Chủ đề: Vai trị của thị trường chứng
khốn trong các cuộc khủng hoảng tài
chính
A.
Lý thuyết:
1. Khái niệm: Thị trường chứng khoản là nơi trao đổi mua bán các cơng cụ tài chính.
Khủng hoảng kinh tế: Khủng hoảng kinh tế là khái niệm dùng để chỉ những hiện
tượng kinh tế mất ổn định kéo dài mà khơng điều chỉnh được của q trình tái sản
xuất trong nền kinh tế gây ra những trấn động và hậu quả kinh tế xã hội trong quy
mô rộng hoặc hẹp.
2. Vai trị của thị trường chứng khốn:
Đối với chính phủ.
Thị trường chứng khốn cung cấp các phương tiện để huy động vốn và sử dụng
các nguồn vốn một cách có hiệu quả cho nền kinh tế quốc dân. Chính phủ huy động vốn
bằng việc bán trái phiếu và dùng số tiền đó để đầu tư vào các dự án cần thiết của mình.
Thị trường chứng khốn cịn góp phần thực hiện q trình cổ phần hố. Chính thị
trường chứng khốn có thực mới có thể tun truyền sự cần thiết của thị trường chứng
khoán một cách tốt nhất. Từ đó khuyến khích việc cổ phần hố nhanh lên các doanh
nghiệp quốc doanh.
Thị trường chứng khoán là nơi để thực hiện các chính sách tiền tệ. Lãi suất thị
trường có thể tăng lên hoặc giảm xuống do việc chính phủ mua hoặc bán trái phiếu.
Ngoài ra thị trường chứng khoán là nơi thu hút các nguồn vốn đầu tư gián tiếp từ
nước ngoài qua việc nước ngoài mua chứng khoán.
Đối với các doanh nghiệp.
Thị trường chứng khoán giúp các cơng ty thốt khỏi các khoản vay kh có chi phí
tiền vay cao ở các ngân hàng. Các doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu hoặc trái
phiếu. Hoặc chính thị ttường chứng khốn tạo ra tính thanh khoản để cho cơng ty có thể
bán chứng khốn bất kỳ lúc nào để có tiền. Như vậy, thị trường chứng khốn giúp các
doanh nghiệp đa dạng hố các hình thức huy động vốn và đầu tư.
Thị trường chứng khoán là nơi đánh giá giá trị của doanh nghiệp và của cả nền
kinh tế một cách tổng hợp và chính xác (kể cả giá trị hữu hình và vơ hình) thơng qua chỉ
số giá chứng khốn trên thị trường. Từ đó tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng cơng nghệ mới, cải tiến sản
phẩm.
Thị trường chứng khốn cịn là nơi giúp các tập đồn ra mắt cơng chúng. Thị
trường chứng khốn chính là nơi quảng cáo ít chi phí về bản thân doanh nghiệp.
Đối với nhà đầu tư.
Thị trường chứng khoán là nơi mà các nhà đầu tư có thể dễ dàng tìm kiếm các cơ
hội đầu tư để đa dạng hoá đầu tư, giảm thiểu rủi ro trong đầu tư.
B. Vai trò của thị trường chứng khoán trong các cuộc khủng hoảng tài chính:
I.
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933
1.
Nguyên nhân :
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 là cuộc khủng hoảng kinh tế lớn nhất
trong lịch sử của chủ nghĩa tư bản. Đó là cuộc khủng hoảng sản xuất “ thừa”, bởi vì sự
sản xuất bừa bãi, ồ ạt chạy theo lợi nhuận trong những năm ổn định của chủ nghĩa tư bản
1924-1929 đã dẫn đến tình trạng hàng hố ế thừa vì sức mua của quần chúng đã bị giảm
sút nhiều do sự bóc lột tàn tệ của giai cấp tư sản.
2.
Diễn biến :
Tháng 9-1929, cuộc khủng hoảng bắt đầu từ nước Mĩ, là nước tư bản giàu nhất.
Sản lượng công nghiệp ở Mĩ giảm 50%, trong đó gang, thép sụt xuống 75%, ơ tơ giảm
90%, 11500 xí nghiệp nhỏ và cả những xí nghiệp lớn bị phá sản. Nơng thơn cũng bị tác
động mạnh mẽ.
Để nâng cao giá hàng hoá và thu nhiều lời, các nhà tư bản kếch sù đã tiêu huỷ
hàng hố : cà phê, sữa, lúa mì, thịt, ...v.v... bị đốt hay đổ xuống biển chứ không được bán
hạ giá.
Cuộc khủng hoảng lan rộng đến các nươc` tư bản chủ nghĩa khác. Ở Anh, sản
lượng gang năm 1931 sụt mất 50% , thép cũng sụt gần 50% , thương nghiệp sụt 60%. Ở
Pháp, cuộc khủng hoảng bắt đầu từ cuối năm 1930 và kéo dài đến năm 1936, sản lượng
công nghiệp giảm 30%, nông nghiệp 40%, ngoại thương 60%, thu nhập quốc dân 30%. Ở
Đức, đến năm 193, sản lượng công nghiệp giảm 77%. Ở các nước Ba Lan, Ý, Ru-ma-ni,
Nhật, ... đều có khủng hoảng kinh tế.
Để cứu vãn tình hình, chính phủ các nước tư bản thi hành một số chính sách như
đánh thuế nhập cảng nặng để hạn chế hàng hố nước ngồi vào, lấy tiền trong ngân quỹ
nhà nước trợ cấp cho các nhà tư bản. Chính phủ Mĩ đã bỏ ra hàng chục triệu đô la trong
việc trợ cấp này.
Cuộc khủng hoảng kéo dài trong 4 năm, đến năm 1933 thì chấm dứt.
3.
Hậu quả :
- Trong thời kì khủng hoảng kinh tế, đời sống nhân dân thật khốn khổ.
Thứ nhất là nạn thất nghiệp. Ở Mĩ, năm 1933, có 17 triệu người thất nghiệp, đó là
chưa kể vơ số nông dân bị phá sản, phải bỏ ruộng vườn đi ra thành phố sống lang thang.
Ở Anh, năm 1931, có 3 triệu người thất nghiệp. Ở các nước khác cũng xảy ra tình trạng
ấy.
- Thứ hai là tiền lương bị giảm xuống rất nhiều. Ở Mĩ, lương công nhân công
nghiệp chỉ còn 56 % . Ở Anh lương giảm còn 66%; ở Pháp lương giảm từ 30 đến 40% .
Đó là chưa kể giá đồng bạc sụt xuống làm cho tiền lương thực tế càng bị giảm sút hơn. Ở
Pháp, mức thu nhập của nông dân giảm 2,7 lần và hàng vạn nông dân bị vỡ nợ và phá
sản. Do đó đời sống của nhân dân lao động rất cùng cực. Năm 1931, riêng thành phố Niuooc ( Mĩ ) có hàng nghìn người chết đói.
Bị đẩy đến bước cùng cực, công nhân và nhân dân lao động nổi dậy đấu tranh. Ở
Mĩ năm 1930 có 2 vạn cơng nhân biểu tình thị uy, từ năm 1929-1933, có 3 triệu rưỡi
công nhân tham gia bãi công. Ở Đức, năm 1930, 15 vạn công nhân bãi công, năm 1933,
35 vạn công nhân mỏ bãi công.
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 là cuộc khủng hoảng lớn nhất trong những
cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra từ xưa đến nay. Nó làm cho những mâu thuẫn trong xã
hội tư bản và mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau đã gay gắt càng thêm gay gắt, chủ
nghĩa tư bản thế giới càng thêm suy yếu.
4.
Vai trị của thị trường chứng khốn:
Chính phủ đang ra sức bảo vệ các nhà đầu tư bán lẻ. Nhà đầu tư nên hiểu quy tắc
của thị trường là lợi nhuận lớn đồng nghĩa với rủi ro cao.
Sau khi Chính phủ vào cuộc để vực dậy thị trường, một số nhà đầu tư có kinh
nghiệm đã bắt đầu chiến dịch săn lùng các cổ phiếu rẻ. Họ hy vọng thị trường sẽ dần
phục hồi mặc dù có một số biến động ngắn hạn do các loại cổ phiếu có mệnh giá thấp vẫn
ở mức cao hơn giá trị thực của nó và một số nhà đầu tư vẫn phụ thuộc vào địn bẩy tài
chính.
Như vậy là khơng khí thị trường đầu cơ giá lên vẫn còn tồn tại trên thị trường
chứng khoán . Các nhà đầu tư chứng khốn hy vọng Chính phủ và chính bản thân họ sẽ
rút ra một bài học quý giá từ cuộc khủng hoảng này. Thị trường được thiết kế cho tài
chính dài hạn, chứ khơng phải đầu cơ ngắn hạn. Các nhà đầu tư nên tôn trọng sức mạnh
của thị trường
II.
Sụp đổ thị trường chứng khoản Mỹ 1987
1. Nguyên nhân và bối cảnh kinh tế:
Sau cuộc khủng hoảng 1929-1933, SEC(ủy ban giao dịch chứng khoán Mỹ) đã
hoạt động rất tốt, dần lấy được lòng tin nhà đầu tư và họ bắt đầu quay trở lại thị trường
vào những năm 60. Vào những năm đầu thập kỷ 60 và 70 của thế kỷ trước, nhà đầu tư
không mấy quan tâm đến giá trị doanh nghiệp mà họ quan tâm đến hình ảnh, sự tiếp cận
của doanh nghiệp đến công chúng, đến những ý kiến khơng chính thức về doanh nghiệp
hơn. SEC đã yêu cầu những công ty này phải thông báo rõ ràng, chính xác rằng bản thân
cơng ty khơng hề có tài sản đảm bảo, thậm chí khơng có một cơ may nào để thực hiện
những ý tưởng đó, nhưng nhà đầu tư vẫn cứ tin rằng tiềm năng của những cơng ty này là
khơng
có
giới
hạn.
Thập niên 80 cũng là giai đoạn mà những hoạt động tài chính diễn ra cực kỳ sôi động,
đặc biệt là hoạt động sáp nhập, thâu tóm và sự hình thành của nhiều tập đồn lớn. Thâu
tóm và sáp nhập diễn ra ở khắp mọi nơi, ở mọi cấp độ, nhiều thương vụ đã áp dụng kỹ
thuật “mua lại dựa trên vay nợ” thông qua phát hành những loại trái phiếu chất lượng
thấp cho nhà đầu tư. Áp dụng cơng thức tốn mang tên “nền kinh tế mới”, tăng trưởng
của những doanh nghiệp Mỹ sau sáp nhập được tính theo cấp số nhân chứ khơng cịn đơn
giản
là
cộng
hai
doanh
nghiệp
hợp
nhất
lại
với
nhau.
Đầu năm 1987, SEC đẩy mạnh hoạt động điều tra các giao dịch nội gián một cách vội
vàng, theo nhiều chun gia là thiếu tính tốn. Ở thời điểm mà hầu hết nhà đầu tư bắt đầu
quan tâm đến khả năng Wall Street sẽ cần phải xem xét lại chính sự tăng trưởng hiện tại
của nó, thì hoạt động điều tra của SEC đã tạo lên khơng khí lo lắng đối với nhà đầu tư.
Nhiều người bắt đầu quyết định rời khỏi “cuộc chơi mờ ám” của cổ phiếu để chuyển sang
những
hoạt
động
đầu
tư
ổn
định
hơn,
như
trái
phiếu.
Ngày thứ Hai 19/10/1987 - ngày thứ Hai đen tối - đã xảy ra một “cuộc di cư tập thể” ra
khỏi thị trường cổ phiếu, nguyên nhân của thảm họa này bắt nguồn từ lo ngại của các nhà
đầu tư về thâm hụt thương mại quốc tế và liên bang Mỹ, sự chỉ trích của Mỹ với chính
sách kinh tế tại Tây Đức, hiệu ứng đi xuống của việc áp dụng cơng nghệ máy tính tự
động hố trong giao dịch bán chứng khoán, và sự suy giảm các chỉ số chứng khốn tương
lai do bởi chương trình giao dịch được vi tính hố.
Vào năm 1986, nước Mỹ khơng cịn giữ được tốc độ hồi phục kinh tế nhanh
chóng, và sớm rơi vào suy giảm. Năm 1987 thị trường chứng khoán Mỹ đạt những bước
tiến nhảy vọt, đạt đến đỉnh điểm vào tháng 8, nhưng tiếp sau đó là một chuỗi ngày thị
trường tụt dốc ghê gớm. Cuối tháng 8, nhiều nhà quan sát cảnh báo rằng, điểm đổ vỡ đã
đạt tới, và thị trường giờ đây rơi vào chu kỳ giá xuống.
Luận giải cho biến cố 1987 là giao dịch bán ra của các nhà đầu tư kinh doanh ăn
chênh lệch. Giao dịch này với sự trợ giúp của máy tính tham gia vào giao dịch chứng
khoán và chiến lược bảo hiểm danh mục. Trong suốt những năm 1970 và đầu những năm
80, máy tính đã trở nên quan trọng trên Phố Wall. Chúng cho phép các lệnh mua bán
chứng khoán và các công cụ giao sau được khớp tức thời với khối lượng lớn. Ngày thứ
hai đen tối này là do các giao dịch kinh doanh chênh lệch với khối lượng lớn và là lý do
chính của cuộc khủng hoảng năm 1987.
Trong thời gian diễn ra “cuộc di cư tập thể” ra khỏi thị trường chứng khoán đã làm
cho thị trường mất ổn định vì người ta buộc phải bán cổ phiếu khi giá giảm đi. Cổ phiếu
càng giảm giá nhiều thì người ta lại càng bán ra nhiều hơn. Khi thị trường khơng có đủ
tính thanh khoản để hỗ trợ lượng bán ra này thì thị trường chứng khốn lại càng giảm
mạnh hơn. Kết quả là, kết thúc ngày hơm đó, chỉ số Dow Jones giảm 508 điểm; các ngân
hàng điêu đứng vì thanh khoản và đứng trước nguy cơ đổ vỡ. May mắn là vị Chủ tịch
mới của FED, Alan Greenspan, đã đóng góp rất lớn trong việc chèo lái nền kinh tế tránh
khỏi một cuộc khủng hoảng nữa cho nền kinh tế Mỹ bằng cách hỗ trợ để các ngân hàng
thương mại và ngân hàng đầu tư không bị vỡ nợ. Thị trường hồi phục, NYSE cũng tiến
hành tinh chỉnh một số điểm nhỏ trong hệ thống giao dịch DOT, bao gồm cả hệ thống
ngắt giao dịch khi thị trường tụt đến một mức nhất định đặt trước.
2.
Ảnh hưởng:
Khủng hoảng 10/1987 đã gây nhiều thiệt hại, một số cơng ty phải phá sản vì thua
lỗ, chính quyền mang thêm nợ, đình chỉ việc phát hành cổ phần, vốn đầu tư bị mất mát.
Thứ Hai, ngày 19 tháng 10 năm 1987 chỉ số công nghiệp Dow Jones giảm 508,32 điểm,
tương ứng 22,6% - mức giảm kỉ lục trong lịch sử thị trường chứng khốn. Hậu quả của
nó khơng chỉ giới hạn trong phạm vi nước Mỹ, mà còn mở rộng ra phạm vi toàn cầu. Vào
cuối tháng 10, các thị trường đều ghi nhận sự sụt giảm ghê gớm: Úc - 41,8%; Canada 22,5%; Hồng Kông - 45,8%; Anh - 26,4%.
Giá chứng khốn của cơng ty Sears Roebuck lúc mở cửa là 41,50, đến chiều còn
31 USD ; giá cảu Kodak lúc mở cửa là 90,12 đến lúc đóng cửa chỉ cịn 27,50 USD. Bên
cạnh đó có đến 45.000 nhân viên của các công ty môi giới bị mất việc.
Ngày thứ 2 đen tối lịch sử này đã không chỉ đến với nước Mỹ mà còn đến với
những trung tâm tài chính thế giới khác và một “ hiệu ứng domino “ đã xảy ra ; đến cuối
tháng 10/1987, thị trường tài chính Úc sụt giảm 41,8%, Hong Kong giảm 45,8% và
London giảm 26,4% . Đặc biệt với Úc, tháng 9/1987 chỉ số thị trường chứng khoán Úc
đang ở mức 2249 điểm, mãi cho đến tháng 1/1994 mới có thê phục hồi lại mức cũ và bắt
đầu phát triển bình thường kể từ tháng 1/1996 đến nay.
III.
1.
Khủng hoảng tài chính Châu Á 1997
Nguyên nhân:
Khủng hoảng tài chính châu Á là cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ tháng 7
năm 1997 ở Thái Lan rồi ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán, trung tâm tiền tệ
lớn, và giá cả của những tài sản khác ở vài nước châu Á, nhiều quốc gia trong đó được
coi như là "những con Hổ Đơng Á". Cuộc khủng hoảng này cịn thường được gọi là
Khủng hoảng tiền tệ châu Á. Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những nước bị ảnh
hưởng mạnh nhất bởi cuộc khủng hoảng này. Hồng Kông, Malaysia, Lào, Philippines
cũng bị ảnh hưởng bởi sự sụt giá bất thình lình. Cịn Đại lục Trung Hoa, Đài Loan,
Singapore và Việt Nam không bị ảnh hưởng.Nhật Bản cũng không bị ảnh hưởng nhiều
bởi sự khủng hoảng, song nền kinh tế Nhật phải kinh qua những khó khăn kinh tế dài hạn
của chính bản thân mình.
Nền tảng kinh tế vĩ mơ yếu kém
Thái Lan và một số nước Đông Nam Á đã cố gắng thực hiện cái mà các nhà kinh
tế gọi là Bộ ba chính sách khơng thể đồng thời. Họ vừa cố định giá trị đồng tiền của mình
vào Dollar Mỹ, vừa cho phép tự do lưu chuyển vốn (tự do hóa tài khoản vốn). Kinh tế
Đơng Nam Á tăng trưởng nhanh trong thập niên 1980 và nửa đầu thập niên 1990 đã tạo
ra sức ép tăng giá nội tệ. Để bảo vệ tỷ giá cố định, các ngân hàng trung ương Đơng Nam
Á đã thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng. Kết quả là cung tiền tăng gây ra sức ép lạm
phát. Chính sách vơ hiệu hóa (sterilization policy) đã được áp dụng để chống lạm phát vơ
hình chung đẩy mạnh các dòng vốn chảy vào nền kinh tế.
Vào giữa thập niên 1990, Hàn Quốc có nền tảng kinh tế vĩ mô tương đối tốt ngoại
trừ việc đồng Won Hàn Quốc không ngừng lên giá với Dollar Mỹ trong thời kỳ từ sau
năm 1987. Điều này làm cho tài khoản vãng lai của Hàn Quốc suy yếu vì giá hàng xuất
khẩu của Hàn Quốc trên thị trường hàng hóa quốc tế tăng. Trong hồn cảnh đó, Hàn
Quốc lại theo đuổi một chế độ tỷ giá hối đối neo lỏng lẻo và chính sách tự do hóa tài
khoản vốn. Vì thế, thâm hụt tài khoản vãng lai được bù đắp lại bằng việc các ngân hàng
của nước này đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo
hiểm rủi ro.
Năm 1994, nhà kinh tế Paul Krugman của trường đại học Princeton, (lúc đó cịn ở
MIT), cho đăng bài báo tấn công ý tưởng về "thần kỳ kinh tế Đông Á". Ông ta cho rằng:
Sự tăng trưởng kinh tế của Đông Á, trong quá khứ, là do kết quả của đầu tư theo hình
thức tư bản, dẫn tới sự tăng năng suất lao động. Trong khi đó, năng suất tổng nhân tố lại
chỉ được nâng lên ở một mức độ rất nhỏ, hoặc hầu như giữ nguyên. Krugman cho rằng
việc chỉ tăng trưởng năng suất tổng nhân tố không thôi, mà khơng cần đầu tư vốn, đã có
thể mang lại sự thịnh vượng dài hạn. Krugman có thể được nhiều người coi như một nhà
tiên tri sau khi khủng hoảng tài chính lan rộng, tuy nhiên chính ơng ta cũng đã từng phát
biểu rằng ơng ta khơng dự đốn cơn khủng hoảng hoặc nhìn trước được chiều sâu của nó.
Các dịng vốn nước ngồi kéo vào
Chính sách tiền tệ nới lỏng và việc tự do hóa tài chính ở Mỹ, châu Âu và Nhật Bản
cuối thập niên 1980 đã khiến cho tính thanh khoản tồn cầu trở nền cao q mức. Các
nhà đầu tư ở các trung tâm tiền tệ nói trên của thế giới tìm cách thay đổi danh mục tài sản
của mình bằng cách chuyển vốn đầu tư ra nước ngồi. Trong khi đó, các nước châu Á lại
thực hiện chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Lãi suất ở các nước châu Á cao hơn ở các
nước phát triển.Chính vì thế, các dịng vốn quốc tế đã ồ ạt chảy vào các nước châu Á.
Ngoài ra, những xúc tiến đầu tư của chính phủ và những bảo hộ ngầm của chính
phủ cho các thể chế tài chính cũng góp phần làm các cơng ty ở châu Á bất chấp mạo
hiểm để đi vay ngân hàng trong khi các ngân hàng bắt chấp mạo hiểm để đi vay nước
ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro.
Tấn công đầu cơ và rút vốn đồng loạt
Nguyên nhân trực tiếp của khủng hoảng tài chính Đơng Á năm 1997 là những
cuộc tấn công đầu cơ và việc rút vốn đồng loạt khỏi các nước châu Á.Những nguyên
nhân sâu xa nói trên rồi cũng bộc lộ. Thị trường bất động sản của Thái Lan đã vỡ. Một số
thể chế tài chính bị phá sản. Người ta khơng cịn tin rằng chính phủ đủ khả năng giữ nổi
tỷ giá hối đoái cố định. Khi phát hiện thấy những điểm yếu chết người trong nền kinh tế
của các nước châu Á, một số thể chế đầu cơ vĩ mô đã tiến hành tấn công tiền tệ châu Á.
Các nhà đầu tư nước ngoài đồng loạt rút vốn ra.
Một nguyên nhân trực tiếp nữa của khủng hoảng là năng lục xử lý khủng hoảng
yếu kém. Nhiều nhà kinh tế cho rằng khi mới bị tấn công tiền tệ, đáng lẽ các nước châu Á
phải lập tức thả nổi đồng tiền của mình chứ khơng nên cố sức bảo vệ tỷ giá để đến nối
cạn kiệt cả dự trữ ngoại hối nhà nước mà lại càng làm cho tấn công đầu cơ thêm kéo dài.
Ngoại trưởng 10 nước ASEAN lúc đó tin rằng, việc liên kết các hệ thống tiền tệ
chặt chẽ là một nỗ lực thận trọng nhằm củng cố vững chắc các nền kinh tế ASEAN. Hội
nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 30 diễn ra tại Subang Jaya, Malaysia đã thông quan
một Tuyên bố chung vào ngày 25 tháng 7 năm 1997 nêu rõ mối quan ngại sâu sắc và kêu
goi các nước ASEAN cần hợp tác chặt chẽ hơn nhằm bảo vệ và tăng cường lợi ích của
ASEAN trong giai đoạn này. Ngẫu nhiên là trong cùng ngày này, các Ngân hàng Trung
ương của hầu hết các nước chịu tác động của khủng hoảng đã gặp nhau tại Thượng Hải
trong Hội nghị cấp cao Đông Á Thái Bình Dương EMEAP, và thất bại trong việc đưa ra
một biện pháp dàn xếp cho vay mới. Trước đó một năm, Bộ trưởng Tài chính của các
nước này cũng đã tham dự Hội nghị Bộ trưởng Tài chínhAPEC lần thứ 3 tại Kyoto, Nhật
Bản vào ngày 17 tháng 3 năm 1996, và theo như Tuyên bố chung, các bên đã khơng thể
nhân đơi được Quỹ tài chính phục vụ cho Hiệp định chung về cho vay và Cơ chế Tài
chính trong tình trạng khẩn cấp. Vì vậy, cuộc khủng hoảng có thể xem như một thất bại
trong việc xây dựng năng lực phù hợp kịp thời, thất bại trong việc ngăn chặn sự lôi kéo
tiền tệ.Một số nhà kinh tế lại chỉ trích chính sách tài chính thắt chặt của IMF được áp
dụng ở các nước xảy ra khủng hoảng càng làm cho khủng hoảng thêm trầm trọng.
2.
Diễn biến:
Thái Lan: Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ
bình quân hàng năm là 9%. Cuối năm 1996, báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của
IMF đã cảnh báo nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng và bong bóng kinh tế có thể
khơng giữ được lâu. Cuối năm 1996, thị trường chứng khốn Thái Lan bắt đầu có sự điều
chỉnh. Cả mức vốn hóa thị trường vốn lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm đi.
Ngày 14 tháng 5 và ngày 15 tháng 5 năm 1997, đồng baht Thái bị tấn công đầu cơ
quy mô lớn. Ngày 30 tháng 6, thủ tướng Thái Lan Chavalit Yongchaiyudh tuyên bố sẽ
không phá giá baht, song rốt cục lại thả nổi baht vào ngày 2 tháng 7. Baht ngay lập tức
mất giá gần 50%. Vào tháng 1 năm 1998, nó đã xuống đến mức 56 baht mới đổi được 1
dollar Mỹ. Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995
xuống còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ
USD xuống cịn 23,5 tỷ USD. Finance One, cơng ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị
phá sản. Ngày 11 tháng 8, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá 16 tỷ dollar
Mỹ cho Thái Lan. Ngày 20 tháng 8, IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ
dollar.
Philippines: Sau khi khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, ngày 3 tháng 7 ngân
hàng trung ương Philippines đã cố gắng can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ
đồng peso bằng cách nâng lãi suất ngắn hạn (lãi suất cho vay qua đêm) từ 15% lên 24%.
Đồng peso vẫn mất giá nghiêm trọng, từ 26 peso ăn một dollar xuống còn 38 vào năm
2000 và còn 40 vào cuối khủng hoảng.Khủng hoảng tài chính nghiêm trọng thêm do
khủng hoảng chính trị liên quan tới các vụ bê bối của tổng thống Joseph Estrada. Do
khủng hoảng chính trị, vào năm 2001, Chỉ số Tổng hợp PSE của thị trường chứng khốn
Philippines giảm xuống cịn khoảng 1000 điểm từ mức cao khoảng 3000 điểm hồi năm
1997. Nó kéo theo việc đồng peso thêm mất giá. Giá trị của đồng peso chỉ được phục hồi
từ khi Gloria Macapagal-Arroyo lên làm tổng thống.
Hong Kong: Tháng 10 năm 1997, Dollar Hong Kong bị tấn công đầu cơ. Đồng
tiền này vốn được neo vào Dollar Mỹ với tỷ giá 7,8 HKD/USD. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát
ở Hong Kong lại cao hơn ở Mỹ. Đây là cơ sở để cho giới đầu cơ tấn công. Nhờ có dự trữ
ngoại tệ hùng hậu lên tới 80 tỷ USD vào thời điểm đó tương đương 700% lượng cung
tiền M1 hay 45% lượng cung tiền M3, nên Cơ quan Tiền tệ Hong Kong đã dám chi hơn 1
tỷ USD để bảo vệ đồng tiền của mình. Các thị trường chứng khoán ngày càng trở nên dễ
đổ vỡ. Từ ngày 20 tháng 10 đến 23 tháng 10, Chỉ số Hang Seng đã giảm 23%. Ngày 15
tháng 8 năm 1998, Hong Kong nâng lãi suất cho vay qua đêm từ 8% lên thành 23% và
ngay lập tức nâng vọt lên 500%. Đồng thời, Cơ quan Tiền tệ Hong Kong bắt đầu mua vào
các loại cổ phiếu thành phần của Chỉ số Hang Seng để giảm áp lực giảm giá cổ phiếu. Cơ
quan này và ơng Donald Tsang, lúc đó là Bộ trưởng Tài chính và sau này làm Trưởng
Đặc khu hành chính Hong Kong, đã cơng khai tun chiến với giới đầu cơ. Chính quyền
đã mua vào khoảng 120 tỷ Dollar Hong Kong (tương đương 15 tỷ Dollar Mỹ) các loại
chứng khốn. Sau này, vào năm 2001, chính quyền đã bán ra số chứng khoáng này và thu
lời khoảng 30 tỷ Dollar Hong Kong (khoảng 4 tỷ Dollar Mỹ). Các hoạt động đầu cơ
nhằm vào Dollar Hong Kong và thị trường chứng khoán của nước này đã ngừng lại vào
tháng 9 năm 1998 chủ yếu do các nhà đầu cơ bị thiệt hại bởi chính sách điều tiết dịng
vốn nước ngồi của chính phủ Malaysia và bởi sự sụp đổ của thị trường trái phiếu và tiền
tệ ở Nga.
Hàn Quốc: Vào thời điểm khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, Hàn Quốc có một
gánh nặng nợ nước ngồi khổng lồ. Các cơng ty nợ ngân hàng trong nước, cịn ngân hàng
trong nước lại nợ ngân hàng nước ngoài.Một vài vụ vỡ nợ đã xảy ra.Khi thị trường châu
Á bị khủng hoảng, tháng 11 các nhà đầu tư bắt đầu bán ra chứng khốn của Hàn Quốc ở
quy mơ lớn. Ngày 28 tháng 11 năm 1997, tổ chức đánh giá tín dụng Moody đã hạ thứ
hạng của Hàn Quốc từ A1 xuống A3, sau đó vào ngày 11 tháng 12 lại hạ tiếp xuống B2.
Điều này góp phần làm cho giá chứng khốn của Hàn Quốc thêm giảm giá.Riêng trong
ngày 7 tháng 11, thị trường chứng khoán Seoul tụt 4%. Ngày 24 tháng 11 lại tụt 7,2% do
tâm lý lo sợ IMF sẽ đòi Hàn Quốc phải áp dụng các chính sách khắc khổ. Trong khi đó,
đồng Won giảm giá xuống cịn khoảng 1700 KRW/USD từ mức 1000 KRW/USD.
Malaysia : Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht (ngày 2 tháng 7 năm 1997),
đồng Ringgit của Malaysia và thị trường chứng khoán Kuala Lumpur lập tức bị sức ép
giảm giá mạnh. Ringgit đã giảm từ mức 3,75 Ringgit/Dollar Mỹ xuống còn 4,20
Ringgit/Dollar. Phần lớn sức ép giảm giá đối với Ringgit là từ việc buôn bán đồng tiền
này trên thị trường tiền ở nước ngồi.Những người tham gia thị trường tiền duy trì tài
khoản bằng đồng Ringgit ở trạng thái bán ra nhiều hơn mua vào với dự tính về sử giảm
giá của đồng Ringgit trong tương lai.Kết quả là lãi suất trong nước của Malaysia giảm
xuống khuyến khích dịng vốn chảy ra nước ngoài. Lượng vốn chảy ra đạt tới mức 24,6
tỷ Ringgit vào quý hai và quý ba năm 1997.
Indonesia: Tháng 7, khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của
Indonesia đã nới rộng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar Mỹ từ
8% lên 12%. Tháng 8, đồng Rupiah bị giới đầu cơ tấn cơng và đến ngày 14 thì chế độ tỷ
giá hối đối thả nổi có quản lý được thay thế bằng chế độ thả nổi hoàn toàn. Đồng Rupiah
liên tục mất giá. IMF đã thu xếp một gói viện trợ tài chính khẩn cấp cho Indonesia lên tới
23 tỷ Dollar, nhưng Rupiah tiếp tục mất giá do đồng Rupiah bị bán ra ồ ạt và lượng cầu
Dollar Mỹ ở Indonesia tăng vọt. Tháng 9, cả giá Rupiah lẫn chỉ số thị trường chứng
khoán đều giảm xuống mức thấp lịch sử.Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản
của các công ty Indonesia, đặc biệt là làm cho món nợ ngân hàng nước ngồi của các
cơng ty tăng lên. Trước tình hình đó, nhiều cơng ty đẩy mạnh mua Dollar vào (có nghĩa
là bán Rupiah ra) khiến cho nội tệ thêm mất giá và tỷ lệ lạm phát tăng vọt.
3.
Vai trị của thị trường chứng khốn:
Khủng hoảng tài chính Đơng Á làm người ta nhận thức rõ hơn sự cần thiết phải có
một hệ thống tài chính - ngân hàng vững mạnh, minh bạch. Điều này thôi thúc Quỹ Tiền
tệ Quốc tế và Ngân hàng Thanh toán Quốc tế đổi mới các quy chế về ngân hàng và các tổ
chức tín dụng nói chung.Chính phủ nhiều nước đang phát triển cho rằng các dòng vốn
đầu tư gián tiếp nước ngoài và vốn vay ngân hàng nước ngoài có thể đem lại những tác
động bất lợi với nền kinh tế của họ. Do đó, nhiều chính phủ đã ban hành những quy chế
nhằm điều tiết các dòng vốn này. Bên cạnh đó, những thỏa thuận ở cấp khu vực nhằm
phát triển một hệ thống phòng ngừa khủng hoảng tái diễn đã được thúc đẩy ở châu Á, ví
dụ như Sáng kiến Chiang Mai, Tiến trình Đánh giá và Đối thoại Kinh tế ASEAN+3, Sáng
kiến Thị trường Trái phiếu Châu Á, ...Về mặt học thuật, các nhà nghiên cứu kinh tế đã
nhận thấy sự hạn chế của các mơ hình lý luận về khủng hoảng tiền tệ trước đây trong việc
giải thích nguồn gốc và sự lây lan của khủng hoảng tài chính Đơng Á. Đã có nhiều nỗ lực
nhằm đưa ra một mơ hình mới về khủng hoảng tiền tệ, chẳng hạn như mơ hình phương
pháp tiếp cận bảng cân đối tài sản, lý thuyết bong bóng, lý thuyết về nguồn gốc khủng
hoảng từ chính sách tài chính và chính sách tiền tệ,...
4.
Kết quả:
Khủng hoảng đã gây ra những ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng, bao gồm mất giá
tiền tệ, sụp đổ thị trường chứng khoán, giảm giá tài sản ở một số nước châu Á. Nhiều
doanh nghiệp bị phá sản, dẫn đến hàng triệu người bị đẩy xuống dưới ngưỡng nghèo
trong các năm 1997-1998. Những nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất là Indonesia, Hàn
Quốc và Thái Lan.
Khủng hoảng kinh tế còn dẫn tới mất ổn định chính trị với sự ra đi của Suharto ở
Indonesia và Chavalit Yongchaiyudh ở Thái Lan. Tâm lý chống phương Tây gia tăng
cùng với sự phê phán gay gắt nhằm vào George Soros và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Các
phòng trào Hồi giáo và ly khai phát triển mạnh ở Indonesia khi chính quyền trung ương
của nước này suy yếu.
Một ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng, đó là GDP và GNP bình qn đầu người
tính bằng Dollar Mỹ theo sức mua tương đương giảm đi. Nội tệ mất giá là nguyên nhân
trực tiếp của hiện tượng này. Cuốn CIA World Fact Book cho biết thu nhập bình quân
đầu người của Thái Lan đã giảm từ mức 8.800 USD năm 1997 xuống còn 8.300 USD vào
năm 2005, của Indonesia giảm từ 4.600 USD xuống 3.700 USD, của Malaysia giảm từ
11.100 USD xuống 10.400 USD.
Cuộc khủng hoảng không chỉ lây lan ở khu vực Đông Á mà nó góp phần dẫn tới
khủng hoảng tài chính Nga và khủng hoảng tài chính Brasil. Một số nước khơng bị khủng
hoảng, nhưng kinh tế cũng chịu ảnh hưởng xấu do xuất khẩu giảm và do FDI vào giảm.
Khủng hoảng bong bóng DOTCOM (1995-2000):
1. Nguyên nhân:
IV.
S ự b ù n g n ổ v à p h á t t r i ể n c ủ a n gà n h c ô n g n gh ệ t h ô n g t i n đ ã khiến
cho các nhà đầu tư rót vốn vào cổ phiếu của các công ty công nghệ cao, nhất là các công
ty mạng. Hiện tượng đầu cơ bắt đầu xảy ra, giá cổ phiếu tăng và khơng có
những khoản thu để bù đắp chi phí. Bong bóng bắt đầu hình thành vào tháng
8/1995 và vỡ vào tháng 3/2000 khi chỉ số NASDAQ của các công ty công nghệ cao này
bắt đạt tới đỉnh điểm.
2. Diễn biến:
Ngày 9 tháng 8 năm 1995, công ty Netscape thực hiện IPO. Ngay trong ngày hơm
đó, giá cổ phiếu của Netscape đã tăng vọt từ 28 lên 71 dollar Mỹ. Chỉ trong 3 tháng tiếp
theo, giá trị vốn hóa thị trường của Netscape đã được đẩy lên vượt cả của Hãng Hàng
không Delta. Hiện tượng cổ phiếu Netscape đã làm nảy sinh kỳ vọng vào điều tương tự
đối với cổ phiếu của các cơng ty mạng khác. Nó khuyến khích các cơng ty mạng ra đời
và phát hành cổ phiếu ra công chúng cũng như khuyến khích các nhà đầu tư mua cổ
phiếu này. Các chỉ số bình qn cơng nghiệp Dow Jones và tổng hợp NASDAQ luôn tạo
ra những mốc mới trong suốt các năm 1995 đến 2000. Ngày 10 tháng 3 năm 2000, chỉ số
tổng hợp NASDAQ đạt mức cao lịch sử 5048,62. Thời gian còn lại trong năm 2000, chỉ
số này giảm 50% và tiếp tục giảm trong các năm tiếp theo.
3. Vai trị của thị trường chứng khốn lên cuộc khủng hoảng:
Giá cổ phiếu công nghệ cao tăng nhanh đã khuyến khích sự phát triển của các
cơng ty trong ngành công nghệ thông tin. Điều này làm cho công nghệ thơng tin tiến bộ
nhanh chóng và việc ứng dụng nó vào quản lý, sản xuất đã làm năng suất lao động tăng
lên. Giá cổ phiếu tăng nhanh khiến các nhà đầu tư cổ phiếu cảm thấy tài sản của mình
tăng lên. Lúc đó, họ sẽ tiêu dùng nhiều hơn (hiệu ứng tài sản). Nhu cầu cá nhân nhờ vậy
tăng lên cùng hiệu ứng lan tỏa của nó tới sản xuất của các ngành khác nhau trong nền
kinh tế khiến đầu tư tư nhân tăng. Nói cách khác, nhìn từ mặt nhu cầu của nền kinh tế, giá
cổ phiếu tăng làm tổng cầu tăng lên.
Việc vỡ và xẹp bong bóng Dot-com mở đầu cho thời kỳ suy thoái kinh tế đầu thập
niên 2000 ở Hoa Kỳ mà sự kiện 11 tháng 9 và các vụ bê bối kế toán trong các năm 2001
và 2002 làm trầm trọng hơn. Ngày 10 tháng 3 năm 2000, trị giá của thị trường chứng
khoán NASDAQ là 6.710 tỷ USD và sự đổ vỡ bắt đầu từ ngày 11 tháng 3. Đến ngày 30
tháng 3 thì trị giá của NASDAQ chỉ cịn 6.020 tỷ USD. Vào ngày 6 tháng 4 nó chỉ cịn
5.780 tỷ USD. Chỉ chưa đầy một tháng, gần 1 nghìn tỷ USD của trị giá thị trường chứng
khoán đã bị bốc hơi.
4. Kết quả:
Hàng loạt công ty dotcom đã bị phá sản và qt đi 5000 tỷ đơla Mỹ trong tồn bộ giai
đoạn đầu tư (1995-2001). Nhiều công ty đã bắt đầu thu hẹp đầu tư. Nhiều tạp chí, trong
đó có TIME, đã bắt đầu đưa các chuyên mục tư vấn các nhà đầu tư làm sao để giảm đầu
tư vào lĩnh vực cơng nghệ, có nhiều chỉ trích đối với các hãng trong danh mục đầu tư có
liên quan đến bán lẻ điện tử và một số công ty khác đã dừng đầu tư vào lĩnh vực này.
Tâm lý của người dân đã bị ảnh hưởng tiêu cực, mở đầu cho thời kì suy thối kinh tế đầu
thập niên 2000.
V.
Cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu 2008:
1. Ngun nhân:
Khủng hoảng tại Mỹ: Ngày 16/3/2008 ngân hàng JP morgan chase, ngân hàng khổng lồ
của Mỹ mua lại Bearstearn. Ngày 7/8/2008 hai tổ chức tài chính lớn nhất của Mỹ Fannie
mac và Fredie mac bị áp lực thiếu tiền mặt. Ngày 7/9/2008 bộ tài chính Mỹ tun bố đặt
hai cơng ty fannie mac và fredie mac dưới sự quản lí của chính phủ trong thời gian cơ
cấu lại tài sản của chúng và bơm cho chúng 200 tỉ.
Ngày 15/9/2008 Fed từ chối cho lehman brother vay tiền => Vụ phá sản ngân hàng lớn
nhất trong lịch sử đã xảy ra, Bank of American mua ngân hàng đầu tư merrillynch với
giá 50 tỉ usd 16/09 Fed và bộ tài chính quốc hữu hóa AIG bằng cách bơm 85 tỉ usd và sở
hữu 79.9 % cổ phần công ty này. Ngày 17/09 ủy ban chứng khốn Mỹ kiềm chế tình
trạng bán khống. Ngày 19/09 Mỹ công bố kế hoạch mua lại các tài sản tài chính các tập
đồn tài chính gặp khó khăn. Ngày 26/9 ngân hàng đầu tư JP morgan mua lại ngân hàng
Washington mutual. Đây là ngân hàng thương mại phá sản lớn nhất trong lịch sử. Ngày
1/10 khủng hoảng tín dụng đã lan ra tồn nước Mỹ. Ngày 3/10 Chính phủ Mỹ thơng qua
kế hoạch Paulson 700 tỷ usd.
2.
Khủng hoảng tại Châu Âu
Bão nổi tại Iceland. Khủng hoảng tài chính Mỹ bắt đầu lan sang châu âu. Chính phủ
Iceland quốc hữu hóa hai ngân hàng nước này trong tình trạng ngân sách khơng có tiền.
Ngày 2/8 /2008 Northern Rock đã thiếu tiền mặt trầm trọng. Người dân nối đuôi nhau
đến rút tiền9/8 ngân hàng Halifax bank đã sát nhập với ngân hàng LOYDS TSB do
thua lỗ nặng trong viêc cho vay thế chấp bds
Tại Thụy sỹ: ngân hàng UBS gạch bỏ 44 tỉ usd chủ yếu là do bất động sản dưới chuẩn
=> Chính phủ đã bơm cho ngân hàng này 60 tỉ usd
Tại Pháp : Ngân hàng BNP của Pháp đóng 3 quỹ đầu tư trị giá khoảng 2,2 tỷ USD tại
Mỹ
3.
Khủng hoảng lan sang Châu Á.
Ngày 10/10/2008: Tập đoàn bảo hiểm có lịch sử hoạt động 98 năm tại Nhật là
Yamato Life Insurance Co. chính thức đệ đơn xin được bảo hộ phá sản
=> Đây được coi là mốc đánh dấu cuộc khủng hoảng đã lan sang châu Á. Ngày
27/10 kinh tế hàn quốc báo động đỏ khi đồng won mất giá 40% kể từ đầu năm 2008.
4. Vai trò của thị trường chứng khốn:
Các sản phẩm chứng khốn hóa xuất hiện từ đầu thập niên 1970 và phát triển
mạnh trong mơi trường chính sách tiền tệ được nới lỏng từ năm 2001.
Chứng khốn hóa và việc ra đời các sản phẩm của q trình này như chứng khốn
đảm bảo bằng tài sản thế chấp (MBS), giấy nợ đảm bảo bằng tài sản (CDO) và các loại
tương tự là một phát minh lớn về cơng cụ tài chính.
Các kiểu chứng khoán hoá mới này tạo ra niềm hưng phấn lớn trong các thị trường
khơng chỉ vì lợi nhuận mà cịn vì niềm tin rằng các sản phẩm mới này đã củng cố sự bền
vững và khả năng phục hồi của tồn bộ hệ thống tài chính bằng cách phân tán rủi ro và
mở rộng thị trường rủi ro.
Chứng khốn hóa cũng làm gia tăng số lượng và tầm quan trọng của các chủ thể
tài chính nằm ngồi các quy định điều tiết thận trọng vốn chủ yếu áp dụng cho các ngân
hàng thương mại. Khi tình trạng vỡ nợ của các khoản thế chấp dưới chuẩn bắt đầu tăng
lên vào năm 2007, những tổ chức đầu tiên phá sản là thành phần khơng được điều tiết và
có địn bẩy cao: những quỹ phòng hộ đã tham gia vào giao dịch những “nghĩa vụ nợ có
thế chấp” (CDO) vào hàng rủi ro cao nhất.
Tiếp theo đó là nhiều kiểu cơng ty con đầu tư tài chính tạo ra bởi các ngân hàng
thương mại để đầu tư vào các sản phẩm phức tạp, các công ty này được gây vốn bằng
cách phát hành những trái phiếu ngắn hạn. Những thành phần phi ngân hàng cho vay thế
chấp gây quỹ từ các nhà đầu tư MBS bất ngờ cũng trở nên dễ bị tổn thương. Thêm vào
đó, niềm tin vào chứng khốn liên quan đến những khoản vay thế chấp tan vỡ bắt đầu
làm nổi bật những yếu điểm của những ngân hàng đầu tư ít được điều tiết, những ngân
hàng vốn sa lầy vào bn bán các chứng khốn và sản phẩm phái sinh phức tạp.
Những bất ổn tăng dần của những ngân hàng đầu tư càng làm nổi bật vấn đề sâu
xa của chứng khốn hóa: những giao dịch quy mơ lớn những chứng khoán phức tạp và
sản phẩm phái sinh đã diễn ra ngày càng nhiều giữa một số rất ít các tổ chức tài chính, kết
cục điều này thay vì phân tán đã làm tích tụ rủi ro.
Chứng khốn hóa làm kht sâu khủng hoảng theo hai hướng xa hơn.
Thứ nhất, núi chứng khoán và sản phẩm phái sinh khổng lồ xây nên từ các khoản
thế chấp ở Hoa Kỳ không những làm gia tăng ảnh hưởng tài chính của bong bóng địa ốc
đã phát nổ ở Hoa Kỳ mà cịn phát tán nó ra tồn cầu. Khoảng một nửa số chứng khốn
đảm bảo bằng thế chấp (MBS) và nghĩa vụ nợ có thế chấp (CDO) tạo ra bởi phố Wall đã
được bán cho người ngoại quốc, đặc biệt là các ngân hàng và các quỹ phịng hộ châu Âu.
Thứ hai, khi cuộc khủng hồng bùng nổ, sự phát tán sâu rộng của MBS và CDO
đã làm gia tăng sự hoảng loạn do người ta không biết chắc tổ chức nào đang giữ những
sản phẩm này và họ giữ bao nhiêu. Sụ thiếu minh bạch được làm trầm trọng thêm bởi sự
mập mờ của thị trường những sản phẩm phái sinh khơng niêm yết (OTC).Ví dụ, tại thời
điểm Lehman sụp đổ, không ai biết quy mơ chính xác của các hợp đồng CDS đối với các
trái phiếu của nó cũng như ai đang nắm giữ những hợp đồng này.