nghĩa
thực dân củng cố nền độc lập của các nước Á, Phi và bảo vệ hòa bình thế giới.
7
Hòa bình trung lập là một xu thế tiến bộ, đòi hỏi Đảng phải có thái độ và chính
sách thích hợp tranh thủ sự đồng tình ủng hộ quốc tế rộng rãi đối với sự nghiệp
cách mạng chống đế quốc Mỹ của nhân dân ta. Ở Hội nghị Băng Đung, đoàn đại
biểu nước ta do Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu đã có những đóng góp tích
cực vào việc hình thành và phát triển xu thế tiến bộ đó. Những nhân tố tích cực
trên đây tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng nước ta hoàn thành sự nghiệp
giải phóng dân tộc, quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên trong thời gian này tình hình thế giới có một số khó khăn và
phức tạp mới, chủ yếu bắt nguồn từ chiến lược và chính sách xâm lược của đế
quốc Mỹ. Mỹ chưa giải quyết xong khủng hoảng kinh tế 1944-1946 và 19471948, các cuộc khủng hoảng 1953-1954, 1957-1958 lại lần lượt nổ ra. Chỉ trong
vòng 14 năm, Mỹ đã có 4 cuộc khủng hoảng. Điều đó chứng tỏ xã hội Mỹ luôn
luôn mang trong mình những bệnh khó có thể cứu chữa tận gốc. Chủ trương
chạy đua vũ trang và sản xuất bom nguyên tử của Mỹ trước mắt giúp Mỹ ngăn
chặn được chừng nào nạn khủng hoảng, đồng thời dọa nạt những người yếu
bóng vía và hy vọng đẩy Liên Xô vào thế suy yếu vì phải cân bằng lực lượng
với Mỹ. Nhưng chiến lược chạy đua vũ trang của Mỹ vấp phải sức cản lớn là
phong trào hòa bình của hàng trăm triệu người trên trái đất. Để giải quyết
nguyên liệu và thị trường tiêu thụ, Mỹ đã từng bước hất cẳng các đế quốc Anh,
Pháp, Bồ Đào Nha, Hà Lan, chiếm lấy thuộc địa của các nước này. Sau khi hất
cẳng Anh ở Canađa, Ôxtrâylia, Xri Lanca, Mỹ LaTinh, Trung Cận Đông, Hy
Lạp, Thổ Nhĩ Kì, Iran, Thái Lan và gạt bỏ Hà Lan ở Inđônêxia, Mỹ tiếp tục hất
cẳng Pháp ở Đông Dương. Dưới chiêu bài chống Liên Xô, chống chủ nghĩa
cộng sản, Mỹ ra sức tập hợp các đế quốc trong các liên minh quân sự do Mỹ
cầm đầu. Ngày 8-9-1954, Mỹ lập ra “Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á”
(SEATO) với mục đích ngăn chặn chủ nghĩa xã hội lan tràn qua vĩ tuyến 17
xuống Đông Nam Á, đặt miền Nam Việt Nam, Lào và Campuchia nằm trong ô
bảo hộ của Mỹ. Pakixtan sau ra khỏi SEATO, Inđônêxia từ chối giúp Giônxơn,
chiến tranh Việt Nam kết thúc thì SEATO cũng giải tán. Trong khoảng 10 năm
sau chiến tranh (1945-1955), Mỹ đã thiết lập được sự thống trị đối với Tây Âu
8
và Nhật Bản, đối với toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa làm cho toàn bộ nền kinh
tế Mỹ ra khỏi khủng hoảng và tiếp tục phát triển. Hầu hết các thuộc địa của Anh,
Pháp, Hà Lan đều rơi vào tay Mỹ, Mỹ đã đàn áp được phong trào giải phóng dân
tộc ở Goatemala (tháng 7-1954) và Cônggô (1960). Những thắng lợi này làm
cho giai cấp thống trị Mỹ còn nung nấu tham vọng về một “đại thế kỷ Mỹ”.
Trong những năm cuối thập kỷ 40 đầu thập kỷ 50 giấc mơ về một “đại thế kỷ
Mỹ” liên tiếp bị sứt mẻ. Dù là nước đế quốc mạnh nhất, Mỹ cũng không cứu
được Tưởng Giới Thạch, đành chịu mất Trung Quốc và chia đôi nước Triều
Tiên. Dù đã gánh cho Pháp trên 2/3 chiến phí, Mỹ đành bó tay để Pháp thua ở
Điện Biên Phủ. Mỹ buộc phải khoanh tay trước thắng lợi của cách mạng Cuba
và bất lực trước cuộc đồng khởi của hàng triệu quần chúng miền Nam Việt Nam
nổi dậy đập tan ách kìm kẹp của bọn tay sai Mỹ ở cơ sở nông thôn.
Trong đối tượng xâm lược, Mỹ chọn Việt Nam làm trọng điểm, vì học
thuyết Đêminô của Mỹ cho rằng nếu mất Việt Nam thì có thể mất nhiều nơi trên
thế giới, trước hết là Đông Nam Á, nơi Mỹ có nhiều lợi ích chiến lược về chính
trị, quân sự và kinh tế nằm trong ý đồ giành quyền bá chủ thế giới của Mỹ. Mỹ
biết rằng cuộc cách mạng Việt Nam do đảng Mác - Lênin với Hồ Chí Minh, lãnh
tụ kiệt xuất lãnh đạo là một cuộc cách mạng triệt để, giành độc lập thống nhất
hoàn toàn và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Mỹ cho rằng chủ nghĩa xã hội thắng lợi ở
Việt Nam sẽ tràn xuống Đông Nam Á, lợi ích chiến lược toàn cầu của Mỹ ở
châu Á và Thái Bình Dương sẽ bị phá hoại nghiêm trọng. Vì lẽ đó, Mỹ phải tập
trung lực lượng chiếm giữ miền Nam Việt Nam. Đàn áp và đánh bại được Việt
Nam, Mỹ vừa đánh bại được phong trào giải phóng dân tộc, vừa đánh bại chủ
nghĩa xã hội ở vùng này. Việt Nam đã trở thành nơi đụng đầu lịch sử quyết liệt
giữa phong trào độc lập dân tộc và chủ nghĩa đế quốc, giữa chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa tư bản. Tình trạng bất hòa giữa Liên Xô, Trung Quốc và trong phong
trào cộng sản quốc tế của những năm 50 là nhân tố tiêu cực mới, tạo điều kiện
khách quan cho Mỹ rảnh tay hơn để đàn áp phong trào giải phóng dân tộc. Xu
thế chung của nhiều nước trên thế giới lúc này là giải quyết các vấn đề tranh
chấp bằng thương lượng hòa bình. Nhiều nước trên thế giới đánh giá Mỹ quá
9
cao, sợ Mỹ, sợ vũ khí nguyên tử, sợ một đốm lửa nhỏ, có thể gây ra chiến tranh
thế giới. Đế quốc Mỹ đã lợi dụng tình trạng bất hòa trong phong trào cộng sản
quốc tế, lợi dụng cuộc khủng hoảng về đường lối trong phong trào cách mạng
thế giới, lợi dụng lợi ích dân tộc riêng rẽ của từng nước và lợi dụng tâm lý sợ
Mỹ, sợ chiến tranh của nhân dân thế giới để tiến hành chiến tranh xâm lược Việt
Nam và đàn áp phong trào giải phóng dân tộc. Cuộc khủng hoảng về đường lối
trong phong trào cộng sản quốc tế lúc này cũng có tác động tiêu cực đến nước
ta. Đây là điểm khó khăn và phức tạp về mặt quốc tế, đòi hỏi Đảng ta phải có
cách giải quyết đúng.
Tình hình quốc tế ảnh hưởng trực tiếp đến nước ta. Việt Nam lúc ấy là
nơi đang diễn ra thế tiến công của ba dòng thác cách mạng đang diễn ra hành
động xâm lược của đế quốc Mỹ và cuộc khủng hoảng của phong trào cách mạng
thế giới tác động trực tiếp đến cách mạng Việt Nam. Chiến thắng lịch sử Điện
Biên Phủ đánh dấu bước ngoặt quan trọng đưa đất nước ta vào thời kì lịch sử
mới. Đặc trưng chủ yếu của thời kỳ mới là chế độ thực dân cũ của Pháp chấm
dứt trên toàn bộ bán đảo Đông Dương, nhưng chế độ thực dân mới của Mỹ lại
thay Pháp thống trị miền Nam nước ta, uy hiếp Campuchia và khống chế Lào,
miền Bắc được hoàn toàn giải phóng quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong khi
miền Nam trở thành thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mỹ.
Ngày 10-10-1954, Hà Nội - thủ đô nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được giải phóng. Ngày 1-1-1955, hai mươi vạn đồng bào và chiến sĩ tham dự
mít tinh lớn ở Quảng trường Ba Đình chào mừng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung
ương Đảng và Chính phủ trở về thủ đô, sau 9 năm xa cách. Thủ đô Hà Nội được
giải phóng tiếp thêm sức mạnh cho nhân dân ta đấu tranh đòi đối phương phải
rút khỏi những vùng còn lại đúng thời hạn như Thị xã Hải Dương, Thành phố
Hải Phòng, Quân viễn chinh Pháp rút khỏi đảo Cát Bà, mảnh đất cuối cùng của
miền Bắc Việt Nam được hoàn toàn giải phóng. Sau 9 năm kháng chiến trường
kỳ, nhân dân ta ở miền Bắc hoàn toàn làm chủ xí nghiệp, hầm mỏ, đất nước, tài
nguyên và cuộc sống của mình. “Miền Bắc được giải phóng là một thắng lợi to
lớn của cuộc đấu tranh để thực hiện một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất
10
độc lập, dân chủ và giàu mạnh” [8;58]. Cũng thời gian ấy, lực lượng vũ trang
nhân dân ta rút dần khỏi miền Nam tập kết ra Bắc (Đồng Tháp ngày 31-10-1954,
Cà Mau ngày 8-2-1955, nam Quảng Ngãi và Bình Định ngày 16-5-1955). Đảng
bộ miền Nam và toàn thể nhân dân miền Nam với ý thức giác ngộ rất cao, vì sự
nghiệp chung của tổ quốc đã hiểu rõ và theo đúng đường lối làm đúng chính
sách của Đảng, của Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Cho đến cuối tháng 3-1955, ở miền Nam, Pháp đã chuyển cho chính quyền
tay sai Mỹ các khu vực chiếm đóng của Pháp. Quân Pháp tập trung quanh Vũng
Tàu chuẩn bị về nước. Quyền cai trị miền Nam và quyền chỉ huy quân ngụy, kể
từ đó nằm hẳn trong tay Mỹ. Để tạo dựng một quân đội ngụy và một chính
quyền ngụy độc lập giả hiệu, trước mắt cần loại bỏ ngay quân đội viễn chinh
Pháp và chính quyền bù nhìn Bảo Đại. Đây là cái mà Mỹ - Diệm gọi là “đả
thực” và “bài phong”. “Đả thực” là hất cẳng Pháp, xóa bỏ bộ máy cai trị Pháp
đuổi nhanh quân đội viễn chinh Pháp về nước. “Bài phong” là gạt bọn tay sai
Pháp và bắt bọn này phải cúi đầu chịu phục tùng sự chỉ huy của Mỹ. “Đả thực”
và “bài phong” là bước đi của Mỹ nhằm tạo điều kiện cho Mỹ tập trung lực
lượng diệt cộng.
Mỹ nhanh chóng chớp lấy thời cơ thuận lợi, khi quân đội Pháp ở Đông
Dương đã bị thất bại thảm hại khi bộ máy thực dân cũ của Pháp đã rệu rã, bộ
mặt thực dân xâm lược trắng trợn của nó đã hoàn toàn bị phơi trần trước toàn thể
dân tộc và trước dư luận toàn thế giới. Mỹ phải xóa ngay bộ máy thực dân cũ,
cải tiến nó thành bộ máy thực dân mới. Mâu thuẫn Mỹ - Pháp tuy là tạm thời,
lúc này trở nên đối kháng kịch liệt.
Từ tháng 7-1954 đến tháng 7-1956 ở xã hội miền Nam thuộc địa đã diễn ra
cuộc vật lộn, giành giật giữa chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ và chủ nghĩa thực
dân cũ của Pháp. Cuộc vật lộn diễn ra vô cùng gay go, ác liệt trên các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, đổ máu và không đổ máu ở bên trên và ở
bên dưới, ở trong nước và ở ngoài nước giữa một bên cố bám giữ lấy quyền lợi
còn lại, với một bên vừa trắng trợn, vừa khôn khéo hất cẳng và cướp lấy thuộc
địa của Pháp. Bên ngoài dựa vào sức mạnh của đồng đô la, bên trong Mỹ mua
11
chuộc và chia rẽ các giáo phái và các loại tay sai chống đối phe Diệm tiến hành
chiến tranh, khủng bố và loại trừ những lực lượng vũ trang tay sai Pháp không
chịu hàng phục Mỹ. Ngày 9-10-1954, Diệm cách chức Tổng tham mưu trưởng
Nguyễn Văn Hinh, tay sai Pháp bị trục xuất sang Pháp cùng một loạt tướng tá
thân Pháp. Tất cả các lực lượng tay sai Pháp còn lại tập hợp trong một tổ chức
gọi là “Mặt trận thống nhất toàn lực quốc gia” bao gồm ba thành phần chủ yếu là
Cao Đài, Hòa Hảo và Bình Xuyên nổi lên chống Diệm. Thắng lợi về quân sự
của Mỹ - Diệm đối với lực lượng vũ trang giáo phái và việc mua chuộc được các
tướng lĩnh tay sai Pháp đã căn bản kết thúc cuộc giành giật giữa Mỹ và Pháp.
Chế độ thực dân cũ Pháp bị đánh bại, chủ nghĩa thực dân mới Mỹ thắng thế,
nắm giữ quyền thống trị miền Nam.
Nắm được quân đội, công an, công cụ thống trị chủ yếu, Mỹ - Ngụy tiến lên
bước leo thang mới. Ngày 23-10-1955, Mỹ đạo diễn cho Diệm tổ chức cuộc
“trưng cầu dân ý” dưới lưỡi lê của quân đội Diệm để phế truất vua Bảo Đại và
cử Ngô Đình Diệm, tay sai Mỹ lên làm Tổng thống. Cứ điểm cuối cùng của chủ
nghĩa thực dân cũ bị tiêu diệt. Trong khoảng chưa đầy 1 năm, Mỹ đã hoàn thành
việc thay thế chủ nghĩa thực dân cũ Pháp và áp đặt chủ nghĩa thực dân mới vào
miền Nam nước ta. Miền Nam từ xã hội thuộc địa kiểu cũ của Pháp trở thành xã
hội thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Sau khi gạt Pháp ra khỏi guồng máy cai trị và
độc chiếm miền Nam, Mỹ hướng ngay mũi nhọn đàn áp của nó về phía cách
mạng. Chúng tổ chức cách mạng lưới kìm kẹp đến tận ấp, xã, phường, khóm,
chúng ra thông cáo bắt cán bộ ta ra trình diện, phân loại nhân dân, làm tờ khai
gia đình, thành lập “ngũ gia liên bảo”, tổ chức các đảng phái phản động, các
mạng lưới tề ngụy, dân vệ, mật vụ ở xã, tổng đoàn dân vệ đại đội bảo an ở
huyện. Nắm được quyền kiểm soát miền Nam, Mỹ chắc mẩm rằng, với bộ máy
cai chính quyền và quân đội ngụy dán nhãn hiệu độc lập hơn hẳn chế độ thực
dân cũ của Pháp, Mỹ sẽ thắng cách mạng Việt Nam, như đã thắng một số nơi
trên thế giới. Mỹ tin chắc rằng sẽ đặt ách thống trị vĩnh viễn ở miền Nam, từ đó
tiến lên xâm lược toàn bộ nước ta. Những khó khăn trên đòi hỏi sự lãnh đạo của
Đảng phải tỉnh táo, sáng suốt, nhạy bén, chủ động, linh hoạt, kiên quyết và vững
12
vàng xác định được đường lối cách mạng đúng đắn cho cách mạng miền Nam
trong giai đoạn 1954-1960.
1.2. Bước đầu xác định đường lối cách mạng miền Nam
Quá trình hoạch định đường lối cách mạng của Đảng sau khi kết thúc cuộc
kháng chiến chống Pháp là một quá trình tìm tòi, thử nghiệm, học tập kinh
nghiệm lịch sử, thu thập ý kiến trong nước và thăm dò dư luận ngoài nước, hết
sức công phu, gian khổ, với sự đầu tư trí tuệ cao nhất.
Từ ngày 15 đến ngày 18-7-1954, tại Việt Bắc, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa II) họp dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã
xem xét đánh giá tình hình mới và vạch ra những chuyển hướng trong đường lối
cách mạng của Đảng. Tại hội nghị, Người đã đọc bản báo cáo quan trọng Tình hình
mới và nhiệm vụ mới. Báo cáo nhận định thắng lợi của phong trào cách mạng,
phong trào hòa bình dân chủ thế giới đã buộc các nước đế quốc, trước hết là đế
quốc Mỹ, phải họp Hội nghị Béclin và Hội nghị Giơnevơ. “Chỉ việc họp hai hội
nghị này đã là một thắng lợi của phe ta thất bại của phe đế quốc” [16;579].
Đánh giá sự phát triển mới của tình hình trong nước, báo cáo cho rằng:
Những thắng lợi trước cộng với thắng lợi to lớn ở Điện Biên Phủ làm cho tình
hình biến đổi một cách quan trọng... Những thắng lợi của ta buộc địch phải nói
chuyện với ta. Báo cáo nhận định thế ta ngày càng mạnh, thế địch ngày càng
yếu. Nhưng “thế mạnh và thế yếu ấy là tương đối, không phải tuyệt đối. Ta chớ
chủ quan khinh địch” [16;581]. Báo cáo chỉ ra những khó khăn trước mắt của
nhân dân ta, chủ yếu là âm mưu và hành động xâm lược của đế quốc Mỹ và
chính sách theo đuổi Mỹ của chính phủ Pháp. Sau thắng lợi của ta ở Điện Biên
Phủ, đế quốc Mỹ âm mưu kéo dài chiến tranh Đông Dương, phá hoại Hội nghị
Giơnevơ, tìm hết cách hất cẳng Pháp để độc chiếm Việt Nam, Campuchia, Lào,
biến nhân dân ba nước thành nô lệ của Mỹ, gây thêm tình hình căng thẳng trên
thế giới.
Báo cáo khẳng định kẻ thù chính, nguy hiểm nhất trước mắt của nhân dân
ta là đế quuốc Mỹ. “Hiện nay đế quuốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế
giới và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương,
13
cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ. Bất kỳ người nào, nước
nào không thân Mỹ đều có thể làm mặt trận thống nhất (dù tạm thời) với ta”
[16;589].
Đế quốc Mỹ cố tình phá hoại hòa bình, khả năng tiếp tục chiến tranh chưa
hết, nhưng khả năng kí kết Hiệp định Giơnevơ đã trở thành hiện thực. Tại hội
nghị này, ta đã đòi và Pháp đã chịu cam kết định kỳ rút quân. Báo cáo vạch rõ:
“Hiện nay tình hình đã đổi mới, nhiệm vụ của ta do đó cũng thay đổi, chính
sách và khẩu hiệu cũng phải thay đổi cho phù hợp với tình hình mới” [16;584].
Báo cáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ, “muốn lập lại hòa bình, chấm
dứt chiến tranh, phải điều chỉnh khu vực, nghĩa là quân địch phải tập trung vào
một vùng để rút dần, quân đội ta cũng tập trung vào một vùng để xây dựng tạo
điều kiện đi đến thống nhất. Đảng phải nói để cho đồng bào biết rõ, vì lợi ích
toàn quốc, lợi ích lâu dài, đồng bào ở vùng xưa nay tự do mà địch đến đóng
quân phải tạm thời chịu đựng”; “Đó là một điều vẻ vang, toàn quốc đều biết ơn”
[16;585].
Người báo trước cho cán bộ, chiến sĩ, đồng bào cả nước biết rõ: “Tranh lấy
hòa bình không phải việc dễ, nó là cuộc đấu tranh trường kỳ, gian khổ, phức
tạp” [16;586]; Và nêu ra ba nhiệm vụ, các công tác trước mắt.
Ba nhiệm vụ đó là:
1. Tranh thủ và củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập,
dân chủ trong cả nước.
2. Tăng cường lực lượng quân đội nhân dân, xây dựng một quân đội nhân
dân mạnh mẽ và thích hợp với yêu cầu của tình hình mới.
3. Tiếp tục thực hiện người cày có ruộng; Ra sức phục hồi sản xuất, chuẩn bị
điều kiện kiến thiết nước nhà.
Ba nhiệm vụ đó định ra các công tác cụ thể:
Thống nhất tư tưởng; đấu tranh ngoại giao; tăng cường lực lượng của quân
đội; tiếp quản vùng giải phóng; chuyển hướng công tác ở miền Nam; củng cố
vùng tự do cũ; cải cách ruộng đất; phục hồi kinh tế; củng cố đảng. Công tác then
14
chốt là làm cho toàn đảng, toàn quân, toàn dân, nhận rõ tình hình và nhiệm vụ
mới, nhận rõ tính chất, nội dung thay đổi của nhiệm vụ trong giai đoại mới.
Báo cáo Để hoàn thành nhiệm vụ và đẩy mạnh công tác trước mắt của đồng
chí Trường Chinh đã cụ thể hóa những quan điểm và phương hướng cơ bản
trong báo cáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng chí Trường Chinh trình bày
nhiệm vụ của nhân dân ta hiện nay là đấu tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương
và nêu rõ: Một ngày nào mà quân đội ngoại quốc chưa rút hết khỏi Đông Dương
thì hòa bình chưa được củng cố. Hơn nữa, dù quân đội ngoại quốc rút hết khỏi
Đông Dương mà trên thế giới vẫn còn bọn đế quốc thì hòa bình của nhân dân
Đông Dương vẫn chưa được đảm bảo. Vì vậy, phải luôn tăng cường lực lượng,
củng cố quốc phòng, ngăn ngừa bọn can thiệp Mỹ và hiếu chiến Pháp dùng bọn
tay sai của chúng mà phá hoại hiệp định đình chiến hoặc trực tiếp khiêu khích,
xâm lược. Đồng chí Trường Chinh cho rằng: Hiểu rõ tình hình và nhiệm vụ hiện
nay là một việc rất quan trọng có tác dụng quyết định những thắng lợi của ta
trong giai đoạn tới. Cần lựa chọn một số cán bộ đáp ứng yêu cầu công tác ngoại
giao đang phát triển. Cán bộ ta cần học tập công tác quản lý và xây dựng thành
thị, học tập đấu tranh chính trị, kinh tế, văn hóa và ngoại giao với bọn đế quốc,
với các đảng phái phản động, với giai cấp tư sản, ổn định vùng mới giải phóng,
bảo đảm an ninh, ổn định đời sống, tiếp thu và quản lý công thương nghiệp của
đế quốc và tay sai. Tôn trọng tự do tín ngưỡng, bảo vệ tính mạng, tài sản của
ngoại kiều. Phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp, phục hồi và phát triển
công thương nghiệp, giao thông vận tải, ổn định tiền tệ, vật giá, tiến tới thăng
bằng thu chi. Phát huy mặt tích cực có lợi cho quốc kế dân sinh và hạn chế mặt
tiêu cực, phá hoại của thương nghiệp tư bản tư nhân. Khuyến khích công nghiệp,
thủ công nghiệp phục hồi và phát triển. Trước tiên là phục hồi giao thông vận
tải. Phát triển thương nghiệp quốc doanh. Chuẩn bị kế hoạch chuyển trọng tâm
cải cách ruộng đất về vùng đồng bằng. Giúp đỡ nhân dân hai nước Lào Và
Campuchia đào tạo cán bộ, củng cố và mở rộng mặt trận thống nhất đấu tranh
đòi lập lại hòa bình ở Đông Dương trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền,
thống nhất và lãnh thổ toàn vẹn của ba dân tộc. Báo cáo đặc biệt chú ý đến vấn
15
đề chuyển hướng công tác ở miền Nam. Làm cho các bộ, đồng bào, chiến sĩ ta
hiểu rõ điều chỉnh khu cực đóng quân là việc cần thiết, từ đó mà tự giác thi hành
mệnh lệnh điều chỉnh, không bi quan, tiêu cực hoặc làm trái mệnh lệnh. Sau khi
ta rút quân, địch sẽ tìm hết cách để phá hoại hiệp định, phá hoại tổ chức của ta.
“Phải cầm chắc những khó khăn sẽ nhiều hơn thuận lợi và không nên chủ quan
khinh địch” [20;205]. Vì vậy phương châm công tác ở vùng địch tạm đóng quân
“là lấy công tác không hợp pháp làm chính, đồng thời hết sức lợi dụng mọi khả
năng hợp pháp và nửa hợp pháp mà tuyên truyền, giáo dục quần chúng đông
đảo, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh” [20;223]. Lợi dụng điều quy
định trong hiệp định đình chiến, “không làm hại những người hợp tác với đối
phương trong thời kì chiến tranh” để đấu tranh. Tổ chức đảng chủ yếu là bí mật,
tổ chức quần chúng chủ yếu là hợp pháp và nửa hợp pháp. Những cán bộ lộ mặt
quá nói chung nên chuyển vào bí mật hoặc điều động ra công tác ở vùng tự do.
Những cán bộ, bộ đội, du kích ở lại nên có công ăn, việc làm để trà trộn và hòa
bình với quần chúng. Tổ chức ra những đảng ủy mới, những chi bộ mới, bí mật
“giỏi công tác, khéo léo che dấu lực lượng” [20;224]. Kiên quyết chống chính
sách kêu gọi đầu thú có thể có của địch để bảo tồn lực lượng của Đảng.
Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam đã thảo luận và hoàn toàn nhất trí với đường lối, chủ trương do Chủ tịch
Hồ Chí Minh và đồng chí Trường Chinh nêu ra. Nghị quyết hội nghị vạch rõ:
“Ngày nay, do tình hình mới, ta thay đổi phương châm, chính sách và sách lược
đấu tranh cốt để thực hiện một cách thuận lợi mục đích trước mắt. Đây là một
thay đổi quan trọng về phương châm và sách lược cách mạng, những mục đích
của cách mạng vẫn là một” [17;52].
Những chuyển hướng của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng tuy mới là một số nét chung, nhưng có ý nghĩa rất quan trọng đối với cách
mạng nước ta trong giai đoại mới.
Ngày 27-7-1954 Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi cán bộ, đồng bào và
chiến sĩ cả nước: Trung-Nam-Bắc đều là bờ cõi của ta, nước ta nhất định sẽ
thống nhất, đồng bào cả nước nhất định được giải phóng.
16
Đồng bào miền Nam kháng chiến trước hết, giác ngộ rất cao. Tôi chắc rằng
đồng bào sẽ đặt lợi ích cả nước trên lợi ích địa phương, lợi ích lâu dài trên lợi
ích trước mắt, mà ra sức lao động cùng đồng bào toàn quốc phấn đấu để củng cố
hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc.
Đảng, Chính phủ và Tôi luôn theo dõi sự cố gắng của đồng bào và tin chắc đồng
bào sẽ thắng lợi. Đấu tranh để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn
thành độc lập, dân chủ cũng là một cuộc dấu tranh lâu dài và gian khổ. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 6 của Trung ương Đảng mở đường đi lên một giai đoạn
mới của cách mạng nước ta.
Thực hiện Hiệp định Giơnevơ, ở miền Bắc nhân dân ta đang tiếp quản vùng
mới giải phóng, ở miền Nam, nhân dân ta đang chuyển hướng cuộc đấu tranh.
Một tháng rưỡi sau Hội nghị lần thứ 6 của Trung ương Đảng, ngày 5-9, Bộ
Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tại một địa điểm gần thủ đô Hà
Nội, ra nghị quyết cụ thể hóa và bổ sung thêm Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 của
Trung ương Đảng.
Hội nghị vạch ra năm đặc điểm của thời kì mới, mà đặc điểm quan trọng
nhất là đất nước tạm thời chia làm hai vùng. Đế quốc Mỹ và tay sai mưu tính
phá hoại Hiệp định Giơnevơ, nhằm “biến Việt Nam thành Triều Tiên thứ hai.
Chính phủ Pháp hiện nay cũng không dám cự quyết tách rời Mỹ” [20;9]. Vì thế
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc tiếp tục dưới hình thức mới. Cuộc đấu trang
của nhân dân miền Nam phải chuyển từ đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính
trị. Nhiệm vụ của Đảng ở miền Nam là lãnh đạo nhân dân miền nam đấu tranh
thực hiện hiệp định đình chiến, củng cố hòa bình, thực hiện tự do dân chủ (tự do
ngôn luận, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do đi lại,…), cải thiện dân sinh, thực
hiện thống nhất và tranh thủ độc lập, chống khủng bố, giữ lấy những quyền lợi
quần chúng đã giành được trong thời kì kháng chiến. Lập mặt trận thống nhất
rộng rãi các tầng lớp nhân dân bao gồm cả những người trước đây đã đi với
Pháp chúng ta nay tán thành Hiệp định Giơnevơ, tán thành hòa bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ, chống đế quốc Mỹ và tay sai. Vận động quần chúng lợi dụng
những lời hứa và pháp luật do ngụy quyền ban bố, đấu tranh đòi quyền lợi hằng
17
ngày. Đối với quyền lợi về ruộng đất mà nông dân đã được hưởng từ sau Cách
mạng Tháng Tám, phải lãnh đạo nhân dân đấu tranh giữ lấy. Để lại những cán
bộ, đảng viên chưa bị lộ mặt và những cán bộ có thể giữ bí mật được, làm tổ
chức đảng bí mật, gọn, nhẹ.
Dựa trên tinh thần Nghị quyết ngày 5-9, Bộ Chính trị ra bản chỉ thị riêng
về tinh thần mới và nhiệm vụ công tác mới cho các đảng bộ miền Nam. Chỉ
thị nêu ra những điều kiện thuận lợi mới của cuộc đấu tranh giải phóng miền
Nam, đồng thời dự kiến một khả năng không thuận lợi là Mỹ và tay sai phá
hại cuộc tổng tuyển cử thống nhất nước nhà; một số điều khoản nào đó của
hiệp định đình chiến có thể bị phá hoại, “việc chiến tranh có thể trở lại”, “việc
chia cắt có thể trường kỳ”,… Chỉ thị vạch ra ba nhiệm vụ cụ thể trước mắt
của cách mạng miền Nam:
1. Đấu tranh đòi đối phương thi hành đúng hiệp định.
2. Chuyển hướng công tác cho thích hợp điều kiện mới, nắm vững phương
châm, chính sách mới, sắp xếp cán bộ, bố trí lực lượng, vừa che dấu lực lượng
vừa lợi dụng những khả năng công khai, hợp pháp (như các điều khoản của Hiệp
định Giơnevơ và thỏa thuận ở Hội nghị Trung Giã).
3. Tập hợp mọi lực lượng dân tộc, dân chủ, hòa bình; thống nhất, độc lập,
dân chủ, đấu tranh đánh đổ chính quyền Ngô Đình Diệm thân Mỹ, lập ra một
chính quyền tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, cải thiện dân sinh,
nghiên cứu sữa đổi tên, chính cương và điều lệ của Mặt trận dân tộc thống nhất
thay cho Mặt trận Liên-Việt. Tăng cường vận động ngụy quân, ngụy quyền, đưa
người của ta vào hoạt động bí mật ở các cấp chính quyền địch. Về sự lãnh đạo
của Đảng bộ miền Nam, chỉ thị vạch rõ, tổ chức đảng phải bí mật, gọn nhẹ, vững
chắc, trong sạch, chống gian tế chui vào. Giải thể Trung ương cục miền Nam,
lập lại Xứ ủy Nam Bộ và các khu ủy. Giữ nguyên Liên khu V. Riêng Thừa
Thiên, Quảng Trị tạm giao cho Liên khu IV phụ trách.
Tiếp theo Hội nghị Bộ Chính trị tháng 9-1954, Hội nghị lần thứ 7 (tháng 31955) và Hội nghị lần thứ 8 (tháng 8-1955) của Trung ương Đảng (khóa II) nhận
định ở miền Nam thực dân Pháp đã bị đế quốc Mỹ hất cẳng. Mỹ và tay sai công
18
khai chống lại Hiệp định Giơnevơ. Chính sách của Chính phủ Pháp là đầu hàng
Mỹ. Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất,
hoàn thành độc lập và dân chủ, “điều cốt yếu là phải ra sức củng cố miền Bắc,
đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam” [20;65]
Chủ trương của các Hội nghị 6, 7, 8 của Trung ương Đảng và Bộ Chính trị
trong hai năm 1954-1955 phương hướng soi đường cho các cuộc đấu tranh cách
mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam.
19
CHƯƠNG 2
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG MIỀN NAM TỪ SAU NĂM 1954
ĐẾN CUỐI NĂM 1956
2.1. Tình hình miền Nam từ sau năm 1954
Tháng 5-1954, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta thắng lợi,
Hiệp định Giơnevơ được kí kết, trong đó có nội dung rất quan trọng: Các bên
tham gia hội nghị thừa nhận về nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của Việt Nam; việc hiệp thương giữa hai miền bắt đầu từ ngày 20-7-1955 và
tổng tuyển cử tiến hành vào tháng 7-1956; quyết định lấy vĩ tuyến 17 là giới
tuyến quân sự tạm thời ở Việt Nam.
Hiệp định Giơnevơ được ký kết mở đầu cho một thời kỳ mới trong cuộc
đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam: Đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ
và hòa bình, đòi đối phương thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ, đòi tổng
tuyển cử trong toàn quốc dưới sự kiểm soát quốc tế để thống nhất Tổ quốc…
Dưới sự lãnh đạo của tổ chức Đảng, nhân dân ta ở miền Nam đã mở đầu
giai đoạn đấu tranh mới bằng những cuộc biểu tình chính trị rầm rộ nổ ra khắp
các tỉnh thành, có tính chất biểu dương lực lượng và bày tỏ nguyện vọng với
những khẩu hiệu mừng hòa bình, hoan nghênh Hiệp định Giơnevơ và đòi thi
hành nghiêm chỉnh các điều khoản của Hiệp định.
Ngay từ ngày 1-8-1954, chỉ 10 ngày sau khi Hiệp định Giơnevơ kí kết, một
cuộc mít tinh khổng lồ của 50.000 người diễn ra ngay tại đô thành Sài Gòn Chợ Lớn hoan nghênh Hiệp định, đòi thi hành tự do dân chủ, đòi đối phương
hủy bỏ việc tổng động viên quân đội. Đây là tiếng sấm đầu tiên nổ ra tại một
trung tâm chính trị lớn nhất miền Nam, báo hiệu một giai đoạn đấu tranh mới
bắt đầu: giai đoạn đấu tranh chính trị. Ngày 4-3-1956, Mỹ - Diệm tổ chức tuyển
cử riêng rẽ, bầu quốc hội bù nhìn. Hiệp định Giơnevơ bị chúng xé toạc. MỹDiệm rảnh tay, tập trung mũi nhọn, dùng bạo lực tàn khốc khủng bố nhân dân.
Trong khi ta coi Hiệp định Giơnevơ là cơ sở pháp lý quốc tế để tiếp tục đấu
tranh hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước thì
đế quốc Mỹ ngang nhiên không chấp nhận các điều khoản của hiệp định, xúc
20
tiến kế hoạch xâm nhập vào miền Nam thay thế thực dân Pháp, xâm chiếm miền
Nam bằng chính sách thực dân mới, đốc thúc ngụy quân, ngụy quyền tay sai ra
sức phá hoại hiệp định bằng mọi biện pháp với thủ đoạn tàn ác và thâm hiểm.
Sau khi gạt Pháp ra khỏi guồng máy cai trị và áp đặt chủ nghĩa thực dân
mới vào miền Nam, Mỹ - Diệm tập trung thực hiện biện pháp chiến lược “tố
cộng, diệt cộng” là “quốc sách”. Với khẩu hiệu: “Giết nhầm hơn bỏ sót”, chúng
chủ trương tiêu diệt hết những người cộng sản. Chúng đã huy động mọi lực
lượng quân sự, an ninh, hành chính, tình báo, thông tin tuyên truyền… tiến hành
khủng bố, đàn áp toàn diện cả quân sự, chính trị, tâm lý, kinh tế, cực kỳ thâm
độc, tàn bạo. Chúng dùng quân đội mở nhiều cuộc hành quân càn quét quy mô
lớn, dài ngày như “Chiến dịch Thoại Ngọc Hầu” kéo dài 9 tháng (5-1956 - 21957) ở 18 tỉnh miền Tây Nam Bộ, “Chiến dịch Trương Tấn Bửu” trong 7 tháng
(7-1956 - 2-957) ở 8 tỉnh miền Đông Nam Bộ… để triệt phá cách mạng, tàn sát
những người yêu nước, khủng bố những người kháng chiến cũ mà chúng gọi là
cộng sản hoặc phần tử cộng sản…, chúng thẳng tay bắt bớ, tra tấn, chém giết
những người yêu nước. Cách mạng miền Nam bị dìm trong biển máu. Trong lúc
đó, Trung ương chưa chủ trương chuyển hướng đấu tranh, cán bộ, đảng viên và
đồng bào ta ở miền Nam vẫn dùng hình thức đấu tranh chính trị không dám
dùng vũ trang tự vệ. Nhân dân miền Nam sống như nghẹt thở, cách mạng miền
Nam bị đẩy vào bước khó khăn chưa từng thấy, trải qua một thời kỳ thoái trào
nguy ngập tưởng chừng không gượng dậy nổi.
Những nhu cầu thực tiễn không dừng lại ở đó, khi Mỹ - Diệm đã đưa “lưỡi
lê” vào chương trình nghị sự của chúng, khi nhân dân ta đã không trông cậy vào
đấu tranh chính trị đơn thuần và pháp lí Hiệp định Giơnevơ để ngăn chặn bàn
tay khát máu của chúng, thực tiễn cách mạng lại đặt ra những vấn đề mới, bức
thiết hơn. Thực tiễn đòi hỏi Đảng ta phải giải đáp những vấn đề trước mắt, vừa
căn bản lâu dài. Đó là: Con đường cơ bản để đánh đổ chính quyền Mỹ - Diệm,
giành quyền làm chủ cho nhân dân là gì? Nếu khởi nghĩa nổ ra làm thế nào giữ
được quyền làm chủ của nhân dân? Nếu khởi nghĩa biến thành chiến tranh cách
mạng, làm sao hạn chế được chiến tranh, không để lan ra cả nước và thành chiến
21