Tải bản đầy đủ (.pdf) (44 trang)

Tìm hiểu chế độ lang đạo của người mường tỉnh hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (654.23 KB, 44 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

TRẦN THỊ VIỆT TRINH

TÌM HIỂU CHẾ ĐỘ LANG ĐẠO CỦA NGƯỜI MƯỜNG
TỈNH HÒA BÌNH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

SƠN LA, NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

TRẦN THỊ VIỆT TRINH

TÌM HIỂU CHẾ ĐỘ LANG ĐẠO CỦA NGƯỜI MƯỜNG
TỈNH HÒA BÌNH

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Người hướng dẫn: ThS. Dương Hà Hiếu

SƠN LA, NĂM 2016


Lời cảm ơn
Với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành ThS. Dương


Hà Hiếu. Người đã chỉ bảo tận tình, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và
hoàn thành khóa luận.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới tất cả các thầy giáo, cô giáo trong tổ Lịch
sử Việt Nam, khoa Sử - Địa, phòng Đào Tạo, Thư viện Trường Đại học Tây Bắc
đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành khóa luận, tôi cũng xin cảm
ơn sự động viên của tập thể lớp K53 ĐHSP Lịch sử B.
Tôi xin chân thành cảm ơn các cơ quan ban ngành của Tỉnh Hòa Bình,
Thư viện Tỉnh Hòa Bình đã giúp đỡ tôi trong quá trình tìm tài liệu nghiên cứu.
Với thời gian nghiên cứu còn hạn chế, chắc chắn khóa luận không thể
tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp chân thành của
quý thầy giáo, cô giáo và bạn đọc để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !

Tác giả

Trần Thị Việt Trinh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................ 2
3. Đối tượng, phạm vi, mục đích nghiên cứu, đóng góp đề tài ............................. 3
4. Cơ sở tư liệu và phương pháp nghiên cứu ........................................................ 4
5. Bố cục đề tài ...................................................................................................... 5
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI MƯỜNG TỈNH HÒA BÌNH ........ 6
1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên nhiên, dân cư ............................................... 6
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên nhiên...................................................... 6
1.1.2. Dân cư ......................................................................................................... 7
1.2. Quá trình người Mường định cư ở Hòa Bình................................................. 8

1.2.1. Quá trình lịch sử .......................................................................................... 8
CHƯƠNG 2: CHẾ ĐỘ LANG ĐẠO CỦA NGƯỜI MƯỜNG Ở HÒA BÌNH .. 11
2.1. Quá trình hình thành chế độ Lang Đạo ở Hòa Bình ................................................ 11
2.1.1. Cơ sở hình thành chế độ Lang đạo ............................................................ 11
2.1.2. Tên gọi....................................................................................................... 13
2.1.3. Nguồn gốc của chế độ Nhà Lang .............................................................. 14
2.1.4. Luật lệ nhà Lang ........................................................................................ 16
2.2. Đặc trưng của chế độ Lang Đạo ................................................................... 20
2.2.1. Tổ chức bộ máy cai trị của Lang Đạo ....................................................... 20
2.2.2. Người bình dân và người bị trị trên đất Mường Hòa Bình ....................... 26
2.3. Chế độ ruộng đất ở Mường Hòa Bình dưới chế độ Lang Đạo ..................... 28
CHƯƠNG 3: TÁC ĐỘNG CỦA CHẾ ĐỘ LANG ĐẠO TỚI XÃ HỘI CỦA
NGƯỜI MƯỜNG TRƯỚC NĂM 1945 .......................................................... 32
3.1. Kinh tế .......................................................................................................... 32
3.2. Văn hóa......................................................................................................... 34
3.3. Chính trị - xã hội .......................................................................................... 35
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 38
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 39


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Người Mường có cùng nguồn gốc với người Việt cổ, có chung một nền văn
hóa rộng lớn, trải dài suốt bao thế kỷ. Thấm đậm dòng máu con Lạc cháu Hồng,
thế hệ sau tiếp nối thế hệ trước vươn lên chiến thắng thiên nhiên và họ vẫn giữ
được những nét văn hóa đặc trưng của dân tộc mình. Trải qua quá trình tồn tại
và phát triển lâu đời người Mường đã sớm hình thành một tổ chức xã hội cổ
truyền khá điển hình mà cư dân thời bấy giờ vẫn hay truyền miệng nhau với tên
gọi: Chế độ Lang Đạo hay chế độ Nhà Lang.
Chế độ Lang Đạo về bản chất rất là chế độ người bóc lột người được

hình thành khi xã hội có sự phân chia giai cấp. Sống dưới chế độ ấy nông dân bị
áp bức bóc lột đến kiệt quệ, quyền sống bị trà đạp ngay đến cả tính mạng cũng
do Lang định đoạt, Lang cho sống được sống, bắt chết phải chết. Thế nhưng
nghiệt ngã thay, theo quan niệm từ xa xưa trong xã hội đồng bào Mường “đất có
Lang, làng có Đạo” nên hầu như vùng nào, xóm làng nào cũng có Lang Đạo.
Nơi nào không có Lang thì đón rước Lang nơi khác về, hoặc phản ứng phế bỏ
Lang này thì đón Lang khác đến thay.
Đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về chế độ Lang Đạo của
người Mường ở những khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên cho đến nay chưa có
công trình khoa học nào đề cập đến vấn đề này một cách hoàn chỉnh, hệ thống.
Đặc biệt làm rõ được những đặc trưng trong chế độ Lang Đạo của người
Mường ở tỉnh Hòa Bình. Chính vì vậy việc lựa chọn đề tài “Tìm hiểu chế độ
Lang Đạo của người Mường Tỉnh Hòa Bình” có ý nghĩa cả về mặt khoa học
và thực tiễn sau:
Về khoa học
+ Làm rõ quá trình hình thành, phát triển của chế độ Lang Đạo. Chỉ ra
những đặc trưng tiêu biểu của chế độ này. Từ đó làm rõ những tác động của chế
độ Lang Đạo tới xã hội Mường trước Cách mạng tháng Tám 1945.
+ Góp phần làm sáng tỏ thiết chế xã hội của người Mường - một trong
những thiết chế cổ truyền của người Việt cổ.
1


+ Góp phần làm phong phú thêm lý luận về các mô hình chính trị trong xã
hội Việt Nam thời cổ - trung đại.
Về thực tiễn
+ Giáo dục cho các thế hệ sau về những nét bản sắc văn hóa của người Mường
+ Kết quả nghiên cứu sẽ trở thành nguồn tư liệu để giảng dạy, học tập trong
các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp, các trường Phổ thông.
+ Bổ sung nguồn tài liệu cho việc nghiên cứu làm đề tài, khóa luận.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề chế độ Lang Đạo của người Mường là vấn đề khoa học đã được đề
cập đến trong nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu, trong đó có thể kể đến
một số công trình quan trọng sau:
Trong cuốn Người Mường với văn hóa cổ truyền Mường Bi (1988) là một
công trình tập thể do nhiều tác giả cùng viết, tác phẩm đã khái quát về các lĩnh
vực văn hóa tiêu biểu của văn hóa cổ truyền Mường Bi trước Cách mạng Tháng
Tám, giúp ta có thêm những tư liệu về vùng đất cổ xưa này, tiêu biểu là chế độ
ruộng đất nhà Lang.[3]
Tác giả Jeanne Cuisinier trong tác phẩm nổi tiếng “Người Mường địa lý
nhân văn và xã hội” (1995) - một công trình nghiên cứu về người Mường - đã
dùng thuật ngữ “thổ lang” để chỉ tầng lớp thống trị trong xã hội Mường cổ
truyền trong đó tác giả chỉ rõ: “Đối với thổ lang, quyền trưởng bảo đảm cho
người con trai cả chức thổ lang và quyền sở hữu ngôi nhà của người cha”.[6]
Trong Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 2 (2005), Bàn lại chế độ cai trị
trong xã hội Mường cổ truyền “ Lang đạo hay Nhà lang” của tác giả Dương
Hà Hiếu có đề cập đến vấn đề vị trí và quyền lợi của Nhà lang trong xã hội
Mường cổ truyền.
Cũng trong năm 2005 trong tác phẩm Địa Chí Hòa Bình, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội có đề cập đến tổ chức xã hội của người Mường cổ truyền,
thiết chế xã hội Mường tiêu biểu là chế độ Lang Đạo hay còn được gọi với tên
gọi khác là Lang tạo. Tác phẩm này cũng đã phần nào làm rõ được những luật

2


lệ, nguồn gốc hình thành của chế độ nhà Lang nhưng nó được khai thác theo
những chiều hướng khác nhau theo hướng nghiên cứu của tác giả.[5]
Trong cuốn Tản mạn Văn hóa Mường Hòa Bình (2011), do tác giả Nguyễn
Hải viết đã tập hợp những bài báo, những đoạn văn nói về đời sống xã hội người

Mường. Những ghi chép của ông chủ yếu nghiêng về lĩnh vực văn hóa, xã hội,
những bài viết tản mạn của Mường này, Mường kia trên đất Mường Hòa Bình.
Mặc dù vậy trong tác phẩm đã đề cập tới chế độ Làn Đạo ở những khía cạnh
khác nhau.[4]
Trong cuốn Lịch sử Việt Nam từ khởi thủy đến thế kỷ X (2011), của nhóm
tác giả do Vũ Duy Mến (chủ biên) đã nói rất chi tiết về tổ chức bộ máy lang đạo
trong phần Chương bảy: Làng xã - đơn vị cơ sở thời Bắc thuộc. Chứng minh
rằng chế độ Lang đạo đã tồn tại từ rất lâu đời và nó là một tổ chức xã hội cổ
truyền của người Việt.[11]
Tất cả các công trình trên là nguồn tư liệu tham khảo quý báu để tôi thực
hiện việc nghiên cứu của mình.
3. Đối tượng, phạm vi, mục đích nghiên cứu, đóng góp đề tài
3.1. Đối tượng
Chế độ Lang Đạo của Người Mường ở Hòa Bình.
3.2. Phạm vi
- Giới hạn thời gian: Với đề tài “Tìm hiểu chế độ Lang Đạo của người
Mường tỉnh Hòa Bình” được giới hạn trong phạm vi thời gian từ khi nền văn
hóa Hòa Bình được hình thành đến trước cách mạng tháng Tám năm 1945.
- Giới hạn không gian: trong địa vực tỉnh Hòa Bình, khu vực có người
Mường sinh sống.
- Giới hạn về nội dung: Đề tài tập trung làm rõ quá trình hình thành, phát
triển, tác động của Chế độ Lang đạo đến xã hội Mường trước cách mạng tháng
Tám 1945.
3.3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài này nghiên cứu về chế độ Lang Đạo của người Mường Hòa Bình từ
đó làm rõ tác động của chế độ Lang Đạo tới xã hội Mường trước năm 1945.
3


3.4. Đóng góp của đề tài

Thứ nhất, làm rõ quá trình hình thành, phát triển của chế độ Lang Đạo.
Chỉ ra những đặc trưng tiêu biểu của chế độ này. Từ đó làm rõ những tác động
của chế độ Lang Đạo tới xã hội Mường trước Cách mạng tháng Tám 1945.
Thứ hai, góp phần làm sáng tỏ thiết chế xã hội của người Mường - một
trong những thiết chế cổ truyền của người Việt cổ.
Thứ ba, góp phần làm phong phú thêm lý luận về các mô hình chính trị
trong xã hội Việt Nam thời cổ - trung đại.
Thứ tư, giáo dục cho các thế hệ sau về những nét bản sắc văn hóa của
người Mường
Thứ năm, kết quả nghiên cứu sẽ trở thành nguồn tư liệu để giảng dạy, học
tập trong các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp, các trường
Phổ thông.
Thứ sáu, bổ sung nguồn tài liệu cho việc nghiên cứu làm đề tài, khóa luận.
4. Cơ sở tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở tư liệu
- Những văn kiện của Đảng và nhà nước, những bài viết của các nhà
lãnh đạo.
- Những công trình nghiên cứu của các nhà sử học, dân tộc học về văn hóa
Việt Nam và văn hóa người Mường nói riêng.
- Những tư liệu thống kê, những tài liệu liên quan đến đề tài tại thư viện
tỉnh Hòa Bình.
- Những tạp chí dân tộc học, văn hóa - thông tin cơ sở, tư liệu viết tay của
những người nghiên cứu đi trước.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu đề tài này tôi sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu đặc trưng của bộ môn khoa học lịch sử như: phương pháp điều tra điền dã,
phương pháp miêu tả, phương pháp logic, phương pháp thống kê, so sánh,
phỏng vấn…

4



5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 3
chương:
Chương 1: Khái quát về người Mường Tỉnh Hòa Bình
Chương 2: Chế độ Lang Đạo của người Mường Tỉnh Hòa Bình
Chương 3: Tác động của chế độ Lang Đạo tới xã hội của người Mường
trước năm 1945

5


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI MƯỜNG TỈNH HÒA BÌNH
1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên nhiên, dân cư
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên nhiên
Hòa Bình là một tỉnh miền núi ở cửa ngõ vùng Tây Bắc tiếp giáp Đồng
bằng sông Hồng ở cả 3 mặt Bắc, Hà Tây và Hà Nam ở phía Đông, Ninh Bình và
Thanh Hóa ở phía Nam. Vùng núi phía Tây của Hòa Bình giáp Sơn La đặc biệt
Hòa Bình còn là vùng giáp vùng núi Tây của Thanh Hóa nơi mở đầu của dãy
Trường Sơn. Nằm cách thủ đô Hà Nội 70 km rất thuận tiện cho việc di chuyển
từ thủ đô đến và đi các tỉnh.
Nằm ở cửa ngõ Tây Bắc nên Hòa Bình có địa hình phong phú đa dạng bởi
những đặc điểm nổi bật như độ cắt xẻ mạnh và dốc theo hướng Tây Bắc - Đông
Nam. Có thể chia thành hai vùng với hai cảnh quan, một vùng rậm nối tiếp giữa
dãy Hoàng Liên Sơn và Trường Sơn trải dài từ huyện Đà Bắc qua Tân Lạc, Lạc
Sơn đến Mai Châu với độ cao trung bình từ 400 - 500m so với mực nước biển.
Hai là vùng đồi núi thấp chủ yếu là vùng núi đá vôi với nhiều hang động, rất nổi
tiếng với nhiều di chỉ khảo cổ học kết hợp với cảnh quan tươi đẹp. Rừng ở vùng

này chủ yếu là rừng ký sinh và đồi cọ với độ cao trung bình 100m gồm các
huyện Kỳ Sơn, Lương Sơn, Lạc Thủy.
Địa hình trong tỉnh Hòa Bình chủ yếu là rừng xen kẽ giữa các sườn núi bị
chia cắt bởi nhiều thung lũng và hàng trăm con sông, suối lớn nhỏ. Có nhiều
thung lũng trải rộng kéo dài thành những cánh đồng tương đối bằng phẳng, phì
nhiêu và các triền bãi ven sông mộng mơ.
Với những điều kiện địa hình và vị trí địa lý đó nên khí hậu của vùng này
mang yếu tố nhiệt đới gió mùa. Một năm chia làm hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ
tháng 11 đến tháng 4. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 24 0 c lượng mưa trung
bình hàng năm 1900mm, với tháng mưa nhiều nhất là tháng 7 và tháng 8 và ít
nhất là tháng 11 và 12. Chính do địa hình chia cắt mạnh, độ chênh lệch cao và
kéo dài nên tạo ra nhiều kiểu vùng khí hậu khác nhau.
6


Tài nguyên nước ở Hòa Bình cũng rất phong phú đặc biệt là ở hệ thống
sông suối nổi tiếng với con sông Đà và sông Bôi. Chính từ hệ thống sông nước
này đã tạo cho Hòa Bình có những dạng cảnh quan đặc biệt. Đập thủy điện Hòa
Bình với vùng hồ Hoà Bình. Nước khoáng Kim Bôi là nguồn tài nguyên thiên
nhiên đã ban tặng cho Hòa Bình.
Tất cả các yếu tố trên đã hòa quyện để tạo nên một Hòa Bình với cảnh quan
quyến rũ tuyệt đẹp, có núi, có sông, có đồng bằng, có thung lũng. Có nắng có
mưa, có nóng có lạnh. Đây là điều kiện vô cùng quan trọng để giúp Hòa Bình
trở thành một trung tâm văn hóa lớn của Việt Nam. Và cũng chính từ đặc điểm
điều kiện như trên nên vùng đất này là nơi thích hợp với cuộc sống của các đồng
bào dân tộc ít người. Với 7 dân tộc anh em sinh sống, con người và núi rừng đã
tạo nên những bản sắc Văn hóa đặc sắc độc đáo riêng, tiêu biểu là nền Văn hóa
Hòa Bình mà chủ nhân không phải ai khác chính là dân tộc Mường, cư dân chủ
yếu của tỉnh.
1.1.2. Dân cư

Hòa Bình luôn tự hào là cái nôi của một nền Văn hóa, đánh dấu bước ngoặt
quan trọng trong tiến trình hình thành và phát triển loài người. Đó là nền Văn
hóa Hòa Bình, nền Văn hóa của cư dân nông nghiệp sơ khai cách đây hàng vạn
năm. Hàng loạt các chi tiết của di chỉ khảo cổ học là minh chứng khẳng định
điều đó. Là một tỉnh miền núi có thành phần dân tộc khá phong phú với 7 dân
tộc anh em sinh sống: Mường, Kinh, Thái, Tày, Dao, Mông và một số ít dân tộc
khác. Với dân số toàn tỉnh theo số liệu thống kê năm 2002 là 756.713 người.
Trong đó dân số dân tộc Mường là 479.197 người chiếm 63,32% dân số toàn
tỉnh. Người Mường sinh sống phân bố rải rác ở tất cả các thị xã và huyện thị
thuộc tỉnh Hòa Bình. Ngày nay tỉnh Hòa Bình được chia thành 10 huyện thị:
Lương Sơn, Kim Bôi, Lạc Thủy, Yên Thủy, Tân Lạc, Lạc Sơn, Kỳ Sơn, Đà Bắc,
Mai Châu và thị xã Hòa Bình.
Tuy nhiên tập trung ở 4 Mường chính đó là: Mường Bi ở huyện Tân Lạc,
Mường Vang ở huyện Lạc Sơn, Mường Thàng ở huyện Kỳ Sơn, Mường Động ở
huyện Kim Bôi. Với 4 dòng họ chính là: Đinh, Quách, Bạch, Hoàng. Có thể nói
7


Hòa Bình là cái nôi của dân tộc Mường, họ cư trú ở hầu hết các địa phương nơi
các vùng thung lũng và núi thấp, bên cạnh các con sông suối…
Với 4 Mường chính này có thể coi đây là vùng đất tổ của người Mường ở
Hòa Bình. Mặc dù không sống ở các đồng bằng rộng lớn không có những cánh
cò bay song người Mường lại không thiếu đất trồng trọt với những thửa ruộng
bậc thang cùng hệ thống tưới tiêu hiệu quả. Làng xóm Mường được chia thành
các Mường nhỏ và được thiết lập trong các thung lũng hay các sườn núi thấp.
1.2. Quá trình người Mường định cư ở Hòa Bình
1.2.1. Quá trình lịch sử
Tỉnh Hòa Bình được thành lập ngày 22/6/1886, cách ngày nay 130 năm
nhưng Hòa Bình là vùng đất có cư dân sinh sống từ rất lâu đời.Cách ngày nay
trên một vạn năm, khi ấy hầu hết đồng bằng Bắc Bộ còn bị chìm dưới nước biển

không thể ở được thì rừng núi đất đai Hòa Bình thời tiền sử đã sáng tạo ra một
nền Văn Hóa nổi tiếng mà sau này khi tiến hành khai quật ở 72 điểm trên đất
Hòa Bình bà Cô-la-ni đã đặt tên là “ Nền Văn hóa Hòa Bình”.
Văn hóa Hòa Bình là thuật ngữ gọi chung cho một nền văn hóa nông
nghiệp cổ đại, nằm ở nhiều nước châu Á, như Trung Quốc, đảo Su-ma-tra
(Inđônêxia) Mianma, philippin… Địa danh Hòa Bình của người Mường gắn với
một tầng văn hóa được biết đến một cách rộng rãi trong giới sử học, khảo cổ học
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, một phần là nhờ vào sự khai quật
khảo cổ do nhà khoa học Cô-la-ni tiến hành sớm ở Hòa Bình. Khoa học khảo cổ
học đã chứng minh rằng người Việt và người Mường có chung một nguồn gốc là
người Việt cổ. Những cuộc khai quật khảo cổ đã tìm thấy dấu vết cư trú sinh
sống của người nguyên thủy thuộc thời đại đồ đá giữa và sau thời đại đồ đá mới
để lại trong lòng hang. Những công cụ bằng đá ghè đẽo thô sơ, những mảnh vỏ
ốc và mảnh xương là di tích của thức ăn. Những vùng than tro và đất cháy là nơi
đốt lửa nấu thức ăn và sưởi ấm, một số ít mảnh gốm thô sơ là di tích của những
đồ đựng và đun nấu. Bốn vùng nổi tiếng nhất của Hòa Bình: “nhất Bi, nhì Vang,
tam Thàng, tứ Động” chính là 4 vùng mà cách đây hàng vạn năm cũng là nơi tập
trung những cư dân nguyên thủy. Truyền thống của Hòa Bình một địa bàn có
8


dân cư từ rất sớm đã bắt nguồn từ thời gian xa xưa ấy. Hòa Bình là trung tâm
của người Mường trong cả nước, theo các tư liệu thì người Mường và người
Việt có chung một nguồn gốc.
Theo nhà ngôn ngữ học Mát-xpe-nô-vô Ô-dơ-ri-cua, thì tiếng Mường và
tiếng việt xưa kia chỉ là một. Về mặt từ, về mặt ngữ pháp, ngữ âm, tiếng Mường
và tiếng việt là giống nhau. Về nhân chủng học người Mường và người Việt là
đồng nhất.
Trên cơ sở nghiên cứu, những tài liệu khoa học đã khẳng định người
Mường và người Việt là hai chi của một họ, hay nói cách khác, người Mường là

bộ phận của người Việt biệt cư lâu đời ở vùng rừng núi. Song người Việt và
người Mường cho đến ngày nay cơ bản vẫn giữ được cơ cấu thể chất gốc của tổ
tiên đã sinh ra họ trước khi phân hóa thành hai dân tộc. Trong tạp chí Nghiên
cứu lịch sử số 125 Nguyễn Đình Khoa - nhà nghiên cứu nhân học đã khẳng định
“về phương diện nhân chủng học người Việt và người Mường là đồng nhất”.
Người Mường là một bộ phận của người Việt đã tách ra trong một hoàn cảnh
lịch sử nhất định và đã cấu thành một bộ tộc riêng, song từ đó đến nay cả người
Mường và người Việt về cơ bản vẫn giữ được cơ cấu thể chất gốc của tổ tiên
trực tiếp đã sinh ra mình trước khi phân hóa.
Dân tộc Mường và dân tộc Việt trước đây mấy ngàn năm có cùng tổ tiên là
người Lạc Việt. Nguyên nhân làm cho người Lạc Việt (Việt cổ) phân hóa thành
hai dân tộc là do thể chế áp bức của thời Bắc thuộc.
Năm 179 trước công nguyên Triệu Đà chinh phục nước Âu Lạc. Sau khi
Triệu Đà bị nhà Hán tiêu diệt, nước Việt Nam cổ đại lại nằm trong bản đồ nhà
Đông Hán. Từ ấy, nền đô hộ của bọn phong kiến phương Bắc đè nặng lên đất
nước Việt Nam trong thời gian hơn một ngàn năm. Nhưng trên thực tế chính
quyền đô hộ chỉ bóc lột nhân dân Việt Nam ở miền đồng bằng mà chưa có thể
vươn tới miền rừng núi để áp bức bóc lột nhân dân ở đây. Chính sách áp bức bóc
lột nhân dân Việt Nam ở miền rừng núi chỉ có thể thực hiện được một số chế độ
cống nạp mà thôi. Hoàn cảnh đó đã làm cho người Việt ở vùng đồng bằng và
người Việt ở vùng miền núi dần dần phát sinh những yếu tố khác nhau về đời
9


sống tinh thần, đời sống vật chất. Tình hình này kéo dài hơn một nghìn năm và
cuối cùng làm cho người Việt phân hóa thành 2 dân tộc: dân tộc Việt (Kinh)
chịu ảnh hưởng một phần của Văn hóa nước ngoài; dân tộc Mường do cư trú lâu
đời ở rừng núi vẫn bảo lưu được nhiều nét đặc biệt của Văn hóa Lạc Việt.
Hơn một nghìn năm Bắc thuộc là thời gian phân hóa liên tục của người Việt
cổ. Nhưng mức độ phân hóa không phải lúc nào cũng giống nhau. Buổi đầu thời

Bắc thuộc, đời sống vật chất và đời sống tinh thần của người Việt ở đồng bằng
và người Việt ở miền núi chưa có gì khác biệt.
Ở thời điểm đó miền núi có tầng lớp quan Lang thì ở đồng bằng cũng có
tầng lớp quan Lang. Sang thế kỷ VIII sự phân hóa giữa người Việt ở đồng bằng
và người Việt ở miền núi càng trở nên rõ rệt, lúc này đồng bằng không còn quan
Lang, nếu còn thì chỉ ở vùng tiếp giáp với miền núi. Đến thế kỷ thứ X khi dân
tộc Việt Nam giành độc lập và đến thế kỷ thứ XI khi thành Thăng Long xuất
hiện thì sự phân chia thành dân tộc Mường và dân tộc Việt (Kinh) rất rõ nét.
Ở Hòa Bình người Mường sống tập trung ở các thung lũng và các vùng có
nhiều đồng ruộng. Bốn cánh đồng trù phú của Hòa Bình là Mường Bi (Tân Lạc),
Mường Vang (Lạc Sơn), Mường Thàng (Kỳ Sơn) và Mường Động (Kim Bôi).
Mặc dù có chung nguồn gốc cùng người Việt song do quá trình phân hóa
lâu đời nên đã hình thành nên ở người Mường nền văn hóa đặc sắc cùng truyền
thống bền vững của mình tạo nên sự khác biệt riêng đáng tự hào.

10


CHƯƠNG 2
CHẾ ĐỘ LANG ĐẠO CỦA NGƯỜI MƯỜNG Ở HÒA BÌNH
2.1. Quá trình hình thành chế độ Lang Đạo ở Hòa Bình
2.1.1. Cơ sở hình thành chế độ Lang đạo
2.1.1.1. Cơ sở về kinh tế
Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa Châu Á
nên nước ta không bị sa mạc và bán sa mạc bao phủ như các nước cùng vĩ độ ở
Tây á, Đông Phi. Mà khí hậu Việt Nam lại rất ẩm ướt, giàu ánh sáng và nhiệt độ.
Với điều kiện khí hậu thuận lợi như vậy cho phép nước ta phát triển một
nền kinh tế nông nghiệp nhiệt đới đa canh với cơ cấu cây trồng, vật nuôi đa
dạng, có thể phát triển quanh năm, đặc biệt là cây lương thực thực phẩm và cây
công nghiệp.

Có thể nói, người Mường ở Hòa Bình cư trú hầu hết ở vùng thung lũng và
sườn đồi núi thuộc địa bàn của tỉnh. Do vậy việc ruộng đối với họ là công việc
thường ngày và vô cùng quan trọng. Làm ruộng ở đây chủ yếu là trồng canh tác
cây lúa nước, đây là loại cây cung cấp lương thực chính cho cuộc sống của
người Mường. Còn ngoài ra họ còn làm nương rẫy, nương rẫy của người Mường
chủ yếu ở ven các sườn núi thấp và sườn đồi do vậy họ đốt nương phát rẫy trồng
thêm các loại cây như khoai, sắn, ngô…và gần đây họ đã đưa các loại cây ăn
quả ở dưới xuôi của người Việt vào trồng như vải, nhãn… Trong công tác làm
lúa nước trên ruộng bậc thang việc đưa nước tưới tiêu cho ruộng là rất quan
trọng. Người Mường và người Thái là tiêu biểu, họ có những công trình thủy lợi
và cách lấy nước đạt đến trình độ cao. Mương- phai-lai-lín là hệ thống thủy lợi
của người Thái. Còn người Mường cũng như vậy họ có trình thủy lợi riêng của
mình. Họ sử dụng con nước hay guồng nước được làm từ tre nứa có sẵn. Với kỹ
thuật sự khéo léo và bàn tay của người Mường đã lợi dụng sức nước của con
suối qua con nước đưa nước tưới tiêu cho khắp đồng ruộng và lấy nước sinh
hoạt một cách hết sức khoa học.

11


Bên cạnh công việc đồng áng và nương rẫy hầu hết cư dân Mường đều khai
thác thêm những nguồn lợi từ rừng mang lại như khai thác các cây gỗ quý hiếm:
nghiến, lim, trai, sến, táu… đặc biệt người Mường rất khéo léo trong việc dệt
cạp váy, trồng rau nuôi tằm, với những hoa văn công phu, tinh tế đòi hỏi sự khéo
léo rất cao. Họ còn sử dụng nhiều mô típ hoa văn trang trí hình rồng, phượng
hay các loại hoa văn hình học. Có thể nói hoa văn trên cạp váy chiếm vị trí quan
trọng đặc biệt trong nghệ thuật tạo hình của người Mường. Ngoài mục đích
chính nghề dệt phục vụ cho việc sinh hoạt của người dân. Ngày nay, nghề dệt
của người Mường còn được đầu tư phát triển nhằm mục đích phát triển du lịch.
Nhắc đến người Mường không thể không nhắc tới công việc săn bắn của

những người đàn ông. Sắn bắn được coi là sự thể hiện sức mạnh tinh thần
thượng võ, sự đoàn kết cũng như tài năng, trí tuệ của từng người và cả cộng
đồng săn bắn cũng chính là hình thức làm kinh tế kiếm tìm thức ăn trong những
lúc nhàn rỗi của cư dân trong bản Mường.
Tóm lại, về mặt kinh tế dưới chế độ cũ cuộc sống của người Mường rất khó
khăn thiếu thốn. Nhưng từ khi cách mạng thành công dưới sự lãnh đạo của Đảng
cùng với sự cần cù chịu khó sáng tạo của người dân nền kinh tế của người
Mường đã phát triển. Cuộc sống bớt cơ cực số hộ giàu tăng lên số hộ nghèo
giảm thiểu. Đời sống được nâng cao cả về vật chất lẫn tinh thần, nhân dân các
bản Mường đời sống ngày càng được cải thiện nâng cao. Ngoài công việc chính
là sản xuất nông nghiệp người dân bản Mường còn tham gia làm du lịch dưới
các hình thức dịch vụ, lưu trú, phục vụ ăn uống, bán quà lưu niệm, sản xuất quà
lưu niệm hay làm hướng dẫn viên cho khách du lịch. Đây là loại hình kinh tế
mới và mang lại lợi ích kinh tế rất lớn cho bản Mường.
2.1.1.2. Cơ sở văn hóa- xã hội
Nhìn chung mỗi một dân tộc đều có những cơ cấu và tổ chức xã hội riêng
cho dân tộc mình. Tuy nhiên hệ thống tổ chức chính quyền của dân tộc lại có sự
khác biệt.
Tổ chức xã hội cổ truyền của người Mường nắm chính quyền ngay trong
tên gọi của dân tộc Mường. Mường được hình thành bởi nhiều xóm làng mỗi
12


một làng có một địa vực, một phạm vi đất đai, nương rẫy, núi rừng riêng và
quan hệ trong làng bản chủ yếu là mối quan hệ địa vực, láng giềng lấy đơn vị
nhà (gia đình) làn nền tảng. Trước cách mạng tháng Tám xã hội Mường cổ
truyền được đặt dưới sự cai quản của dân trong vùng. Còn các thổ lang giữ địa
vị thống trị nắm quyền quản lý và phân phối ruộng đất trong Mường, trong xóm.
Thổ lang có một số người giúp việc gọi là Ậu hay Cai để điều hành các công
việc trong làng xóm. Dưới quyền của Thổ lang có tới hàng chục ậu khác nhau

nhưng họ có nhiệm vụ chung là lo thu thóc, thu hiện vật, lo cúng bái cưới xin
của toàn bộ cư dân trong địa vực Thổ lang cai quản. Dòng họ Mường theo chế
độ phụ hệ do vậy nó mang chất phụ quyền. Tế bào của chế độ phụ hệ là nọoc
(nóc, nóc nhà) mỗi gia đình hạt nhân có một ngôi nhà riêng và một nền kinh tế
riêng. Một trong những biểu hiện “phụ quyền” nổi bật của nó là đặc quyền của
con trai cả: được hưởng phần lớn những tài sản do cha để lại. Con trai cả là
người đứng dầu dòng họ, nhân vật nắm quyền cao nhất trong phạm vi Mường.
Con trai cả có quyền nắm giữ việc cai quản các làng ở trung tâm còn những
người con thứ được nắm quyền coi quản các làng khác ngoài khu vực trung tâm
của bản.
Ngày nay, người Mường sống quần cư thành làng bản (làng và bản tương
đương nhau theo cách gọi) dưới bản là xóm có khi chỉ bao gồm chục nóc nhà.
Một số gia đình sống độc lập riêng rẽ khi con cái trưởng thành tuy nhiên một số
gia đình vẫn sống chung dưới một mái nhà tới 3,4 thế hệ mà người đàn ông luôn
giữ vai trò chính trong gia đình. Khác với chế độ mẫu hệ của một số dân tộc
khác, dân tộc Mường coi trọng người đàn ông, họ có quyền quyết định những
vấn đề quan trọng của gia đình đồng thời cũng là những người lao động chính
nuôi sống gia đình.
2.1.2. Tên gọi
Tổ chức xã hội Mường cổ truyền từng tồn tại với nhiều tên gọi khác nhau.
Theo nhiều nguồn tại liệu có ghi chép lại rằng:

13


Tài liệu chính sử (Đại Việt sử ký toàn thư) ghi chép về người đứng đầu một
địa phương miền núi xưa (tương đương với một mường gồm một số bản) của
các dân tộc thiểu số Nùng, Thái, Mường… với một số tên như:
Tù trưởng - người đứng đầu một bộ tộc - một thiết chế Xã hội cổ truyền.
Chế độ Tù trưởng thường cha truyền con nối.

Phụ đạo - cũng là hình thức của chế độ Tù trưởng thế tập - cha truyền con
nối, quy phục triều đình, được triều đình công nhận. Nếu phụ đạo đó có công, có
thể được triều đình phong thưởng chức tước. Phụ đạo thi hành chế độ tự quản tự
trị trong địa hạt (mường) mình quản lý. Ngoài ra hàng năm phụ đạo phải cống
nạp phu thuế, sản vật địa phương cho triều đình trung ương.
Thổ tù - một cách gọi khác cũng tương tự như phụ đạo.
Quan lang - Lang đạo nhận chức quan của nhà nước phong kiến.
Nhà lang - chỉ gia đình của Nhà lang.
Những năm đầu của thế kỷ XX các học giả thực dân trong đó có bà Jeanne
Cuisiner khi nghiên cứu địa lý nhân văn và xã hội học “người Mường” cũng gọi
tổ chức xã hội cổ truyền của người Mường là “Thổ lang”.
Trong công trình: Góp phần tìm hiểu tỉnh Hòa Bình - Bùi Văn Kín và nhóm
tác giả cũng gọi tổ chức xã hội Mường cổ truyền là chế độ Nhà lang. Song sự
phân tích chế độ đó chưa được sâu sắc.
Trong thực tế có thể còn những cách gọi khác chỉ tổ chức xã hội cổ truyền
Mường. Nhưng nhìn chung những cách gọi trên: Tù trưởng, Thổ tú, Phụ đạo,
Quan lang, Lang đạo, Thổ Lang, Thổ đạo, Thứ lang, Nhà lang, tuy cách gọi khác
nhau song đều phản ánh một đặc điểm chung của xã hội Mường.
Với những kết quả phân tích lột tả xác thực, vừa bao quát tổ chức xã hội
Mường truyền thống trước khi thực dân Pháp áp đặt lên vùng Mường Hòa Bình
ách thống trị mới, chế độ Nhà Lang có khởi nguồn sâu xa từ trong lịch sử xã hội
của tộc Mường cổ ở Hoà Bình. Cư dân Hòa Bình cũng được coi là những người
Việt cổ trong thời đại văn hóa Hòa Bình.
2.1.3. Nguồn gốc của chế độ Nhà Lang
Qua truyền thuyết và lịch sử, đặc biệt với thành tựu khảo cổ học, cho phép
14


khẳng định vào thời tiền sử trong các hang động ở Hòa Bình đã có con người cư
trú. Họ là chủ nhân sáng tạo ra nền văn hóa Hòa Bình, theo đà tiến triển của lịch

sử, vào hậu kỳ của văn hóa Hòa Bình và tiếp theo là cộng đồng Lạc Việt, trong
đó bào gồm cả Người Mường, dần dần tiến xuống khai phá những thung lũng
hẹp ở Hòa Bình. Dần dần trong khối cộng đồng Lạc Việt do Lạc tướng đứng
đầu, giúp việc có Quan lang, bên dưới là lạc dân có sự chuyển dịch, phân hóa,
các bộ tộc Mường ở lại những vùng chân núi Hòa Bình, duy trì cuộc sống sinh
hoạt làm nương rẫy săn bắt, hái lượm vừa bắt đầu khai thác đất đai làm ruộng
nước. Các bộ tộc Việt (Kinh) theo các dòng sông lớn - sông Đà, sông Hồng,
sông Mã, sông Lam tiến về khai phá đồng bằng. Sự phân chia Việt - Mường nảy
sinh. Còn trước đó cư dân Việt - Mường có mối quan hệ khăng khít gắn bó với
nhau cùng tồn tại và phát triển trong một xã hội dưới chế độ cai trị giống nhau.
Xã hội Mường tồn tại cơ bản gồm 2 đẳng cấp: Nhà lang - thống trị và người
ở Mường - dân bị trị, ngoài ra còn có dân tự do, nhà cửa không có sống chủ yếu
ở các ven đồi họ không có ruộng đất truyền lại mà sống dựa vào làm nương rẫy.
họ không lệ thuộc chặt chẽ vào Lang.
Chế độ Lang đạo tồn tại từ khi xã hội Mường được hình thành. Theo một số
tài liệu từ thời Hùng Vương khi đồng bằng mới khai phá đơn vị cư dân sống
trong các công xã là chiềng bản. Người đứng đầu chiềng - bản gọi là Pô chiềng.
Pô chiềng là người già đức độ và có uy quyền trong việc dẫn dắt cộng đồng.
Vùng Mường (Hòa Bình) và vùng miền núi Tây Bắc nước ta từng tồn tại chế độ
Nhà lang- phụ đạo- phìa tạo (cha truyền con nối) từ xa xưa cho đến thời cận đại
có thể xem đó là dư âm của chế dộ Pô chiềng - người già đứng đầu chiềng - ấp.
Như vậy chế độ Lang đạo là một tổ chức xã hội cổ truyền điển hình của
người Việt cổ mà trong đó các cư dân chủ yếu của xã hội cổ truyền này chính là
người Mường sống trong nền văn hóa Hòa Bình. Do quá trình phát triển và định
cư có diễn ra sự di cư và biến đổi tạo thành nhóm người Việt - Mường và nhóm
ngôn ngữ Việt- Mường. Song hai nhóm này luôn tồn tại và phát triển có mối
quan hệ khăng khít với nhau.

15



2.1.4. Luật lệ nhà Lang
Trong lịch sử mỗi Mường trước kia đều do một chúa đất- Lang cun thống
trị. Muốn cai quản được dân trong Mường, bắt họ khuất phục, tự nguyện thực
hiện nghĩa vụ đối với Nhà lang như làm xâu, làm nõ trên ruộng Lang, hoặc đi
phiên làm nô bộc phục vụ cống nạp lễ vật trong các lễ tiết hiếu hỷ và trong
cuộc sống ngày thường… không thể không có luật lệ. Luật mường do Nhà lang
đặt ra,dân trong Mường phải thi hành. Luật lệ ban đầu có thể bắt nguồn từ tập
quán của xã hội Mường cổ truyền. Dần dần do ảnh hưởng giáo hóa của triều
đình, đặt biệt từ thời Hồng Đức (1470-1497) trở đi và do sự phân hóa ngày
càng sâu sắc giữa đẳng cấp Nhà lang thống trị và dân bị trị trong Mường khiến
tập quán pháp bất thành văn (xâu, nõ…) được nâng lên thành luật lệ. Những
bản luật lệ Mường đầu tiên có thể do những trí thức Mường biên soạn dưới
hình thức văn bản Hán Nôm.
Trong bốn Mường lớn: Bi, Vang, Tháng, Động hay ở Mai Châu trước kia đều
có luật lệ riêng (đương nhiên luật lệ đó không phương hại đến luật pháp Nhà Nước).
Nhưng chúng hầu hết đã bị thất lạc, chỉ còn nghe nói đến tục lệ xưa ở
Mường, hoặc một vài ước thúc giữa Nhà lang và dân ở trong Mường ghi trên
giấy cũ.
Theo cố giáo sư Đào Duy Anh: “Tại Hòa Bình một đôi nơi, nhà Đạo (Lang
đạo) có quyền sở dụng đối với con gái nhà dân (tối đầu tiên khi ra lấy chồng,
người con gái nhà dân phải đến hầu họ nhà Đạo).
Đối lại với những nghĩa vụ của dân chúng thì các Lang đạo cũng có một ít
ước thúc như sau:
1. Khi nhà Đạo có lễ hiếu hỷ trong dịp lễ yết, lễ cơm cá cùng các lễ khác,
hoặc những dịp làm nhà, cày ruộng, dân chúng đến phục dịch thì nhà Đạo phải
làm thịt trâu bò hoặc lợn để dọn ăn đầy đủ, nếu thiếu lễ thì dân chúng có quyền
chỉ trích.
2. Con trai trưởng và con gái trưởng của nhà Đạo, bắt buộc phải do dân
chúng trong biệt ấp làm lễ cưới. Nếu không do dân chúng làm lễ cưới thì họ

không thừa nhận việc hôn nhân. Nếu con gái trưởng lấy chồng trước thì những
16


sính lễ thu được, nhà Đạo phải giữ tại một nhà hào mục trong dân để sau dân lấy
của ấy mà cưới cho con trai trưởng. Người vợ do dân cưới cho đó phải làm lễ ra
mắt dân để dân công nhận. Những của hồi môn của người vợ như chăn, nệm, gối
phải chia phần cho các hào mục trong dân.
3. Nhà Đạo đối đãi sai khiến dân chúng mà làm quá lẽ, thì dân chúng có
thể do những hào mục của họ khiển trách và bắt vạ (nhà Đạo phải tạ lỗi bằng
trâu, bò). Nhất là khi con gái nhà Đạo mà có hoang thai thì dân có quyền bắt vạ
rất nặng, người con gái có lỗi phải thân ra mặt đại biểu của dân đặt lễ mà tạ tội”.
Hoặc may mắn còn lại một bản luật lệ Mường ghi trong gia phả họ Quách
được tìm thấy ở xã Hạ Bì, huyện Mỹ Lương, Phủ Quảng Oai, xứ Sơn Tây thời
hậu lê thế kỷ XVIII (nay là xã Hạ Bì, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình), trong đó
gồm 11 điều đã dịch ra quốc ngữ [7,42]
Lệ 1 - Hễ con trai trưởng được quản thúc nhân dân các khuê (làng), còn
các con khác nếu có lòng hiếu kính, thì cho làm Phụ Đạo (Lang đạo) không
được quản dân. Hễ con trai trưởng không may tuyệt tự, thì con trai thứ mới được
thế làm con trưởng và kế tập quản coi nhân dân.
Lệ 2 - Hễ hàng năm đến mùa làm ruộng, nhân dân các khuê cùng đem
nhau ra cày cấy ruộng cho Đại thủ quan (Lang cun) đi hết mọi xuất, nếu ai thiếu
thì phạt lợn 1 con, rượu 1 chum. Đến mùa lúa chín, nhân dân các khuê cùng
nhau đem hết mọi xuất ra thu hoạch, đem về kho cho xong hoàn hảo, ai thiếu
(không có mặt) cũng phạt như trên.
Lệ 3 - Đại thủ quan có việc cưới vợ, Châu Hóa (ậu) phải xuất tiền nộp lễ
cưới, Phụ Đạo các khuê phải chịu việc nuôi, tiếp tân khách và phải nghe theo
Đại thủ quan chia bổ nhiều hay ít, y theo lời dạy, nếu ai tự ý cưỡng bức không
theo thì tước đoạt mất phần (ruộng chia).
Lệ 4 - Phụ Đạo các khuê, hễ nhà nào có việc tang lớn và việc cầu đảo hoặc

việc gì có mổ trâu, bò, dê, lợn thì phải để ra nộp phần biếu cho Đại thủ quan một
miếng vai liền xương bả (3 xương) và chân giò, lại một mâm cỗ đồ chín và
phẩm vật bày trên chiếu ngồi.

17


Lệ 5 - các nhà nhân dân ở các khuê hễ có việc tang lớn, cầu đảo, tế lễ mổ
trâu, bò, dê, lợn phải kính biếu Đại thủ quan một miếng vai liền xương bả và
chân giò với một mâm cỗ đồ ăn chín cùng các phẩm vật.
Lệ 6 - Đại thủ quan có việc làm nhà ở thì nhân dân các khuê phải tạm xuất
mọi người ra làm các việc: Đắn gỗ, tre, nữa, cắt cỏ gianh để dùng đủ việc làm
nhà xong rồi lại làm rào gỗ, phên thưa, nghi môn kín, khi việc làm nhà hoàn
thành, các khuê phải chịu lần lượt phục dịch canh giữ, mỗi phiên 2 người, cả
ngày và đêm, ai thiếu thì phạt.
Lệ 7 - Hệ đại thủ quan khi có ngày giỗ chạp thì nhân dân các khuê phải dự
bị trước ngày, hết thảy mọi người phải đi săn, đánh cá, ai còn thiếu thì phạt về
tội bất kính. Về phần phụ đạo các khuê mỗi Đạo phải lợn 1 con, rượu 1 chum và
phải tề tựu đến lễ bái, ai còn thiếu thì phạt về tội bất kính và tước đoạt mất dân.
Lệ 8 - Đại thủ quan mỗi năm thu lợn, gà của nhân dân trong bản xã, mỗi nhà
phải nộp lợn 1 con, gà 2 con, nếu không có gà thì thế một đôi vịt và phải nộp lá dâu
nuôi tằm. Mỗi nhà nộp 1 bồ cao 1 thước 5 tấc, khoát (rộng) 1 thước 3 tấc.
Lệ 9 - Nhân dân các khuê bản xã, mỗi nhà mỗi năm phải nộp bông 5 cân, tơ
sống 5 nén, gai 1 nén, quả thầu dầu 15 bát, rượu hàng 2 vò.
Lệ 10 - Đại thủ quan có việc tang lớn báo hiếu, nhan dân các khuê bản xã,
mỗi nhà phải nộp trâu 1 con, lụa 10 thước, vải trắng 20 thước, rượu 1 chum để
tiếp đãi các bậc tân khách… Nhà nào cũng phải cắt tóc để tang y như tang bố mẹ
đẻ và xây nhà mồ, mộ đá, chung quanh rào gỗ, đầy đủ các hạng.
Lệ 11 - Nhân dân các khuê ai có phạm điều gì phải tạ lễ. Nếu bỏ thiếu thì
bắt người ấy làm nô tỳ, hoặc nhà ấy không có con trai thì cho thay thế bằng trâu

1 con, không có trâu thì bắt con gái làm nô tỳ. Nếu không có con gái thì tịch thu
ruộng nương của cải và nhà cửa… [11,302]
Qua mấy điều luật lệ Nhà lang dẫn trên cho thấy: Luật lệ do Nhà lang đặt ra
nhằm đảm bảo quyền thống trị tuyệt đối của Nhà lang với toàn bộ dân trong
Mường. Từ “thượng ngọn cây, hạ ngọn cỏ” đều thuộc về Nhà lang. Luật lệ
cũng để khẳng định thứ bậc trong bộ máy cai trị của dòng Lang, quyền lợi là
chủ yếu mà Lang cun, Lang đạo được hưởng và phần trách nhiệm thứ yếu đối
18


với dân. Luật lệ quy định: Quyền thống trị Mường thuộc về Lang cun, các em
trai dòng thứ Nhà lang làm phụ đạo (phụ tạo) giúp Lang cun - anh cả dòng
trưởng gián tiếp cai trị dân Mường thông qua các ậu. Khi người con cả dòng
lang là Lang cun chết thì con thứ của dòng Lang ấy mới được quyền kế tập
thay Lang cun cai quản Mường. Qua luật lệ truyền khẩu và thành văn anh em
Nhà lang được hưởng rất nhiều đặc quyền đặc lợi: chẳng hạn đến kỳ làm xâunõ hàng năm của lang cun, lang đạo thì mọi người dân trong Mường phải đến
làm đầy đủ.
Hoặc khi Lang cun làm nhà thì mọi người dân đều phải đến phục vụ lấy tre, gỗ,
cắt cỏ tranh… dựng nhà xong phải cắt cử người thay phiên nhau trông nhà Lang…
Khi Lang cun cưới vợ thì châu hóa (chức ậu) phải xuất tiền nộp lễ cưới, phụ
đạo phải chịu sự phân công của Lang cun lo tiếp đại tân khách. Tất cả tiền bạc,
lễ vật phục vụ cho đám cưới đều thu của dân theo lệ cống nạp.
Lang cun có việc đại tang thì mỗi nhà trong mường phải nộp 1 con trâu, 10
thước lụa, 20 thước vải trắng, 1 chum rượu (quá nặng)… nhà nào cũng phải để
tang y như để tang bố mẹ mình…
Khi Nhà lang cun giỗ chạp thì hôm trước đó mọi người dân phải đi săn,
đánh cá để làm lễ cúng…
Nếu nhà phụ đạo hay nhà dân có việc tang, việc cầu đảo tế lễ có mổ trâu, bò, lợn,
dê đều phải kính biếu nhà Lang cun một miếng vai, cùng một mâm đồ ăn chín.
Ngoài ra luật lệ bắt buộc hàng năm mỗi nhà phải nộp cho nhà Lang cun

gồm: 1 con lợn, 1 con gà, lá dâu, bông, tơ sống và nhiều thứ khác.
Những luật lệ trên nếu phụ đạo vi phạm đều bị tước mất phần ruộng đạo
(ruộng được chia) hoặc phần quản dân gián tiếp ở trong làng ngoài Mường.
Đối với dân ai vi phạm luật lệ lang, bị phạt rất nặng: có thể bị bắt làm nô tỳ,
hoặc nộp thế tội bằng một con trâu, nếu không có trâu thì bắt con gái làm nô tỳ,
không có con gái thì tịch thu toàn bộ nhà cửa ruộng nương.
Đối với Lang đạo luật lệ quy định: con trai trưởng, con gái trưởng của Lang
đạo bắt buộc phải do dân trong làng (ấp) làm lễ cưới, nếu con cái nhà Lang đạo

19


không tuân theo lệ đó thì hôn nhân không được dân làng thừa nhận. Đương
nhiên việc đóng góp cho hôn lễ lại đổ vào các gia đình trong làng.
Trong những dịp nhà Lang đạo có lễ hiếu hỷ, dựng nhà, cày ruộng nõ, dân
trong làng đến phục dịch, Đạo phải có trách nhiệm làm thịt trâu, bò hoặc lợn lo
cho bữa ăn của dân được đầy đủ, nếu thiếu thì cũng bị khiển trách. Con gái nhà
Đạo hoang thai thì dân có quyền bắt vạ nặng…
Cũng cần nhắc lại rằng nghĩa vụ của dân đối với Nhà lang quá nặng nề: làm
ruộng xâu, ruộng nõ không công, đi phiên phục dịch Nhà lang đủ mọi thứ việc
như dựng nhà, hiếu hỷ, giỗ chạp, các lễ tiết cầu cúng… Ngoài ra hàng năm dân
Mường phải đóng góp - cống nạp nhiều lễ vật khác nhau để Nhà lang tiêu sài.
Chưa tính đến phạt vạ vô cớ mà Nhà lang xử lý tùy tiện theo ý thích, khiến dân
làng vốn đã nghèo túng trở nên sạt nghiệp, hoặc bị biến thành tôi tớ. Điều đáng
sợ đối với người dân là luật lệ Nhà lang truyền đời.
Như vậy luật lệ Mường - luật lệ Lang thể hiện khá điển hình sự thống trị, áp
bức của đẳng cấp Nhà lang đối với người dân Mường. Thân phận những người
nông dân gần như nông nô, sống lệ thuộc chặt chẽ vào Nhà lang. Đời này qua
đời khác họ chưa thoát ra được. Mặc dù sống trong chế độ Nhà Lang bất công
nhưng sự phản kháng của nhân dân Mưởng xảy ra lẻ tẻ tự phát, như nhiều người

ở Mường Bi trước đây đã bỏ Mường đi tìm đất mới ở Thanh Sơn (Phú Thọ),
Yên Bái, Sơn La, sang Lào, hoặc đến miền thượng du Thanh Hóa tiếp tục cuộc
sống. Hoặc nhân dân tập trung phản đối Lang hiện hành thay bằng các Lang
khác. Song cuộc đấu tranh của nhân dân chưa quyết liệt tới mức đánh đổ hoàn
toàn chế độ Nhà lang như phong trào cách mạng sau này.
2.2. Đặc trưng của chế độ Lang Đạo
2.2.1. Tổ chức bộ máy cai trị của Lang Đạo
Hòa Bình là địa bàn cư trú tập trung của đồng bào Mường.Vì vậy, khi nói
đến xã hội của tỉnh Hòa Bình dưới thời phong kiến thực dân là nói đến chế độ
lang đạo, một hình thức tổ chức xã hội của riêng dân tộc Mường, mang tính chất
lãnh địa rất cổ xưa của chế độ phong kiến.
Chế độ Lang đạo Hòa Bình xuất hiện từ lâu đời và ngự trị trong xã hội
người Mường, cho đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp 1946- 1954.
20


Trong tổ chức Lang đạo, trước hết là quan Lang. Nguồn gốc quan Lang có
từ thời xa xưa (thời Hùng Vương) là người có công lao đóng góp công của để
khai lập ra đất Mường của họ. Lúc đầu, mối quan hệ giữa Lang và dân khá mật
thiết. Lang coi dân như con, đối xử tốt, Lang có trách nhiệm dạy dân, tổ chức
dân canh tác đất đai, đấu tranh chống lại thú dữ, giặc dã. Lang giành phần ruộng
đất tốt để sinh sống bằng cách cho người hầu và dân làng trồng trọt. Dân tự
nguyện suốt đời chịu sự cai quan của Lang, biếu Lang một phần sản phẩm làm
ra. Về sau mối quan hệ đó thay đổi về bản chất theo thời gian như trong biên
niên sử triều Tự Đức có ghi chép: Hùng Vương phong cho các con trai tước hiệu
Quan lang, phong cho các con gái tước hiệu cô Nàng. Vua cử mỗi người đi cai
quản một vùng, đây là thời điểm quan hệ giữa Lang và dân khá mật thiết.
Đến thế kỷ thứ X, trong sự nghiệp của mình, Đinh Tiên Hoàng được các
Thổ Lang ủng hộ, giúp đỡ. Khi lên ngôi năm 968 ở Hoa Lư (Ninh Bình), vua
xuống chiếu quy định các quan Lang được quyền thế tập cha truyền con nối,

phong các tước vương cho họ.
Dưới thời Trần họ cũng được ban ân như thời trước và giữ các đặc quyền
quan Lang được quyền thế tập cha truyền con nối, phong các tước vương quyền.
Vua Thánh Tông còn sai đúc nhiều trống đồng để phân phát cho Thổ Lang. Đầu
thế kỷ XX , các kỷ vật quý giá ấy vẫn được các Lang lớn giữ gìn cẩn thận.
Vào thế kỷ XV, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa chống lại quân Minh các quan
Lang ủng hộ rất tích cực. Khi lên ngôi, Lê Thái Tổ ban thưởng rất hậu cho các
Thổ Lang và các phụ đạo Mường đã cộng tác với mình.
Dưới thời Lê Trịnh (Thế Kỷ XVI - XVIII) hiệu quan Lang cùng những luật
lệ của nó cũng không thay đổi. Khi Tự Đức lên ngôi cũng ban phát những đặc
quyền, đặc ân cho các Thổ Lang như đời trước.
Do có lịch sử lâu đời như vậy, nên trong một làng Mường bộ máy cai trị
của Lang đạo được tổ chức như sau.
- Viên quan Lang là người đứng đầu.
- Các ậu giúp việc cho Lang.
- Dân trong Mường.
21


×