Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP SINH LÝ THẦN KINH TRẺ EM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.67 KB, 11 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP SINH LÝ THẦN KINH TRẺ EM
Câu 1: Trình bày đặc điểm hệ thần kinh trẻ em. Hệ thần kinh trẻ em có những
khác biệt gì chính so với thần kinh người trưởng thành.
I.Cấu tạo và chức phận của hệ thần kinh trẻ em
1. Cấu tạo
* Não bộ
- Các tế bào thần kinh chưa được biệt hóa hồn tồn.
- Các hệ thần kinh chưa được miêlin hóa đầy đủ.
- Hệ thống mao mạch của não phát triển nhiều.
- Trong não có chứa nhiều nước.
Chính vì đặc điểm trên mà não trẻ em dễ bị xung huyết, trong các bệnh trẻ em dễ có
phản ứng não (hơn mê, co giật). Khi bị trúng độc trẻ thường bị nặng hơn.
* Tiểu não tuy phát triển muộn nhưng có tốc độ phát triển nhanh. Trẻ sơ sinh tiểu
não chưa phát triển: các rãnh chưa sâu, khối lượng còn nhỏ. Khi trẻ được khoảng 1-2 tuổi
tiểu não có khối lượng và kích thước gần giống với não của người lớn.
* Hành tủy, não giữa có được vị trí giống như ở người lớn về mặt chức năng khi trẻ
được 5-6 tuổi
* Tủy sống có khối lượng và kích thước biến đổi rõ rệt theo chiều cao của trẻ (ví dụ:
Trẻ sơ sinh tủy sống nặng 2-6 gam, sau một tuổi nặng gấp đôi…)
Chiều dài tủy sống được thay đổi tương ứng với chiều dài thân thể (Trẻ sơ sinh
chiều dài tủy sống xấp xỉ 30% chiều dài thân thể…)
Nước não tủy có khoảng 60ml(người lớn 100ml)
* Hệ thần kinh thực vật : Trong giai đoạn đầu của sự phát triển ở trẻ, hai phần giao
cảm và phó giao cảm của hệ thần kinh thực vật phát triển không đồng đều. Hệ giao cảm
có tác dụng chiếm ưu thế trong những tháng đầu của trẻ sơ sinh cho đến 7 tuổi. Hệ phó
giao cảm có tác dụng khi trẻ được 3 tháng.
2. Chức phận
- Phản ứng vỏ não có xu hướng lan tỏa. Do các tế bào thần kinh chưa biệt hóa nên
bất kì một kích thích nào cũng đều gây phản ứng tồn thể.
Ví dụ: Khi kích thích vào da của trẻ (đặc biệt trẻ sơ sinh) thì nó co cả tay và chân.
- Khả năng hưng phấn của vỏ não cịn yếu, chóng bị mệt mỏi. Đặc biệt ở trẻ sơ sinh


khi có kích thích ngoại cảnh q mức sẽ dẫn đến tình trạng ức chế bảo vệ của vỏ não. Vì
thế, trẻ mới sinh ngủ suốt ngày.
- Lúc đầu vỏ não chưa phát triển nên hoạt động của trẻ do các trung tâm dưới vỏ
điều khiển. Do đó ở trẻ sơ sinh có những cử động có tính chất tự phát, có dạng múa giật,
múa vờn của hệ thống ngoại tháp. Dần dẫn vỏ não xuất hiện ở trẻ những vận động có ý
thức và phối hợp như ngồi, đứng, đi. Sau này ở trẻ em khi bị kích thích q mức như sợ
hãi, tức giận có thể gây ức chế cho hoạt động vỏ não, giải phóng trung tâm dưới vỏ và tạo

1


nên những cử động bất thường của hệ thống dưới vỏ(biểu hiện bằng những cử động
khơng mục đích, khơng trật tự, khơng phối hợp)
II. Những khác biệt chính của hệ thần kinh trẻ so với người lớn
- Người lớn có nhiều nơ ron thần kinh hơn
- Não của người lớn có đường liên hệ thần kinh tạm thời giúp thực hiện phản xạ có
điều kiện
- Não bộ phát triển đầy đủ rãnh, thùy rõ nét
- Tế bào thần kinh đã được biệt hóa hồn tồn
- Cân nặng của não bộ 1400gam
Câu 2: Trình bày những hiểu biết của anh chị về phản xạ có điều kiện và ứng
dụng của nó trong Giáo dục mầm non
I. Định nghĩa
1. Phản xạ
Phản xạ là những nhân tố của sự thích ứng thường xuyên hay là thăng bằng thường
xuyên giữa cơ thể và môi trường hoặc có thể nói: phản xạ là hoạt động trả lời của cơ thể
đối với sự thích nghi của cơ quan nhận cảm, được thực hiện qua hệ thần kinh trung ương
Ví dụ: Sờ tay vào nước nóng thì rụt tay lại.
2. Cung phản xạ
Cung phản xạ là đường truyền của xung động thần kinh từ cơ quan thụ cảm qua

trung ương thần kinh đến cơ quan thực hiện
Cung phản xạ gồm 5 khâu: Bộ phận nhận cảm, đường thần kinh tryền cảm giác (dây
thần kinh hướng tâm), trung ương thần kinh: não bộ và tủy sống, đường thần kinh truyền
vận động (dây thần kinh li tâm), cơ quan thực hiện (cơ quan hiệu ứng)
3. Trung khu thần kinh
Trong hệ thần kinh trung ương có những vùng liên quan chặt chẽ với từng chức
phận sinh lí của cơ thể, mỗi vùng như vậy gọi là trung khu thần kinh.
Trung khu thần kinh là một nhóm các tế bào thần kinh tham gia điều khiển một
phản xạ hoặc điều hòa một chức năng nào đó.
Một trung khu thần kinh có thể nằm ở một hay nhiều nơi.
Ví dụ: Trung khu hô hấp vừa nằm ở hành tủy, vừa nằm ở vỏ não.
4. Phản xạ có điều kiện
Phản xạ có điều kiện là phản ứng của cơ thể đối với các tác nhân kích thích tác động
từ bên ngồi hoặc từ bên trong cơ thể với sự tham gia của vỏ não.
Phản xạ khơng điều kiện
Phản xạ có tính chất bẩm sin, di truyền, đặc
trưng cho loài
Số lượng hạn chế
Phản xạ rất bền vững, từ đời này sang đời

Phản xạ có điều kiện
Phản xạ tự tạo, được hình thành trong đời
sống cá thể, đặc trưng cho cá thể
Số lượng không hận chế
Phản xạ khơng bền vững (vì nó là phản ứng

2


khác


thích nghi với nhân tố mới của mơi trường).
Vì thế muốn duy trì phản xạ phải thường
xuyên củng cố.
Tác nhân kích thích phải là tác nhân thích Tác nhân kích thích có thể là bất kì
Ví dụ: Chó có thể chảy nước bọt, liếm mép,
ứng
Ví dụ: Muốn có phản xạ tiết nước bọt thì vẫy đi khi bị điện giật
tác nhân kích thích là thức ăn
Nơi đóng mở của phản xạ là phần dưới vỏ Nơi đóng mở của phản xạ là phần cao nhất
não
của hệ thần kinh – vỏ não
Báo hiệu trực tiếp kích thích gây ra phản xạ Báo hiệu gián tiếp kích thích gây ra phản
xạ khơng điều kiện tương ứng.
II. Điều kiện để thành lập phản xạ có điều kiện
- Phản xạ có điều kiện được thành lập trên cơ sở một phản xạ không điều kiện. Hay
nói cách khác, cơ sở sinh lí của phản xạ có điều kiện là phản xạ khơng điều kiện.
- Tác nhân kích thích có điều kiện phải tác động trước tác nhân kích thích khơng
điều kiện và khoảng cách giữa hai tác nhân không quá lâu.
- Phải thường xuyên củng cố. Nếu không thường xuyên củng cố tác nhân kích thích
khơng điều kiện thì phản xạ sẽ mất đi.
- Đối tượng thực nghiệm phải có bộ phận nhận cảm lành mạnh và phần vỏ não
tương ứng nguyên vẹn.
- Cường độ kích thích của tác nhân có điều kiện và tác nhân không điều kiện phải
đủ mạnh và theo một tỷ lệ tương ứng. Thường tác nhân kích thích khơng điều kiện mạnh
hơn tác nhân kích thích có điều kiện.
- Khơng có tác nhân phá rối.
III. Cơ chế thành lập phản xạ có điều kiện
* Thí nghiệm của Paplốp
Khi cho chó ăn thì chó tiết nước bọt. Đây là phản xạ khơng điều kiện.

Bật đèn kết hợp với cho chó ăn thì chó cũng tiết nước bọt. Làm thí nghiệm này lặp
đi lặp lại nhiều lần. Kết quả là, chỉ cần bật đèn chó cũng tiết nước bọt. Đây là phản xạ có
điều kiện.
Sở dĩ bật đèn chó tiết nước bọt là do ở chó đã thành lập đường liên hệ thần kinh
tạm thời (đường mòn thần kinh) giữa trung khu ăn uống và trung khu thị giác trên vỏ não.
* Cơ chế
Khi cho chó ăn, thức ăn chạm vào lưỡi làm xuất hiện luồng xung động thần kinh
truyền về trung khu ăn uống(ở hành tủy) và gây hưng phấn trung khu này. Từ trung khu
ăn uống, hưng phấn được truyền đến tuyến nước bọt gây tiết nước bọt (phản xạ không
điều kiện). Đồng thời, hưng phấn từ trung khu ăn uống được truyền lên trung khu ăn
uống ở vỏ não và làm cho trung khu này cũng bị hưng phấn.

3


Khi bật đèn các tác nhân kích thích là ánh sáng sẽ tác động đến bộ phận nhận cảm ở
mắt và làm cho bộ phận này bị hưng phấn. Hưng phấn đó được truyền qua dây thần kinh
thị giác về trung khu thị giác trên vỏ não và cũng làm cho trung khu này bị hưng phấn.
Bật đèn kết hợp với cho chó ăn, như vậy cùng một lúc trên vỏ não có hai trung khu
bị hưng phấn (trung khu hưng phấn và trung khu thị giác). Sau nhiều lần tiến hành thí
nghiệm này, dần dần trên vỏ não đã hình thành được đường liên hệ thần kinh tạm thời
(đường mịn thần kinh) giữa hai trung khu đó.
Có hai giả thuyết giải thích về cơ chế hình thành đường liên hệ thần kinh tạm thời:
- Giả thuyết một cho rằng : đường mịn thần kinh được hình thành do sự lan tỏa của
hai trung khu đang cùng hưng phấn trên vỏ não.
- Giả thuyết hai cho rằng: do có sự hút của trung khu hưng phấn ưu thế (trung khu
ăn uống) đối với trung khu hưng phấn yếu hơn (trung khu thị giác)
* Theo quan niệm của Paplốp: khi trên vỏ não có 2 trung khu thần kinh hưng phấn
thì có hiện tượng khuếch tán từ trung khu yếu sang trung khu mạnh và lặp đi lặp lại nhiều
lần thí nghiệm, thì mỗi lần sẽ để lại một dấu vết. Cuối cùng, giữa hai trung khu đó đã

thành lập được đường liên hệ thần kinh tạm thời.
Như vậy, đường liên hệ thần kinh tạm thời đã được hình thành giữa hai nhóm tế bào
của vỏ não theo con đường nằm ngang vỏ não – vỏ não.
IV. Ứng dụng
* Hình thành và rèn luyện các PXCĐK trong hoạt động ăn uống
Việc hình thành PXCĐK cho trẻ thơng qua hoạt động ăn uống giúp trẻ ăn ngon hơn,
ăn nhanh và ăn hết suất, hình thành hành vi văn minh trong ăn uống cho trẻ.
Trước hết, cần hình thành cho trẻ phản xạ về thời gian: Trong lịch biểu chế độ sinh
hoạt của trẻ ở trường mầm non thì giờ ăn trưa của trẻ thường vào khoảng 10h30 – 11h đối
với trẻ mẫu giáo. Sau một thời gian, hoạt động ăn được lặp đi lặp lại nhiều lần với một
khoảng thời gian xác định sẽ giúp cho trẻ hình thành thói quen ăn uống đúng giờ. Nên
những ngày sau, chỉ cần đến giờ ăn, trẻ sẽ có phản ứng tiết nước bọt và thèm ăn. PXCĐK
này giúp kích thích vị giác và các trung khu ăn uống tiết dịch để tiêu hóa thức ăn được
nhanh và dễ dàng hơn.
Phản xạ tiếp theo mà chúng ta cần hình thành cho trẻ là phản xạ về tạo môi trường
ăn uống. Trước bữa ăn, cho trẻ đi vệ sinh, rửa tay, rửa mặt. Cô chuẩn bị thức ăn cho trẻ.
Cô cùng trẻ chuẩn bị cho bữa ăn: bàn ghế, bát thìa, khăn mặt, đĩa đựng thức ăn rơi vãi.
Việc chuẩn bị bữa ăn tạo điều kiện thuận lợi và tâm thế sẵn sàng cho trẻ vào bữa ăn.
Trẻ được vệ sinh sạch sẽ, đồ dùng cho bữa ăn được chuẩn bị đầy đủ. Khi trẻ dọn bàn ăn,
kê bàn ghế cùng cơ, lấy bát thìa, chia thức ăn…lúc này trẻ đã thực sự tập trung vào bữa
ăn, làm cho dạ dày và ruột của trẻ đã trong tư thế sẵn sàng, dịch vị tiết ra nhiều sẽ có lợi
cho tiêu hóa và giúp trẻ ăn ngon miệng hơn.

4


Khi chuẩn bị bữa ăn là lúc tạo ra các kích thích để hướng trẻ vào bữa ăn. Tiếng
động khi chuẩn bị đồ dùng ăn uống, mùi thơm, màu sắc của thức ăn,..được lặp đi lặp lại
trong nhiều ngày liên tiếp có tác dụng kích thích trẻ thèm ăn.
Tuy nhiên, cần cho trẻ ăn đúng giờ để giúp hệ tiêu hóa của trẻ tiết dịch vị và hoạt

động tốt hơn. Thời gian chuẩn bị bữa ăn cho trẻ cũng chỉ nên từ 5 – 10 phút, không nên
để trẻ đợi quá lâu khiến trẻ giảm sự thèm ăn, hiệu quả bữa ăn khơng cao, trẻ nói chuyện
gây ồn ào trong bữa ăn.
Việc hình thành các PXCĐK này cho trẻ trong quá trình ăn uống sẽ giúp trẻ xác
định được thời gian ăn của mình, ăn đúng giờ và ăn nhanh, hết suất. Môi trường ăn uống
sẽ tạo cho trẻ không khí vui vẻ, thoải mái, hào hứng với giờ ăn, mong muốn được ăn từ
đó góp phần kích thích vị giác ở trẻ, trẻ sẽ có phản ứng tiết nước bọt và thèm ăn giúp trẻ
ăn ngon miệng hơn, ăn nhanh hơn, tiêu hóa tốt hơn và đem lại hiệu quả cao hơn trong
bữa ăn.
* Hình thành PXCĐK trong hoạt động ngủ
Trẻ lứa tuổi mẫu giáo ngủ trung bình 10 – 12 tiếng/ ngày và ngủ trưa ở trường từ 2
– 2,5 tiếng. Do đó, việc tổ chức giấc ngủ cho trẻ ở trường mầm non cần phải khoa học và
có hiệu quả.
Đầu tiên, cần hình thành PXCĐK về thời gian ngủ cho trẻ, khoảng từ 11h30 đến
14h. Hàng ngày, sau bữa ăn trưa, trẻ sẽ được giáo viên hướng dẫn thực hiện một số công
việc tự phục vụ như: rửa tay, đi vệ sinh, trải chiếu, lấy gối, chăn ra cho trẻ. Sau khi thực
hiện được một thời gian, hành động này được lặp đi lặp lại nhiều lần thì chỉ cần bữa ăn
kết thúc trẻ sẽ biết mình phải làm gì, và phản xạ buồn ngủ của trẻ được thiết lập.
Ngoài ra, đối với những trẻ bé hoặc khó ngủ giáo viên có thể hát ru kết hợp bật nhạc
nhẹ để ru trẻ ngủ, giúp cho trẻ nhanh đi vào giấc ngủ hơn. Hành động này được giáo viên
thực hiện thường xuyên thì đến một thời điểm nào đó, với các đồ dùng cần thiết, giáo
viên chỉ cần bật nhạc nhẹ một lúc thì trẻ có thể ngủ dễ dàng được mà không cần hát ru.
Với những trẻ khó ngủ, giáo viên vẫn có thể kết hợp hát ru để trẻ ngủ nhanh hơn.
Từ những PXCĐK này, hình thành cho trẻ thói quen tự giác trong việc chuẩn bị
giấc ngủ của mình, có những hành vi văn minh trong q trình ngủ: khơng nói chuyện,
khơng tranh giành chỗ của bạn…để giúp trẻ ngủ nhanh hơn, có giấc ngủ ngon và sâu hơn.
Câu 3: Trình bày cấu tạo của bộ não và những khác biệt chính của bộ não trẻ em
với người trưởng thành.
1. Cấu tạo của bộ não
Cho đến lúc ra đời, não bộ của trẻ vẫn chưa được phát triển đầy đủ, mặc dù hình

thái và cấu tạo giải phẫu của nó khơng khác với não của người lớn là mấy. Ở trẻ sơ sinh,
não bộ có kích thước nhỏ, trọng lượng khoảng 370 – 392g (=1/8-1/9 trọng lượng cơ thể).

5


Ở người lớn trọng lượng của não bằng 1/40 - 1/49 trọng lượng cơ thể. Như vậy, 1kg cân
nặng trẻ em có 109g chất não, cịn ở người lớn chỉ có 20,5g chất não. Trong 9 năm đầu
trọng lượng của não tăng lên mạnh mẽ. Chẳng hạn, trẻ được 6 tháng tuổi, trọng lượng của
não tăng gấp đôi lúc mới sinh, 3 tuổi tăng gấp 3 và khi trẻ được 9 tuổi thì não nặng trung
bình là 1300g (chỉ kém não người lớn khoảng 100g). Đến tuổi dậy thì trọng lượng của
não hầu như không thay đổi. Như thế không có nghĩa trong não khơng xảy ra sự thay đổi
nào.
Lớp trong của não bộ phát triển chậm so với lớp vỏ ngồi, chính sự phát triển q
mạnh đó của lớp vỏ tạo thành những nếp nhăn, những rãnh trên vỏ não. Đến lúc sinh, mặt
ngoài não bộ trẻ sơ sinh giống như ở người lớn (nghĩa là có tất cả các khe và các rãnh,
tuy nhiên các khe và các rãnh còn chưa biểu hiện rõ rệt, chưa sâu). Quá trình này diễn ra
đặc biệt mạnh mẽ đến khi trẻ được 5 tuổi. Khi trẻ được khoảng từ 7-14 tuổi thì não bộ
của nó giống như người lớn.
Não của trẻ em có 100 tỉ tế bào và vỏ não cũng có 6 lớp nhưng các tế bào thần kinh
vỏ não chưa được biệt hóa hồn tồn. Khi trẻ được khoảng 3 tuổi, đa số các tế bào thần
kinh đã biệt hóa, nhưng phải đến khoảng 8 tuổi mới biệt hóa hoàn toàn như ở người lớn.
Các tế bào thần kinh sắp xếp liền nhau khơng những ở mặt ngồi vỏ não mà cả
trong chất trắng nữa. Vì vậy, sự phân biệt giữa chất trắng và chất xám cũng như lớp vỏ và
trung tâm dưới vỏ ở não bào thai và trẻ sơ sinh chưa rõ rệt. Sau này, vỏ não ngày càng
phát triển, các tế bào thần kinh đã phân hóa ra và tập trung ở phần vỏ não.
Ở trẻ mới sinh, các sợi thần kinh chưa được miêlin hóa hết, đến tháng thứ 3 các dây
thần kinh sọ não có vỏ miêlin. Đến tháng thứ 3-6 bó tháp có vỏ bọc miêlin, các dây thần
kinh ngoại biên phải đến khi trẻ được 3 tuổi mới có vỏ bọc miêlin. Nói chung đến gần 2
tuổi thì q trình miêlin hóa đã tương đối hồn thiện. Sự miêlin hóa có ý nghĩa lớn vì nó

góp phần làm cho hưng phấn được truyền một cách riêng biệt theo các sợi thần kinh. Vì
thế, hưng phấn được truyền đến vỏ não một cách chính xác, định khu hơn. Từ đó hoạt
động của trẻ hồn thiện hơn.
Trong thời kì sơ sinh vỏ não và thể vân chưa phát triển. Lúc đầu chủ yếu các trung
tâm dưới vỏ, sau đó vỏ não mới được hình thành và phát triển.
Hệ thống mao mạch trong não của trẻ (đặc biệt là ở trẻ sơ sinh) phát triển mạnh, các
đám rối huyết quản chưa phát triển.
Trong não của trẻ có nhiều nước, nhiều chất đạm, ít chất mỡ. Khi trẻ được 2 tuổi thì
thành phần hóa học của não giống như người lớn.
Sự phát triển của các đường dẫn truyền diễn ra mạnh mẽ theo sự tăng lên của tuổi
và được tiếp tục cho đến khi trẻ 14 - 15 tuổi.
Tóm lại não bộ trẻ em có những đặc điểm sau:
- Các tế bào thần kinh chưa được biệt hóa hồn tồn.
- Các hệ thần kinh chưa được miêlin hóa đầy đủ.

6


- Hệ thống mao mạch của não phát triển nhiều.
- Trong não có chứa nhiều nước.
Chính vì đặc điểm trên mà não trẻ em dễ bị xung huyết, trong các bệnh trẻ em dễ có
phản ứng não (hơn mê, co giật). Khi bị trúng độc trẻ thường bị nặng hơn.
* Tiểu não tuy phát triển muộn nhưng có tốc độ phát triển nhanh. Trẻ sơ sinh tiểu
não chưa phát triển: các rãnh chưa sâu, khối lượng còn nhỏ. Khi trẻ được khoảng 1-2 tuổi
tiểu não có khối lượng và kích thước gần giống với não của người lớn.
* Hành tủy, não giữa có được vị trí giống như ở người lớn về mặt chức năng khi trẻ
được 5-6 tuổi
* Hệ thần kinh thực vật : Trong giai đoạn đầu của sự phát triển ở trẻ, hai phần giao
cảm và phó giao cảm của hệ thần kinh thực vật phát triển khơng đồng đều. Hệ giao cảm
có tác dụng chiếm ưu thế trong những tháng đầu của trẻ sơ sinh cho đến 7 tuổi. Hệ phó

giao cảm có tác dụng khi trẻ được 3 tháng.
2. Chức phận
- Phản ứng vỏ não có xu hướng lan tỏa. Do các tế bào thần kinh chưa biệt hóa nên
bất kì một kích thích nào cũng đều gây phản ứng tồn thể.
Ví dụ: Khi kích thích vào da của trẻ (đặc biệt trẻ sơ sinh) thì nó co cả tay và chân.
- Khả năng hưng phấn của vỏ não cịn yếu, chóng bị mệt mỏi. Đặc biệt ở trẻ sơ sinh
khi có kích thích ngoại cảnh quá mức sẽ dẫn đến tình trạng ức chế bảo vệ của vỏ não. Vì
thế, trẻ mới sinh ngủ suốt ngày.
- Lúc đầu vỏ não chưa phát triển nên hoạt động của trẻ do các trung tâm dưới vỏ
điều khiển. Do đó ở trẻ sơ sinh có những cử động có tính chất tự phát, có dạng múa giật,
múa vờn của hệ thống ngoại tháp. Dần dẫn vỏ não xuất hiện ở trẻ những vận động có ý
thức và phối hợp như ngồi, đứng, đi. Sau này ở trẻ em khi bị kích thích quá mức như sợ
hãi, tức giận có thể gây ức chế cho hoạt động vỏ não, giải phóng trung tâm dưới vỏ và tạo
nên những cử động bất thường của hệ thống dưới vỏ(biểu hiện bằng những cử động
khơng mục đích, khơng trật tự, khơng phối hợp)
3. Những khác biệt chính của hệ thần kinh trẻ so với người lớn
- Người lớn có nhiều nơ ron thần kinh hơn
- Não của người lớn có đường liên hệ thần kinh tạm thời giúp thực hiện phản xạ có
điều kiện
- Não bộ phát triển đầy đủ rãnh, thùy rõ nét
- Tế bào thần kinh đã được biệt hóa hồn tồn
- Cân nặng của não bộ 1400gam
Câu 4: Trình bày những hiểu biết của chị về Định hình động lực (động hình) và
ứng dụng của nó trong Giáo dục mầm non
I.Khái niệm định hình động lực

7


Định hình động lực ( Hoạt động định hình động) là khả năng biến đổi của nó trong

não bộ từ hoạt động định hình cũ sang một hoạt động định hình mới.
II. Cơ chế hình thành hoạt động định hình
Để hiểu được cơ chế hình thành hoạt động định hình động ta tìm hiểu thí nghiệm
sau :
Mơ tả thí nghiệm:
Đầu tiên, tiến hành thành lập ở chó một số phản xạ tiết nước bọt có điều kiện đối
với một số tín hiệu có điều kiện khác nhau (ánh sáng, máy gãi, tiếng chuông, tiếng nước
chảy, máy gõ nhịp 60 nhịp/phút và ức chế phân biệt với tiếng máy gõ nhịp 120
nhịp/phút). Về sau ta cho lặp lại các tín hiệu nói trên theo một trật tự nhất định với
khoảng cách thời gian giữa các kích thích là 5 phút. Trong điều kiện như vậy ta sẽ gây
được các phản ứng phản xạ có điều kiện, có cường độ khác nhau phù hợp với đặc điểm
tác dụng của từng kích thích và một phản xạ ức chế với tiếng máy gõ nhịp 120nhịp/phút.
Tiếp theo, nếu cho các tín hiệu tác dụng lặp đi lặp lại theo một trình tự khơng
thay đổi trong một thời gian xác định ( nhiều ngày liên tục) ta sẽ tạo được trong não
bộ con vật một hệ thống chức năng.
Bây giờ thay tác dụng của các tín hiệu nói trên bằng một tín hiệu bất kì trong số
các tín hiệu đã được sử dụng. Cho tín hiệu này tác dụng liên tục trong 6 lần trên các tín
hiệu cũ. Mặc dù tác dụng lên vị trí lạ, nhưng mỗi kích thích đó lại có tác dụng giống tín
hiệu nằm ở vị trí “ lạ”. Ví dụ, khi tác dụng lên vị trí của tín hiệu phân biệt tất cả các kích
thích đều giảm hiệu lực. Đó là “ vị trí ức chế”. Cịn khi tác dụng lên vị trí có điều kiện
mạnh ( tiếng chng) thì ngay cả kích thích yếu như ánh sang cũng làm cho một lượng
nước bọt khá lớn tiết ra.
Như vậy, não bộ đã vết trật tự kế tiếp của các phản ứng phản xạ với các tín hiệu
khác nhau đã liên kết tất cả chúng lại thành một hệ thống tín hiệu cố định.
III.Một số đặc điểm và ý nghĩa sinh học của định hình động lực
3.1. Đặc điểm của định hình động lực:
- Hoạt động định hình được hình thành rất khó khăn, nhưng khi đã được thành lập, nó
lại có tính ỳ rất lớn và trong các điều kiện khơng đổi thì hoạt động định hình ngày càng trở
nên bền vững.
- Hoạt động định hình có thể thay đổi hay cịn gọi là hoạt động định hình động nếu

thay đổi cả hệ thống các phản xạ đã được cố định trước đó.
- Hoạt động định hình hướng việc thành lập phản xạ mới theo ảnh hưởng của nó.

8


- Hoạt động định hình cho phép phản ứng một cách thích nghi, mặc dù có sự thay đổi
về hồn cảnh.
3.2. Ý nghĩa của định hình động lực trong việc giúp động vật và con người thích
nghi với mơi trường sống:
Từ các tính chất của hoạt động định hình nói trên ta có thể thấy rõ các ý nghĩa đặc
biệt của nó trong tập tính của động vật và trong hoạt động sống của con người. Sự săn
mồi của thú dữ, đào hang của loài gặm nhấm, làm tổ của các lồichim đều là biểu hiện
của hoạt động định hình.
Từ các hoạt động định hình đó của các động vật trong thiên nhiên đã hình thành cái
gọi là cách thức sống. Toàn bộ lối sống của con người cũng dẫn đến sự hình thành vơ số
hoạt động định hình trong lao động và trong sinh hoạt. Các hoạt động đó được biểu hiện
bằng sự xuất hiện trạng thái ngon miệng vào đúng thời gian ăn, cảm thấy khaon khoái sau
khi tập thể dục buổi sang, trong mọi thói quen vệ sinh, trong mọi hoạt động với động tác
chính xác.
Đối với những người có tính tỉ mỉ, tồn bộ thời khóa biểu trong ngày có thể là một
hệ thống cố định, nó làm dễ dàng rất nhiều cho việc thực hiện mọi công việc trong ngày.
Càng lớn tuổi, hoạt động định hình càng được củng cố và càng khó khăn thay đổi.
Do đó, chúng ta thấy tính thủ cựu ở những người già, ở họ tính linh hoạt của các quá trình
thần kinh đều đã giảm sút.
Những sự thay đổi nhanh chóng về lối sống có thể gây ra cho họ sự rối loạn trong
hoạt động thần kinh cấp cao. Có nhiều say mê công việc suốt đời, khi về già thì phải bỏ
cơng việc thường có những cảm xúc khổ tâm khơng phải chỉ vì có ý thức trong lao động
có ích cho xã hội mà cịn vì sự thay đổi hẳn hoạt động định hình đã có sẵn.
Trong cuộc sống hàng ngày của con người, hoạt động định hình chính là cách thức

sống, thích nghi với mơi trường. Định hình là cơ sở sinh lý của việc hình thành thói quen,
kỹ năng, kỹ xảo trong hoạt động và lao động. Nó giúp con người thực hiện dễ dàng một
số động tác phức tạp. Ví dụ: Kỹ năng lái xe ô tô, khi đã biết lái và lái xe một vài lần, dần
dần người ta sẽ trở nên thông thạo và thuần thục ở mọi địa hình.
Động lực định hình động hình giúp con người thích nghi nhanh chóng với sự biến
đổi của môi trường sống. Điều kiện sống không phải là hằng định mà luôn biến đổi,
chuyển động không ngừng, làm cho chuỗi phản xạ trong định hình cũng thay đổi dần dần
cho phù hợp. Chính vì vậy, con người mới có thể thích nghi và ngày càng phát triển.
Trong q trình phát triển lồi, con người là động vật bậc cao tiến hóa thành người, cịn
con vật thì khó có thể thực hiện được.
Ví dụ: Từ xa xưa, giai đoạn đầu tiến hóa thành người của vượn cổ, do điều kiện môi
trường thay đổi, sống ở trên cây khơng cịn thuận lợi cho sự sinh tồn nữa, tổ tiên ta đã từ

9


trên cây xuống mặt đất kiếm ăn bằng phương thức mới đó là săn, bắt, hái lượm. Nhờ vậy,
giúp con người dần dần có dáng đứng thằng, đi bằng 2 chân…
Thay đổi định hình là thay đổi trình tự, thay đổi những quan hệ không gian và thời
gian trong hoạt động của các trung khu ở vỏ não, tạo ra những mối quan hệ mới, tức là
bắt buộc các tế bào vỏ não phải thay đổi hoạt động. Vì thế hoạt động định hình của não
bộ có tính linh hoạt và tính thích nghi cao.
III.Ứng dụng
Do ý nghĩa quan trọng của hoạt động định hình mà nhiệm vụ quan trọng của nhà
giáo là phải chú ý dến các điều kiện làm dễ dàng cho việc thành lập các hệ thống định
hình cần thiết đối với học sinh. Đó là việc tổ chức chế độ học tập hang ngày, thời khóa
biểu hàng tuần, nội dung các bài học dựa trên những hiểu biết đã có của học sinh.
Định hình động lực là cơ sở sinh lý của việc hình thành thói quen, kĩ năng, kĩ xảo và
nề nếp sinh hoạt trong hoạt động của trẻ em. Ví dụ: Có thể hình thành cho trẻ thói quen
rửa tay trước khi ăn, lau miệng và đánh răng sau khi ăn, rửa chân trước khi đi ngủ…. Sau

này, khi trẻ đã hình thành được thói quen, chỉ cần biết sắp được ăn là trẻ sẽ tự hoặc là nhờ
người lớn rửa tay, khi ăn xong thì tự lau miệng và đánh răng. Dựa vào định hình động lực
có thể hình thành cho trẻ kĩ năng phát âm, kĩ năng hát, múa, đóng vai trong các trị
chơi…. Ở mức cao hơn, có thể hình thành và tập luyện cho trẻ những kĩ năng, kĩ xảo
trong các trị chơi như xếp hình khéo, vẽ tranh đẹp, múa đẹp, hát hay…
Thay đổi định hình là thay đổi trình tự, thay đổi những quan hệ khơng gian và thời
gian trong hoạt động của các trung khu ở vỏ não, tạo ra những quan hệ mới, tức là bắt
buộc các tế bào vỏ não của trẻ phải thay đổi hoạt động. Vì vậy, đối với trẻ em, thay đổi
định hình động lực gây căng thẳng thần kinh. Bởi vậy, khi khơng cần thiết, khơng nên
thay đổi định hình. Tuy nhiên, điều kiện sống của trẻ lại luôn luôn biến động và đa dạng
nên sự thay đổi định hình động lực là cần thiết để trẻ thích nghi với điều kiện sống ln
ln biến động. Hơn nữa, nếu tính ổn định của định hình động lực quá mức sẽ làm ngăn
trở sự thích nghi của cơ thể với mơi trường, cản trở sự phát triển và tính linh hoạt của trẻ.
Muốn định hình linh hoạt phải có chế độ luyện tập chu đáo, có cơ sở khoa học cho trẻ
em, quan tâm thường xuyên tới các em mọi nơi, mọi lúc.
ĐỊNH HÌNH ĐỘNG LỰC (Phần 2)
Thế giới chung quanh tác động liên tiếp và đồng thời lên cơ thể một hệ thống tác
nhân kích thích. Trong nhiều trường hợp hệ thống đó được lặp lại nhiều lần và nó đã trở
nên một định hình. Định hình kích thích khi lặp lại nhiều lần sẽ tạo nên trong vỏ bán cầu
não một tấm thảm tương ứng của ổ hưng phấn và ức chế được phát sinh và thay thế lẫn
nhau một cách liên tục.

10


Định hình bên ngồi dẫn đến sự hình thành một hệ thống hoặc như Paplop gọi là
định hình động lực trong hoạt động của vỏ não: Với những điều kiện lặp lại của vỏ não
sau đó cơ thể phản ứng bằng một hệ thống quá trình đã được thiết lập một cách bền vững.
Sự hình thành trong vỏ bán cầu não ĐHĐL đã giúp cho trẻ em có được kĩ năng vận
động như: bước đi, chạy nhảy, trượt cầu, sử dụng thìa dĩa trong lúc ăn…

Việc tạo ra động hình là hoạt động tổng hợp rất phức tạp của vỏ não. Đó là nhiệm
vụ hết sức phức tạp đối với hệ thống thần kinh. Tuy nhiên sự duy trì định hình đã khơng
địi hỏi sự hoạt động căng thẳng của vỏ não. Là một hình thức hoạt động thần kinh cấp
cao rất nhẹ nhàng có lợi đối với cơ thể, ĐHĐL đơi khi trở nên bền vững, khó bị rối loạn
hoặc xây dựng lại.
Kĩ năng và kĩ xảo là một hệ thống hay một tổ hợp các PXCĐK đã được cũng cố có
liên quan với ĐHĐL trong vỏ bán cầu não. Mọi hoạt động giáo dục nhất thiết phải dẫn
đến một ĐHĐL mới làm phong phú và hoàn thiện hoạt động của vỏ não.
Trong cuộc sống hằng ngày có thể gặp rất nhiều ví dụ minh họa một mặt cho sự khó
khăn để hình thành một định hình phức tạp và mặt khác cho tính bền vững của các định
hình đã được xây dựng nên và có sửa đổi. Trẻ em tập đi rất lâu và sau đó là chạy nhảy.
Dần dần người ta tập cho chúng thói quen cầm bút chì, bút mực và nắm được các kĩ năng
đó trong tay.Khó khăn lắm mới tạo cho trẻ em một nề nếp sạch sẽ chỉnh tề, tác phong lễ
phép lịch sự, tác phong làm việc đúng giờ trong ngày như dậy đúng giờ, sắp xếp giường
chiếu, tập thể dục,…
Những kĩ năng kỉ xảo đã được hình thành và cũng cố sẽ được trẻ em thực hiện dễ
dàng và tự nguyện khơng gây ra sự cảm ứng âm tính. Nó được giữ lại trong nhiều năm và
tạo nên thái độ cơ bản của con người. Những kĩ năng vận động đã đạt được trong lúc thơ
ấu (đi cầu trượt, chơi đàn…) và sau đó khơng sử dụng đến trong khoảng thời gian 20-30
năm có thể được phục hồi một cách dễ dàng và nhanh chóng.
Tính bền vững của định hình phức tạp được minh họa bằng những cố gắng lớn lao
để uốn nắn lại những sai sót của trẻ trong khi học viết, chơi đàn, rèn luyện thể dục thể
thao. Việc sửa chữa lại định hình rất khó khăn buộc ta phải chú ý sử dụng những biện
pháp đúng đắn trong sự giáo dục và dạy dỗ từ những năm đầu cuộc sống.

11




×