NHỮNG CÂU CHUYỆN NGỤ NGÔN
Qua ngụ ngôn,
biết được khôn ngoan của người xưa,
mở ra tâm linh của trẻ em.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch và viết suy tư
1.ĐẠI NIÊN VÀ TIỂU NIÊN
Ngày xưa, có một người tên là Bành Tổ, truyền thuyết nói ông ta sống được bảy tám
trăm tuổi, cho nên khi người ta chỉ cần nói đến trường thọ, thì không ai là không lấy ông ta
ra làm mẫu mực.
Nhưng, ở phía nam của nước Sở có một con linh quy lớn, qua mùa xuân nó sống lâu
được năm trăm năm, qua một mùa thu nó sống được năm trăm năm. Con linh quy nhìn ông
Bành Tổ đoản mệnh thì lấy làm buồn.
Nhưng trước thời cổ nữa thì có một cây xuân lớn, một mùa xuân của nó phải qua tám
ngàn năm mới qua hết, mùa thu cũng phài tám ngàn năm, cho nên cũng coi con linh quy
không ra gì. Ba loại sinh vật này ngày tháng qua gọi là “đại niên”.
Ngược lại, con ve sầu mùa xuân sinh, mùa hạ chết; mùa hạ sinh, mùa thu chết, sống
không qua một năm. Ngoài ra có một loại trùng buổi sáng sinh, chạng vạng tối chết, nguồn
gốc không biết tại sao gọi là “một tháng”. Loại sinh vật này theo ngày tháng gọi là “tiểu
niên”.
Sinh vật sống qua “tiểu niên”, làm sao có thể hiểu được cảm giác sống qua ngày của
những sinh vật “đại niên” chứ ?
(Trang tử: Tiêu dao du)
2.TIỀN ĐỒ RỘNG LỚN
Ở nơi rất xa rất xa nọ là một địa phương mà ngay cả ngọn cỏ cao năm phân cũng không
thể mọc được.
Nơi đó có một con chim lớn trú ngụ gọi là đại bàng. Lưng của nó giống núi Thái Sơn, hai
cánh như đám mây ở góc trời. Khi gió thổi tới thì đại bàng giương đôi cánh bay vào gió lốc,
và có thể dựng đứng bay lên cao chín vạn dặm, vượt qua làn mây mỏng, trong trời xanh
mênh mông bát ngát bay qua hướng nam.
Con chim sẻ trú ngụ trong vùng có nhiều hồ ao nhỏ nhìn thấy thì cười nhạo đại bàng,
nói:“Nó muốn đi đâu vậy chứ ? Ta dùng hết sức lực vượt qua mà bay lên, nhưng cũng chỉ
có thể bay cao mấy trượng mà thôi, làm thế nào rồi cũng bay không qua khỏi cái đám cây
cao rậm rạp này, nhưng như thế cũng là quá lắm rồi, nó bỏ ra nhiều sức bay thật cao để
làm gì chứ ?”
(Trang tử: Tiêu dao du)
Suy tư 2:
Người có kiến thức nông cạn thì không thể hiểu nổi người có chí hướng cao xa, con
chim sẻ quanh năm suốt tháng ở nơi cái vũng nho nhỏ, bay không quá ngọn cây cao rậm
rạp, thì làm gì hiểu nổi chí hướng tận tầng mây của chim đại bàng !
Người có chí hướng cao xa trong trời đất thì có nhiều, nhưng đa phần bị kẻ tiểu nhân
kiến thức nông cạn –họ hoặc là có quyền, hoặc là nịnh hót cấp trên- mà cản trở những
người có kiến thức nhìn xa thấy rộng, cho nên thế giới vẫn cứ mãi chiến tranh, cộng đoàn
không thấy có niềm vui chân thật, và hằng ngày chỉ đóng lại màn kịch yêu thương đoàn kết
giả tạo...
Có một vài linh mục trẻ được làm cha sở, quanh năm chỉ ở trong chủng viện, nhà
dòng, khi được làm cha sở thì cứ tưởng kiến thức và kinh nghiệm của mình bao trùm cả
giáo xứ, nên bác bỏ ý kiến của người giáo dân có kinh nghiệm lâu năm làm việc, chê bai kế
hoạch của ban hành giáo đưa ra và lấy quyền cha sở mà áp đặt, thế là giáo xứ mất đoàn
kết, cha con nhìn nhau không sửa. Ôi buồn thật.
Khiêm tốn là cốt lõi của kiến thức.
3.CHIM SA CÁ LẶN
Mao Tường và Tây Thi là hai người đẹp nổi tiếng thời cổ đại, chỉ cần họ xuất hiện, thì mọi
người nhất định tranh đua tiến lên giành nhau, để muốn tận mắt mình nhìn thấy dung nhan
đẹp đẽ của họ.
Nhưng, khi hai nàng đi đến bên bờ hồ, thì những con cá vốn tung tăng tự tại bơi lội
trong nước, bị thân thể to lớn của hai nàng dọa sợ hãi nên lặn xuống đáy hồ. Hai nàng đi
vào rừng cây, lũ chim nhìn thấy hai nàng vội vàng vỗ cánh bay thật nhanh thật cao, bọn
nai rừng kinh hoảng chạy mất tăm nhìn không thấy tung tích.
(Trang tử: Tề vật luận)
Suy tư 3:
Người ta thường đồn thổi bà Tây Thi và Mao Tường đẹp đến nổi chim phải e thẹn mà
bay, cá phải lặn sâu xuống không dám nhìn, nên mới có câu: đẹp chim sa cá lặn. Nhưng
làm gì có chuyện đó, câu chuyện trên cũng giải thích rõ cho chúng ta thấy rồi, bởi vì cá lội
dưới nước tự nhiên có bóng dáng người to lớn đến thì phải sợ lăn sâu xuống đáy hồ, chim
đang vui vẻ hát ca trong rừng, tự nhiên thấy người là phải sợ bay mất...
Sắc đẹp của con người không ảnh hưởng gì đến loài vật, nhưng tình thương của con
người lại có ảnh hưởng đến chúng nó, nên mới có câu nói: cứu vật vật trả ơn, cứu nhơn
(người) nhân trả oán”.
Người Ki-tô hữu biết rằng, người đẹp hay người xấu trước mặt Thiên Chúa không là gì
cả, nhưng nét đẹp của tâm hồn thì rất có giá trị trước mặt Ngài, bởi vì khi có tâm hồn đẹp
thì đồng thời họ cũng biết đem yêu thương đến cho mọi người, và như thế họ dễ dàng đem
tình yêu của Chúa đến cho mọi người hơn.
4.TRANG CHU MỘNG ĐIỆP
Một con bướm bay trong gió nhẹ, trên không trung bay lượn tung tăng, khi thì bay thấp
bịn rịn giữa những đóa hoa; khi thì bay cao nhìn núi nhìn cây, tự tại nhàn nhã vô cùng.
Đột nhiên, một trận trời rung đất động, thân mình con bướm trở nên nặng nề, biến
thành ông Trang Chu. Chính ngay lúc này, Trang Chu từ trong mộng tỉnh dậy, ông ta nằm
mơ thấy mình biến thành con bướm.
Nhưng, không biết là Trang Chu nằm mơ thấy mình biến thành bướm, hay con bướm
nằm mơ thấy mình biến thành Trang Chu ?
(Trang tử: Tề vật luận)
Suy tư 4:
Có người nằm mơ thấy mình đang trở nên một ông vua oai phong lẫm liệt, có nhiều
hoàng cung, có nhiều gái đẹp cung phụng.v.v...và tưởng mơ là thực, nên khi tỉnh dậy thì
thấy nuối tiếc những gì mình đã thấy được trong giấc mơ.
Cuộc sống của con người giống như một giấc mơ, hư hư thực thực, sự tình chân chân
giả giả có lúc rất khó mà bàn luận, cho nên có nhiều người đang sống trong thời hiện tại
mà vẫ cứ mơ đến “cái thưở xa xưa lưu luyến ấy” của thời huy hoàng mấy chục năm trước,
và thế là họ bỏ quên mất bổn phận của mình, khi sực tỉnh lại thì đã lãng phí rất nhiều thời
gian, sức lực, tiền bạc và sức khỏe...
Người Ki-tô hữu không sống trong mơ, cũng như không mơ trong thực tế, nhưng đem
hết tài năng của mình để làm tốt công việc hiện tại, để giấc mơ của em bé nghèo có sách
vở đi học được hiện thực, để giấc mơ có một mái nhà tranh nương tựa của đồng bào bị bảo
lụt được hình thành, để tình liên đới giữa người với người được thực hiện bằng sự phục vụ
rất thực tế của họ.
Trang Chu không biến thành con bướm, mà con bướm cũng không biến thành Trang
Chu, nhưng giấc mộng hưởng thụ một cuộc sống đầy đủ đã làm cho một số người quên mất
thực tại của cuộc sống hôm nay.
5.BÀO ĐINH GIẢI THÍCH VỀ TRÂU
Người đầu bếp Bảo Đinh có phương pháp dùng đao giết trâu thật tuyệt vời, động tác của
ông ta rất lưu loát, giữa cái đưa đao lên xuống có thể ăn khớp với niêm luật của âm nhạc,
ngay cả quốc vương Huệ Văn Quân khi nhìn thấy cũng không thể nhịn được nói kỷ thuật
của ông ta thật giỏi.
Bảo Đinh nói, khi ông ta bắt đầu giết trâu thì cũng như bao người khác, trong mắt chỉ
nhìn thấy toàn là đầu trâu, nhưng ba năm sau thì ông ta không nhìn thấy hình dáng của
đầu trâu nữa, mà chỉ dùng tâm để tìm hiểu cách kết cấu của thân hình con trâu, dùng đao
xỉa vào các khe hở, xẻ thịt cắt gân, động tác tự nhiên lưu loát, ngay cả nơi các kinh lạc liên
quan với nhau đều không ngừng nghỉ..
Bảo Đinh nói tiếp:“Một đầu bếp bình thường dùng đao chặt xương, một tháng sau thì
thay một con đao, còn tôi dùng cây dao này đã gần mười chín năm rồi, giết trên một ngàn
con trâu, lực đao vẫn như cũ không có gì cùn lụt. Đó là vì trong tâm tôi khi nghĩ đến giữa
những đốt xương và thịt, thì đao cứ theo đó mà đến, đương nhiên là lưỡi đao đưa đi rất
ngọt. Sau khi hoàn thành, thu đao, toàn bộ con trâu giống như đất sét tan tác rơi xuống
đất, mà trâu vẫn cứ không nghĩ rằng mình đã chết rồi.”
Huệ Văn Quân rất vui vẻ tán thưởng nói:“Giỏi thật, ta nghe xong lời nói này thì học được
đạo lý dưỡng sinh.”
(Trang tử: Dưỡng sinh chủ)
Suy tư 5:
Người đầu bếp dùng tâm để giết trâu cách tài tình.
Người Ki-tô hữu dùng tâm để thấy cái ưu điểm của tha nhân mà khuyến khích và học
tập, đó là người khiêm tốn; dùng tâm để thấy cái khuyết điểm của người khác mà không ồn
ào la ó phê bình, đó là người thấu hiểu lẽ rộng lượng trong trời đất; dùng tâm để thấy
nguyên nhân phạm tội của tha nhân mà tha thứ, đó là người bao dung không câu nệ; dùng
tâm để thấy Chúa Giê-su nơi tha nhân để yêu thương và phục vụ là người có cái tâm yêu
thương của Chúa Giê-su.
Xây nhà cho người nghèo, viện trợ kỷ thuật để giúp đỡ cho các bệnh nhân, mở trường
dạy nghề cho các thanh thiếu niên hoàn lương, nhưng không dùng tâm yêu thương để cảm
thông với họ, thì những việc làm trên chỉ có tính cách quảng cáo mà thôi, mà quảng cáo thì
lúc nào cũng nói láo ăn tiền...Ha ha ha...
-
6.NGƯỜI YÊU NGỰA BẮT MUỖI TRÂU
Có một người rất yêu ngựa, trong nhà cũng có nuôi ngựa, ông ta không hề hà tiện với
ngựa, nên lấy những thứ tốt nhất cho ngựa sử dụng. Ông ta dùng cái sọt tre tinh xảo đựng
phân ngựa, dùng đồ đựng quý báu để đựng nước đái ngựa, ngựa của ông ta, có thể nói là
hưởng thụ phú quý ở nhân gian.
Một hôm, khi ông ta đến chuồng ngựa để coi ngựa, thì phát hiện một con muỗi trâu
đang chích (đốt) ngựa, lập tức không chần chừ vung tay đánh bắt muỗi. Kết quả, làm kinh
sợ ngựa nên ngựa cất vó hí vang, không những cắn đứt giây cương, mà còn phá nát cái
hàm thiết trên ngực.
(Trang tử: Nhân gian thế)
Suy tư 6:
Yêu ngựa thích ngựa của người xưa bên Tàu thì cũng giống ngư yêu chó kiểng thích
chó kiểng thời nay của một số người ở giàu có.
Có người chửi mắng như tát nước vào người giúp việc, vì bà ta vô ý đụng phải con chó kiểng
làm nó đau: họ coi trọng con chó hơn hân phẩm con người.
Có người ôm con chó kiểng hôn hít hơn cả hôn con mình: họ bị bệnh hoạn về tinh thần.
Có người dẫn chó ra đường chơi, nâng niu nó hơn cả cha mẹ nâng niu con cái: họ có một
tâm hồn ích kỷ.
Có những người bỏ ra hàng triệu đồng để mua sắm cho con chó, nhưng lấy làm tiếc khi bố
thí vài đồng bạc cho người nghèo...
Con ngựa là loài dùng để cỡi hoặc dể kéo xe giúp cho con người, nuôi cho nó khỏe mạnh
để phục vụ công việc của mình là điều phải làm, nhưng cung phụng nó hơn cả con người thì
là điều bất bình thường, bởi vì con ngựa chỉ là con ngựa.
Thích nuôi chó là một sở thích chẳng tội vạ gì cả, nhưng coi con chó hơn nhân phẩm của
người khác là điều phải lên án, bởi vì con chó kiểng –xét cho cùng- chẳng giúp ích được gì
cho họ cả.
Săn sóc con cái và đặt hết tình thương vào chúng nó, thì có phúc hơn là để hết thời giờ
lo cho con chó kiểng; nhận chăm nom một trẻ em bất hạnh thì có phúc hơn là chăm sóc
một con chó kiểng; đem số tiền lớn giúp đỡ người nghèo thì có phúc hơn là làm đẹp cho con
chó kiểng, bởi vì con chó kiểng, dù cho nó có đeo vòng vàng, cắt lông mô-đen, nhuộm xanh
đỏ thì nó vẫn chỉ là một con chó mà thôi.
Người có tinh thần lành mạnh thì không bao giờ yêu con chó, chăm sóc con chó hơn cả
con người.
7.NGƯỜI XẤU AI THAI THÁC
Nước Vệ có một người tên là Ai Thai Thác, diện mạo của anh ta rất xấu, nhưng những
người đã tiếp xúc với anh ta thì rất thích anh ta. Đàn ông thì không muốn rời anh, đàn bà
thì muốn gả cho anh.
Lỗ Ai công nghe nói chuyện của Ai Thai Thác thì rất tò mò, nên triệu anh ta đến để tiếp
kiến. Vừa nhìn thấy, quả nhiên xấu đến khiếp người, nhưng Ai công ở với anh ta một tháng
thì cảm thấy anh ta có một vài chỗ hơn người; ở với nhau một năm thì rất tin tưởng anh ta;
cuối cùng còn cương quyết đem 7quốc sự giao cho anh ta giải quyết.
Ai Thai Thác cai trị nước Lỗ rất giỏi, nhưng một năm nọ, người của anh ta đột nhiên mất
tích. Từ đó về sau, Ai công cũng có mất đi cảm giác.
(Trang tử: Đức sung phù)
Suy tư 7:
“Đừng nhìn mặt mà bắt hình dong” đó là câu nói của người xưa, bởi vì hình dong
không thể phản ảnh hết tình trạng của tâm hồn.
Có những người diện mạo không đẹp, nhưng tâm hồn thì đẹp, họ hay giúp đỡ người
khác, họ biết choa sẻ với người khác niềm vui nổi buồn, họ biết thông cảm và tha thứ; và
ngược lại, có những người diện mạo rất đẹp nhưng tâm hồn thì xấu xa, họ tốt mã nhưng
lòng thì đầy thù hận, họ đẹp khuynh nước nghiêng thành, nhưng lòng dạ thì độc hơn cả rắn
độc, họ đẹp trai như Phan An Tống Ngọc bên Tàu, nhưng lòng dạ thì sâu hiểm hại người
không gớm tay...
Con người ta được Thiên Chúa tạo dựng không bao giờ trở thành kẻ vô ích thừa thải,
bởi vì ngay cả con sâu xấu xí cũng là thứ hữu ích, huống hồ là con người được Chúa tạo
dựng giống hình ảnh của Ngài, mà người xấu xí Ai Thai Thác là một điển hình.
Nhờ đức tin mà người Ki-tô hữu đều nhìn thấy cái ưu điểm nơi cả những người tội lỗi,
và đối với những người có diện mạo xấu xí, thì người Ki-tô hữu vẫn luôn nhìn thấy cái hay
của họ, bởi vì họ không nhìn thấy cái hình dong xấu xí, nhưng nhìn thấy Chúa Giê-su đang
ở trong cái xấu xí ấy của họ.
Đó chính là cái đắc nhân tâm của người Ki-tô hữu vậy !
8.VÔ DỤNG CHI DỤNG
Một người thợ mộc họ Thạch cùng với đệ tử đi trên đường thì nhìn thấy một cây sồi,
bóng cây của nó có thể che cả ngàn con trâu, gốc cây lớn cả trăm mét, chiều cao thẳng vút
đến ngọn núi, nhưng ông thợ mộc thì không vừa mắt nên cứ thẳng mà đi, đệ tử của ông ta
cảm thấy kỳ quặc nên vượt lên trước để hỏi nguyên do.
Ông thợ mộc nói:“Cây đó không làm gì được cả, làm thuyền, thuyền sẽ chìm; làm quan
tài thì rất mau bị mục, làm đồ để đựng thì sẽ bị nứt nẻ ngay, không có chỗ nào để dùng
được cả, cho nên mới để cho nó sống rất lâu là vậy.”
Một tối nọ, ông thợ mộc nằm mơ thấy cây sồi đến nói:“Có phải hôm nay ông đem tôi ra
để so sánh cái gọi là “hữu dụng chi dụng” phải không ? Trái lê, quýt, bưởi, quả thật khi chín
thì bị các ngươi hái xuống, các cành cây khô cũng bị các người bẻ gảy, đó là bởi vì chúng
nó “hữu dụng” nên mới bị hại bản thân, khiến cho cuộc sống không thể sống trường thọ.
Còn tôi thì cố gắng tự mình làm được đến mức độ “không có chỗ dùng được” đã rất lâu rồi,
có mấy lần tựa hồ như bị đốn ngã, thật không dễ dàng mới bảo toàn tính mạng mình, đó
chính là công dụng lớn của tôi. Nếu như tôi hữu dụng, thì có thể được cao lớn như ngày
hôm nay hay sao ?”
(Trang tử: Nhân gian thế)
Suy tư 8:
Cây có ích thì bị đốn để sử dụng, cây vô dụng thì được để lại; lợn béo thì đem làm thịt
bán, lợn gầy thì được giữ lại; người có tài thì làm không hết việc, người bất tài thì cứ tà tà
mà sống...
Nhưng thà làm người hữu dụng hơn là vô dụng.
Người hữu dụng thì đi đến đâu, làm việc gì cũng đều có ích lợi cho người khác, không
những họ biết việc để làm mà còn đem tình thân ái đến cho người khác; người vô dụng thì
như cây sồi cao to béo tốt, nhưng không một ai cần đến họ.
Người Ki-tô hữu hữu dụng thì luôn thấy mình vô dụng, bởi vì họ biết rằng tất cả tài
năng mình có được đều bởi Thiên Chúa ban cho, và việc hữu ích mà họ làm là vì đó là bổn
phận của một người Ki-tô hữu phải làm1[1] mà thôi, cho nên họ làm việc với tinh thần yêu
mến và phục vụ.
Ngược lại người vô dụng thì luôn tự cho mình là hữu dụng, họ thường la lối khoe
khoang, thích kể những thành tích mà mình làm được cho cộng đoàn này hay đoàn thể nọ,
họ thích mọi người cao rao tên tuổi và việc làm của mình khắp bốn phương thiên hạ...
Thật ra, Thiên Chúa rất công bằng trong việc sáng tạo nên con người, nên không một
người nào là người vô dụng cả, chỉ có những ai tự cao tự đại mới trở thành người vô dụng
mà thôi.
Ai hiểu được thì hiểu !
9.MỞ HUYỆT CHO HỖN ĐỘN
Vua của Nam Hải gọi là Trữ, vua của Bắc Hải gọi là Hốt, vua của trung ương gọi là Hỗn
Độn. Trữ và Hốt thường đến trung ương để du ngoạn, Hỗn Độn vẫn luôn tận tâm tiếp đãi
họ.
Trữ và Hốt rất cảm ơn Hỗn Độn, nên quyết định sẽ làm một việc gì đó cho ông ta để đền
đáp. Ngày hôm ấy, hai người cùng bàn luận nên làm thế nào cho tốt:“Người có thất khiếu,
dùng để nghe, ăn uống, hít thở, nhưng Hỗn Độn lại không có gì cả, thật đáng tiếc, chúng ta
nên giúp ông ta đục khiếu.”
Thế là hai người giúp Hỗn Độn đục mở một khiếu (lỗ), đến ngày thứ bảy thì bảy khiếu đã
đục xong, Hỗn Độn cũng chết luôn.
(Trang tử: Ứng đế vương)
Suy tư 9:
Vạn vật trên thế gian, mọi thứ đều có bộ mặt và đặc tính của chúng nó, không cần
phải hết lòng thay đổi, đẹp nhất chính là sự đơn giản tự nhiên.
-Có những con sư tử được nuôi trong sở thú, nó không còn vẽ oai hùng nhanh nhẹn tự
nhiên nữa, vì đã được con người chăm sóc cung phụng.
-Có những người khi cuộc sống còn khó khăn cơm ngày ba bữa không đủ, mà đời sống của
họ rất đơn sơn tự nhiên ai cũng mến, nhưng khi giàu có lên thì không còn như thế nữa, bởi
vì từ giọng nói cung cách của họ đều thay đổi cho phù hợp với vẻ trưởng giả của mình.
-Có một vài vị khi chưa làm linh mục thì tính tình đơn sơ dễ thương, vâng lời, chịu khó học
tập, nhưng khi làm linh mục rồi, được giáo dân gọi bằng cha thì không còn đơn sơ tự nhiên
nữa, ăn nói “đao to búa lớn”, xa cách mọi người, không còn chịu khó học tập, và dành cho
mình quyền hưởng thụ.
1
Ông vua Hỗn Độn không cần có thất khiếu nhưng vẫn đối xử tận tình tốt lành với bạn bè,
đừng đem cái hiểu biết nông cạn của mình mà thay đổi cái vĩ đại của Thiên Chúa nơi vạn
vật theo ý của mình.
Mà ý của bản thân mình thì chỉ có kiêu căng, khoe khoang và khoác lác mà thôi.
10.HAI NGƯỜI CHĂN DÊ
Có một người giàu có, trong nhà nuôi một bầy dê, một hôm, người chuyên môn chăn dê
bị bệnh, ông chủ bèn kêu một người đầy tớ nam và một đầy tớ nhỏ cùng đi chăn dê, nhưng
không ngờ lần này lại để cho toàn bộ bầy dê mất tiêu.
Chủ nhân rất tức giận, lớn tiếng hỏi:“Lúc đang chăn dê, tụi mày làm gì ?”
Nguyên do là người đầy tớ nam vì bận công việc nên không có thời giờ đọc sách, nên
mang sách theo lợi dụng thời gian đó để đọc, còn đầy tớ nhỏ thì mãi mê chơi ném con súc
sắc và hoàn toàn không chú ý đến bầy dê chạy đi đâu.
Chuyện của hai người này mặc dù khác nhau một trời một vực, nhưng lại giống nhau là
đều làm mất bầy dê.
(Trang tử: Biền mẫu)
Suy tư 10:
Chăn dắt đàn chiên của Thiên Chúa cũng có hai loại: người mục tử chân chính và
người làm thuê.
Người mục tử chân chính thì biết chiên của mình, và chiên cũng biết họ và luôn nghe
lời họ, bởi vì người mục tử biết yêu thương và hy sinh vì chiên của mình.
Người làm thuê thì không biết chiên mà chỉ biết tiền; không nhìn thấy chiên đói mà chỉ
thấy mình thiếu thốn cần phải được phục vụ; không dẫn dắt chiên đi theo đường lối của chủ
chiên, mà chỉ dẫn chiên đi theo những cá tính chủ quan kiêu ngạo của mình; không nghe
tiếng những con chiên nghèo khổ kêu đói, nhưng chỉ nghe những lời nịnh hót tâng bốc của
một vài con chiên giàu có...
Thế là mất cả bầy chiên, vì chiên không còn nghe tiếng của người làm thuê nữa; thế là
cộng đoàn không phải là cộng đoàn nữa, mà là cộng đoàn của một số người có tiền và tiếng
nói của họ rất nặng ký với cha sở...
Đến ngày phán xét Thiên Chúa cũng sẽ hỏi hai loại người chăn chiên ấy:“Khi đang chăn
chiên thì các ngươi làm gì ?”
Ai vui vẻ trả lời được thì thật hạnh phúc vô cùng...
11.ĐẠO (CƯỚP) CŨNG CÓ ĐẠO LÝ
Ngày xưa, có một tên cướp rất nổi tiếng tên là Đạo Chích, những chuyện xấu mà hắn ta
đã làm thì không thể nào đếm nổi, ngay cả Khổng tử cũng có đến sơn trại để khuyên giải
hắn, nhưng hắn ta vẫn cứ làm theo ý mình. Những người đi theo Đạo Chích rất sợ một ngày
kia phải bị hại đến thân, nên hỏi hắn ta:“Làm cướp cũng có quy tắc sao ?”
Đạo Chích trả lời:“Bất cứ việc gì cũng đều có đạo lý nên có thể tuân theo, làm cướp cũng
như thế. Đoán trong nhà có cất những của cải nào quý giá, đó là thánh; dẫn đầu đi vào
trước, đó là dũng; ra sau cùng, đó là nghĩa; căn cứ theo tình huống có thể hay không có
thể hạ thủ, đó là trí; tất cả của cải cướp được phân phối đều nhau, đó là nhân. Có đủ năm
điều ấy, mới có khả năng trở thành một tên đại ăn cướp.”
(Trang tử: Khứ khiếp)
Suy tư 11:
Có những băng cướp chỉ đi ăn cướp của người giàu, đạo lý của họ là lấy kẻ giàu cho
người nghèo; có những băng nhóm tập họp nhau lại để nhậu nhẹt phá phách, quý tắc của
họ là uống quắc cần câu, quậy phá tới bến, đạo lý của họ là chơi cho đời bớt buồn.v.v...
Đã là ăn cướp thì dứt khoác là không có đạo lý thật, dù cho họ ăn cướp của người
giàu giúp cho người nghèo, bởi vì đó là một tội; đã là băng nhóm nhậu nhẹt quậy phá tới
bến, thì nhất định là không thể gọi là đạo lý giải trí được, bởi vì làm hư hại tài sản của
người khác và có khi làm hại đến danh dự nhân phẩm của tha nhân nữa...
Chúa Giê-su thành lập nhóm Mười Hai (12 tông đồ) để các ngài trở thành những
chứng nhân cho Tin Mừng, đạo lý mà các ngài nhận được từ nơi Thầy chí thánh là: “kính
mến Thiên Chúa và yêu người như chính mình”. Nhóm Mười Hai ấy chính là Giáo Hội Công
Giáo, là đại gia đình của những ai tin, yêu và thực hành lời dạy của Chúa Giê-su.
Đôi lúc chúng ta cũng nên tự hỏi lại bản thân: tôi thuộc nhóm nào đây, khi mà tôi chưa
thực sự làm chứng cho Tin Mừng giữa xã hội hôm nay ?
12.NGƯỜI GIÀ TƯỚI VƯỜN
Học trò của Khổng tử là Tử Cống có lần đi qua phía nam của Hán Thủy, nhìn thấy một cụ
già đang múc nước bên giếng, ông lão dùng cái chum lấy nước từ giếng lên, đem nước đổ
vào cái mương nước nhỏ, để nước chảy vào trong vườn tưới hoa màu, thao tác liên tục
không nghỉ.
Tử Cống nhìn thấy ông già khổ như thế, động lòng nói:“Có một loại máy móc gọi là cái
cần kín nước, có thể tiết kiệm công sức, vừa bơm nước có hiệu suất. Lợi dụng cần kín nước
ấy thì một trăm công ruộng trong một ngày có thể tưới xong, sao ông không dùng nó ?”
Lão già nói:“Có cần kín nước nhanh nhẹn khéo léo ấy thì nhất định có chuyện linh hoạt
khéo léo và cũng là có tâm hồn nhanh nhẹn khéo léo. Có ý niệm linh hoạt khéo léo, thì tâm
trí sẽ không thể giữ nguyên bầu trời sáng thuần khiết, thì sẽ tâm thần bất định, cho nên tôi
không muốn dùng cái cần kín nước nhanh nhẹn khéo léo ấy.”
(Trang tử: Trời đất)
Suy tư 12:
Suy nghĩ của ông già tưới hoa màu chỉ đúng một nửa và sai một nửa. Đúng là con
người ta khi có đầu óc linh hoạt khéo léo mà không có đạo đức thì tâm bất định, dễ dàng
suy tính đến những chuyện hại mình hại người; sai là vì khoa học kỷ thuật được vận dụng
vào trong đời sống hằng ngày của con người, để giúp con người tiết kiệm được sức lực mà
hiệu suất tăng lên gấp nhiều lần...
Có người có đầu óc linh hoạt ứng xử khéo léo đến mức người khác phải thốt lên: gian
xảo, đó là sự linh hoạt khéo léo của người không có lòng thành, cho nên xã hội vẫn còn có
nhiều tệ nạn xảy ra; có người chỉ linh hoạt khéo léo khi công việc ấy có lợi ích cho mình,
bằng không thì trở nên kẻ “ngu ngơ” như những người khác nếu việc ấy chẳng liên quan
đến mình, thế là thế gian vẫn còn có nhiều người bàng quan dửng dưng trước những thiệt
hại to lớn của xã hội và Giáo Hội...
Linh hoạt khéo léo của máy móc thì có lợi cho con người, nhưng sự linh hoạt khéo léo
của người không có đạo đức, không có khiêm tốn thì chỉ làm hại người khác mà thôi.
13.NHƯ Ý MUỐN THOẢI MÁI
Hoàn công đọc sách ở lễ đường, dưới lễ đường có một công nhân làm bánh xe đang làm
việc tên là Biển, người ta kêu hắn ta là Biển Bánh Xe. Biển Bánh Xe bỏ công cụ xuống đi lên
lễ đường hỏi:“Xin hỏi quận chủ đang đọc sách gì vậy ?”
Hoàn công trả lời:“Những lời nói của thánh nhân.”
Biển Bánh Xe hỏi:“Thánh nhân còn đó không ?”
Hoàn công nói:“Thánh nhân đã chết rồi.”
Biền Bánh Xe nói:“Như vậy thì ngài đang đọc những tàn dư cặn bã của người xưa.”
Hoàn công nghe xong thì rất là không vui, muốn xử tử Biển Bánh Xe.
Biển Bánh Xe nói:“Tôi là người làm bánh xe, nếu làm nhịp bánh xe lỏng thì không kiên
cố, nếu làm quá cứng thì khi bỏ vào bánh xe thì khó khăn. Công việc của tôi chú trọng đến
việc không chậm không nhanh, thoải mái như ý muốn, cái kỹ thuật ảo diệu nầy khi ở trong
tay thì thi triển rất tốt, miệng không thể nói hết. Cho nên khi nghe tôi nói, thì con trai tôi
không cách gì thể nghiệm cái tâm đắc của tôi để kế thừa kỹ thuật của tôi, nó chỉ có thể tự
mình động thủ thao tác. Cũng vậy, cổ nhân không thể dùng ngôn ngữ truyền thụ nên tinh
hoa đã biến mất, chỉ còn lại những tàn dư cặn bã chính là ngài đang đọc sách thánh hiền
đó ạ.”
(Trang tử: Thiên đạo)
Suy tư 13:
Các vua chúa quan to quan nhỏ thời xưa đều có đọc sách thánh hiền, nhưng vua vẫn
hoang dâm vô độ, quan phủ quan huyện thì bốc lột hà hiếp bá tánh, có chút chức sắc thì đã
làm cha thiên hạ. Tại sao vậy ? Thưa là vì họ chỉ đọc những lời của thánh hiền, mà không
đặt mình vào trong cuộc sống của thánh hiền, cho nên họ không thể sống như thánh hiền
mà họ đã đọc và đã học.
Cũng có những người Ki-tô hữu đọc làu làu Thánh Kinh, kể chuyện Thánh Kinh rất sôi
nổi, nhưng lại không hề thực hành lời dạy của Chúa trong Thánh Kinh.
-Có nhiều người đọc Thánh Kinh nhưng họ cảm thấy khô khan chán nản, bởi vì họ không
dùng cái tâm để đọc và để thấy cuộc sống của Chúa Giê-su.
-Có nhiều người nghiên cứu Thánh Kinh nhưng họ tìm không thấy Chúa Giê-su ở trong
Thánh Kinh, bởi vì họ không dùng con mắt đức tin và lòng khiêm tốn để tìm Ngài.
-Có nhiều người giảng dạy lý luận về Thánh Kinh, nhưng họ không hiểu tại sao có nhiều
người tin vào Chúa Giê-su, bởi vì họ không dùng cái tâm đồng hành với cái trí của họ.
-Có nhiều người chê bai Thánh Kinh là ấu trỉ, hoang đường nhiều óc tưởng tượng, nhưng họ
không hiểu tại sao sách Thánh Kinh lại được xuất bản nhiều nhất trên thế giới, và được dịch
ra nhiều ngôn ngữ nhất trên thế giới, bởi vì họ không nhận ra quyền năng của Thiên Chúa
hiện diện trong vũ trụ này...
Đọc Thánh Kinh không như đọc sách thánh hiền hay các loại sách khác, bởi vì khi đọc
Thánh Kinh thì cần phải có đức tin và lòng khiêm tốn, bởi vì đức tin và lòng khiêm tốn chính
là chìa khóa để mở khon tàng â sủng của Thánh Kinh.
14.BẮC HẢI NHƯỢC VÀ HÀ BÁ
Mùa thu trời mưa âm u không ngừng rơi, mực nước của con sông nhỏ không ngừng dâng
cao. Tất cả đều chảy dồn về trong sông Hoàng Hà, thần nước của sông Hoàng Hà là Hà Bá
nhìn thấy dòng sông của mình lượng nước tràn đầy, biến thành rộng lớn, nên dương dương
tự đắc nói:“Tất cả hưng thịnh đẹp đẽ của thiên hạ đều tụ tập lại trên con người ta !”
Ông ta trôi theo dòng nước chảy về phía đông, đến Bắc Hải, vẻ mặt không thay đổi. Bởi
vì ông ta cứ cố gắng làm như thế nào để mở to đôi mắt, mà cũng nhìn không thấy giới hạn
của nước, nên ông ta nói với thần Bắc Hải là Nhược:“Nếu không đi đến chỗ ngài đây, và
nhìn thấy ngài quá rộng lớn như thế này, tôi làm sao có thể dương dương tự đắc được chứ,
như thế chẳng lẽ không bị người ta cười vì không biết đạo lớn sao ?”
(Trang tử: Thu thủy)
Suy tư 14:
Sông Hoàng Hà rộng, nhưng không rộng bằng biển Bắc Hải, biển Bắc Hải lớn, nhưng
không lớn bằng đại dương, thế mới biết mình tài giỏi thì có người còn giỏi giang hơn mình.
Thời nay, có một vài người lấy tiêu chuẩn học hành ở ngoại quốc để đánh giá trình độ
học vấn của mình, nên kênh kênh kiệu kiệu coi thường bạn bè anh em học ở quốc nội, tự
cho mình là “đồ ngoại” và người khác là “đồ nội”, nên cứ lên mặt ta đây được học ở nước
ngoài, mà không có sự khiêm tốn để nói như thần sông là Hà Bá:“Nếu không thấy công
việc và năng lực của anh, thì tôi làm sao dương dương tự đắc được chứ.”
Có vài người mang tiếng là học các trường lớn ở ngoại quốc, nhưng viết tiếng Anh
không chuẩn, tiếng Tàu nói không thông, trái lại có những người bị coi là “đồ nội” nhưng trở
thành những nhân tài cho đất nước, và thầy dạy của nhiều thế hệ...
Chúa Giê-su không xét theo học lực để cho người Ki-tô hữu vào thiên đàng, nhưng
Ngài phán xét như thế này:“Con có dùng học vấn, tài năng, quyền lực, mà Ta đã ban cho
con, để con trở nên khí cụ bình an của Ta giữa tha nhân không ?”
15.KHỔNG TỬ DU NGOẠN Ở KHUÔNG
Khổng tử và các đệ tử chu du ngoại quốc, có một lần, đi đến đất Khuông của nước Vệ,
người nước Vệ hiểu lầm Khổng từ là Dương Hổ kẻ thù của họ, do đó mà bao vây thầy trò
của ông ta, tình huống lúc ấy thật nguy kịch, chỉ một chút không cẩn thận có thể bị giết
ngay, nhưng Khổng tử vẫn điềm nhiên tự tại gãy đàn xướng ca, Tử Lộ cảm thấy nghi hoặc,
bèn hỏi thầy nguyên do.
Khổng tử nói:“Một người khốn cùng là chủ định của thiên mệnh, như diều gặp gió là bởi
vì thời cơ khá tốt. Thánh nhân có thể giải thích đạo lý này là: khi gặp đại họa đến thân mà
không sợ hãi, đó là cái dũng của thánh nhân, cho nên, Tử Lộ, con không nên lo lắng làm
gì.”
(Trang tử: Thu thủy)
Suy tư 15:
Cái dũng của thánh nhân (tức là người hiểu đạo lý còn gọi là thánh hiền) là cái tâm
luôn an định tự tại trong mọi tình huống: không sợ hãi trước bạo lực, không xiêu lòng trước
lời dụ dỗ, không hãi hùng trước lời dọa nạt, không phân tâm trước nguy khốn.v.v...đó là
một vài cái dũng của thánh nhân.
Cái dũng của người Ki-tô hữu hữu cũng tương tự như thế, nhưng hơi khác một chút
nhưng rất quan trọng, đó là: họ không vì để được người đời phong danh hiệu anh hùng mà
dũng cảm, nhưng vì đức tin vào Chúa Giê-su ; họ không vì để được thế gian ca ngợi là dũng
cảm mà đấu tranh cho công bằng, nhưng họ vì Chúa Giê-su nơi những người bất hạnh, bị
đối xử bất công mà đấu tranh cho công bằng bác ái; họ không vì để được phong thánh mà
sống hy sinh phục vụ tha nhân, nhưng họ bắt chước gương hy sinh quên mình của Chúa
Giê-su để mọi người biết Chúa qua cuộc sống hy đầy hy sinh và phục vụ của mình...
Cái dũng của thánh nhân thì được thế gian ca tụng, cái dũng của người Ki-tô hữu thì
bị người đời chê là dại dột, nhưng thực ra, họ là những người khôn ngoan nhất trên đời, bởi
vì Chúa Thánh Thần dạy bảo họ sự khôn ngoan ấy...
16.CON NHÁI TRONG GIẾNG CẠN
Có một cái giếng cạn, trong giếng có một con nhái, nó nói với con ba ba rất lớn của biển
Đông rằng:“Tôi một mình chiếm một vũng nước, muốn đi ra thì đi bên giếng nhảy nhót,
muốn trở về thì nằm trên viên gạch vỡ mà nghỉ ngơi, nước giếng, xi măng, tôi nổi hứng
dùng thế nào thì cứ việc dùng, tôi ở đây rất vui vẻ. Này ông anh, ông anh có thể đi vào coi
xem sao ?”
Con ba ba của biển Đông mới bỏ cái chân vào liền bị vướng lại, thế là đem tình hình của
biển lớn nói với con nhái:“Tôi ở biển Đông rộng mấy ngàn hải lý, độ sâu khoảng bảy tám
ngàn mét, dù cho có lụt lội lớn hay hạn hán, thì đối với nước như thế đều không ảnh hưởng
gì cả, đó là vui sướng nhất của biển Đông.”
Con nhái trong giếng cạn nghe xong thì ngây người ra, mù tịt không biết gì cả.
(Trang tử: Thu thủy)
Suy tư 16:
Ở bên Tây có truyện ngụ ngôn “con nhái muốn to bằng con bò” nên nín hơi phình
bụng, kết quả là bụng bị bể và con nhái tiêu đời nhà ma. Ở bên Tàu cũng có truyện con
nhái ở trong giếng cạn đem cái nhỏ bé của mình so sánh với cái rộng lớn của biển Đông,
kết quả ngây người ra khi nghe sự rộng lớn của biển Đông.
Ở đời có hai loại kiêu ngạo: một là người học rộng tài cao nhưng không có đạo đức,
họ là những người không coi ông trời ra cái thá gì cả huống gì là tha nhân; hai là những
người kiến thức hẹp hòi, tức là trình độ không đến đâu, nhưng vẫn luôn khoe khoang cái
hiểu biết tài giỏi của mình, những người này thường làm khổ anh chị vì cái kiêu ngạo
“không đúng chỗ” của mình.
Thiên Chúa không thiên vị ai cả, nhưng con người ta cứ lấy cái tài năng của mình ra
để đối xử thiên vị với tha nhân, bắt người khác phải phục vụ mình vì mình tài giỏi, có công
lao to lớn, đó chính là họ muốn bằng Thiên Chúa vậy.
Hãy coi gương con nhái muốn to bằng con bò mà sống khiêm nhường với mọi người hơn
nữa.
17.CHỈ CỦA UYÊN SỒ
Ở phương nam có một loại chim tên là Uyên Sồ, cùng loại với phượng hoàng, nó biết cố
định bay từ biển nam hải di dời đến biển bắc hải. Trên đường bay, không phải cây ngô đồng
thì nó không hạ cánh để nghỉ, không phải quả cây tre thì nó không ăn, không phải nguồn
nước ngọt lịm thì không uống.
Có một con chim cú phát hiện một con chuột chết đã rữa nát, khi nó đang muốn ăn thì
thấy con chim Uyên Sồ bay qua đó, vì sợ chim Uyên Sồ giành giựt thức ăn nên nó lập tức
ngẫng đầu lên, dùng hết lực kêu lên một tiếng “xịa”, cảnh cáo con chim Uyên Sồ phải rời
khỏi đó. Uyên Sồ vẫn thản nhiên cảm thấy không hiểu gì cả, mà con cú mèo rõ ràng là
không ngờ con Uyên Sồ không thèm ăn con chuột thối ấy.
(Trang tử: Thu Thủy)
Suy tư 17:
Kẻ tiểu nhân thì đem lòng dạ của mình ra để đoán lòng dạ của người khác, nên họ
suốt đời không tìm được sự chân thành trong cách sống, như con chim cú tham ăn cứ tưởng
chim Uyển Sồ lại giành giựt thức ăn của mình.
Có một vài người Ki-tô hữu cứ lấy lòng đạo đức của mình ra để đo lòng đạo đức của
người khác, nên họ luôn cảm thấy người khác là tội lỗi, không xứng đáng là người con của
Chúa, và thế là quỷ kiêu ngạo từ từ xâm lấn làm cho lòng đạo đức của họ trở thành pháo
đài công kích người khác.
Con chim Uyên Sồ bay cố định và bay cao, không thèm nghỉ ngơi nếu không gặp cây
ngô đồng quen thuộc, không thèm ăn nếu không gặp quả cây trúc tử. Người Ki-tô hữu đạo
đức thì tâm hồn bay rất cao lên tới Thiên Chúa, họ không đem ai ra so sánh với họ, nhưng
họ chỉ bắt chước gương của Chúa Giê-su; họ không suy nghĩ như người khác là chỉ có bản
thân mình mà thôi, nhưng là vì Chúa Giê-su và vì mọi người mà làm việc bác ái và phục vụ
tha nhân.
Kẻ tiểu nhân không bằng quân tử, người quân tử không bằng người Ki-tô hữu hữu,
mà người Ki-tô hữu biết thực hành Lời Chúa thì trở nên giống Chúa Giê-su.
Đó là bí quyết nên thánh vậy.
18.NGÂY RA NHƯ TƯỢNG GỖ
Chu Tuyên vương rất thích đá gà, và vì để có loại gà đá ưu tú nhất, nên ông đã đặc biệt
mời một người chuyên về gà đá đến nuôi gà cho ông ta. Kế Tinh Tử thì phụ trách bồi dưỡng
và huấn luyện gà đá ở trong cung.
Mười ngày sau Tuyên vương hỏi:“Gà có thể đá được chứ ?”
Kế Tinh Tử đáp:“Chưa được, dáng dấp của nó còn kiêu ngạo tự cao tự đại.”
Qua mười ngày sau nữa, Tuyên vương lại hỏi:“Gà có thể đá được chưa ?”
Kế Tinh Tử nói: “Chưa được, ở bên hể có động tĩnh thì nó có phản ứng.”
Lại qua thêm mười ngày nữa, Tuyên Vương lại hỏi:“Gà có thể đá được chứ ?”
Kế Tinh Tử nói:“Chưa được, khí thế của nó còn mạnh, nhãn thần còn hung dữ,”
Mười ngày sau, Tuyên vương lại vội hỏi, Kế Tinh Tử trả lời:“Cũng gần được rồi, thật ra
nếu có gà khác kêu, nó cũng sẽ không động, tinh thần của nó ngưng đọng trầm ổn, thì
giống như một con gà gỗ, những con gà khác nhìn thấy dáng nó như thế, thì nhất định
không dám nghênh chiến, quay đầu mà chạy.”
(Trang tử: Đạt sinh)
Suy tư 16:
Phàm làm việc gì thì nên bình tĩnh, bình tĩnh đem lại hành động thận trọng, thận
trọng thì tránh được những điều đáng tiếc xảy ra.
-Đừng thấy nhiều người nghe mình rồi cho là thời cơ đến, bởi vì quần chúng thì hay thay
đổi, có khi tham gia cho vui, xong việc thì quên mất, không mấy mặn nồng, cho nên phải
bình tĩnh.
-Đừng thấy có nhiều lời khen ngợi rồi cho rằng cơ hội đã đến, nhưng hãy thận trọng vì lời
khen suông của mọi người, bởi vì lời khen không thể làm gì được cả, ai khen cũng được,
cho nên cái thận trọng là để bảo vệ mình.
-Khi chuyện không đáng xảy ra mà đã xảy ra thì đừng lấy làm tiếc, hoặc hối hận, bởi vì
mình không bình tĩnh và thận trọng nên mới như thế.
Nuôi gà đá không phải một sáng một chiều mà có thể đá được, và càng không thể trở
thành gà đá vô địch, nhưng cần phải có thời gian huấn luyện, huấn luyện và theo dõi tính
cách của con gà mới có thể cho ra trường đấu...
Có một vài người Ki-tô hữu thấy mọi người khen mình là đạo đức thánh thiện, là tài giỏi
năng nổ, nên có lúc tự mình đi quá quyền hạn của một giáo dân trong giáo xứ; có một vài
cha phó được các bạn trẻ khen ngợi tài xốc vác, nhanh nhẹn, nên cứ tưởng mình giỏi hơn
cha sở già, thế là vượt quyền của cha sở và đi sai giáo luật.
Con gà mạnh chưa chắc đá giỏi, nhưng phải bình tĩnh; con gà có nhiều đòn độc chưa
chắc đã vô địch, nhưng nó phải có sự thận trọng...
17.CÁI VUI CỦA CÁ
Trang tử có một người bạn thân tên là Huệ Thi, hai người nói chuyện rất là hợp nhau
và thường cùng nhau đi du ngoạn, nói chuyện thế sự. Ngày nọ, hai người đi đến hồ nước,
đứng trên cầu, Trang tử nói:“Cá thong dong bơi lội , thật là vui vẻ a !”
Huệ Thi nói:“Anh không phải là cá, sao biết được là cá vui vẻ chứ ?”
Trang tử đáp:“Anh không phải là tôi, làm sao biết tôi không biết cá vui vẻ ?”
Huệ Thi nói:“Tôi không phải là anh nên đương nhiên là không biết, nhưng anh cũng
không phải là cá, cho nên cũng không biết cá vui vẻ hay không vui vẻ.”
Trang tử nói:“Nhưng, anh vừa mới bắt đầu thì liền hỏi tôi: “làm sao biết được cá
không vui vẻ ?” Chính câu này bày tỏ anh biết là cá đang vui vẻ.”
(Trang tử: Thu thủy)
Suy tư 20:
Lý luận là để làm sáng tỏ thêm vấn đề, nhưng không thể hiểu thấu tâm trạng của
người lý luận, bởi vì có khi họ lý luận một đường mà lại làm một nẻo; lý luận không có
nghĩa là cãi chày cãi cối, nhưng là để hiểu và thông cảm nhau hơn.
Những vấn để lớn trong Giáo Hội như đức tin, tín lý và luân lý, thì từ ngàn xưa đã có
những vị thánh, những bậc thầy vĩ đại đã thắc mắc, đã lý luận, đã chịu bắt bớ tù đày và
chết vì lập trường chân chính của Giáo Hội, việc của chúng ta –người Ki-tô hữu- bây giờ là
lấy tất cả niềm tin và yêu thương để thực hành những điều mà Thiên Chúa dạy qua Giáo
Hội.
Con cá vui vẻ hay không vui vẻ thì chỉ nó biết, nhưng người Ki-tô hữu thì khi nhìn con
cá tung tăng bơi lội trong nước, nhìn bầu trời xanh xanh, nhìn mặt trời chói lọi, nhìn trăng
sao đẹp dịu vợi trong màn đêm.v.v... thì trong lòng cảm tạ Thiên Chúa, và biết lý luận
rằng: có một Thiên Chúa toàn năng vĩ đại tạo dựng nên vũ trụ vạn vật đẹp và hùng vĩ
này...
20.GÕ CHẬU MÀ HÁT
Vợ của Trang tử chết, hôm ngày lễ tang ông ta không khóc, chỉ ngồi xổm trên đất, gõ
một cái chậu mà xướng ca.
Bạn của ông ta là Huệ Thi đến viếng, nhìn thấy tình cảnh như thế thì không thể tha thứ,
trách móc ông ta là quá vô tình. Trang tử nói:“Không phải như thế đâu, khi bà ta mới chết
tôi làm sao không buồn thương chứ ? Sau đó tôi suy nghĩ thật kỷ, vạn vật trong thiên nhiên
đều là từ trong cái vô hình sinh ra sự sống, sau đó tuổi thọ kết thúc thì lại biến thành hư
vô, như thế biến hóa từ sống qua chết giống như bốn mùa vậy. Bây giờ bà ta an nghỉ yên
lặng, mà nếu tôi tỉ tỉ tê tê khóc lóc náo động, thì không phải là tôi hoàn toàn không hiểu
đạo lý của cuộc đời sao ?”
(Trang tử: Chí lạc)
Suy tư 19:
Cha mẹ, vợ con chết, đương nhiên là buồn thương và khóc; bạn bè người thân thương
chết, đương nhiên là buồn và khóc, đó là chuyện thường tình của con người, và chính Chúa
Giê-su cũng đã thổn thức trong lòng2[2] khi ông La-da-rô chết đã chôn được bốn ngày.
Đạo lý cuộc đời là thuận theo lẽ tự nhiên: người thân qua đời là phải khóc, và dù tuy
không khóc nhưng trong lòng vẫn thổn thức, chứ không thể nói khóc là làm ồn ào động tĩnh
đến người chết, bởi vì con người đã chết rồi thì những tiếng động ồn ào, những lời cãi lý,
những lời chửi mắng.v.v..sẽ không làm cho thân xác sống lại, và cũng chẳng ảnh hưởng gì
đến thân xác đã chết ấy.
Đạo lý của Giáo Hội Công Giáo là người chết rồi nhưng linh hồn thì không chết, linh
hồn sẽ nhờ những lời cầu nguyện của các tín hữu còn sống để được Thiên Chúa tha tội, để
nhờ việc dâng thánh lễ, cầu nguyện hy sinh của giáo hữu mà linh hồn người thân được mau
hưởng nhan thánh Thiên Chúa trên thiên đàng, thân xác sẽ trở về với bụi đất đợi chờ ngày
kết hợp với linh hồn trong ngày Chúa quang lâm.
Vì sợ người ta cười là không hiểu đạo lý cuộc đời nên Trang tử không khóc khi vợ
chết, đó không phải là thái độ của người quân tử, bởi vì để làm một người quân tử thì
không sợ người khác cười khi mình làm đúng, mà khóc vợ chết là không đúng hay sao ?
20.NGƯỜI GÙ BẮT (DÍNH)3[3] VE
Khổng tử đi qua một rừng cây, nhìn thấy trong rừng có một người lưng bị gù đang bắt
ve sầu, tốc độ nhanh giống như dùng tay mà nhặt, Khổng tử rất bái phục, bèn đi đến thỉnh
giáo anh ta bắt ve có bí quyết gì không.
Người lưng gù ấy nói:“Khi mới bắt đầu, tôi chồng trên cần câu hai viên thịt băm, luyện
năm sáu tháng thì viên thịt băm không rơi xuống, tiếp theo luyện thêm ba viên thịt băm,
năm viên thịt băm, kỷ thuật càng ngày càng thuần thục. Thực ra khi mới bắt đầu bắt ve,
tôi im lặng đứng như cái cọc gỗ, trên tay cầm cái cần câu giống như cành cây khô vậy, khi
đối diện với sự luân chuyển rộng lớn của trời đất, thì tôi chỉ bỏ tâm ở nơi cánh của con ve
sầu. Chuyên tâm, thế là bắt ve rất nhanh.”
(Trang tử: Đạt sinh)
2
3
Suy tư 20:
Có nhiều giáo giáo dân khi đi xưng tội thì đa phần cáo lỗi:“Con có không chuyên tâm
khi dâng lễ, đọc kinh, cầu nguyện...”
Chuyên tâm là nổ lực tập trung tâm hồn về một điểm mà mình nhắm tới.
-Điểm nhắm đến khi dâng lễ là Thiên Chúa, là Chúa Giê-su hiện diện trong bí tích Thánh
Thể trên bàn thờ, chứ không phải là công việc làm ăn ở công ty.
-Điểm nhắm đến khi cầu nguyện là Thiên Chúa và những vinh quang của Ngài, chứ không
phải nghĩ đến giờ này người yêu đang làm gì, có nhớ đến mình không...
-Điểm nhắm đến khi đọc kinh là Thiên Chúa và những lời tán tụng quy hướng về Ngài, chứ
không phải là những chuyện làm ăn buôn bán bên ngoài chợ...
Chuyên tâm khi dâng thánh lễ, chuyên tâm khi cầu nguyện, chuyên tâm khi đọc kinh là
việc làm khó, bởi vì ít có ai chuyên tâm được như thế khi mà gia đình không có gạo ăn, khi
mà công việc làm ăn thua lỗ, khi mà người này chửi người kia giận hờn.v.v...
Thiên Chúa biết rõ tâm hồn và cuộc sống của chúng ta, Ngài chỉ yêu cầu chúng ta cố
gắng chuyên tâm khi đến với Ngài, cố gắng và cố gắng, đó là điều làm đẹp lòng Thiên Chúa
hơn cả.
21.NGOÀI NẶNG TRONG CHUYẾT
Khi Nhan Uyên ở trong cốc sâu thẳm, gặp một người có kỹ thuật chèo thuyền rất cao
chở qua sông. Người chèo thuyền nói với ông ta:“Học điều khiển thuyền nhỏ, nếu biết bơi
thì học được nhanh, còn nếu như biết lặn xuống nước thì không học cũng biết.”
Khổng tử nghe mấy câu nói này, bèn nói:“Người biết bơi thì hiểu tính của nước, nên khi
rơi xuống nước thì không kinh hoàng, nên học rất nhanh. Còn đối với người biết lặn thì biển
sâu cũng giống như trên đất, nếu thuyền lật thì chẳng nhằm nhò gì với họ, tự nhiên có thể
bơi thuyền cách khoan thai. Nhưng, nếu đem vàng đi đánh bạc, mà trong tâm người chèo
thuyền cứ nghĩ đến chuyện thua tiền, thì không thể có cách biểu hiện tốt như thế. Cho nên
có thể nói, người coi trọng những việc bên ngoài, thì nội tâm ắt phải chậm chạp.”
(Trang tử: Đạt sinh)
Suy tư 21:
Cha Vincent Lebbe đã dạy các đệ tử của ngài:“Tu sĩ nào coi trọng dáng vẻ bên ngoài
như áo quần, ăn uống.v.v...thì bên trong nội tâm không có gì cả...”
Các nhà tu đức học của Giáo Hội Công Giáo cũng nói như thế.
Có một vài người dâng mình làm tôi tớ Chúa, nhưng luôn thích coi trọng những việc
bên ngoài không có ích gì cho đời sống tu đức của họ:
-Lợi dụng đi giúp xứ, khi xong việc thì chưa muốn về nhà dòng, la cà hết nói chuyện người
này đến người nọ. Họ ít tham gia giờ kinh với cộng đoàn.
-Lợi dụng đi học, rồi đi đến tối mới về với lý do là phải vào thư viện, phải học nhóm.v.v...họ
ít tham gia các việc tập thể của nhà dòng như: làm vệ sinh nhà ở, chơi thể thao, đọc kinh
chung...
Lại có một vài linh mục, tu sĩ quá chú trọng đến việc ăn mặc: thức ăn phải ngon, phải đầy
đủ dinh dưỡng, và cằn nhằn khi nhà bếp nấu quá mặn hoặc quá nhạt. Áo quần thì phải mỗi
ngày mỗi là (ủi), phải mặc những loại vải đắc tiền, phải chải chuốt thật bảnh chọe khi ra
ngoài.v.v...
Ôi, thức ăn ngon sẽ thành phân và bị thải ra ngoài, áo quần đẹp rồi thì cũng sẽ bị rách nát,
hai thứ này không thể đem đến trước tòa Thiên Chúa được.
22.BỎ NGỌC CÕNG CON
Có một người tên là Lâm Hồi, từ Giả Quốc phiêu bạt ra ngoài, khi rời khỏi nhà, ông ta
đem theo ngọc bích giá trị hơn ngàn vàng, tay ẳm con nhỏ vội vội vàng vàng lên đường,
nhưng nào ngờ khi trên đường đi thì gặp tình huống khẩn cấp, ông ta đành bỏ ngọc để ẳm
con mà chạy.
Người đi đường hỏi ông ta:“Nói theo tiền tài thì con nhỏ không đáng đồng tiền; nói theo
kiểu rườm rà thì em bé thật rườm rà. Vậy thì tại sao lại vứt ngọc bích trị giá cả ngàn vàng,
mà ẳm em bé mà chạy ?” Lâm Hồi nói: “Tôi và ngọc bích là vì lợi ích mà kết hợp, với em bé
thì lại là liên quan đến bẩm tính trời ban.”
Cho nên có thể nói, nếu vì lợi ích mà kết hợp quan hệ, thì khi gặp hoạn nạn sẽ vứt bỏ
ngay.
(Trang tử: Sơn mộc)
Suy tư 22:
Vì lợi ích mà liên kết với con người thì có những thứ sau: tiền tài, danh vọng và xác
thịt, chúng nó chỉ đem lại hạnh phúc tạm bợ và đau khổ lâu dài cho con người mà thôi. Bởi
vì người ta thường thấy tiền tài đem lại đau khổ cho con người khi tan gia bại sản; danh
vọng đem lại bất an cho con người khi quyền cao chức trọng không còn; xác thịt trói cột
con người trong những đam mê nhục dục, khiến cho con người bỏ bê những lý tưởng cao cả
của mình.
-Kết bạn vì lợi ích cho mục tiêu: khi mục tiêu đã đạt thì tình bạn sẽ tan rã.
-Tình yêu vì lý do lợi dụng: khi gặp hoạn nạn thì tình yêu sẽ bay mất.
-Phục vụ để lợi dụng cho lợi ích cá nhân: khi bị lợi ích không còn thì trở mặt.
Người Ki-tô hữu có hai thứ quý giá để ẳm khi còn sống ở trần gian này, đó là: thế gian và
đức tin. Nhưng khi cấp bách, bức thiết thì họ sẵn sàng vứt bỏ những gì là của thế gian như
tiền tài, danh vọng, chức quyền, để chỉ giữ lại đức tin mà thôi, bởi vì “thế gian chỉ vì lợi ích
mà kiếm tìm, nhưng đức tin là thiên tính Chúa ban cho họ.”
Bỏ ngọc cõng con là ở đó, ai hiểu được thì hiểu !
23.NƯỚC LỖ NHIỀU NHO SĨ
Trang tử đi gặp Lỗ Ai công, Ai công rất đắc ý, nói:“Nước Lỗ chúng tôi có rất nhiều người
đi học, trên phố có thể bất kỳ lúc nào cũng nhìn thấy nho sĩ mặc áo nhà nho.”
Trang tử nói:“Tôi nghe nói các nhà nho đội mão tròn thì hiểu được thiên thời; nho sĩ
mang giày vuông thì hiểu được địa hình; nho sĩ mà dùng dây ngũ sắc để buộc ngọc quyết,
khi gặp chuyện thì có thể quyết đoán. Nhưng, người mang những thứ trang sức ấy vị tất
hiểu được những điều đó, nếu ngài cảm thấy lời của tôi là đúng, thì tại sao không ra lệnh:
“Nếu quốc dân ai không hiểu những đạo thuật ấy mà mặc áo nhà nho, thì phải xử chết.”
Ai công hạ lệnh chỉ mới năm hôm, thì nước Lỗ từ trên xuống dưới chỉ có một người dám
mặc áo nho sĩ mà thôi.
(Trang tử: Điền tử phương)
Suy tư 23:
Một quốc gia mà có nhiều nho sĩ thì là một đất nước hiền hòa, công bằng; một đất
nước hiền hòa công bằng là vì ai cũng có học hành biết lễ nghĩa.
Thời nay, các cử nhân nhan nhãn đầy đường như lá mùa thu rụng, nhưng cử nhân
dõm thì nhiều hơn cử nhân thật, bởi vì có những cử nhân viết sai lỗi chính tả hơn các em
cấp hai, có những cử nhân viết luận án thì “loan chi ba chao” (lộn xộn không thứ tự); thời
nay có rất nhiều tiến sĩ, nhưng tiến sĩ giấy nhiều hơn tiến sĩ thật, bởi vì tiến sĩ giấy không
nặn ra được một đề tai để bảo vệ luận án, chỉ lấy của người khác sửa vài chữ rồi đề tên
mình vào, rồi chạy chọt, thế là có một mãnh giấy học vị tiến sĩ như ai...
Nếu các nhà giáo dục nghe lời của Trang tử mà ra thông cáo:“Nếu ai có bằng cử nhân
hay tiến sĩ mà không có một đề án thiết thực, cụ thể do mình suy ra, thì bị chém đầu.” Bảo
đảm là sẽ có những vị tiến sĩ giỏi giang, là nhân tài quý báu của đất nước.
Đất nước có nhiều nho sĩ thì không nên mừng rỡ khoe khoang, nhưng nếu đất nước
có nhiều người hiền, có tâm huyết vì tiền đồ đất nước thì nên vui mừng hớn hở, bởi vì đó
chính là tài sản của quốc gia.
24.LIỆT NGỰ KHẤU BẮN CUNG
Liệt Ngự Khâu biểu diễn bắn cung cho Bá Hôn Vô Nhân coi. Anh ta kéo căng dây cung,
trên cánh tay để một ly nước, bắn liên tiếp mũi tên này đến mũi tên kia, toàn thân bình
tĩnh giống như một hình người nộm.
Bá Hôn Vô Nhân không những không khen ngợi anh ta, mà còn nói:“Cách bắn này của
ông không phải vô tâm mà tự nhiên. Ta sẽ đi cùng ông đi lên núi cao kia, đứng trước vực
thẳm trăm trượng ông dám bắn không ?”
Bá Hôn Vô Nhân đi đến vực thẳm, lưng hướng về phía vực thẳm mà bước lui, để hai
phần ba bàn chân trên không, sau đó mời Liệt Ngự Khâu làm theo tư thế đứng của ông ta
mà bắn cung. Liệt Ngự Khâu vẫn có thể bắn thành công sao ? Độ cao như thế làm anh ta sợ
rơi xuống vực, chảy mồ hôi lạnh toát...
(Trang tử: Điền tử phương)
Suy tư 24:
Khi hai chân đứng vững vàng trên núi thì có thể xạ tiễn bách phát bách trúng, nhưng
khi một chân co lên một chân còn lại hai phần ba bàn chân đứng bên vách núi của vực
thẳm thì chưa chắc đã bắn trúng, vì tư thế đứng không ổn định và vì tâm lý sợ rơi xuống
vực thẳm.
Có một vái giáo dân khi nhà ở gần bên nhà thờ thì sớm tối đều đi lễ đọc kinh vì thuận
tiện, nhưng khi ở xa nhà thờ thì không muốn đến nhà thờ, không phải vì giao thông không
tuận tiện, mà cũng không phải vì bận công việc nhưng vì làm biếng, họ đi lễ nhà thờ là vì
để được khen; có một vài người Ki-tô hữu khi no ấm đầy đủ vật chất thì thích ra tay làm
việc thiện bố thí, nhưng khi kinh tế gia đình không còn dồi dào nữa thì một xu họ cũng
không bố thí, bởi vì họ chỉ bố thí những đồng bạc dư thừa mà thôi...
Ở gần bên nhà thờ, chỉ bố thí khi giàu có thì giống như Liệt Ngự Khâu đứng vững
vàng trên đất bắn cung, siêng năng đi lễ đọc kinh, vui vẻ bố thí giúp người những của dư
thừa. Nhưng Thiên Chúa chỉ muốn chúng ta kiên định đức tin và đức ái ngay cả khi cuộc
sống có nhiều gian nan vất vả, bởi vì chỉ có gian nan thử thách mới làm cho đức tin được
sáng chói, chỉ có sự nghèo khó mới chứng minh được lòng yêu người thật.
Và đó chính là người Ki-tô hữu chân thật vậy.
25.THỢ ĐÁ GỌT BÙN
Quốc đô của nước Sở là Sính có một thợ nề, anh ta cùng với người thợ đá góp sức với
nhau. Ông người Sính này khi xử lý bùn, vì không cẩn thận nên bùn giọt trên mũi từng giọt,
anh ta bèn nói với thợ đá giúp gọt sạch nó.
Anh thợ đá cầm cái rìu múa may mạnh như gió, “xòa” một tiếng, vết bùn bay mất tiêu,
cái mũi hoàn toàn vô sự. Trong toàn bộ quá trình, người đất Sính rất bình tĩnh, sắc mặt như
không có gì xảy ra.
Sau khi người đất Sính chết, câu chuyện của họ truyền đến tai Tống nguyên quân, ông
ta sai người đi tìm người thợ đá đến, nói:“Ông cũng đến giúp tôi gọt xem sao !”
Người thợ đá trả lời:“Không làm được, trước đây tôi có thể gọt, nhưng hôm nay bạn đối
thủ của tôi đã chết rồi.”
(Trang tử: Từ vô quỷ)
Suy tư 25:
Có những tuyệt kỷ công phu khi nổi hứng lên mới thi triển được, có những tuyệt chiêu
khi ở trong trạng thái tự nhiên thì mới phát huy công lực, có những biệt tài mà khi gặp bạn
tri kỷ mới thi triển được...
Thợ đẽo đá và thợ nề là hai công việc khác nhau hoàn toàn, nhưng họ vẫn trở thành
một cặp bạn bè tương xứng vì biết tin tưởng nhau, vì tin tưởng vào tài nghệ của bạn mình,
anh thợ đá thi triển tuyệt chiêu gọt bùn cách tài tình vì có người bạn rất bình tĩnh và tin
tưởng anh ta.
Cộng đoàn sẽ không phát triển được nếu các thành viên không tin tưởng nhau; cộng
đoàn cũng sẽ không bao giờ có đoàn kết, nếu người có trách nhiệm mà trình độ hiểu biết và
kinh nghiệm quá nông cạn, bởi vì như thế họ chỉ a dua theo khi làm việc chung mà không
có một sáng kiến giúp cộng đoàn phát triển...
Khi bạn tri kỷ không còn nữa thì người ta không hề muốn thi triển tuyệt kỷ công phu
của mình. Cũng vậy, khi không còn tinh thần nữa thì người ta cũng không muốn làm việc gì
khác ngoài việc làm tốt bổn phận của mình mà thôi.
26.HOÀNG ĐẾ GẶP TIỂU ĐỒNG
Hoàng đế muốn đi đến núi Cụ Từ để gặp Đại Ngỗi, để mời ông ta giảng giải về đạo lớn
của trời đất, đội xe rầm rộ xuất phát, đi đến bên ngoài đồng của Tương Thành thì đội xe bị
lạc đường. Có một em bé chăn ngựa từ xa chậm chậm đi đến, hoàng đế bèn hỏi đường đi,
nói:“Em bé có biết núi Cụ Từ không ?”
Mục đồng đáp:“Biết.”
Hoàng đế lại hỏi::Vậy thì em biết Đại Ngỗi ở đâu không ?”
Em bé chăn ngựa cũng nói biết. Hoàng đế rất kinh ngạc, nói:“Kỳ thật, em bé chăn ngựa
nhỏ như thế mà biết núi Cụ Từ, lại còn biết nơi ở của Đại Ngỗi là thánh nhân hiểu được đạo
lý của trời đất, xin hỏi em, phải làm như thế nào để cai trị thiên hạ ?”
Tiểu đồng nói:“Cai trị thiên hạ có cái gì hả ? Chẳng qua là như thế này, không cần phải
đặc biết tìm việc để làm. Giống như chăn ngựa vậy, cứ để ngựa trưởng thành theo tính tự
nhiên của chúng nó, chỉ cần thiết loại trừ những gì làm hại ngựa là được rồi !”
Hoàng đế nghe xong gọi em bé chăn ngựa là sư phụ trời gởi đến, bái ba lạy, rồi cáo từ
trở về hoàng cung.
(Trang tử: Từ vô quỷ)
Suy tư 26:
Cái đạo lý to lớn của trời đất trong việc cai trị thiên hạ mà một em bé chăn ngựa cũng
hiểu thấu, vậy mà một vị hoàng đế lại không hiểu, cái đạo lý ấy là: cứ để mọi việc thuận
theo lẽ tự nhiên của trời đất. Làm hoàng đế thì chỉ nên canh chừng diệt trừ loại bỏ những gì
làm hại cái tự nhiên của con người là được rồi, mà cái làm hại sự phất triển tự nhiên hài hòa
của xã hội con người là: trộm cắp, gian dâm, cáo gian, vu khống, lừa bịp.v.v...
Chúa Giê-su đến trần gian không phải để bãi bỏ lề luật nhưng là để kiện toàn 4[4],
Ngài vẫn tuân giữ lề luật nhưng làm cho lề luật được hoàn hảo hơn, xuất phát bởi lòng yêu
mến lề luật cách tự nhiên, chứ không phải vì sợ lỗi luật mà sống cách gượng ép và cuối
cùng là lén lút lỗi luật...
Đừng tìm lẽ trời đất ở đâu xa xôi mà lạc đường, bởi vì lẽ trời đất ở ngay trong lòng
của mình, khi lòng trí thuận theo lương tâm mà hành động thì đó là lẽ trời đất, mà lẽ trời
đất đối với người Ki-tô hữu không phải là đạo sao, đạo chính là Thiên Chúa vậy.
27.CÁI KHÉO CỦA NGÔ VÀ HẦU
Ngô vương ngồi thuyền du lãm ở sông Trường Giang, đi đến núi mỹ hầu, bầy khỉ nhìn
thấy người thì vội vàng chạy núp trong rừng sâu, chỉ có một con khỉ không chạy núp, nó
nhảy lui nhảy tới trên cành cây ra vẻ vui mừng, khoe khoang sự nhanh nhạy của mình.
Ngô vương dùng cung bắn nó, nhưng bị nó mau lẹ bắt được mũi tên, Ngô vương tức giận
gọi thêm mấy thuộc hạ nữa cùng nhau bắn tên giết chết con khỉ này. Ông ta quay đầu nói
với Nhan Bất Nghi đứng bên cạnh:“Con khỉ này ỷ vào thân pháp nhanh nhẹn của mình,
trước mặt ta mà kiêu ngạo tự đại như thế, mới biết mất mạng là bởi đó, ngươi phải lấy đó
mà đề phòng.”
Trong lòng Nhan Bất Nghi rất kinh hãi, sau khi về nhà thì bắt đầu đi bái sư lại, sửa chữa
thái độ ngạo mạn kiêu căng của anh ta.
(Trang tử: Từ vô quỷ)
Suy tư 27:
Cái khéo của con khỉ (hầu) là nhảy nhót nhanh nhẹn nên không sợ cung tên bắn, cái
khéo của Ngô vương không phải là tài xạ tiễn, nhưng là biết dùng hoàn cảnh để dạy người
có tính ngạo mạn, làm cho Nhan Bất Nghi rùng mình sợ hãi.
Người kiêu ngạo mà ngạo mạn trước người có tính tự ái, thì trước sau gì cũng bị hạ
gục, bởi vì người có tính tự ái thì không thích những kẻ ngạo mạn đùa cợt mình. Con khỉ
chết là đáng lắm, vì quá ỷ lại vào sự nhanh nhẹn của mình mà đùa cợt với Ngô vương.
4
Lòng tự ái là động cơ thúc đẩy chúng ta vươn lên đạt đến lý tưởng chứ không phải để
trả thù nhỏ nhen; tài năng là để chúng ta xây dựng một xã hội tốt đẹp chứ không phải để
ngạo mạn với tha nhân. Thành đạt và thất bại là ở chỗ hiểu được cái lý của nó.
Cho nên, thái độ ngạo mạn và tự ái “dỏm” không những ngăn trở mình tiến bộ, mà
càng dễ dàng trở thành nguồn gốc mọi tai họa.
28.XÚC MAN TRANH CHẤP
Quốc quân Huệ Vương của nước Ngụy đang suy nghĩ có nên phát động chiến tranh hay
không.
Đới Tấn Nhân đi gặp ông ta, nói:“Có một quốc gia tên là Xúc Thị, vị trí nằm ở bên râu
trái của con ốc sên; có một quốc gia tên là Man Thị, vị trí năm ở bên râu phải của con ốc
sên, hai nước vì tranh đất nên thường hay đánh nhau, dẫn đến tử thương cả vạn, truy đuổi
đội quân bại trận phải đến mười lăm ngày mới ban sư hồi triều.”
Ngụy Huệ vương nghe xong thì nổi giận, chửi ông ta ăn nói xằng bậy, Đới Tấn Nhân
nói:“Trời đất bốn phương không có cùng tận, mở rộng tấm lòng rong chơi trong hoàn cảnh
vô tận thì rất tốt, ngài lại hà tất giống như hai nước Xúc Man kia phát động chiến tranh
sao ?”
(Trang tử: Trắc dương)
Suy tư 28:
Hòa bình hai tiếng tuy đơn sơ dể nói và là mong muốn ngàn đời của nhân loại; chiến
tranh là phá hoại, là không những giết chết thân xác, hủy hoại vật chất, mà còn để lại vết
thương lòng cho con người, người phát động chiến tranh là đệ tử của ma quỷ, bởi vì ma quỷ
là nguyên nhân và là cha đẻ của hận thù.
Chúa Giê-su đã dạy chúng ta:“Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là
con Thiên Chúa.”5[5] Mà người xây dựng hòa bình, trước hết, phải có tâm hồn hòa bình,
nghĩa là biết tha thứ và cảm thông và bao dung.
Thánh Phan-xi-cô Assisi đã “ngộ” ra lời Chúa Giê-su dạy, nên ngài cầu nguyện với
tâm hồn hòa bình như sau:
“Lạy Chúa từ nhân!
Xin cho con biết mến yêu
và phụng sự Chúa trong mọi người.
Lạy Chúa xin hãy dùng con
như khí cụ bình an của Chúa,
để con đem yêu thưong vào nơi oán thù,
đem thứ tha vào nơi lăng nhục,
đem an hòa vào nơi tranh chấp,
đem chân lý vào chốn lỗi lầm.
Ðể con đem tin kính vào nơi nghi nan,
chiếu trông cậy vào nơi thất vọng,
để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm,
đem niềm vui đến chốn u sầu.
Lạy Chúa xin hãy dạy con:
tìm an ủi người hơn được người ủi an,
5
tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết,
tìm yêu mến người hơn được người mến yêu.
Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh,
chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân,
vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ,
chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.
Ôi Thần Linh thánh ái xin mở rộng lòng con,
xin thương ban xuống
những ai lòng đầy thiện chí ơn an bình.”
Ki-tô hữu là người luôn mang lại bình an và hòa bình cho tha nhân, bởi vì họ là những môn
đệ của Chúa Giê-su Ki-tô.
29.NHẬM CÔNG TỬ CÂU CÁ
Nhậm công từ đem sợi dây thừng lớn buột nơi cần câu thật lớn, dùng năm mươi con
trâu để làm mồi, đi lên núi Hội Kê, và dùng hết sức vung cần câu, lưỡi câu bay đến biển
Đông, nhẫn nại ngổi đợi cá đến ăn mồi.
Ngày này qua ngày nọ, đợi cả năm mà không thấy cần câu cá động đậy gì cả. Đột nhiên,
có một con cá lớn đến ăn mồi, cần câu bị kéo xuống nước, cá lớn vùng vẫy, nước cuồn
cuộn, sóng bạc trên biển dâng cao như ngọn núi, khí thế to lớn, truyền xa vạn lý.
Nhậm công tử câu được con cá lớn này thì mỗ bụng nó làm cá khô, người từ Triết Giang
cho đến phía đông, từ Thương Ngô cho đến phía bắc đến ăn thịt cá này đến no cành hông.
Về sau, thấy rất nhiều người cầm cần câu đứng gần bên khe nước nhỏ, đợi cá nhỏ đến để
câu.
(Trang tử: Ngoại vật)
Suy tư 29:
Dùng năm mươi con trâu để làm mồi câu cá chỉ là chuyện thần thoại, kiên trì ngồi câu
cá từ ngày này qua ngày nọ liên tiếp cả năm thì cũng là chuyện bịa đặt kể cho vui, nhưng
người biết dùng ngoại vật để suy tư thì rút ra được bài học như thế này:
Con cá lớn là linh hồn của con người; Nhậm công tử dùng năm mươi con trâu để câu
cá là ma quỷ dùng tiền tài danh vọng và xác thịt để câu linh hồn; kiên trì ngồi câu cá từ
ngày này qua ngày nọ là ma quỷ nhất quyết không bỏ con mồi, nó chuyên môn rình rập tìm
mọi cơ hội để cám dỗ bắt linh hồn người ta mới thôi...
Nhưng ma quỷ thì lợi hại hơn Nhậm công tử nhiều, vì nó biết linh hồn nào thì nên
dùng con mồi nào để câu:
-Người dâng mình làm tôi Chúa thi nó dùng cả ba loại cám dỗ: tiền tài, danh vọng và xác
thịt.
-Người có tiền có của thì nó dùng xác thịt và danh vọng để cám dỗ.
-Người có chức quyền thì nó dùng xác thịt và tiền bạc để cám dỗ.
-Người có chút nhan sắc thì nó dùng tiền bạc và xác thịt để cám dỗ.
Vì ma quỷ biết kiên trì cám dỗ và nhắm đúng đối tượng, nên thế gian vẫn chưa có hòa bình,
xã hội chưa có an vui, gia đình chưa không yêu thương hòa thuận, và bản thân của con
người thì luôn xao xuyến trước tiền tài, danh vọng và xác thịt.
Chỉ có cầu nguyện, hy sinh, hãm mình và siêng năng chịu các bí tích thì mới có thể
chiến thắng được cám dỗ của ma quỷ mà thôi.
30.THẦN RÙA TÍNH SAI
Vào một đêm tối, Tống Nguyên quân nằm mộng thấy có một người đầu tóc rũ rượi đứng
bên cửa phòng ngủ, và nói với ông:“Nguyên quân ạ, ta đến từ nơi biển sâu, Thanh Giang
phái ta làm sứ giả đi gặp Hà Bá, vì không cẩn thận nên lúc đi đường ta bị ngư phủ tên Dư
Thư bắt.”
Nguyên quân kinh hoàng tỉnh dậy, kêu thầy bói đến hỏi, thầy bói bóc quẻ xong thì biết
người trong mộng ấy là thần quy (rùa thần), Nguyên quân hỏi:“Trong nước có ngư phủ nào
tên Dư Thư không ? Kêu nó đến gặp ta.”
Ngày hôm sau, Dư Thư đến trong cung, Nguyên quân hỏi ông ta:“Gần đây nhà người bắt
được gì ?”
Dư Thư trả lời::Tôi lưới được một con rùa trắng, dài khoảng năm thước 6[6].”
Nguyên quân nghe xong thì bắt ông ta mau mau dâng con rùa lên. Sau khi con rùa được
dâng lên thì Nguyên quân phân vân không quyết, không biết nên nuôi hay giết nó, cho nên
mới kêu thầy bói đến hỏi, cuối cùng ông ta quyết định giết con rùa. Quả nhiên, dùng cái mu
rùa để coi bói, thì không có lần nào mà không linh nghiệm, khiến cho Nguyên quân rất thỏa
mãn.
Khổng tử biết được chuyện này, cảm thán nói:“Thần quy có thể báo mộng cho Tống
Nguyên quân, nhưng không thể trốn khỏi lưới của Dư Thư; có thể bói lần nào cũng linh
nghiệm, nhưng không thể tránh khỏi bị nạn moi ruột mỗ bụng.”
(Trang tử: Ngoại vật)
Suy tư 30:
Khổng tử luận rất chí lý về việc con rùa thần có thể báo mộng, có thể coi bói rất hay,
tức là biết trước những chuyện chưa xảy ra, thế mà không thể biết được bản thân mình bị
nạn moi ruột mỗ bụng, đúng là tội nghiệp...
Thế mới biết, chuyện quá khứ, hiện tại và tương lai thì chỉ có một mình Thiên Chúa
biết mà thôi, người Ki-tô hữu luôn xác tín như thế trong đời sống của họ.
Có những ông thầy bói đi coi bói chuyện tương lai của người khác, nhưng tương lai
của mình thì mù tịt; có những ông thầy bói chuyên coi bói chuyện tình duyên gia đạo của
người khác, nhưng tình duyên và gia đạo của mình thì cứ rối ren không ra gì cả; có những
bà thầy bói hành nghề dùng mu rùa để coi công danh sự nghiệp của người khác, nhưng
không hiểu tại sao cuộc đời của mình thì cứ lận đận lao đao mãi không thôi. Thế mới biết,
bói ra ma quét nhà ra rác.
Người Ki-tô hữu biết rằng: làm tốt công việc trong hiện tại, tức là làm tròn bổn phận
và trách nhiệm của mình, thì sẽ có một tương lai hạnh phúc, vui vẻ, bình an, dù cho quá
khứ có nhiều gian nan cay đắng.
6
31.KHÔNG LẤY THIÊN HẠ ĐỂ HẠI MẠNG SỐNG
Vua Nghiêu muốn đem thiên hạ nhường lại cho người tài năng đức độ hơn mình cai trị,
ông ta muốn nhường cho Hứa Do, nhưng Hứa Do không muốn nhận; ông ta lại muốn
nhường cho Tử Châu Chi Phu, Tử Châu Chi Phu nói:“Muốn tôi làm thiên tử cũng được,
nhưng hiện tại tôi đang mắc bệnh, vừa mới đi trị bệnh, nên không có thời gian để cai trị
thiên hạ.”
Quyền thế ngôi báu thiên hạ thì người người đều muốn chiếm đoạt, nhưng ông ta lại
không vì địa vị cao quý mà làm hại đến sức khỏe và cuộc sống của mình, như thế có thể
suy ra mà biết, ông ta nhất định cũng không vì lợi ích nhỏ mà làm hại đại sự của thiên hạ.
Người như thế sẽ không đem thiên hạ biến thành công cụ quyền lực cho riêng mình, nên an
tâm đem thiên hạ trao cho họ vậy.
(Trang tử: Nhường vương)
Suy tư 31:
Vua Nghiêu là một vị vua đạo đức của thời cổ đại bên Tàu, nhưng lại muốn tìm người
đạo đức hơn mình để truyền ngôi báu thiên hạ, đúng là một ông vua đạo đức, thời nay
hiếm có mấy ông vua như thế, khi mà danh vọng và tiền bạc át cả lương tâm !
Chức quyền là miếng mồi hấp dẫn nhất mà ma quỷ dùng để phỉnh gạt nhân loại, bởi
vì hể có chức là phải có quyền lợi, chức vụ càng to thì quyền lợi càng nhiều, thế gian đảo
điên cũng vì chức và quyền.
Chúa Giê-su đã dạy các môn đệ:”Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà
thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không
được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai
muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em.”7[7]
Cho nên có thể nói, không một người có chức quyền nào lại trở thành đầy tớ của mọi
người, nếu họ không có tâm hồn Ki-tô giáo, tức là có một quả tim yêu thương người thân
cận như chính mình.
32.TỬ HOA TỬ GẶP CHIÊU HY HẦU
Nước Hàn và nước Ngụy đang tranh chấp lãnh thổ, lúc ấy Tử Hoa tử đến nước Hàn để
gặp Chiêu Hi hầu, mà Chiêu Hi hầu vì chuyện tranh chấp này nên đang buồn bực. Tử Hoa
tử nói:"Nếu người trong thiên hạ đứng trước mặt ngài lập thề ước, nói: Đoạt đất được rồi
thì có thể đoạt cả thiên hạ, nhưng tay trái đoạt thì phải chặt tay phải đi, tay phải đoạt thì
phải chặt tay trái đi, vậy thì ngài muốn đoạt chứ ?”
Chiêu Hi hầu nói:“Không muốn.”
-“Tốt lắm, vậy thì có thể nói hai tay không quan trọng bằng thân thể, thiên hạ lại không
quan trọng bằng hai tay, nước Hàn lại không quan trọng bằng thiên hạ, bây giờ tranh đoạt
lãnh thổ cũng không quan trọng bằng nước Hàn, vậy thì hà cớ gì vì cái chuyện không quan
trọng ấy mà ngài phải buồn rầu, rồi làm tổn thương đến sức khỏe của mình chứ !”
(Trang tử: Nhường vương)
Suy tư 32:
7
Không ai đoạt miếng đất cỏn con để rồi nói mình đoạt được cả thiên hạ, cũng không
ai đi cướp đoạt của người khác mà nói rằng mình được lòng cả thiên hạ, bởi vì những việc
làm vô lương tâm thì không thể tồn tại và cũng không có gì để rêu rao.
Tử Hoa tử khuyên Chiêu Hi hầu thật chí lý: chiếm đoạt được cả thiên hạ đâu quan
trọng bằng nước Hàn của mình, tức là được lòng dân của nước Hàn, bởi vì nếu được cả
thiên hạ mà mất lòng dân thì thiên hạ trước sau gì cũng mất.
Chúa Giê-su dạy rằng:“Thật vậy, khi anh đi cùng đối phương ra tòa, thì dọc đường
hãy cố gắng giải quyết với người ấy cho xong, kẻo người ấy lôi anh đến quan tòa, quan tòa
lại nộp anh cho thừa phát lại, và thừa phát lại tống anh vào ngục. Tôi bào cho anh biết:
anh sẽ không ra khỏi đó trước khi trả hết đồng kẻm cuối cùng.” 8[8] Đồng kẻm (xu) thì quá
nhỏ mà phải trả cho hết, huống gì là miếng đất to lớn hơn đồng kẻm cả hàng triệu lần, nếu
không trả thì đúng là ở trong hỏa ngục đời đời kiếp kiếp, khiếp thật.
Người Ki-tô hữu hiểu rất rõ ràng câu Lời Chúa trên đây.
33.LẤY NGỌC CỦA NƯỚC TÙY BẮN CHIM SẺ
Nước Tùy ở gần bên Bộc Thủy, Bộc Thủy là nơi sản xuất ngọc quý, chất lượng và thành
phần thật là đệ nhất phẩm, được quân vương của nước Tùy là Tùy hầu lấy làm báu vật của
quốc gia. Mọi người đều biết, ngọc của Tùy hầu rất quý và hiếm có chính là loại ngọc quý
thuộc hạng nhất nhì trên thế gian.
Có một người có rất giàu có, vì chim sẻ ồn ào làm cho sân nhà của ông ta không được
tĩnh lặng, nên ông ta giận dữ cầm ngay viên ngọc Tùy hầu để trên bàn, lấy súng cao su, đi
thẳng ra ngoài sân, nhắm ngay chim sẻ mà bắn, mặc dù chim sẽ bị ông ta bắn đã bay mất
tiêu, nhưng viên ngọc quý Tùy hầu ấy cũng bay theo mất tăm dạng.
(Trang tử: Nhường vương)
Suy tư 33:
Giận dữ thì luôn làm cho người ta mất khôn, không phải vì ỷ mình giàu có mà ông
phú hộ lấy viên ngọc quý Tùy hầu làm đạn bắn chim sẻ, nhưng là vì sự tức giận mà ra, bởi
vì khi giận dữ thì sự sáng suốt không còn nữa, sự khôn ngoan cũng bỏ đi, sự thông minh
cũng chạy trốn, chỉ còn lại cái...dại dột mà thôi.
Có nhiều người tan gia bại sản cũng vì giận mà mất khôn, có nhiều người vào tù cũng
vì giận mất khôn, có nhiều người ôm hận cả đời cũng vì cái giận mất khôn của mình.
-Sự khôn ngoan thì quý báu hơn viên ngọc quý của Tùy hầu, đừng vì giận mất khôn mà làm
mất nó, trở thành kẻ dại dột.
-Trí thông minh thì quý báu hơn viên ngọc quý của Tùy hầu, đừng vì một chút giận dữ mất
khôn mà để nó bỏ đi, trở thành người ngu, dù ngu trong chốc lát.
-Tính điềm đạm thì quý hơn viên ngọc quý của Tùy hầu, đừng vì một chút giận dữ mất
khôn mà trở thành kẻ vũ phu.
Con người ta ai cũng có tính nóng và giận, nhưng người Ki-tô hữu thì lấy Lời Chúa để khống
chế cơn nóng giận, lấy việc năng chịu các bí tích làm phương thuốc chữa trị sự nóng giận,
và noi gương Chúa Giê-su, Đức Mẹ Maria và các thánh nam nữ để sống hiền hòa hơn...
8
34.NHAN HỒI NHÀ NGHÈO NHƯNG KHÔNG LÀM QUAN
Nhan Hồi là người đệ tử mà Khổng tử thích nhất, nhưng gia đình ông ta quá nghèo,
Khổng tử bèn nói với ông ta:“Nhan Hồi, nhà con rất nghèo, tại sao không ra làm quan ?”
Nhan Hồi đáp:“Thưa thầy, ở ngoài thành con có năm mươi mẫu ruộng 9[9], trồng cây
cũng đủ để con ăn cháo; ở trong thành con có mười mẫu ruộng, có thể cung ứng cho con
chút ít vải vóc. Khi nhàn rỗi thì con đánh đàn, nghiên cứu văn học, cuộc sống như thế rất là
khoái lạc, con không muốn làm quan.”
Khổng tử nói:“Ta nghe nói: người biết đủ thì không tìm kiếm lợi lộc mà làm tổn thương
mình; người tự nhiên tự tại thì không lo lắng bị thất bại; người tu dưỡng nội tâm khi không
có tước vị thì hoàn toàn không cảm thấy xấu hổ. Ta có thể chứng minh được điều ấy nơi
con người của con.”
(Trang tử: Nhường vương)
Suy tư 34:
Ở đời có rất nhiều người giàu có nhưng vẫn cứ băn khoăn lo lắng bươn chải kiếm tiền,
bởi vì họ không biết đủ; có nhiều người dù làm những công việc nhỏ nhặt cũng không cảm
thấy an tâm, cứ sợ thất bại, vì họ không có lòng tự tin nơi mình; có nhiều người cảm thấy
xấu hổ vì gia đình nghèo, cảm thấy buồn bực vì không có chức tước, đó là tại vì họ không
biết tu dưỡng nội tâm...
Người ta thấy có những người Ki-tô hữu sống trong những hoàn cảnh rất bất công,
rất tồi tệ, rất phân biệt đối xử của người khác, nhưng họ vẫn an vui, bởi vì:
-Cái “biết đủ” của người Ki-tô hữu là vui vẻ sống trong hoàn cảnh hiện tại, chu toàn bổn
phận của mình rất có trách nhiệm.
-Lòng tự tin của người Ki-tô hữu là biết tín thác cho Thiên Chúa tất cả các công việc mà họ
làm với lòng nhiệt tâm.
-Tu dưỡng nội tâm của họ là luôn nhìn thấy Chúa Giê-su ở trong mình và ở nơi người khác.
Khổng tử vui vẻ chứng thực học trò mình là Nhan Hồi có đầy đủ những đức tính rất tốt,
nhưng càng cảm phục hơn khi nghe Nhan Hồi trình bày lý lẽ tại sao mình không ra làm
quan.
Người ta cũng sẽ vui vẻ chứng thực Ki-tô hữu là người có Chúa Giê-su trong mình, qua
cung cách hành xử đầy tình Chúa tình người của họ, và càng cảm phục hơn khi người Ki-tô
hữu sống và thực hành tinh thần Phúc Âm giữa một xã hội đầy bất công, bạo lực và thù
hận.
35.LIỆT TỬ KHÔNG NHẬN KÊ
Liệt tử là một vấn gia đại học, nhưng trong nhà rất nghèo, ăn cơm thì bữa có bữa không,
cho nên nhìn lên mặt thì thấy vàng ệnh.
Có người nói với tướng quốc nước Trịnh là Tử Dương::Liệt tử là học giả có đạo đức, cư
trú trong nước Trịnh của ngài đó, nhưng gia cảnh rất nghèo. Nếu chuyện này truyền ra
9