1. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là gì? Phân tích các dấu hiệu để xác định đã tồn
tại một TTHCCT giữa các DN?
1.1. KN:
- Theo Kinh tế học, Hành vi TTHCCT (Cartel) là sự thống nhất cùng hành động của DN
nhằm làm giảm bớt hoặc loại bỏ sức ép cạnh tranh, hoặc hạn chế khả năng hoạt động một cách
độc lập giữa các đối thủ cạnh tranh.
- Luật cạnh tranh không đưa ra khái niệm, mà chỉ liệt kê các thỏa thuận bị coi là thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh tại Điều 8 của Luật cạnh tranh, cụ thể Các thoả thuận hạn chế cạnh
tranh bao gồm:
1. Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;
2. Thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ;
3. Thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá,
dịch vụ;
4. Thoả thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;
5. Thoả thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng
hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp
đến đối tượng của hợp đồng;
6. Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường
hoặc phát triển kinh doanh;
7. Thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thoả
thuận;
8. Thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng
hoá, cung ứng dịch vụ.
-> Như vậy tức là chỉ những thỏa thuận được liệt kê tại Điều 8 mới được coi là TTHCCT
và có thể bị cấm theo PL VN.
- Căn cứ vào khái niệm hành vi HCCT và bản chất của thỏa thuận, có thể rút ra khái niệm
TTHCCT: Là sự thống nhất ý chí của từ 02 chủ thể Kinh doanh trở lên được thể hiện đươi bất
kỳ hình thức nào, có hậu quả làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường.
1.2. Các dấu hiệu để xác định đã tồn tại một TTHCCT giữa các DN: Cần chứng minh
có đủ 3 dấu hiệu
- Chủ thể tham gia thỏa thuận phải là các doanh nghiệp độc lập:
+ Tổ chức, cá nhân kinh doanh (gọi chung là doanh nghiệp) bao gồm cả doanh nghiệp
sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh
vực thuộc độc quyền nhà nước và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động ở Việt Nam.
1
+ Các DN tham gia thỏa thuận phải độc lập với nhau về hoạt động, tổ chức và tài chính
để có thể độc lập ra quyết định
+ Hành động thống nhất của các đơn vị hạch toán phụ thuộc trong một công ty; Một công
ty con bị công ty mẹ hay tập đoàn ra quyết định bắt công ty con phải thi hành…. Đều không
được coi là TTHCCT
- Giữa các bên có sự thỏa thuận thống nhất cùng hành động:
+ Về hình thức: Thỏa thuận có thể được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào (bằng VB
hoặc không) miễn là chứng minh được; Thỏa thuận có thể được thể hiện công khai hoặc không
công khai (thỏa thuận ngầm)
+ Về nội dung: Thống nhất ý chí cùng hành động để gây hạn chế cạnh tranh với các nội
dung như: ấn định giá, hạn chế sản lượng, phân chia thị trường, phân chia khách hàng, thống
nhất nguồn cung;…những hành vi nằm trong những hành vi được liệt kê tại Điều 8 Luật cạnh
tranh 2004 đã được nêu trên trong phần khái niệm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Thoả thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc: Là thoả thuận được thực hiện giữa các
chủ thể ở các cấp độ kinh doanh (nhà sản xuất, nhà phân phối, người bán lẻ).
Thoả thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang: Là thoả thuận được thực hiện giữa các
chủ thể cùng cấp độ kinh doanh.
- Hậu quả của thoả thuận: Làm giảm, sai lệch và cản trở cạnh tranh trên thị trường:
+ Khi thỏa thuận được ký kết, các DN đang từ đối thủ cạnh tranh của nhau sẽ không còn
phải cạnh tranh với nhau nữa, người tiêu dùng không còn cơ hội lựa chọn, mất quyền hưởng lợi
từ cạnh tranh
+ Các DN tham gia thỏa thuận sẽ hình thành nhóm DN có sức mạnh thị trường lớn, có
khả năng gây thiệt hại cho khách hàng và các DN không tham gia thỏa thuận
2
2. Trình bày nguyên tắc xử lý các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh?
Theo điều 9 Luật Cạnh tranh, có 2 mức độ cấm đoán đối với thoả thuận hạn chế cạnh
tranh (TTHCCT). Việc xử lý TTHCCT bằng cách phân chia thành 2 nhóm thoả thuận với 2
mức độ cấm đoán khác nhau. Như trên cho thấy độ mềm dẻo của pháp luật khi xử lý các TTHC
CT làm cho việc áp dụng Luật Cạnh tranh được linh hoạt theo sự phát triển của thị trường.
Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị Luật Cạnh tranh cấm theo hai mức độ: Cấm tuyệt
đối và cấm có điều kiện:
2.1. Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm tuyệt đối là những thỏa thuận bị cấm
triệt để theo nguyên tắc vi phạm mặc nhiên (per se rule) mà sẽ không được hưởng miễn trừ, bao
gồm khoản 1, điều 9 Luật cạnh tranh “Cấm các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh quy định tại các
khoản 6, 7 và 8 Điều 8 của Luật này” , cụ thể:
6. Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường
hoặc phát triển kinh doanh;
7. Thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thoả
thuận;
8. Thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng
hoá, cung ứng dịch vụ.
=> Những TT này luôn có bản chất hạn chế cạnh tranh và không có cơ sở nào để biện hộ
về hiệu quả của chúng đối với thị trường. Nói cách khác ba loại thoả thuận này là những thoả
thuận luôn mang bản chất hạn chế cạnh tranh nên chỉ cần có đủ căn cứ để kết luận DN đã thiết
lập nên một trong ba thỏa thuận trên là có thể kết luận đã có hành vi vi phạm pháp luật cạnh
tranh. Thoả thuận ngăn cản hoặc thoả thuận xoá bỏ đối thủ cạnh tranh là những thoả thuận vi
phạm nghiêm trọng quyền tự do kinh doanh của người khác đã được hiến pháp thừa nhận.
Do đó chúng luôn bị coi là vi phạm mà không cần điều tra tác hại cụ thể do chúng gây ra
hay lý do thực hiện thoả thuận
2.2. Các thỏa thận HCCT có điều kiện: Thỏa thận hạn Ngoài 3 TH cấm tuyệt đối, tất
cả các TTHCCT còn lại bao gồm khoản 2, điều 9 Luật cạnh tranh “Cấm các thoả thuận hạn
chế cạnh tranh quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 8 của Luật này khi các bên tham gia
thoả thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên” và có thể được miễn
trừ khi đáp ứng những điều kiện nhất định, cụ thể:
1. Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;
2. Thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ;
3. Thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá,
dịch vụ;
4. Thoả thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;
5. Thoả thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng
hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp
đến đối tượng của hợp đồng;
=> Như vậy, Những TT này chỉ có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể
nếu thị phần của các DN tham gia đạt tới một mức độ nhất định, khi đó PL cạnh tranh mới cần
can thiệp
2.3. Hình thức xử phạt hành vi thỏa thận cạnh tranh bị cấm: Các bên tham gia sẽ bị
xử phạt hành chính (Cảnh cáo hoặc phạt tiền; Các hình thức xử phạt bổ sung) hoặc áp dụng một
số biện pháp khắc phục hậu quả gây bất lợi cho DN tham gia thoả thuận.
3
3. Phân tích các TTHCCT bị cấm tuyệt đối theo PL Cạnh tranh VN? Tại sao những
thỏa thuận này lại bị cấm tuyệt đối:
3.1. Phân tích các TTHCCT bị cấm tuyệt đối theo PL Cạnh tranh VN: Các thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh bị cấm tuyệt đối là những thỏa thuận bị cấm triệt để theo nguyên tắc vi
phạm mặc nhiên (per se rule) mà sẽ không được hưởng miễn trừ, bao gồm khoản 1, điều 9 Luật
cạnh tranh “Cấm các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh quy định tại các khoản 6, 7 và 8 Điều 8
của Luật này”, cụ thể:
6. Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường
hoặc phát triển kinh doanh;
Theo Điều 19, Nghị định 116/2005/NĐ-CP quy định như sau:
“ 1. Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường
là việc thống nhất không giao dịch với doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận hoặc cùng
hành động dưới một trong các hình thức sau đây:
a) Yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ khách hàng của mình không mua, bán hàng hoá, không sử
dụng dịch vụ của doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận;
b) Mua, bán hàng hóa, dịch vụ với mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thỏa
thuận không thể tham gia thị trường liên quan.
2. Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác phát triển kinh doanh
là việc thống nhất không giao dịch với doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận hoặc cùng
hành động dưới một trong các hình thức sau đây:
a) Yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ các nhà phân phối, các nhà bán lẻ đang giao dịch với mình
phân biệt đối xử khi mua, bán hàng hóa của doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận theo
hướng gây khó khăn cho việc tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp này;
b) Mua, bán hàng hóa, dịch vụ với mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thỏa
thuận không thể mở rộng thêm quy mô kinh doanh.”
7. Thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thoả
thuận.
Theo Điều 20, Nghị định 116/2005/NĐ-CP quy định như sau: “Thoả thuận loại bỏ khỏi
thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thoả thuận là việc thống nhất không
giao dịch với doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận và cùng hành động dưới hình thức quy
định tại điểm a khoản 1 và khoản 2 Điều 19 của Nghị định này hoặc mua, bán hàng hóa, dịch
vụ với mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận phải rút lui khỏi thị trường liên
quan.”
8. Thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng
hoá, cung ứng dịch vụ.
Theo Điều 21, Nghị định 116/2005/NĐ-CP quy định như sau:
4
“Thông đồng để một hoặc các bên thắng thầu trong việc cung cấp hàng hoá, cung ứng
dịch vụ là việc thống nhất cùng hành động trong đấu thầu dưới một trong các hình thức sau
đây:
1. Một hoặc nhiều bên tham gia thoả thuận rút khỏi việc dự thầu hoặc rút đơn dự thầu
được nộp trước đó để một hoặc các bên trong thoả thuận thắng thầu.
2. Một hoặc nhiều bên tham gia thoả thuận gây khó khăn cho các bên không tham gia
thoả thuận khi dự thầu bằng cách từ chối cung cấp nguyên liệu, không ký hợp đồng thầu phụ
hoặc các hình thức gây khó khăn khác.
3. Các bên tham gia thoả thuận thống nhất đưa ra những mức giá không có tính cạnh
tranh hoặc đặt mức giá cạnh tranh nhưng kèm theo những điều kiện mà bên mời thầu không
thể chấp nhận để xác định trước một hoặc nhiều bên sẽ thắng thầu.
4. Các bên tham gia thoả thuận xác định trước số lần mỗi bên được thắng thầu trong
một khoảng thời gian nhất định.
5. Những hành vi khác bị pháp luật cấm.”
3.2. Những thỏa thuận này lại bị cấm tuyệt đối vì: Những TT này luôn có bản chất hạn
chế cạnh tranh và không có cơ sở nào để biện hộ về hiệu quả của chúng đối với thị trường. Nói
cách khác ba loại thoả thuận này là những thoả thuận luôn mang bản chất hạn chế cạnh tranh
nên chỉ cần có đủ căn cứ để kết luận DN đã thiết lập nên một trong ba thỏa thuận trên là có thể
kết luận đã có hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh. Thoả thuận ngăn cản hoặc thoả thuận xoá
bỏ đối thủ cạnh tranh là những thoả thuận vi phạm nghiêm trọng quyền tự do kinh doanh của
người khác đã được hiến pháp thừa nhận.
Do đó chúng luôn bị coi là vi phạm mà không cần điều tra tác hại cụ thể do chúng gây ra
hay lý do thực hiện thoả thuận
5
4. Thế nào là TTHCCT bị cấm có điều kiện và phân tích việc hưởng miễn trừ áp
dụng với loại TTHCCT này
4.1. TTHCCT bị cấm có điều kiện: Ngoài 3 TH cấm tuyệt đối, tất cả các TTHCCT còn
lại bao gồm khoản 2, điều 9 Luật cạnh tranh “Cấm các thoả thuận hạn chế cạnh tranh quy định
tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 8 của Luật này khi các bên tham gia thoả thuận có thị phần
kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên” và có thể được miễn trừ khi đáp ứng những
điều kiện nhất định, cụ thể:
1. Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
2. Thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ;
3. Thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá,
dịch vụ;
4. Thoả thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;
5. Thoả thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng
hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp
đến đối tượng của hợp đồng;
=> Như vậy, Những TT này chỉ có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể
nếu thị phần của các DN tham gia đạt tới một mức độ nhất định, khi đó PL cạnh tranh mới cần
can thiệp.
4.2. Phân tích việc hưởng miễn trừ áp dụng với loại TTHCCT bị cấm có điều kiện:
Cơ sở của việc miễn trừ là dựa trên nguyên tắc lập luận hợp lý, tức là cân nhắc giữa tác động
hạn chế cạnh tranh và những lợi ích có được từ thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đối với nền kinh
tế và người tiêu dùng . Theo đó một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh vẫn có thể được cho phép
thực hiện nếu xét thấy lợi ích đối với nền kinh tế và người tiêu dùng vẫn lớn hơn tác động hạn
chế cạnh tranh, hay nói cách khác tác động tích cực lớn hơn tác động tiêu cực
- Điều kiện hưởng miễn trừ : Theo quy định tại Khoản 1, Điều 10, Luật Cạnh tranh thì
+ Khi đáp ứng một trong các điều kiện sau đây nhằm hạ giá thành, có lợi cho người tiêu
dùng:
• Hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, mô hình KD, nâng cao hiệu quả KD
• Thúc đẩy tiến bộ KT, công nghệ, nâng cao chất lượng HH - DV;
• Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật
của chủng loại sản phẩm;
• Thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán nhưng không liên
quan đến giá và các yếu tố của giá;
• Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa;
• Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường
quốc tế.
+ Phạm vi áp dụng: Chỉ áp dụng với các TTHCCT bị cấm có điều kiện
+ Chỉ áp dụng trong một thời hạn nhất định
+ Các DN xin hưởng miễn trừ phải chứng minh được TTHCCT có thể làm hạ giá
thành và có lợi cho người tiêu dùng
6
5. Trình bày khái niệm và đặc điểm pháp lý của TTKT?
5.1. KN: PLCT VN không đưa ra định nghĩa mang tính khái quát mà chỉ liệt kê các
hình thức TTKT
Điều 16: Tập trung kinh tế là hành vi của Doanh nghiệp bao gồm:
Sáp nhập doanh nghiệp
Hợp nhất doanh nghiệp
Mua lại doanh nghiệp
Liên doanh giữa các doanh nghiệp
Các hành vi tập trung kinh tế khác
Như vậy có thể hiểu Tập trung kinh tế là những hình thức tích tụ, tập trung nguồn lực
của doanh nghiệp trên thị trường nhằm:
- Hình thành chủ thể kinh doanh lớn hơn hoặc hình thành 1 chủ thể kinh doanh thống
nhất;
- Củng cố, gia tăng sức mạnh thị trường.
- Tập trung kinh tế thuộc quyền tự do của doanh nghiệp đối với hình thức tổ chức
kinh doanh.
5.2. Đặc điểm pháp lý của tập trung kinh tế:
* Chủ thể: là các DN (gồm các t/c, cá nhân KD)
- Tùy thuộc từng loại hình tập trung KT mà chủ thể phải đáp ứng đk nhất định
VD: hợp nhất, sáp nhập DN…
- Các DN tham gia tập trung kinh tế có thể là DN cùng hoạt động trên cùng thị trường
liên quan hoặc không. Tuy nhiên PL cạnh tranh hiện nay chỉ tập trung kiểm soát các hành vi tập
trung KT giữa các DN hoạt động trên cùng thị trường
* Hành vi Tập trung KT được thực hiện dưới những hình thức nhất định theo quy định
của PL
- Hợp nhất
` - Sáp nhập
- Mua lại DN
- Liên doanh giữa các DN
Theo Điều 17 của luật này quy định: “Sáp nhập, hợp nhất, mua lại doanh nghiệp và
liên doanh giữa các doanh nghiệp
7
1. Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài
sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời
chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập.
2. Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài
sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới,
đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp nhất.
3. Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài
sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của
doanh nghiệp bị mua lại.
4. Liên doanh giữa các doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp cùng nhau
góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một
doanh nghiệp mới.”
* Hậu quả của tập trung kinh tế là làm hình thành các DN, tập đoàn kinh tế lớn mạnh,
thay đổi cấu trúc thị trường và tương quan cạnh tranh trên thị trường
- TTKT bằng việc tích tụ các nguồn lực về TC, KT, LĐ, Năng lực tổ chức của các DN
riêng lẻ sẽ làm hình thành các DN, tập đoàn KT lớn mạnh hơn
- TTKT là quá trình tích tụ tư bản mang tính ngoại sinh, phân biệt với tích tụ TB trong
KT học, quá trình phát triển nội sinh DN
- Sau TTKT xuất hiện đột ngột các Dn có tiềm lực và lợi thế cạnh tranh lớn mạnh
khiến cho vị trí và lợi thế cạnh tranh của các DN thay đổi, cấu trúc TT thay đổi
8
6. Phân tích các hình thức kiểm soát TTKT ?
* Mục đích của việc kiểm soát: Vừa đảm bảo không xâm phạm vào quyền tự do kinh
doanh của Dn, vừa bảo vệ được cạnh tranh trên thương trường
* Nguyên tắc kiểm soát: Chỉ khi các Dn tham gia TTKT đạt tới ngưỡng nhất định mới bị
kiểm soát
* Các hình thức kiểm soát cụ thể:
- Thông báo:
+ Luật Cạnh tranh quy định rõ những trường hợp cần phải báo cáo với cơ quan quản lý
cạnh tranh trước khi tiến hành tập trung kinh tế Điều 20 LCT:
“Thông báo việc tập trung kinh tế
1. Các doanh nghiệp tập trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30% đến 50% trên thị
trường liên quan thì đại diện hợp pháp của các doanh nghiệp đó phải thông báo cho cơ
quan quản lý cạnh tranh trước khi tiến hành tập trung kinh tế.
Trường hợp thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế thấp
hơn 30% trên thị trường liên quan hoặc trường hợp doanh nghiệp sau khi thực hiện tập
trung kinh tế vẫn thuộc loại doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật thì không
phải thông báo.
2. Các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế được hưởng miễn trừ quy định tại
Điều 19 của Luật này nộp hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ theo quy định tại Mục 4 Chương
này thay cho thông báo việc tập trung kinh tế.”
=> Những trường hợp tập trung kinh tế tại Khoản 1 Điều 20 Luật Cạnh tranh quy
định: “Các doanh nghiệp tập trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30% đến 50% trên thị
trường liên quan thì đại diện hợp pháp của các doanh nghiệp đó phải thông báo cho cơ
quan quản lý cạnh tranh trước khi tiến hành tập trung kinh tế”. Theo Điều 29 Nghị định số
120/2005/NĐ-CP ngày 30/09/2005 quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh
tranh thì hành vi không thông báo về tập trung kinh tế bị phạt tiền từ 1% đến 3% tổng doanh
thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm của các doanh nghiệp tham gia
tập trung kinh tế.
- Cấm: Luật Cạnh tranh nêu rõ những trường hợp bị cấm Điều 18:
“Trường hợp tập trung kinh tế bị cấm
Cấm tập trung kinh tế nếu thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung
kinh tế chiếm trên 50% trên thị trường liên quan, trừ trường hợp quy định tại Điều 19 của
Luật này hoặc trường hợp doanh nghiệp sau khi thực hiện tập trung kinh tế vẫn thuộc loại
doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật.”
9
=> Như vậy mọi trường hợp tập trung kinh tế đều bị cấm và những vụ tập trung kinh tế
loại này đã được tiến hành đều mặc nhiên vô hiệu (vô hiệu tuyệt đối). Điều 18 Luật Cạnh tranh
quy định: cấm tập trung kinh tế nếu thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung
kinh tế chiếm trên 50% trên thị trường liên quan.
- Miễn trừ: Luật Cạnh tranh cho phép một số trường hợp trong diện bị cấm nhưng vẫn
được tiến hành tập trung kinh tế
+ Điều 19: “Trường hợp miễn trừ đối với tập trung kinh tế bị cấm
Tập trung kinh tế bị cấm quy định tại Điều 18 của Luật này có thể được xem xét miễn
trừ trong các trường hợp sau đây:
1. Một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong nguy cơ bị giải thể hoặc
lâm vào tình trạng phá sản;
2. Việc tập trung kinh tế có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển
kinh tế - xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ.”
+ Thẩm quyền cho hưởng miễn trừ quy định tại Điều 25 LCT “Thẩm quyền quyết
định việc miễn trừ
1. Bộ trưởng Bộ Thương mại xem xét, quyết định việc miễn trừ bằng văn bản quy định
tại Điều 10 và khoản 1 Điều 19 của Luật này.
2. Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định việc miễn trừ bằng văn bản quy định tại
khoản 2 Điều 19 của Luật này.”
+ DN sau TTKT vẫn thuộc loại DN nhỏ và vừa
=> Như vậy thẩm quyền cho hưởng miễn trừ theo khoản 1 thuộc về Bộ trưởng Bộ
Thương mại; theo khoản 2 thuộc Thủ tướng Chính phủ.
10
7. Phân tích các trường hợp tập trung kinh tế bị cấm, các trường hợp tập trung
kinh tế phải thông báo với cơ quan quản lý cạnh tranh theo pháp luật Việt Nam?
7.1. Các trường hợp tập trung kinh tế bị cấm: Luật Cạnh tranh nêu rõ những trường
hợp bị cấm tại Điều 18:
“Trường hợp tập trung kinh tế bị cấm
Cấm tập trung kinh tế nếu thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung
kinh tế chiếm trên 50% trên thị trường liên quan, trừ trường hợp quy định tại Điều 19 của
Luật này hoặc trường hợp doanh nghiệp sau khi thực hiện tập trung kinh tế vẫn thuộc loại
doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật.”
=> Như vậy:
- Việc nhận dạng: Thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế
chiếm trên 50% trên thị trường liên quan. Lý do:
+ Dẫn đến suy đoán: DN có đủ khả năng độc lập, thao túng thị trường;
+ Nguy cơ gây hạn chế cạnh tranh và thao túng thị trường.
Nếu thị phần các doanh nghiệp tham gia TTKT như trên đã nêu nó sẽ tạo cho doanh
nghiệp có đủ khả năng độc lập và dẫn đến việc thao túng thị trường nhằm tìm kiếm lợi nhuận.
Điều đáng lưu ý là, sự hiện diện của các "đại gia" bản thân nó sẽ làm thay đổi cơ cấu của thị
trường và nhìn chung là có nguy cơ xuất hiện của những doanh nghiệp giữ vị trí thống lĩnh thị
trường, những doanh nghiệp độc quyền. Mặt khác, trong chính trị cũng như kinh tế, ở đâu tập
trung quá nhiều quyền lực thì xét về phương diện khách quan ở đó sẽ nảy sinh nguy cơ lạm
dụng quyền lực trong mối quan hệ với kẻ yếu, pháp luật cạnh tranh luôn có nhiệm vụ phải kiểm
soát nguy cơ dẫn đến độc quyền không do cạnh tranh lành mạnh đem lại.
- Căn cứ xác định: Thị phần kết hợp.
- Ngoại lệ:
+ Các trường hợp được miễn trừ tại Điều 19: “Trường hợp miễn trừ đối với tập trung
kinh tế bị cấm
Tập trung kinh tế bị cấm quy định tại Điều 18 của Luật này có thể được xem xét miễn
trừ trong các trường hợp sau đây:
1. Một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong nguy cơ bị giải thể hoặc
lâm vào tình trạng phá sản;
2. Việc tập trung kinh tế có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển
kinh tế - xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ.”
+ Doanh nghiệp sau tập trung kinh tế vẫn thuộc doanh nghiệp nhỏ và vừa.
11
• Về tổng nguồn vốn Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh
doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn
đăng ký không quá 10 tỷ đồng;
• Về số lao động bình quân năm không quá 300 người
- Hậu quả pháp lý của tập trung kinh tế bị cấm quy định từ Điều 23 đến điều 27 của Nghị
định 71/2014/NĐ-CP như sau:
+ Điều 23. Hành vi sáp nhập doanh nghiệp bị cấm:
1. Phạt tiền doanh nghiệp nhận sáp nhập đến 10% tổng doanh thu của doanh nghiệp
nhận sáp nhập và doanh nghiệp bị sáp nhập trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi
sáp nhập bị cấm theo quy định tại Điều 18 của Luật Cạnh tranh.
2. Ngoài việc bị phạt tiền quy định tại Khoản 1 Điều này, doanh nghiệp nhận sáp nhập
có thể bị buộc chia, tách doanh nghiệp đã sáp nhập.
+ Điều 24. Hành vi hợp nhất doanh nghiệp bị cấm:
1. Phạt tiền doanh nghiệp được hình thành sau hợp nhất đến 10% tổng doanh thu trong
năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm của các doanh nghiệp tham gia hợp nhất
đối với hành vi hợp nhất bị cấm theo quy định tại Điều 18 của Luật Cạnh tranh.
2. Ngoài việc bị phạt tiền theo quy định tại Khoản 1 Điều này, doanh nghiệp hợp nhất có
thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả sau
đây:
a) Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đã cấp cho doanh nghiệp hợp nhất;
b) Buộc chia, tách doanh nghiệp hợp nhất.
+ Điều 25. Hành vi mua lại doanh nghiệp bị cấm:
1. Phạt tiền đến 10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi
phạm của doanh nghiệp mua lại và doanh nghiệp bị mua lại đối với hành vi mua lại một phần
hoặc toàn bộ tài sản của doanh nghiệp khác bị cấm theo quy định tại Điều 18 của Luật Cạnh
tranh.
2. Ngoài việc bị phạt tiền theo quy định tại Khoản 1 Điều này, doanh nghiệp mua lại còn
có thể bị buộc phải bán lại phần tài sản mà doanh nghiệp đã mua.
+ Điều 26. Hành vi liên doanh giữa các doanh nghiệp bị cấm
1. Phạt tiền đến 10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi
phạm của mỗi bên liên doanh tương ứng đối với hành vi liên doanh bị cấm theo quy định tại
Điều 18 của Luật Cạnh tranh.
2. Ngoài việc bị phạt tiền theo quy định tại Khoản 1 Điều này, doanh nghiệp liên doanh
có thể bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
12
+ Điều 27. Hành vi không thông báo về tập trung kinh tế
Phạt tiền đến 10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi
phạm của từng doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế mà không thực hiện nghĩa vụ thông
báo theo quy định tại Điều 20 của Luật Cạnh tranh.
=> Như vậy Hậu quả pháp lý của tập trung kinh tế bị cấm là:
+ Xử phạt chính: phạt tiền đến 10% Doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện
hành vi VP
+ Xử phạt bổ sung: Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
+ Biện pháp khắc phục hậu quả:
• Tái cấu trúc doanh nghiệp;
• Chia lại doanh nghiệp như tình trạng ban đầu;
7.2. Các trường hợp tập trung kinh tế phải thông báo với cơ quan quản lý cạnh
tranh theo pháp luật Việt Nam:
Pháp luật Việt Nam quy định các hình thức tập trung kinh tế ở một loạt các điều luật tại
Luật Cạnh tranh 2004. Cụ thể:
- Sáp nhập doanh nghiệp Khoản 1 Điều 17 Luật Cạnh tranh 2004 “ Sáp nhập doanh
nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích
hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh
nghiệp bị sáp nhập”. Mặc dù khái niệm sáp nhập doanh nghiệp trong Luật cạnh tranh tương tự
khái niệm trong Luật Doanh nghiệp nhưng mục tiêu điều chỉnh có sự khác nhau. Nếu Luật
Doanh nghiệp quan tâm đến tư cách pháp lý của doanh nghiệp sau khi sáp nhập thì Luật Cạnh
tranh coi sáp nhập là một bình thức tập trung kinh tế bị kiểm soát nhằm ngăn ngừa khả năng
hình thành doanh nghiệp có sức mạnh trên thị trường và có khả năng thực hiện hành vi gây cản
trở cạnh tranh.
- Hợp nhất doanh nghiệp Khoản 2 Điều 17 Luật Cạnh tranh 2004 “Hợp nhất doanh
nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích
hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của
các doanh nghiệp bị hợp nhất”. Hợp nhất doanh nghiệp làm thay đổi cơ cấu vốn của doanh
nghiệp hình thành một doanh nghiệp có quy mô lớn hơn các doanh nghiệp trước đó.
- Mua lại doanh nghiệp Khoản 3 Điều 17 Luật Cạnh tranh 2004 “Mua lại doanh nghiệp
là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để
kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại”. Có hai trường
hợp là mua toàn bộ hoặc mua một phần doanh nghiệp.
- Liên doanh giữa các doanh nghiệp Khoản 4 Điều 17 Luật Cạnh tranh 2004 “Liên
doanh giữa các doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp cùng nhau góp một phần tài
13
sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới”.
Trường hợp góp thêm vốn để tăng vốn điều lệ không được coi là tập trung kinh tế. Chỉ khi các
nhà đầu tư góp vốn để thành lập một doanh nghiệp chung (doanh nghiệp liên doanh nhằm thực
hiện các chức năng của một chủ thể kinh tế độc lập mới được coi là tập trung kinh tế. Và thuộc
nội dung quy định sau thì phải thông báo với cơ quan quản lý cạnh tranh theo pháp luật Việt
nam.
- Luật Cạnh tranh quy định rõ những trường hợp cần phải báo cáo với cơ quan quản lý
cạnh tranh trước khi tiến hành tập trung kinh tế tại Khoản 1 Điều 20 “Các doanh nghiệp tập
trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan thì đại diện hợp
pháp của các doanh nghiệp đó phải thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi tiến
hành tập trung kinh tế.”
=> Như vậy ta có thể nhận thấy:
- Các doanh nghiệp tập trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30% trên 50% trên thị trường
liên quan thì đại diện hợp pháp của các doanh nghiệp đó phải thông báo cho cơ quan quản lý
cạnh tranh trước khi tiến hành tập trung kinh tế.
- Doanh nghiệp bảo hiểm, tổ chức tín dụng mua lại doanh nghiệp khác nhằm mục đích
bán lại nói trên phải gửi cho cơ quan quan lý cạnh tranh hồ sơ thông báo việc mua lại này.
- Doanh nghiệp chỉ được tiến hành tập trung kinh tế khi có văn bản xác nhận của cơ quan
quản lý cạnh tranh.
- Trường hợp TTKT không phải thông báo
+ Các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế được hưởng miễn trừ nộp hồ sơ đề nghị
hưởng miễn trừ thay cho thông báo việc tập trung kinh tế.
+ Trường hợp thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế thấp hơn
30% trên thị trường liên quan.
+ Trường hợp doanh nghiệp sau khi thực hiện tập trung kinh tế vẫn thuộc loại doanh
nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật thì không phải thông báo.
+ Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình
hàng năm không quá 300 người.
14
8. Phân tích các TH miễn trừ đối với tập trung kinh tế theo luật cạnh tranh. Hậu
quả gì xảy ra nếu các doanh nghiệp thực hiện hành vi tập trung kinh tế thuộc TH được
miễn trừ nhưng không làm thủ tục miễn trừ ?
* Phân tích các TH miễn trừ đối với tập trung kinh tế theo luật cạnh tranh
- Nguyên tắc áp dụng:
+ Việc xem xét vụ việc tập trung KT dựa trên nguyên tắc hợp lý
+ Một vụ việc TTKT về hình thức thuộc loại TTKT bị cấm nhưng lại có nhiều tác dụng
tích cực cho sự phát triển KT – XH
- Các trường hợp được miễn trừ tại Điều 19: “Trường hợp miễn trừ đối với tập trung
kinh tế bị cấm
Tập trung kinh tế bị cấm quy định tại Điều 18 của Luật này có thể được xem xét miễn
trừ trong các trường hợp sau đây:
1. Một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong nguy cơ bị giải thể hoặc
lâm vào tình trạng phá sản;
2. Việc tập trung kinh tế có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển
kinh tế - xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ.”
- Đối với trường hợp thứ nhất, điều kiện xem xét cho phép doanh nghiệp được hưởng
miễn trừ trong trường hợp này đó là một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong
nguy cơ bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản.
Doanh nghiệp đang trong nguy cơ giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản là doanh
nghiệp gặp khó khăn về tài chỉnh hoặc mất khả năng thanh toán chứ không đồng nghĩa với việc
doanh nghiệp dừng hoạt động và không có nghĩa là xã hội không có nhu cầu su dụng sản phẩm
của doanh nghiệp. Doanh nghiệp vẫn có hệ thống phân phối và uy tín của sản phẩm và đặc biệt
là vẫn có thị phần trên thị trường do sự trung thành của khách hàng với sản phẩm của doanh
nghiệp. Vì vậy, một trong các bên của vụ tập trung kinh tế đang trong nguy cơ giải thể hoặc lâm
vào tình trạng phá sản vẫn là đối tượng mà cơ quan cạnh tranh xem xét cho hưởng miễn trừ để
tập trung kinh tế.
- Đối với trường hợp miễn trừ thứ hai, để có được hưởng cơ chế miễn trừ các bên có liên
quan phải chứng minh rằng kết qủa của việc tập trung kinh tế các tác dụng đối với xã hội thông
qua việc mở rộng xuất khẩu hoặc phát triển kinh tế xã hội hoặc góp phần phát triển tiến bộ xã
hội.
Nền kinh tế Việt nam đang trong quá trình hội nhập chúng ta phải đối đầu với sự cạnh
tranh gay gắt từ phía các doanh nghiệp nước ngoài. Việc các doanh nghiệp liên kết lại với nhau
để tăng cường sức mạnh, phát triển năng lực sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị
trường là vô cùng cân thiết. Vì vậy, quy định này của pháp luật là phù hợp với đòi hỏi của thực
tiễn nền kinh tế nước ta hiện nay.
* Hậu quả gì xảy ra nếu các doanh nghiệp thực hiện hành vi TTKT thuộc trường hợp
được miễn trừ nhưng không làm thủ tục miễn trừ ?
Theo Khoản 2 Điều 20, thủ tục miễn trừ có ý nghĩa thay thế cho thủ tục thông báo, cũng
là một phương thức kiểm soát TTKT, do đó, nếu Dn thuộc TH được hưởng miễn trừ nhưng
không làm thủ tục miễn trừ mà tiến hành hành vi TTKT sẽ bị coi là vi phạm pháp luật về TTKT
và phải gánh chịu những hậu quả pháp lý như đối với hành vi VP do không thông báo theo
Điều 27 NĐ 71/2004: “Phạt tiền đến 10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực
hiện hành vi vi phạm của từng doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế mà không thực hiện
nghĩa vụ thông báo theo quy định tại Điều 20 của Luật Cạnh tranh.”
15
9. Trình bày hậu quả pháp lý của tập trung kinh tế bị cấm? Hậu quả pháp lý của tập
trung kinh tế bị cấm quy định từ Điều 23 đến điều 27 của Nghị định 71/2014/NĐ-CP như sau:
+ Điều 23. Hành vi sáp nhập doanh nghiệp bị cấm:
1. Phạt tiền doanh nghiệp nhận sáp nhập đến 10% tổng doanh thu của doanh nghiệp
nhận sáp nhập và doanh nghiệp bị sáp nhập trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi
sáp nhập bị cấm theo quy định tại Điều 18 của Luật Cạnh tranh.
2. Ngoài việc bị phạt tiền quy định tại Khoản 1 Điều này, doanh nghiệp nhận sáp nhập
có thể bị buộc chia, tách doanh nghiệp đã sáp nhập.
+ Điều 24. Hành vi hợp nhất doanh nghiệp bị cấm:
1. Phạt tiền doanh nghiệp được hình thành sau hợp nhất đến 10% tổng doanh thu trong
năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm của các doanh nghiệp tham gia hợp nhất
đối với hành vi hợp nhất bị cấm theo quy định tại Điều 18 của Luật Cạnh tranh.
2. Ngoài việc bị phạt tiền theo quy định tại Khoản 1 Điều này, doanh nghiệp hợp nhất có
thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả sau
đây:
a) Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đã cấp cho doanh nghiệp hợp nhất;
b) Buộc chia, tách doanh nghiệp hợp nhất.
+ Điều 25. Hành vi mua lại doanh nghiệp bị cấm:
1. Phạt tiền đến 10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi
phạm của doanh nghiệp mua lại và doanh nghiệp bị mua lại đối với hành vi mua lại một phần
hoặc toàn bộ tài sản của doanh nghiệp khác bị cấm theo quy định tại Điều 18 của Luật Cạnh
tranh.
2. Ngoài việc bị phạt tiền theo quy định tại Khoản 1 Điều này, doanh nghiệp mua lại còn
có thể bị buộc phải bán lại phần tài sản mà doanh nghiệp đã mua.
+ Điều 26. Hành vi liên doanh giữa các doanh nghiệp bị cấm
1. Phạt tiền đến 10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi
phạm của mỗi bên liên doanh tương ứng đối với hành vi liên doanh bị cấm theo quy định tại
Điều 18 của Luật Cạnh tranh.
2. Ngoài việc bị phạt tiền theo quy định tại Khoản 1 Điều này, doanh nghiệp liên doanh
có thể bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
+ Điều 27. Hành vi không thông báo về tập trung kinh tế
Phạt tiền đến 10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi
phạm của từng doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế mà không thực hiện nghĩa vụ thông
báo theo quy định tại Điều 20 của Luật Cạnh tranh.
=> Như vậy Hậu quả pháp lý của tập trung kinh tế bị cấm là:
+ Xử phạt chính: phạt tiền đến 10% Doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện
hành vi VP
+ Xử phạt bổ sung: Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
+ Biện pháp khắc phục hậu quả:
• Tái cấu trúc doanh nghiệp;
• Chia lại doanh nghiệp như tình trạng ban đầu;
16
10. Phân tích các căn cứ xác định VTTL, VTĐQ của Doanh nghiệp?
10.1. Về cơ sở pháp lý:
- Căn cứ xác định VTTL của DN :
+ Điều 11 LCT: “ Doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường
1. Doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu có thị phần từ 30% trở
lên trên thị trường liên quan hoặc có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể.
2. Nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu cùng hành động
nhằm gây hạn chế cạnh tranh và thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở lên trên thị trường liên quan;
b) Ba doanh nghiệp có tổng thị phần từ 65% trở lên trên thị trường liên quan;
c) Bốn doanh nghiệp có tổng thị phần từ 75% trở lên trên thị trường liên quan.”
+ Điều 22 NĐ 116/2005: “Cơ sở để xác định khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách
đáng kể của doanh nghiệp trên thị trường liên quan
Khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của doanh nghiệp trên thị trường
liên quan được xác định dựa vào một hoặc một số căn cứ chủ yếu sau đây:
1. Năng lực tài chính của doanh nghiệp.
2. Năng lực tài chính của tổ chức kinh tế, cá nhân thành lập doanh nghiệp.
3. Năng lực tài chính của tổ chức, cá nhân có quyền kiểm soát hoặc chi phối hoạt động
của của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ của doanh nghiệp.
4. Năng lực tài chính của công ty mẹ.
5. Năng lực công nghệ.
6. Quyền sở hữu, quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp.
7. Quy mô của mạng lưới phân phối.”
- Căn cứ xác định VTĐQ của DN: Điều 12 LCT: “Doanh nghiệp có vị trí độc quyền
Doanh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền nếu không có doanh nghiệp nào cạnh
tranh về hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị trường liên quan.”
10.2. Xác định VTTL, VTĐQ của Doanh nghiệp
* Vị trí thống lĩnh quy định tại Điều 11:
- DN có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan hoặc có khả năng gây hạn chế
cạnh tranh một cách đáng kể
- Nhóm doanh nghiệp
+ 2 DN: có tổng thị phần từ 50% trở lên,
+ 3 DN: từ 65% trở lên
+ 4 DN: có thị phần từ 75%
- Khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của dn (Đ.22 NĐ116) căn cứ vào:
+ Năng lực tài chính của doanh nghiệp.
+ Năng lực tài chính của tổ chức kinh tế, cá nhân thành lập doanh nghiệp.
+ Năng lực tài chính của tổ chức, cá nhân có quyền kiểm soát hoặc chi phối hoạt động
của của doanh nghiệp
+ Năng lực tài chính của công ty mẹ.
+ Năng lực công nghệ.
+ Quy mô của mạng lưới phân phối.
=> Như vậy để xác định VTTL của DN trên thị trường cần phải xác định
17
- Một là: Thị phần của DN (hoặc nhóm DN) trên thị trường liên quan dựa trên 1) tổng
Doanh thu hoặc doanh số của tất cả các DN cùng trên một thị trường liên quan và 2) Doanh thu
hoặc doanh số của Dn (hoặc nhóm DN) bị điều tra.
+ Đối với doanh nghiệp: Những doanh nghiệp có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường
liên quan sẽ mặc nhiên được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường. Việc nắm thị phần lớn cho
thấy khả năng chi phối cung - cầu trên thị trường nên pháp luật cạnh tranh của các nước cũng
sử dụng thị phần làm căn cứ cơ bản để xác định quyền lực thị trường của doanh nghiệp. Do đó,
chỉ cần xác định doanh nghiệp bị điều tra có thị phần bằng hoặc vượt ngưỡng quy định là kết
luận có vị trí thống lĩnh thị trường mà không cần chứng minh doanh nghiệp đó có khả năng
kiểm soát thị trường trên thực tế hay không.
+ Đối với nhóm doanh nghiệp: Các doanh nghiệp trong nhóm là những doanh nghiệp độc
lập và đã thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh giống nhau trong cùng một khoang thời gian
trên cùng thị trường liên quan.Tổng thị phần để kết luận nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh
luôn cao hơn nhiều so với tổng thị phần để có thể xử lý thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Khi có
hai doanh nghiệp cùng thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh, pháp luật chỉ có thể xử lý theo chế
định về nhóm thống lĩnh khi tổng thị phần đạt từ 50% trở lên trên thị trường liên quan (tương
ứng với 3 doanh nghiệp là 65%; 4 doanh nghiệp là 75% trở lên trên thị trường liên quan).
- Hai là: Khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của DN (chỉ áp dụng với DN
có thị phần dưới 30%)
Các doanh nghiệp có thị phần dưới 30% trên thị trường nhưng có khả năng hạn chế cạnh
tranh một cách đáng kể nhằm bổ sung và khắc phục những hạn chế của việc sử dụng thị phần
làm căn cứ duy nhất để xác định vị trí thống lĩnh. Nếu chỉ sử dụng thị phần làm căn cứ xác định
vị trí thống lĩnh thì vẫn có thể bỏ sót những trường hợp đặc biệt do doanh nghiệp nắm giữ nhiều
lợi thế về tài chính, công nghệ, hệ thống phân phối... nên có thể chi phối thị trường và thực hiện
những hành vi làm sai lệch môi trường cạnh tranh. Trong trường hợp này, thị phần hiện tại của
doanh nghiệp chưa cho thấy khả năng làm sai lệch cung - cầu nhưng lại có tiềm lực tài chính
của doanh nghiệp hoặc sự hỗ trợ tài chínnh của các chủ sở hữu, của tập đoàn hoặc quy mô của
mạng lưới phân phối, sức mạnh công nghệ ..dễ thực hiện những hành vi gây ra hậu qủa hạn chế
cạnh tranh.
Trong đó ưu tiên tiêu chí thứ nhất là thị phần trên thị trường liên quan
* Vị trí độc quyền quy định điều 12:
- DN được coi là có vị trí độc quyền nếu không có doanh nghiệp nào cạnh tranh về hàng
hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị trường liên quan
- Vị trí độc quyền đã loại bỏ khả năng có sự tồn tại của cạnh tranh trên thị trường liên
quan bởi tại đó chỉ có một doanh nghiệp duy nhất là doanh nghiệp đang được xem xét hoạt
động, do đó:
- Để xác định vị trí ĐQ, chỉ cần xác định:
+ Xác định thị trường liên quan.
+ Xác định số lượng doanh nghiệp đang hoạt động trên thị trường. Nếu kết luận đưa ra là
chỉ có một doanh nghiệp duy nhất thì doanh nghiệp đó có vị trí độc quyền. Các bước phân tích
về doanh thu, doanh số... để xác định tổng thị phần của thị trường sẽ không còn cần thiết.
18
11. Nêu đặc điểm pháp lý của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường?
* Thứ nhất, về chủ thể thực hiện hành vi: là DN, nhóm DN có vị trí thống lĩnh thị trường
Ta có thể nhận định một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường nêu doanh nghiệp
đó có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan hoặc có khả năng gây hạn chế cạnh tranh
một cách đáng kể. Căn cứ đế xác định hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể có thể dựa trên
những tiêu chí:
- Năng lực tài chính của doanh nghiệp, của tổ chức kinh tế, cá nhân thành lập doanh
nghiệp, của tổ chức, cá nhân có quyền kiểm soát hoặc chi phối hoạt động của doanh nghiệp
theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ của doanh nghiệp.
- Năng lực công nghệ.
- Quyền sở hữu, quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp;
- Quy mô của mạng lưới phân phối.
Để xác định nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hay không cần phải xem xét nhóm
doanh nghiệp đó có cùng hoạt động nhằm hạn chế cạnh tranh và thuộc một trong các trường
họp theo quy định cua pháp luật hay không. Nếu có được xác định như sau:
- Hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trên thị trường liên quan.
- Ba doanh nghiệp có tổng thị phân từ 65% trên thị trường liên quan.
- Bốn doanh nghiệp có tổng thị phần từ 75% trên thị trường liên quan.
Doanh nghiệp có vụ trí độc quyền được hiểu là trường hợp nếu không có doanh nghiệp
nào cạnh tranh về bàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị trường liên quan
thì doanh nghiệp đó được coi là có vị trí độc quyền.
* Thứ hai, Về hành vi thực hiện: doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường đã thực hiện
những hành vi mà pháp luật quy định là hạn chế cạnh tranh trên thị trường. Luật cạnh tranh
2004 nghiêm cấm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc quyền được quy định tại:
- Điều 13 “Cấm doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường thực
hiện các hành vi sau đây:
1. Bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh
tranh;
2. Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối
thiểu gây thiệt hại cho khách hàng;
3. Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự phát
triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng;
4. Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình
đẳng trong cạnh tranh;
19
5. Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ
hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng
của hợp đồng;
6. Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới.”
- Điều 14: “Cấm doanh nghiệp có vị trí độc quyền thực hiện hành vi sau đây:
1. Các hành vi quy định tại Điều 13 của Luật này;
2. Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng;
3. Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng đã giao kết
mà không có lý do chính đáng.”
Các quy định tại 2 điều này chủ yếu nhằm hạn chế việc lạm dụng để bóc lột khách hàng
hoặc nhằm ngăn cản, loại bỏ đối thủ cạnh tranh cần chú ý một số điểm cơ bản như:
- Pháp luật chỉ xử lý hành vi lạnh dụng chứ không xử lý vị trí thống lĩnh hay độc quyền
của doanh nghiệp, tức là chỉ tạo ra khuôn khổ để quản lý hành vi lạm dụng mà không tạo ra
khuôn khổ cho sự cạnh tranh kinh doanh trên thị trường của các doanh nghiệp.
- Quyền cạnh tranh của các doanh nghiệp thống lĩnh thị trường doanh nghiệp độc quyền
vẫn được pháp luật bảo hộ;
- Quy định đặt ra ranh giới các hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp thống lĩnh hoặc độc
quyền bằng cách đặt ra các hành vi bị coi là lạm dụng.
* Thứ ba, về hậu qủa của hành vi lạm dụng là làm cản trở, sai lệch hoặc giảm cạnh tranh,
triệt tiêu cạnh tranh, tiêu diệt đối thủ cạnh tranh và trục lợi từ khách hàng. Luật Cạnh tranh coi
hậu qua là một trong các yếu tố cấu thành hành vi lạm dụng. Do hành vi vi phạm được liệt kê
rất đa dạng (các hành vi về định giá ban, giá mua sản phẩm. hành vi hạn chế số lượng sản xuất,
phân phối, hạn chế thị trường, hành vi phân biệt đối xử...), mỗi hành vi có đối tượng xâm hại
khác nhau và mức độ thiệt hại có thể gây ra không giống nhau nên không thể đưa ra một tiêu
chuẩn chung để xác định hậu qủa mà phải phân tích từng hành vi vi phạm để đưa ra kết luận cụ
thể.
20
12. Phân tích các hình thức độc quyền ở Việt Nam ? Hiện tượng độc quyền mang lại
những ảnh hưởng tiêu cực gì ?
Theo điều 15: “Kiểm soát doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực độc quyền nhà nước,
doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích
1. Nhà nước kiểm soát doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực độc quyền nhà nước bằng
các biện pháp sau đây:
a) Quyết định giá mua, giá bán hàng hoá, dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước;
b) Quyết định số lượng, khối lượng, phạm vi thị trường của hàng hoá, dịch vụ thuộc lĩnh
vực độc quyền nhà nước.
2. Nhà nước kiểm soát doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích
bằng các biện pháp đặt hàng, giao kế hoạch, đấu thầu theo giá hoặc phí do Nhà nước quy
định.
3. Khi thực hiện các hoạt động kinh doanh khác ngoài lĩnh vực độc quyền nhà nước và
sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, các doanh nghiệp không chịu sự điều chỉnh
của quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này nhưng vẫn chịu sự điều chỉnh của các quy định
khác của Luật này.”
Ta có:
* Các hình thức độc quyền ở Việt Nam
- Độc quyền tự nhiên: Thông qua cạnh tranh thông thường;
- Độc quyền nhà nước: Thông qua quyết định có tính hành chính.
* Ảnh hưởng tiêu cực của độc quyền
- Đối với độc quyền nhà nước;
- Đối với độc quyền tự nhiên.
* Các hành vi lạm dụng vị trí độc quyền bị cấm
- Các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường bị cấm;
- Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng;
- Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng đã giao kết mà
không có lý do chính đáng.
=> Nhận xét: Mức độ tác động của pháp luật là không có miễn trừ đối với của nhóm
hành vi này, vì:
- Mức độ tiêu cực lớn của nhóm hành vi;
- Mục đích của pháp luật cạnh tranh
+ Bảo đảm thị trường mở;
+ Tạo lập và duy trì môi trường cạnh tranh bình đẳng;
+ Bảo vệ quyền lợi của các chủ thể kinh doanh vừa và nhỏ.
21
13. So sánh hành vi TTHCCT và hành vi lạm dụng VTTLTT của một nhóm DN?
NỘI DUNG
1. Giống nhau
Hành vi TTHCCT
hành vi lạm dụng VTTLTT
của một nhóm DN
Đều là những hành vi hạn chế cạnh tranh của một nhóm DN nhằm làm
giảm sức ép cạnh tranh, làm sai lêch hoặc cản trở cạnh tranh trên thị trường
được quy định trong LCT
Hai hành vi này đều phải do chủ thể có sức mạnh trên thị trường.
2. Khác nhau:
Về chủ thể:
Các DN độc lập, chỉ bắt buộc thỏa
mãn điều kiện về thị phần trong một
số TH (TH cấm có điều kiện), không
hạn chế số lượng tham gia TT.
Hình thức của
hành vi
Tồn tại một sự thỏa thuận giữa các Các DN cùng thực hiện một hành vi
DN theo quy định tại Đ8 LCT, có thể được quy định tại Đ 13 LCT, không
công khai hoặc không
có hoặc không CM được là giữa họ
có thỏa thuận
Điều kiện xử lý
Chỉ cần đã có thỏa thuận, cho dù kết
quả của thỏa thuận chưa được thực
thi trên thực tế, mức thị phần để có
thể xử lý (trong TH cấm có đk) cũng
thấp hơn (30%)
22
Nhóm DN có vị trí thống lĩnh thị
trường, bắt buộc thỏa mãn điều kiện
về thị phần, số lượng hạn chế - tối
đa là 4
Hành vi lạm dụng phải đã hoặc
đang thực hiện trên thực tế, mức thị
phần để xử lý cũng cao hơn (50%,
65%, 75%)
Câu 14: Hãy xác định và phân biệt hành vi bán hàng hóa dưới giá thành toàn bộ
nhằm loại bỏ đối thủ và hành vi bán hàng hóa với mức giá nhằm ngăn cản đối thủ cạnh
tranh.
* Hành vi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ
cạnh tranh của doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc doanh nghiệp có vị
trí độc quyền trên thị trường.
1- Xác định vị trí thống lĩnh thị trường hoặc vị trí độc quyền của doanh nghiệp
Theo Điều 11, 12 của Luật Cạnh tranh ta thấy, Luật này sử dụng căn cứ duy nhất để xác định vị
trí thống lĩnh là thị phần của doanh nghiệp. Trong khi đó, trong các vụ việc về định giá hủy
diệt, để xác định quyền lực thị trường, pháp luật của các nước EU, Hoa Kỳ, Canađa … không
chỉ sử dụng thị phần làm căn cứ duy nhất mà còn phân tích bối cảnh khách quan của thị trường
như sự tồn tại của các rào cản gia nhập đó là: Các rào cản thể chế (các quy định của pháp luật,
chính sách quản lý kinh tế của nhà nước …); Điều kiện về quy mô đầu tư tối thiểu để hoạt động
hiệu quả; chi phí chìm quá lớn… các rào cản này liên quan đến việc gia nhập có hiệu quả vào
một thị trường nào đó, bao gồm tiềm năng gia nhập của doanh nghiệp mới, sự quay trở lại của
doanh nghiệp đã bị loại bỏ hoặc khả năng mở rộng kinh doanh của các doanh nghiệp hiện
tại.Một khi các nhân tố khách quan trên thị trường làm cho việc gia nhập trở nên khó khăn thì
khả năng bù lỗ trong chiến lược hủy diệt có môi trường để thực hiện và ngược lại.Cách tiếp cận
nói trên bảo đảm tính hiệu quả về kinh tế trong việc điều chỉnh của pháp luật đối với định giá
hủy diệt.Người tiêu dùng dường như sẽ luôn được bảo vệ bởi khi bán hàng với giá thấp bất hợp
lý họ đã được hưởng lợi và nếu doanh nghiệp không thể định giá độc quyền sau khi hủy diệt đối
thủ, người tiêu dùng cũng không bị trả giá trong tương lai.
Bằng những so sánh trên, chúng tôi cho rằng, khi áp dụng những quy định về việc xác
định vị trí thống lĩnh thị trường trong pháp luật Việt Nam vào các vụ việc về định giá hủy diệt,
chúng ta chỉ xác định được khả năng chi phối giá trên thị trường (kéo theo nó là khả năng hủy
diệt đối thủ) mà chưa làm rõ năng lực bóc lột khách hàng sau khi việc loại bỏ đối thủ hoàn tất.
Do đó, việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng dường như chưa được đặt ra trong pháp luật
Việt Nam về định giá hủy diệt.
2- Xác định mức giá bán hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ loại bỏ đối thủ cạnh tranh
Theo Điều 23 của Nghị định 116 NĐCP/2005 thì, trừ những trường hợp đặc biệt, bán hàng hoá,
cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh là việc bán hàng với
mức giá thấp hơn tổng các chi phí sau: chi phí cấu thành giá thành sản xuất hàng hoá, dịch vụ
theo quy định của pháp luật hoặc giá mua hàng hoá để bán lại; chi phí lưu thông hàng hóa, dịch
vụ theo quy định của pháp luật.
- Cơ sở thứ nhất, xác định giá bán hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ. Giá bán hàng hoá,
dịch vụ là giá bán thực tế của doanh nghiệp trong các giao dịch với khách hàng.
Có lẽ, việc xác định giá bán hàng hóa sẽ đơn giản nếu doanh nghiệp bán toàn bộ sản
phẩm ở cùng một khâu phân phối (hoặc chỉ bán lẻ hoặc chỉ bán sỉ). Tuy nhiên, sẽ gặp nhiều khó
khăn nếu doanh nghiệp tổ chức tiêu thụ sản phẩm bằng nhiều cấp tiêu thụ khác nhau như vừa
23
trực tiếp bán lẻ, vừa bán cho các đại lý … Luật Cạnh tranh và Nghị định 116 NĐCP/2005 chưa
có quy định để giải quyết tình huống này.Thật ra, pháp luật không thể chỉ sử dụng giá bán lẻ
hay bán sỉ cho mọi trường hợp vì hành vi định giá hủy diệt có thể được thực hiện ở bất cứ cấp
nào trong quá trình kinh doanh, phân phối. Để giải quyết trường hợp trên, có hai nguyên tắc cần
được triệt để tôn trọng là: (i) mức giá bán được sử dụng để điều tra về hành vi phải là giá bán
thực tế của doanh nghiệp bị điều tra. Không thể sử dụng giá thị trường hay giá cả suy định để
xác định về hành vi vi phạm nếu như đó không là giá bán thực của doanh nghiệp bị điều tra. (ii)
Mức giá được sử dụng phải là giá áp dụng cho các khách hàng giao dịch trực tiếp với họ. Trong
trường hợp doanh nghiệp vừa bán lẻ, vừa bán sỉ sản phẩm và với mỗi nhóm khách hàng họ áp
dụng mức giá riêng, cơ quan thi hành sẽ sử dụng độc lập từng mức giá với từng nhóm khách
hàng để điều tra về sự vi phạm mà không tính theo nguyên tắc bình quân của các mức giá.
- Cơ sở thứ hai, xác định giá thành sản xuất toàn bộ. Giá thành toàn bộ là mức giá cơ bản
được cấu thành từ các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất, lưu thông … của sản phẩm và
được các doanh nghiệp sử dụng làm các căn cứ xác định giá bán hàng hoá, dịch vụ của mình.
Trong việc xác định hành vi định giá hủy diệt, giá thành toàn bộ được sử dụng như là mức
chuẩn của sự công bằng và hợp lý. Nếu doanh nghiệp chủ đích bán hàng hoá, dịch vụ dưới giá
thành toàn bộ thì hành vi ấy bị coi là không bình thường do chưa đủ bù đắp chi phí đã bỏ ra để
có được sản phẩm.
Để tính toán giá thành toàn bộ, Nghị định 116 (Điều 23, 24, 25, 26) đặt ra công thức giá
thành toàn bộ là tổng các chi phí sau: chi phí cấu thành giá thành sản xuất hàng hoá, dịch vụ
hoặc giá mua hàng hoá để bán lại; và chi phí lưu thông hàng hoá, dịch vụ. Trong việc tính toán,
có một số khó khăn khi xác định giá thành toàn bộ.
- So sánh giá để xác định hành vi. Theo Luật Cạnh tranh của Việt Nam, ý định và khả
năng loại bỏ đối thủ của định giá hủy diệt được chứng minh từ hiện thực là giá bán thấp hơn giá
thành của sản phẩm trừ một số trường hợp được quy định tại Khoản 2, Điều 23 của Nghị định
116.
24
Câu 15. Khái niệm, đặc điểm hành vi cạnh tranh không lành mạnh? (Khái quát về
hành vi cạnh tranh không lành mạnh)
* KN: Khoản 4 Điều 3 có quy định “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi
cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường
về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng”.
=> Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là:
- Hành vi cạnh tranh của các chủ thể tham gia thị trường.
Đặc điểm này thể hiện quy định về đối tượng áp dụng của Luật cạnh tranh. Theo đó, chủ
thể thực hiện hành vi cạnh tranh chỉ bao gồm các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế,
hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, các hiệp
hội ngành nghề. Những đối tượng còn lại như các đơn vị sự nghiệp, các tổ chức của người tiêu
dùng, các đơn vị truyền thông, các tổ chức phi kinh tế… không là đối tượng áp dụng các quy
định của pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh. Mặt khác, đặc điểm này cũng khẳng định
hành vi cạnh tranh không lành mạnh xảy ra trong kinh doanh ở mọi ngành, mọi lĩnh vực của
đời sống kinh tế, mọi công đoạn của quá trình kinh doanh. Pháp luật về hành vi cạnh tranh
không lành mạnh được áp dụng cho mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực kinh tế.
- Trái với chuẩn mực đạo đức kinh doanh thông thường.
Đặc điểm này là căn cứ lý luận để xác định bản chất không lành mạnh của hành vi. Tuy
nhiên, “trái với chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh” là thuật ngữ trừu tượng cả về
pháp lý lẫn lý thuyết. Không có những căn cứ pháp lý hoặc cấu thành pháp lý cụ thể để xác
định đặc điểm này. Thế nên, Cơ quan có thẩm quyền không thể sử dụng khái niệm hành vi
không lành mạnh để quy kết một hành vi cụ thể của doanh nghiệp là không lành mạnh. Để khắc
phục tình trạng trên, pháp luật cạnh tranh đã tập trung giải quyết hai nội dung sau:
+ Một, vì các phương pháp cạnh tranh rất đa dạng, bao gồm thủ đoạn gây nhầm lẫn, gian
dối, gièm pha, bóc lột, gây rối, nên Luật Cạnh tranh 2004 đã liệt kê các hành vi cạnh tranh bị
coi là không lành mạnh và quy định cấu thành pháp lý của chúng. Khái niệm hành vi cạnh tranh
không lành mạnh được quy định trong Luật cạnh tranh Việt nam và của các nước chỉ có ý nghĩa
về mặt lý thuyết. Trong thực tế, việc áp dụng sẽ căn cứ vào các quy định về từng hành vi vi
phạm cụ thể như chỉ dẫn gây nhầm lẫn, xâm phạm bí mật kinh doanh, dèm pha doanh nghiệp
khác….
+ Hai, các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh được xác định dựa vào hai
căn cứ sau đây:
Căn cứ luật định là những tiêu chuẩn đã được định lượng hoá bằng pháp luật, một khi
hành vi đi trái với các quy định pháp luật sẽ được xem là không lành mạnh. Theo đó, hành vi
cạnh tranh không lành mạnh có thể là hành vi của tổ chức, cá nhân kinh doanh vi phạm điều
cấm của pháp luật (bao gồm các quy định cấm của Luật Cạnh tranh và các văn bản pháp luật
khác như pháp luật thương mại, pháp luật về quản lý giá, pháp luật về sở hữu trí tuệ…) hoặc là
25