Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

doi moi ppdh phép chia ngoai bang lop 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.59 KB, 20 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
I – LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1/ Xuất phát từ yêu cầu đặt ra trong việc đào tạo lớp người lao động
mới, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước :
Sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế
với những ảnh hưởng của xã hội tri thức và toàn cầu hoá tạo ra những cơ hội
nhưng đồng thời đặt ra những yêu cầu mới đối với giáo dục trong việc đào tạo
đội ngũ lao động. Giáo dục đứng trước một thử thách là tri thức của loài người
tăng ngày càng nhanh nhưng cũng lạc hậu ngày càng nhanh. Mặt khác thị trường
lao động luôn đòi hỏi ngày càng cao ở đội ngũ lao động về năng lực hành động,
khả năng sáng tạo, linh hoạt, tính trách nhiệm, năng lực cộng tác làm việc, khả
năng giải quyết các vấn đề phức hợp trong những tình huống thay đổi.
Đất nước ta đang trên đà phát triển từ một nền kinh tế lạc hậu tiến đến một
nền kinh tế công nghiệp hóa hiện đại hóa. Để đáp ứng được yêu cầu đó đòi hỏi
phải có một đội ngũ trí thức đủ trình độ, để tiếp cận với các loại máy móc trang
thiết bị hiện đại. Muốn giải quyết được vấn đề này, cần phải phối hợp chặt chẽ
với các nguồn nhân lực trong toàn xã hội, trong đó GD – ĐT giữ vai trò then
chốt. Như Đại hội IX tiếp tục khẳng định: GD – ĐT là quốc sách hàng đầu, phát
triển GD là một động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là
điều kiện phát huy nguồn lực con người, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội,
tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Cho nên các yêu cầu về đổi mới GD. Về
mục tiêu, về nội dung, về phương pháp, về hình thức tổ chức … nói chung là
điều tất yếu để góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội.
2/ Xuất phát từ yêu cầu đặt ra trong quá trình triển khai thực hiện đổi
mới giáo dục nói chung và đổi mới giáo dục tiểu học nói riêng :
- Giáo dục nói chung đổi mới để phù hợp với thời kỳ đổi mới kinh tế hiện
nay trong đó giáo dục tiểu học nói riêng. Vì lứa tuổi tiểu học là nền tảng ban đầu
có thể ví như chìa khóa tiếp nhận về tri thức, về thế giới quan, nhân sinh quan.
Cho nên đối với bậc tiểu học cần phải đổi mới về nội dung về phương pháp dạy
học, thực hiện rõ quan điểm “lấy học sinh làm trung tâm”.
- Những đường lối và quan điểm chỉ đạo về giáo dục của nhà nước là những


định hướng quan trọng cho việc phát triển và đổi mới giáo dục TH đã được quán
triệt và vận dụng trong việc xây dựng chương trình TH. Chương trình TH đòi
hỏi đổi mới PPDH nhằm đạt được những mục tiêu của chương trình. Trong đổi
mới PPDH cần chú trọng phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của HS, chú ý
tính phân hoá trong dạy học TH, phát triển năng lực hành động, tăng cường thực
hành, gắn nội dung dạy học với thực tiễn cuộc sống và nghề nghiệp.
3/ Xuất phát từ thực trạng việc dạy và học phép trừ các số tự nhiên lớp 3
ở trường tiểu học hiện nay:
II - MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu đề tài nhằm
1. Tìm hiểu những vấn đề chung về đổi mới phương pháp dạy học môn toán tiểu
học
2. Tìm hiểu mục tiêu và nội dung dạy học môn toán ở lớp 3
1


3. Thiết kế các hoạt động dạy học về phép trừ các số tự nhiên theo yêu cầu đổi
mới nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập, góp phần nâng cao
chất lượng dạy học phép trừ các số tự nhiên nói riêng và môn toán lớp 3 nói
chung.
III – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU :
Trong quá trình học tập và nghiên cứu tôi đã sử dụng các phương pháp sau :
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp trực quan.
- Phương pháp đàm thoại, gợi mở.
IV – TÓM TẮT NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG ĐỀ TÀI
* Tóm tắt nội dung của đề tài:
- Phần mở đầu
- Phần nội dung đề tài gồm có các nội dung chính sau :
+ Những vấn đề chung về đổi mới phương pháp dạy học môn toán ở tiểu học.

+ Thiết kế các hoạt động dạy học về phép trừ các số tự nhiên lớp 3 theo yêu cầu
đổi mới PPDH.
+ Thiết kế các hoạt động về dạy phép trừ các số tự nhiên lớp 3 nhằm phát huy
tích cực của học sinh trong học tập.
- Phần thực nghiệm .
- Phần kết luận.
* Một số kết quả đạt được trong đề tài:
Qua việc nghiên cứu tài liệu, điều tra khảo sát tình hình thực tế cùng với
việc trực tiếp giảng dạy phần kiến thức về dạy phép trừ các số tự nhiên lớp 3 tôi
đã thu được một số kết quả sau :
- Những vấn đề chung về phương pháp dạy học môn toán ở tiểu học.
- Tìm hiểu nội dung và phương pháp dạy học về phép trừ các số tự nhiên lớp
3
- Thiết kế một số hoạt động dạy học theo pp đổi mới theo hướng tích cực hóa
hoạt động học của học sinh.
- Tìm hiểu nội dung cơ bản về phương pháp dạy học tích cực để đưa vào thực
tiễn các vấn đề đã nghiên cứu.
V – MỘT SỐ TRIỂN VỌNG NGHIÊN CỨU SAU ĐỀ TÀI :
Nghiên cứu tìm hiểu nội dung đổi mới phương pháp dạy học dạy phép trừ
các số tự nhiên lớp 3, theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, nhằm
phục vụ trong công tác dạy học Tiểu học nói chung môn toán lớp 3 nói riêng
ngày một tốt hơn.
PHẦN NỘI DUNG
A.NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
MÔN TOÁN Ở TIỂU HỌC :
I – TẠI SAO PHẢI ĐỔI MỚI ?

2



1/ Sự chuyển đổi cơ cấu của nền kinh tế xã hội từ bao cấp sang nền kinh
tế thị trường :
Với sự phát triển của các mạng khoa học - công nghệ hiện nay, với những
bước nhảy vọt trong thời buổi hiện nay đã đưa thế giới chuyển từ kỷ nguyên
công nghệ sang kỷ nguyên thông tin và phát triển tri thức, đồng thời tác động tới
tất cả các lĩnh vực, làm biến đổi nhanh chóng và sâu sắc đời sống vật chất và
tinh thần của xã hội hiện nay.
.
Vì thế mà làm cho khoảng cách giữa các phát minh khoa học - công nghệ và áp
dụng vào thực tiễn ngày càng thu hẹp; kho tàng kiến thức của nhân loại ngày
càng đa dạng và phong phú và tăng theo cấp số nhân.
Với sự phát triển của các quốc gia hiện nay thì nó càng đòi hỏi phải tăng suất lao
động, năng suất lao động, nâng cao chất lượng hàng hóa và đổi mới công nghệ
một cách nhanh chóng. Các phương tiện truyền thông, mạng viễn thông, internet
đã tạo thuận lợi cho giao lưu và hội nhập văn hóa, đồng thời cũng đang diễn ra
cuộc đấu tranh gay gắt để bảo tồn bản sắc dân tộc.
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, sự phát triển năng động
của các nền kinh tế, quá trình hội nhập và toàn cầu hóa đang làm cho việc rút
ngắn khoảng cách về trình độ phát triển giữa các nước trở nên thực tiễn hơn và
nhanh chóng hơn. Khoa học - công nghệ trở thành động lực cơ bản của sự phát
triển kinh tế - xã hội. Giáo dục là nền tảng của sự phát triển khoa học - công
nghệ, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện đại và đóng vai
trò chủ yếu trong việc nâng cao ý thức dân tộc, tinh thần trách nhiệm và năng
lực của các thệ hệ hiện nay và mai sau.
Phát huy tính tích cực của học sinh không phải là vấn đề mới mà đã được đặt ra
trong ngành giáo dục nước ta từ những năm 60 của thế kỷ trước. Những năm
vừa qua, trong phong trào đổi mới phương pháp dạy học một số không ít giáo
viên có tâm huyết với nghề, có hiểu biết sâu sắc về bộ môn, có tay nghề khá và
nhạy cảm trước yêu cầu của xã hội đã thực hiện nhiều giờ dạy tốt, phản ánh
được tinh thần của xu thế mới. Tuy nhiên, phổ biến hiện nay vẫn là cách dạy

thông báo kiến thức có sẵn, dạy học theo phương pháp thuyết trình có kết hợp
với đàm thoại là chủ yếu mà về thực chất vẫn là thầy truyền đạt, trò tiếp nhận và
ghi nhớ.
Một nét nổi bật hiện nay là nói chung học sinh chưa biết cách tự học, chưa học
tập một cách tích cực. Nếu tiếp tục cách dạy học thụ động như thế sẽ không đáp
ứng được những yêu cầu mới của xã hội. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và sự thách thức trước nguy cơ tụt hậu trong cạnh tranh trí tuệ
đang đòi hỏi phải đổi mới giáo dục, trong đó có sự đổi mới căn bản về phương
pháp dạy học. Đây không phải là vấn đề của riêng nước ta mà là vấn đề đang
được quan tâm của mọi quốc gia trong chiến lược phát triển nguồn lực con
người phục vụ mục tiêu kinh tế- xã hội.
2/ Xuất phát từ chủ trương của Bộ GD & ĐT trong việc triển khai sách
giáo khoa năm 2000 :
3


- Với thực trạng hiện nay dư luận xã hội rất quan tâm đến giáo dục vì nó là
để phát triển theo hướng công nghiệp hhiện đại. Vì thế việc Bộ GD & ĐT xây
dựng chương trình sách giáo khoa năm 2000 để đào tạo thế hệ trẻ một cách toàn
diện. Nhằm giúp cho học sinh hình thành cơ sở ban đầu phát triển một cách
đúng đắn và lâu dài về: đạo đức, trí tuệ, thể chất thẩm mỹ, các kỹ năng cơ bản
mà trẻ em ở lứa tiểu Tiểu học cần phải có, góp phần hình thành nhân cách con
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dụng tư cách và trách nhiệm
công nhân, chuẩn bị cho học sinh Tiểu học học tiếp ở các bậc cao hơn.
- Quán triệt mục tiêu yêu cầu ĐT- GD yêu cầu về nội dung về phương pháp,
giáo dục theo từng bậc học, cấp học đã được quy định.. trong Luật Giáo dục,
khắc phục những hạn chế chương trình SGK hiện hành.
- Đảm bảo tính thống nhất kế thừa trong đổi mới chương trình và phát triển
chương trình giáo dục, tăng cường tính hệ thống giữa giáo dục phổ thông với
giáo dục nghề nghiệp, đảm bảo sự thống nhất về chuẩn.

- Đảm bảo sự nâng cấp đổi mới trang thiết bị dạy và học.
- Thực hiện một cách đồng bộ việc đổi mới chương trình SGK, phương pháp
dạy và học với việc đổi mới phương pháp đánh giá; thi cử ; đổi mới đào tạo và
bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, đội ngũ quản lý công tác giáo dục .
3/ Xuất phát từ hạn chế của phương pháp dạy học truyền thống trong
nhà trường Tiểu học :
Giáo viên thường truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu đã có sẵn trong
SGK, sách giáo viên. Vì vậy, giáo viên thường làm nhiều làm việc một cách
máy mó, rập khuông ít quan tâm đến sự sáng tạo của học sinh. Học sinh học tập
một cách thụ động, chỉ nghe giảng ghi nhớ, rồi làm theo mẫu. Từ đó học sinh ít
hứng thú trong học tập. Nội dung học tập thường nghèo nàn đơn điệu, các năng
lực sắn có của các em ít có cơ hội phát triển.
Qua việc đánh giá kết quả học tập : giáo viên là người duy nhất đánh giá kết
quả học tập của học sinh. Học sinh ít được tự đánh giá về bản thân và đánh giá
lẫn nhau, tiêu chuẩn đánh giá học sinh là kết quả ghi nhớ và tái hiện lại những
điều giáo viên đã giảng. Cách học như vậy đã cản trở phần nào việc đào tạo
những con người lao động năng nổ, linh hoạt sáng tạo chưa thích ứng với những
đổi mới đang diễn ra hằng ngày. Do đó phải đổi mới phương pháp dạy học là
điều tất yếu, để nâng cao chất lượng giáo dục đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước.
4/ Xuất phát từ thực trạng dạy học môn toán hiện nay :
Phương pháp dạy học toán ở Tiểu học hiện nay còn một số nơi vẫn tồn tại
kiểu dạy học khó thì chấp nhận, đó là kiểu dạy “Thầy đọc, trò chép”, “Thầy nói
trò nghe”, “Thầy viết lên bảng trò viết vào tập” học sinh làm theo mẫu của giáo
viên, không kích thích sự tìm tòi sáng tạo của học sinh.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau, việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học chưa
được đồng bộ, cho chưa đổi mới phươngpháp dạy học một cách triệt để.
Trang thiết bị phục cho việc dạy học toán hiện nay đã đóng góp vào quá trình
nâng cao chất lượng việc dạy và học toán trong chương trình. Có thể nói hầu hết
các bài học toán ở lớp 1, 2 và nhiều bài học ở lớp 3, 4, 5 điều rất cần sự hỗ trợ

của đồ dùng dạy học, thậm chí không thể thiếu được. Hiện nay ở các trường
4


Tiêu học tự làm và bảo quản đồ dùng dạy học khá tốt. Qua các cuộc thi làm đồ
dùng dạy học, chứng tỏ giáo viên có nhiều suy nghĩ sáng tạo, tự chế các đồ dùng
vừa rẻ, vừa có thể sử dụng được nhiều nội dung.
II – ĐỔI MỚI CÁI GÌ ?
1 / Đổi mới về nhận thức
Đổi mới phương pháp dạy học là sử dụng hợp lý các phương pháp dạy
học để tổ chức quá trình dạy học nhằm phát huiy tính tích cực chủ động học tập
của học sinh; dạy cho học sinh phương pháp học tập, phát huy tốt các trụ cột của
việc học, giúp học sinh có khả năng tự học để có thể học suốt đời.
- Đổi mới nhận thức trong các đối tượng sau:
+ Các cấp lãnh đạo chính quyền và quản lý giáo dục
Đổi mới phương pháp dạy học được thể hiện trong quan điểm giáo dục của
Đảng ta, Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII đã xác định phải “khuyến khích tự
học”, phải “ áp dụng những phương pháp giảng dạy hiện đại để bồi dưỡng cho
học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề”. Nghị quyết
Trung ương 2 khóa VIII tiếp tục khẳng định phải “ Đổi mới phương pháp giáo
dục đào tạo, khắc phục lỗi truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng
tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương tiện tiên tiến và các phương
tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự
nghiên cứu cho học sinh”. Tiếp đó, chỉ thị 40 của Ban Bí thư trung ương ngày
15 tháng 6 năm 2004 về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục cũng khẳng định yêu cầu: “Đặc biệt đổi mới mạnh mẽ
và cơ bản phương pháp giáo dục nhằm khắc phục kiểu truyền thụ một chiều,
nặng lý thuyết, ít khuyến khích tư duy sáng tạo; bồi dưỡng năng lực tự học, tự
nghiên cứu, tự giải quyết vấn đề, phát triển năng lực thực hành sáng tạo cho
người học, đặc biệt là cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng. Tích cực áp

dụng một cách sáng tạo các phương pháp tiên tiến, hiện đại, ứng dụng công
nghệ thông tin vào hoạt động dạy và học”.
Định hướng trên được pháp chế hóa trong Luật giáo dục. Tại Điều 28 khoản 2
Luật Giáo dục sửa đổi 2010 khẳng định: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, tự giác, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc
điểm từng lớp, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú
học tập cho học sinh”.
+ Giáo viên và học sinh
Để đổi mới phương pháp giảng dạy có hiệu quả, Giáo viên là yếu tố quyết định
hàng đầu trong việc thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy. Với sự nhận thức
đúng đắn, với tinh thần trách nhiệm và sự quyết tâm cao, kỹ năng sử dụng thiết
bị dạy học và tổ chức hướng dẫn học sinh học tập tốt là những phẩm chất cần
thiết của người giáo viên trong nhà trường.
Tri thức của giáo viên là những đặc điểm quan trọng trong công tác giáo dục.
Giáo viên với bất cứ lớp học nào đều phải hội đủ các điều kiện về kiến thức, khả
năng giảng dạy hữu hiệu, lòng nhiệt thành và đức tính thân mật. Bên cạch đó
giáo viên phải phải có kỹ năng tổ chức hướng dẫn học sinh trong lớp học, có kỹ

5


năng sử dụng đồ dùng dạy học, có năng lực tự thu thập thông tin phong phú của
thời đại để phục vụ yêu cầu dạy học.
Người giáo viên phải có kiến thức đa dạng.
Giáo viên có kiến thức uyên thâm, có kiến thức sư phạm về các đề tài giảng
dạy đồng thời phải có khả năng truyền tải những kiến thức vào chương trình
giảng dạy, vào bài soạn, vào lối trình bày giản dị sáng tỏ, áp dụng vào bài làm,
vào bài ôn tập, vào đường lối đánh giá cũng như các hoạt động khác của việc
giảng dạy.

Giáo viên phải xác định được những vấn đề cần đổi mới.
Giáo viên muốn đổi mới phương pháp dạy học thì phải xác định trước mục
tiêu giáo dục được đổi mới, nội dung giáo dục đổi mới phương tiện dạy học,
hình thức tổ chức và phương thức đánh giá giáo dục phải đáp ứng được nhu cầu
đổi mới.Mục đích của nhà trường được xác định đào tạo những con người phát
triển toàn diện, có phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần dân tộc, có ý thức chấp
hành tổ chức kỷ luật tốt, chủ động sáng tạo....
Điều quan trọng là phải lưu ý một số lĩnh vực thực tế giảng dạy.
- Lập kế hoạch và chuẩn bị môi trường lớp học, giảng dạy và trách nhiệm
chuyên môn
- Cung cấp một khuôn khổ tuyệt vời cho cuộc đối thoại về kinh nghiệm lớp
học và sự phát triển giáo viên.
-Thúc đẩy hoạt động hiệu quả nhất việc sử dụng thời gian và làm cho cả
lớp tham gia
- Cung cấp đầu vào hay lập mô hình thích hợp để phổ biến tài liệu mới, kiểm
tra hiểu biết và thay đổi tiến độ giảng dạy phù hợp tạo ra cách sử dụng kiến thức
độc lập, theo hướng dẫn.
Giáo viên phải nắm vững kỹ năng truyền đạt kiến thức
Giáo viên phải nắm vững yêu cầu nội dung giáo dục, nắm vững kiến thức và
kỹ năng cần truyền đạt đến học sinh để thiết kế dẫn dắt học sinh đi từ dễ đến
khó, từ ít đến nhiều, dẫn dắt học sinh tự học.
Việc dạy cách học, học cách học hoặc hướng vào người học để phát huy
tính chủ động của người học.
Đổi mới phương pháp dạy học phụ thuộc vào đối tượng, điều kiện, hoàn cảnh
vì vậy nhà giáo cần phải chủ động và có sáng kiến.
* Làm cho học sinh biết tự học, tự vận dụng
* Luôn liên hệ với thực tiễn đang thay đổi
* Làm cho học sinh biết hợp tác và chia sẻ.
* Tận dụng sự hỗ trợ của phương tiện dạy học
* Học cách thức đi tới sự hiểu biết. Coi trọng sự khám phá và khai phá trong

học thuật.
* Học kỹ năng thực hành và thái độ thực tiễn trong nghề nghiệp
* Học phong cách độc lập, sáng tạo, linh hoạt trong nhận thức và hành động.
Biết mềm hóa tư duy và tuy cơ ứng biến.
* Học phương pháp nghiên cứu đi từ phân tích đối tượng và môi trường để
tìm giải pháp đồng bộ giải quyết những tình huống đa chiều.

6


- Đổi mới nhận thức của các bậc phụ huynh và dư luận rộng rãi ngoài xã
hội hiểu được sự cần thiết tác dụng tích cực trong việc đổi mới PPDH.
2 / Đổi mới chương trình nội dung sách giáo khoa các môn học :
Việc dạy học môn tóan ở tiểu học nói chung, ở lớp 3 nói riêng giáo viên
cần phải nắm được trọng tâm của từng dạng toán, bên cạnh truyền đạt những
khái niệm ban đầu phải kết hợp vận dụng thực hành.
Về nội dung của chương trình :
- Phối hợp một cách chặt chẽ, hữu cơ với nhau, sự thống nhất của toán
học, đảm bảo tính kế thừa và liên tục.
- Gắn bó chặt chẽ về các hoạt động như: tính nhẩm, tính viết, đếm, đọc,
… kết hợp giải quyết các vấn đề về nội dung và chương trình mới là phát huy
tính tích cực của học sinh, học đi đôi với hành, lý luận và thực tiễn.
- Trong chương trình mới các bài toán phải đòi hỏi học sinh tự thân vận
động, vận dụng những điều đã học để củng cố kiến thức và kỹ năng, tập tự giải
quyết các tình huống trong học tập và trong đời sống.
Chính vì thế thời gian học toán ở tiểu học chủ yếu là thời gian thực hành,
vận dụng.
3/ Đổi mới cơ sở vật chất, trang thiết bị và đồ dùng dạy học phục vụ việc
dạy và học toán:
Cần đổi mới trang thiết bị dạy học để có thể phát huy tối đa chứa năng của

các phương pháp dạy học tích cực . Sử dụng phương tiện dạy học hợp lý sẽ giảm
đi những thời gia chết của lớp học, thí dụ học sinh không phải chờ giáo viên viết
bảng quá lâu hay vẽ một hình ảnh nào đó, . . . Lớp học đủ rộng để thầy trò dễ
dàng tổ chức các hoạt động học tập như hoạt động nhóm, trò chơi, . . . và biên
chế cho học sinh mỗi lớp không nên quá 30 người, đặc biệt trẻ càng nhỏ càng
không nên học trong lớp đông người.
Phương tiện dạy học chính là công cụ đi đến thành công việc đổi mới phương
pháp dạy học. Chính vì thế đổi mới phương pháp dạy học là cần thiết, việc đổi
mới cần thực hiện theo các hướng :
- Tạo cho học sinh có những cơ sở vật chất theo hướng quy định.
- Xây dựng phổ biến các loại phương tiện dạy khác nhau như : các loại
phiếu học tập, các đồ dùng làm thí nghiệm, các đồ dùng trực quan, các phương
tiện kỹ thuật ( áp dụng công nghệ thông tin trong giờ dạy )
- Tổ chức hướng dẫn cho học sinh tập làm quen sử dụng dạy học để hình
thành tri thức mới.
4 / Đổi mới về các hình thức tổ chức dạy học nhằm phát huy tính tích
cực của học sinh trong học tập.
Phát huy tính tích cực của học sinh thông qua hàng loạt các tác động của giáo
viên là bản chất của phương pháp giảng dạy mới. Khi nói đến tính tích cực,
chúng ta quan niệm là lòng mong muốn hành động được nảy sinh từ phía học
sinh, được biểu hiện ra bên ngoài hay bên trong của sự hoạt động. Nhờ phát huy
được tính tích cực mà sinh viên không còn bị thụ động. học Sinh trở thành các
cá nhân trong một tập thể mang khát vọng được khám phá, hiểu biết. Muốn vậy,
điều khó khăn nhất với người giáo viên là: Trong một giờ lên lớp, phải làm sao
7


cho những học sinh tốt nhất cũng được thoả mãn nhu cầu tri thức, thấy tri thức
là một chân trời mới. Còn những học sinh học yếu nhất cũng không thấy bị bỏ
rơi, họ cũng tham gia được vào quá trình khám phá cái mới. Điều này là đặc biệt

cần thiết, vì học sinh sẽ hào hứng để đi tìm tri thức chứ không còn bị động, bị
nhồi nhét nữa. Như vậy, nguyện vọng hành động thế này hay thế khác là kết quả
của sự mong muốn của chúng ta.
- Giáo viên phải biết sử dụng phối hợp các hình thức dạy học để hướng dẫn học
sinh tự tìm tòi, phát hiện tự chiếm lĩnh kiến thức cho chính mình. Tổ chức
hướng dẫn các hoạt động học tập của học sinh không nói, viết, làm mẫu những
gì học sinh có thể làm được (cá nhân hoặc nhóm học sinh).
- Khi dạy học cần giúp học sinh tự nêu (phát triển) vấn đề, tự phát hiện các kiến
thức,kỹ năng đã có,với sự trợ giúp(nếu cần thiết) của các hình vẽ,mô hình thật
để giải quyết vấn đề(cá nhân hoặc nhóm học sinh) trao đổi ý kiến bình luân,thực
hành vận dụng ngay trong tiết học
Các hình thức tổ chức dạy học toán thường vận dụng là: hình thức nhóm (nhóm
đôi, nhóm ba, nhóm bốn…), hình thức cá nhân, hình thức học tập ngoài lớp học,
hình thức trò chơi…
5 / Đổi mới công tác kiểm tra đánh giá việc dạy của giáo viên và việc học
của học sinh :
Kiểm tra và đánh giá là hai khâu trong một quy trình thống nhất nhằm xác
định kết quả thực hiện mục tiêu dạy học. Kiềm tra là thu thập thông tin từ riêng
lẻ đến hệ thống về kết quả thực hiện mục tiêu dạy học. Đánh giá là xác định
mức` độ đạt được về thực hiện mục tiêu dạy học.
Đánh giá kết quả học tệp thực chất là việc xem xét mức độ đạt được của hoạt
động học của học sinh so với mục tiêu đề ra đối với từng môn học, lớp học, cấp
học. Mục tiêu của mỗi môn học được cụ thể hóa thành các chuẩn kiến thức, kỹ
năng. Từ các chuẩn này, khi tiến hành kiếm ta, đánh giá kết quả học tập môn
học, cần phải thiết kế những tiêu chí nhằm kiểm tra được đầy đủ cả về định tính
và định lượng kết quả học tap5 của học sinh.
Trong quá trình dạy học, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh là một
khâu quan trọng nhằm xác định thành tích học tập và mức độ chiếm lĩnh kiến
thức, kĩ năng, thái độ học tập của học sinh, nó vừa đóng vai trò bánh lái, vừa giữ
vai trò động lực của dạy học. Có nghĩa là nó tác dụng định hướng, thúa đẩy

mạnh mẽ hoạt động dạy học và hoạt động quản lý giáo dục.

8


Đối với học sinh, kiểm tra đánh giá có tác dụng thúc đẩy quá trình học tập phát
triển không ngừng. Qua kết quả kiếm tra, học sinh tự đánh giá mức độ chiếm
lĩnh tri thức, kĩ năng so với yêu cầu của môn học và tự mình ôn tập, củng cố bổ
sung, hoàn thei6n5 học vấn bằng phương pháp tự học với hệ thống các thao tác
tư duy của chính mình. Do đó, kiểm tra đánh giá chẳng những là biện pháp để
hoàn thiện nội dung học tập mà còn là điều kiện để rèn luyện phương pháp và
hình thành thái độ học tập tích cực cho học sinh.
Đối với giáo viên, kết quả kiểm tra đánh giá vừa phản ánh thành tích học tập của
học sinh vừa giúp giáo viên tự đánh giá vốn tri thức, trình độ chuyên môn, năng
lực sư phạm, nhân cách uy tín của mình trước học sinh. Trên cơ sở đó không
ngừng nâng cao và hoàn thiện cả về trình độ học vấn, về nghệ thuật sư phạm và
nhân cách người thầy giáo.
Đối với các cấp quản lý từ cơ sở trường học tới trung ương, kiểm tra đánh giá là
biện pháp để đánh giá kết quả đào tạo cả về định lượng và định tính. Đó là cơ sớ
để xây dựng chiến lược giáo dục về mục tiêu, về đội ngũ giáo viên, vấn đề đổi
mới nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động dạy học.
Yêu cầu của kiểm tra đánh giá cần phải dực vào mục tiêu của bài dạy, của
chương trình dạy. Cách kiểm tra đánh giá sẽ quy định cách dạy của thầy và cách
học của trò. Nếu quy trình đánh giá là đánh giá sự sáng tạo và đánh giá năng lực
thì quá trình đánh giá không dừng ở cấp độ đánh giá sự tái hiện kiến thức đơn
thuần. Theo chỉ đạo của Bộ Giáo dục và đào tạo, các trường cần tăng cường đổi
mới khâu kiểm tra, đánh giá thường xuyên, định kỳ. Phối hợp có hiệu quả giữa
các hình thức kiểm tra vấn đáp, tự luận và trắc nghiệm khách quan nhằm trang
bị cho học sinh kiến thức, kỹ năng đáp ứng yêu cầu đối với chương trình dạy
học. Đổi mới khâu kiểm tra nhằm phản ánh đúng chất lượng dạy và học cần đảm

bảo các yêu cầu:
- Kiểm tra, đánh giá phải căn cứ vào Chuẩn kiến thức, kỹ năng của từng môn
học ở từng lớp học.
- Kiểm tra, đánh giá phải thể hiện được vai trò chỉ đạo, kiểm tra tra việc thực
hiện chương trình, kế hoạch giảng dạy, học tập của nhà trường. Cần tăng cường
đổi mới khâu kiểm tra, đánh giá thường xuyên, định kì; đảm bảo chất lượng
kiểm tra, đánh giá thường xuyên, định kì chính xác, khách quan, công bằng.
- Áp dụng các phương pháp phân tích hiện đại để tăng cường tính tương đương
của các đề kiểm tra, thi.
- Đánh giá chính xác, đúng thực trạng.
- Đánh giá phải kịp thời để có tác dụng giáo dục và động viên sự tiến bộ của học
sinh, giúp học sinh sửa chữa thiếu sót.
- Đánh giá kết quả học tập, thành tích học tập của học sinh không chỉ đánh giá
kết quả cuối cùng, mà cần chú ý cả quá trình học tập.
- Đánh giá kết quả học tập kết hợp với đánh giá hoạt động dạy của giáo viên.
- Kết hợp thật hợp lí giữa đánh giá định tính và định lượng.
- Kết hợp đánh giá trong và đánh giá ngoài.
. Như vậy dạy học sẽ tránh nhồi nhét, giáo viên và học sinh buộc phải hình
thành cho được những năng lực của trò. Tóm lại đánh giá mang tính tích cực sẽ
dẫn đấn dạy và học tích cực.
9


III - MỘT SỐ HÌNH THỨC TỔ CHỨC DẠY HỌC MÔN TOÁN NHẰM
PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG HỌC TẬP:
Một số hình thức thường vận dụng trong dạy học toán nhằm phát huy tính tích
cực học tập của học sinh là:
1, Học cá nhân ở lớp ( học theo lớp )
Học sinh hoạt động theo sự hướng dẫn của giáo viên, giáo viên hướng dẫn
bằng lời bắt đầu bằng một hoạt động hoặc viết lời hướng dẫn dưới hình thức là

một câu hỏi, bài tập trong phiểu giao việc. Học sinh tự học toán, tự chiếm lĩnh
tri thức mới để luyện tập thực hành theo cá nhân, các em có thể tự đánh giá về
khả năng học tập của mình. Khi học giáo viên theo dõi, hướng dẫn các em đi
đến mục tiêu cần đạt.
2,Học theo nhóm:
Tuỳ theo tính chất và từng nội dung của bài học tiết học có thể chia nhóm
đẻ học môn toán:
- Nhóm hỗn hợp (tất cá các đối tượng giỏi, khá, trung bình, yếu)
- Nhóm theo trình độ (nhóm giỏi, nhóm khá, nhóm trung bình. nhóm yếu)
- Nhóm theo sở trường.
Tóm lại : hoạt động chủ yếu của tiết học toán nên tổ chức cho các em trao đổi
ý kiến để từ đó thống nhất cách đúng nhất, thông qua việc kiểm tra lẫn nhau
dưới sự điều khiển của giáo viên.
3, Tổ chức trò chơi học tập:
Trò chơi học tập bao gồm các trò chơi có mục đích học tập rõ rệt. Trong
việc dạy học toán ở tiểu học, đặc biệt là ở giai đoạn đầu ở bậc Tiểu học ( lớp 1,
2, 3 ) các trò chơi học tập toán có tác dụng gây hứng thú trong giờ học, góp phần
làm cho tiết học sinh động hẳn lên, kích thích được trí tưởng tượng, rèn luyện về
trí nhớ, huy động được nhiều tri thức trong một thời gian ngắn.
4, Học toán ngoài lớp học:
Thực hành đo diện tích một miếng ruông, đo diện tích một căn phòng, đo
diện tích một căn nhà… tiếp xúc với trang thiết bị hiện đại, tham quan trung tâm
máy tính, tham quan các cơ sở sản xuất thương nghiệp. Cần phải kết hợp với các
môn học khác những vấn đề về thực tế xã hội.
5, Hoạt động theo chủ đề:
Nghe báo cáo, xem triển lãm, đi thực tế, tiếp xúc trao đổi ý kiến những
vấn đề chủ yếu của chủ đề đã được đặt ra, tập ghi chép những gì mà các em thu
thập được.
6, Hoạt động chuyên biệt:
Bồi dưỡng học sinh giỏi toán, bồi dưỡng học kém toán, các hoạt động này

thường tiến hành ngoài giờ chính khóa, bằng các hình thức học tập theo nhóm,
học tập đôi bạn.
IV- MỘT SỐ THÔNG TIN VỀ ĐỔI MỚI PPDH Ở ĐỊA PHƯƠNG,
TRONG NƯỚC, TRONG KHU VỰC VÀ TRÊN THẾ GIỚI
Về phương pháp dạy và học Toán, các nước tiên tiến và ngay các nước ở
quanh ta như Thái Lan, Singapore, Malay-xia,... họ đã thay đổi nhiều, giáo viên
được đào tạo để đổi mới phương pháp dạy toán theo định hướng tích cực hóa
10


trong học tập của học sinh, vận dụng các phương pháp dạy học toán tiên tiến
phù hợp với xu thế chung trên thế giới, đưa Toán học vận dụng vào thực tế.
Ngày nay, công nghệ thông tin phát triển chóng mặt, nhiều phần mềm dạy và
học Toán hỗ trợ cho dạy và học Toán rất hiệu quả như Geometer’s Sketchpad,
Géospace W , Cabri, Geogebra, MAPLE, Auto Graph,... và nhiều công cụ khác
như máy tính điện tử cầm tay Casio, Vinacal,... đã làm cho việc dạy và học toán
phải thay đổi.
Đã có rất nhiều giáo viên áp dụng phương pháp mới vào trong quá trình dạy
học. Đó là PPDH hiện đại xuất hiện ở các nước phương Tây (ở Mỹ, ở Pháp...) từ
đầu thế kỷ XX và được phát triển mạnh từ nửa sau của thế kỷ, có ảnh hưởng sâu
rộng tới các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Đó là cách thức DH theo
lối phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Vì thế thường gọi PP này là
PPDH tích cực; ở đó, giáo viên là người giữ vài trò hướng dẫn, gợi ý, tổ chức,
giúp cho người học tự tìm kiếm, khám phá những tri thức mới theo kiểu tranh
luận, hội thảo theo nhóm. Người thầy có vai trò là trọng tài, cố vấn điều khiển
tiến trình giờ dạy. PPDH này rất đáng chú ý đến đối tượng học sinh, coi trọng
việc nâng cao quyền năng cho người học. Giáo viên là người nêu tình huống,
kích thích hứng thú, suy nghĩ và phân xử các ý kiến đối lập của học sinh; từ đó
hệ thống hoá các vấn đề, tổng kết bài giảng, khắc sâu những tri thức cần nắm
vững. Giáo án dạy học theo PP tích cực được thiết kế kiểu chiều ngang theo hai

hướng song hành giữa hoạt động dạy của thầy và học của trò. Ưu điểm của
PPDH tích cực rất chú trọng kỹ năng thực hành, vận dụng giải quyết các vấn đề
thực tiễn, coi trọng rèn luyện và tự học.
Tại sao phải đổi mới phương pháp dạy học?Đổi mối giáo dục đang diễn ra trên
quy mô toàn cầu. Bối cảnh trên tạo nên những thay đổi sâu sắc trong giáo dục,
từ quan niệm về chất lượng giáo dục, xây dựng nhân cách người học đến cách tổ
chức quá trình và hệ thống giáo dục. Nhà trường từ chỗ khép kín chuyển sang
mở cửa rộng rãi, đối thoại với xã hội và gắn bó chặt chẽ với nghiên cứu khoa
học- công nghệ và ứng dụng; nhà giáo thay vì chỉ truyền đạt tri thức, chuyển
sang cung cấp cho người học phương pháp thu nhận thông tin một cách hệ
thống, có tư duy phân tích và tổng hợp. Đầu tư cho giáo dục từ chỗ được xem
như là phúc lợi xã hội chuyển sang đầu tư cho phát triển.
Vì vậy, các quốc gia, từ những nước đang phát triển đến những nước phát triển
đều nhận thức được vai trò và vị trí hàng đầu của giáo dục, đều phải đổi mới
giáo dục để có thể đáp ứng một cách năng động hơn, hiệu quả hơn, trực tiếp hơn
những nhu cầu của sự phát triển đất nước. Trong giáo dục, quy trình đào tạo
được xem như là một hệ thống bao gồm các yêu tố: mục tiêu, chương trình đào
tạo, nội dung, hình thức tổ chức dạy học, phương pháp dạy học. Phương pháp
dạy học là khâu rất quan trọng bởi lẽ phương pháp dạy học có hợp lý thì hiệu
quả của việc dạy học mới cao, phương pháp có phù hợp thì mới có thể phát huy
được khả năng tư duy, sáng tạo của người học. Bởi vậy, việc đổi mới giáo dục
trước hết là việc đổi mới phương pháp dạy học.

11


Phương pháp dạy học được hiểu là phương pháp triển khai một quá trình dạy
học cụ thể. Tức là cách thức hình thành mục đích dạy học, cách thức soạn thảo
và triển khai nội dung dạy học, cách thức tổ chức hoạt động dạy và hoạt động
học nhằm hiện thực hóa mục đích, nội dung, dạy học và cách thức kiểm tra,

đánh giá kết quả của quá trình dạy học.
Thực chất của đổi mới PPDH là "lấy học sinh làm trung tâm" và khi đó người
dạy phải hiểu được yêu cầu của người học để cung cấp thông tin, định hướng
mục tiêu học tập, tổ chức, hướng dẫn người học chủ động tư duy, nhận thức,
thực hành, sáng tạo trong quá trình tiếp nhận tri thức. Do đó, để đổi mới PPDH
mỗi giáo viên phải tìm kiếm, lựa chọn các phương thức hoạt động chung cho
phù hợp với học sinh nhằm thực hiện 3 chức năng của PPDH, gồm nắm vững,
giáo dục, phát triển. Phương pháp giảng dạy phù hợp sẽ phát huy hiệu quả, trực
tiếp ảnh hưởng đến chất lượng giờ dạy. Một giờ dạy tốt của một người thầy giỏi
có khi in đậm trong trí nhớ của học sinh hàng mấy chục năm.
B. THIẾT KẾ CÁC HOẠT ĐỘNG VỀ DẠY PHÉP TRỪ CÁC SỐ TỰ
NHIÊN LỚP 3 THEO YÊU CẦU ĐỔI MỚI PPDH:
I. Tìm hiểu mục tiêu và nội dung dạy học phép trừ các số tự nhiên lớp 3
trong trường tiểu học hiện nay.
1.Mục tiêu
2. Nội dung của mạch kiến thức phép trừ các số tự nhiên lớp 3
II. Tìm hiểu thực trạng việc dạy phép trừ các số tự nhiên lớp 3 trong
trường tiểu học hiện nay:
1/ Thực trạng của giáo viên.

Các giáo viên đều nhận thấy được tầm quan trọng của việc dạy học nội
dung phép trừ các số tự nhiên; nắm được chương trình, định hướng chung
về phương pháp dạy học các nội dung này. Vì vậy:
- Giáo viên đã sử dụng phương pháp trực quan (nhất là trong giai đoạn
đầu), giảng giải – minh hoạ, gợi mở – vấn đáp khi hình thành khái niệm
phép tính; khi thành lập các bảng tính; hướng dẫn học sinh làm bài tập để
định hướng cho học sinh làm bài.
- Giáo viên thường xuyên sử dụng phương pháp Thực hành luyện tập
trong quá trình rèn luyện kỹ năng thực hiện phép nhân, phép chia các số tự
nhiên cho học sinh. Điều này rất thuận lợi cho cả giáo viên và học sinh:

giáo viên không phải giảng nhiều, còn học sinh có điều kiện tự rèn luyện
kỹ năng cho mình.

12


- Giáo viên bám sát và theo dõi từng bước thực hiện tính của học sinh,
có biện pháp sửa sai kịp thời.
- Một số giáo viên có những điều chỉnh, phân tích rất kỹ, mở ra các
hướng mới đối với bài tập rèn luyện kỹ năng tính đưa ra trong sách giáo
khoa (chẳng hạn dạy qua các trò chơi). Trong quá trình giảng dạy giáo viên
biết lựa chọn bài tập hợp lý tuỳ theo đối tượng học sinh.
Bên cạnh những ưu điểm kể trên, khi dạy học để rèn luyện kỹ năng trừ cho
học sinh lớp 3, về phía giáo viên còn một số tồn tại như sau:
- Một số giáo viên không nắm được bản chất Toán học của các nội
dung về phép trừ các số tự nhiên nên còn máy móc trong giảng dạy các nội
dung này. Giáo viên chưa chú ý phân tích và khai thác triệt để mục tiêu
mỗi bài tập rèn luyện kỹ năng tính cho học sinh.
- Việc dạy học theo định hướng đổi mới chưa được nhiều giáo viên chú
trọng.
- Trong quá trình hình thành các phép toán trừ ngay sau khi giảng giải
và hỏi - đáp, giáo viên thường rút ra công thức phép toán nhưng ít chú ý
đến việc cho học sinh nhắc lại hoặc tự rút ra kiến thức mới.
2. Thực trạng học sinh

- Do các bài học và bài tập về phép trừ các số tự nhiên lớp 3 được
trình bày một cách khoa học, chính xác; cấu trúc các bài tương đối giống
nhau nên nếu nghỉ học, nhờ vào việc đọc bài và làm bài tập, học sinh có
thể tự rèn luyện kỹ năng tính cho mình.
- Học sinh biết vận dụng kỹ năng trừ vào làm toán: tìm thành phần chưa

biết, tìm giá trị biểu thức, giải toán có lời văn…
- Học sinh có kỹ năng tính nhanh, tính nhẩm các số tròn chục với số có
một chữ số.
3. Thực trạng về cơ sở vật chất, trang thiết bị và đồ dùng dạy học:
- Giáo viên xây dựng phổ biến các loại phương tiện dạy khác nhau như :
các loại phiếu học tập, các đồ dùng làm thí nghiệm, các đồ dùng trực quan, các
phương tiện kỹ thuật ( áp dụng công nghệ thông tin trong giờ dạy )
- Tổ chức hướng dẫn cho học sinh tập làm quen sử dụng dạy học để hình
thành tri thức mới.
- Điều kiện cơ sở vật chất của trường lớp tương đối khang trang, lớp được
trang bị máy tính, máy chiếu đủ điều kiện cho các em học tập.

13


- Phòng trang thiết bị nhà trường có đủ đồ dùng cho các em vận dụng thực
hành trong học tập nhưng chưa được giáo viên sử dụng nhiều.
C. THIẾT KẾ CÁC HĐDH VỀ DẠY PHÉP TRỪ SỐ TỰ NHIÊN LỚP 3
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG HỌC
TẬP:
1. Thiết kế 3 hoạt động về bài mới:
Ví dụ 1:
Ví dụ 2:
Ví dụ 3:
2. Thiết kế 3 hoạt động về luyện tập phép trừ các số tự nhiên lớp 3
Ví dụ 1:
Ví dụ 2
Ví dụ 3:
3. Thiết kế 3 hoạt động về ôn tập phép trừ các số tự nhiên lớp 3
Ví dụ 1

Ví dụ 2
Ví dụ 3:

PHẦN THỰC NGHIỆM( 2 tiết)
1. Mục đích thực nghiệm
Sau khi nghiên cứu và để hoàn thành đề tài. Tôi đã tiến hành thực nghiệm nhằm
kiểm nghiệm tính khả thi và hiệu quả của phương pháp dạy học mới. Đồng thời
nhằm trao đổi với đồng nghiệp để học hỏi lẫn nhau về đổi mới phương pháp dạy
phép trừ các số tự nhiên ở lớp 3
2. Nội dung dạy thực nghiệm
- Tiết 1: Trừ các số có ba chữ số ( Có nhớ một lần)
- Tiết 2: Phép trừ các số trong phạm vi 10 000
3. Phương pháp tổ chức thực nghiệm
- Phương pháp gợi mở vấn đáp
- Phương pháp kiểm tra đánh giá
14


- Phương pháp thực hành luyện tập
- Phương pháp .....................
Tiết 1: TOÁN

Tiết 6: TRỪ CÁC SỐ CÓ BA CHỮ SỐ (Có nhớ một lần )
I. Mục tiêu:
- Giúp HS:+ Biết cách tính trừ các số có ba chữ số (có nhớ một lần ở
hàng chục hoặc hàng trăm).
+ Vận dụng vào giải toán có lời văn và phép trừ.
+ Giáo dục ý thức tự giác học tập.
II. Chuẩn bị:
+ Bảng phụ ghi bài 3.

III. Hoạt động dạy học:
1, Ổn định tổ chức: Ổn định tổ chức lớp – Hát đầu tiết học
2, Kiểm tra bài cũ
- HS lên bảng làm BT3 (1HS)
- Lớp + GV nhận xét.
3, bài mới:
a, Giới thiệu bài
b, Hướng dẫn bài
*. Hoạt động 1: Giới thiệu các phép
tính
trừ .
- Giới thiệu phép tính 432 – 215 = ?
- HS đặt tính theo cột dọc
- GV gọi HS lên thực hiện
- 2 không trừ được 5 ta lấy 12 trừ 5
bằng7, viết 7 nhớ 1.
- 1 thêm 1 bằng 2, 3 trừ 2 bằng 1, viết 1.
- GV gọi 1 HS thực hiện pháp tính
4 trừ 2 bằng 2, viết 2
- 432
215
217
- 2-3 HS nhắc lại cách tính
+ Trừ các số có mấy chữ số ?
- 3 chữ số
+ Trừ có nhớ mấy lần ? ở hàng nào ?
- Có nhớ 1 lần ở hàng chục
. Giới thiệu phép trừ 627 – 143 = ?
- HS đọc phép tính
- HS đặt tính cột dọc

- 627
- 1 HS thực hiện phép tính
143
-> vài HS nhắc lại
484
*. Hoạt động 2: Thực hành
Bài 1: Yêu cầu HS thực hiện đúng các
phép tính trừ có nhớ một lần ở hàng chục - HS nêu yêu cầu bài tập

- HS nêu cách làm , HS làm bảng con

-

-

-

-

-

- GV sửa sai cho HS sau mỗi lần giơ bảng

15


. Bài 2: Yêu cầu tương tự bài 1.
- GV nêu yêu cầu

- HS nêu yêu cầu BT

- Vài HS lên bảng + lớp làm vào vở.
- 627 - 746 - 564 - 935 - 555
443
251
215
551 160
184
495
349
384 395
- GV nhận xét sửa sai
+ Lớp nhận xét bài trên bảng.
. Bài 3: Yêu cầu giải được bài toán có - HS nêu yêu cầu về BT
lời văn về phép trừ.
- HS phân tích bài toán + nêu cách giải.
- 1HS lên tóm tắt + 1 HS giải + lớp làm
vào vở.
Giải
Bạn Hoa sưu tầm được số tem là:
335 – 128 = 207 (tem)
Đáp số: 207 tem
- GV nhận xét cho điểm
- Lớp nhận xét.
. Bài 4: Yêu cầu tương tự bài 3.
- HS nêu yêu cầu BT
Tóm tắt
- HS phận tích bài toán.
Đoạn công trường dài: 243 cm
- 1 HS lên tóm tắt + 1 HS giải. Lớp
Cắt đi: 27 cm

làm vào vở.
Còn lại .......? cm
Giải
Đoạn đường còn lại là:
243 – 27 = 216 (cm)
4. Củng cố dặn dò:
Đáp số: 216 cm
- Nhận xét tiết học
- Dặn chuẩn bị bài sau.
TOÁN
TIẾT 102:
Phép trừ các số trong phạm vi 10 000
I/ Mục tiêu :
• Biết trừ các số trong phạm vi 10000(bao gồm đặt tính và tính đúng)
• Biết giải toán có lời văn (có phép trừ các số trong phạm vi 10000)
• Làm Bt1,BT2(b),BT3,BT4
II/ Chuẩn bị :
1. Giáo viên : Bảng phụ
2. Học sinh : VBT, nháp. .
III/ Các hoạt động dạy và học :

HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO VIÊN
1. Ổn định lớp :
2. Kiểm tra bài cũ :

HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH
- Hát

16



- Gọi 2 HS lên bảng đặt tính rồi tính
- 2 HS lên bảng đặt tính rồi tính
2514 + 4238
4827
+2634
- GV nhận xét –Ghi điểm.
3.Bài mới:
3.1. Giới thiệu bài : Hôm nay các
em sẽ học cách trừ các số trong phạm
vi 10 000.
* Hoạt động 1: Hướng dẫn HS tự - HS đặt tính vào vở Nháp.
thực hiện phép trừ 8652 – 3917
- 1 HS lên bảng đặt tính.
- Viết phép trừ : 8652 -3917 = ? lên
+ 8652
bảng.
3917
- Y/c HS tự đặt tính vào Nháp, gọi 1
4735
HS lên bảng đặt tính.
- Nhận xét cách đặt tính.
- HS trả lời.
- HS thực hiện tính vào vở Nháp , 1
- Hãy nhận xét cách đặt tính của bạn ? HS lên bảng làm.
- Khi đặt tính các em cần lưu ý điều - …từ trái sang phải.
gì ?
- Hãy suy nghĩ và thực hiện tính phép - HS nêu cách tính.
trừ này.
- Khi thực hiện tính trừ ta thực hiện từ

hướng nào ?
- Hãy nêu cách tính.
-Y/c nhận xét.
-Y/c HS nêu lại cách trừ các số có đến - Tính.
- Cả lớp làm trong VBT, 4 HS lên
4 chữ số
bảng làm.
3.2. Thực hành
Bài 1:
- 7563 - 8090 - 3561
4908
7131
924
- Gọi HS nêu yêu cầu của bài.
2655
959
2637
- Hãy tự thực hiện các phép tính. Gọi 4
- HS nêu cách thực hiện.
HS lên bảng làm.
- HS khác nhận xét.
- Sửa bài.
- 6385
2927
3458
- Đặt tính
rồi tính.
- Hãy nêu cách thực hiện tính.
- 2 HS lên bảng, cả lớp làm bài vào
- Nhận xét cách tính của bạn.

bảng con
- GV nhận xét.
Bài 2:
- 8695 - 9996
- 2340
2772 6669
512
- Gọi HS nêu yêu cầu của bài.
5923 3327
1828
- Cho HS tự đặt tính rồi làm tính và
- HS đọc đề.
chữa bài như bài 1.
- Cửa hàng
có 4283 m, đã bán 1635 m
- 5482
1956
3526
17


- GV nhận xét .
Bài 3:
- Gọi HS đọc đề bài toán.
- Hướng dẫn HS phân tích bài toán:
+ Bài toán cho biết gì ?
+ Bài toán hỏi gì ?
- Hãy tóm tắt bài toán vào Nháp, gọi 1
HS lên bảng tóm tắt.


- Hỏi cửa hàng còn lại bao nhiêu mét
vải
- HS tóm tắt.
- HS làm bài vào VBT, 1 HS lên bảng
giải

Bài giải:
Cửa hàng còn lại là :
- Y/c HS làm bài, gọi 1 HS lên bảng
4283- 1635 = 2648(m)
giải.
Đáp số : 2648m
- HS nhận xét.
- HS nêu.
- HS làm bài vào Nháp.
Sửa bài : Y/c HS nhận xét bài làm của - HS nêu cách làm:
bạn.
+ Vẽ đoạn AB có độ dài 8 cm
- GV nhận xét.
+Chia nhẩm : 8cm : 2 = 4cm
Bài 4:
+ Đặt vạch 0 cm của thước trùng với
- Gọi HS nêu yêu cầu của bài.
điểm A, mép thước trùng với đoạn
- Hãy tự làm vào Nháp.
thẳng AB, chấm điểm O trên đoạn
- Y/c HS nói cách làm.
thẳng AB sao cho O ứng với vạch
4cm của thước.
8cm

- HS nhận xét.
A
M
B
- HS đổi vở và kiểm tra bài .
- HS nghe.

- GV nhận xét và kiểm tra một số bài.
4. Củng cố: - Y/c HS nêu quy tắc thực
hiện phép trừ . GV nhận xét tiết học.
5.Dặn dò:.+ Chuẩn bị :Xem trước bài
“ Luyện tập”
PHẦN KẾT LUẬN
1, Những bài học rút ra cho bản thân và đồng nghiệp sau quá trình thực
nghiệm đề tài:
- Trong các phương pháp dạy học không có phương pháp dạy học nào là vạn
năng, độc tôn duy nhất. Do vậy điều cực kì quan trọng là biết sử dụng hợp lí,
đúng lúc, đúng chỗ, phát huy tính năng tác dụng những mặt tích cực của mỗi
18


phương pháp đúng với đặc trưng bộ môn, điều kiện của học sinh, không rập
khuôn máy móc.
- Giáo viên xác định rõ vị trí, mục đích, nội dung kiến thức, tầm quan trọng của
việc dạy Toán lớp 3 bởi vì có xác định được vị trí, mục tiêu, nội dung kiến thức,
giáo viên mới quan tâm dồn hết tâm lực trong việc nghiên cứu tìm tòi để đưa ra
phương pháp dạy học phù hợp.
- Việc thiết kế bài dạy tốt hay không, nó quyết định đến thành công của một giờ
dạy trên lớp. Muốn thiết kế bài dạy tốt giáo viên cần nghiên cứu kĩ sách giáo
khoa, sách giáo viên để xác định mục tiêu, kiến thức kĩ năng cấn đạt, nắm chắc

đối tượng học sinh để lựa chọn hình thức, phương pháp tổ chức dạy học và đồ
dùng dạy học phù hợp có hiệu quả.
- Giáo viên phải biết đổi mới cách đánh giá kết qủa chất lượng học tập của học
sinh, kịp thời khuyến khích học sinh đúng lúc, đúng chỗ tạo cơ hội cho các em
tự đánh giá mình, đánh giá bạn, đem lại niềm tin cho các em trong học tập.
2, Một số kiến nghị đối với chính quyền, cấp quản lí giáo dục về triển khai
kết quả đạt được trong đề tài.
Để nâng cao chất lượng dạy học, đặc biệt là học môn toán, tôi xin mạnh
dạn đề xuất một số vấn đề như sau:
+ Đối với nhà trường: Cần tổ chức các chuyên đề thiết thực, phù hợp với tất
cả các môn học, đặc biệt là môn toán
Để đổi mới phương pháp dạy học điều quan trọng là người cán bộ quản lí phải
coi trọng công tác bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, tập trung giải quyết những bất
cập, vướng mắc trong giảng dạy. Đây là việc làm cấp thiết, công phu vì giáo
viên là nhân tố chủ chốt quyết định đến chất lượng giáo dục có ảnh hưởng trực
tiếp đến nhân cách trình độ của học sinh.
+ Ngành giáo dục đào tạo thường xuyên tổ chức chuyên đề trong đó có
môn toán , Giáo viên tự học, tự bồi dưỡng không ngừng để nâng cao chất lượng
dạy và học
Rất mong được sự cộng tác của tất cả các đồng nghiệp, các cấp , các
ngành quan tâm đến việc tư duy, suy nghĩ độc lập của học sinh nhất là môn toán
lớp 3, Để giúp học sinh tiểu học nắm vững các kiến thức ngay từ những lớp đầu
cấp,giúp cho việc học tập đạt hiệu quả tốt nhất góp phần đổi mới phương pháp
dạy học thành công.

19


Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI VIẾT

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Sách giáo khoa Toán 3 – NXBGD
Sách giáo viên Toán 3– NXBGD
Các loại sách tham khảo bài tập Toán lớp 3
2/ Giáo trình Đổi mới PPDH Toán Tiểu học -NXB Đại học Sư phạm
3/ Đề tài của SV khoa Giáo dục tiểu học

20



×