Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

TRIẾT học mác xít tồn tại TRONG sự đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.78 KB, 10 trang )

TRIẾT HỌC MÁC XÍT TỒN TẠI TRONG SỰ ĐỔI MỚI.

Nguyễn Ngọc Thu*

Tóm tắt: Để cụ thể hóa kết luận 94 ngày 28/3/2014 của
ban Bí thư về tiếp tục đổi mới việc học tập LLCT trong hệ thống
giáo dục quốc dân , bài viết khẳng định : Muốn tồn tại và phát triển
thì triết học Mác xít phải đổi mới, mà trước hết và quan trọng là
phải đổi mới về nội dung và phương pháp giảng dạy mơn học này.
Theo tinh thần đó , bài viết tập trung vào một số các nội dung:
(1) Việc giảng dạy , nghiên cứu triết học M-L ngày nay gặp khơng
ít khó khăn từ tình hình trong nước và quốc tế, từ những bất cập của
chính đội ngũ trực tiếp làm cơng tác giảng dạy LLCT.
(2) Bài viết khẳng định khơng chỉ đổi mới về nội dung , mà còn
phải đổi mới về phương pháp giảng dạy. Và phải xác định đổi mới
là tất yếu, là thường xun.
(3) Từ thực tiễn giảng dạy , tác giả đã có những đề nghị rất cụ thể
với các cơ quan chủ quản là Bộ GD-ĐT và cơ quan trực tiếp thực
hiện là các trường Đại học.

*

Tiến sĩ triết học, Trưởng Bộ mơn Những NLCB của CN Mác-Lênin, Trung tâm Lý
luận chính trị, ĐHQG-HCM.

518

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HCM

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO



(4) Và cơng việc đổi mới để nâng cao chất lượng dạy và học các
mơn LLCT khơng thể tiến hành qua loa , hấp tấp, vội vàng, nhưng
cũng khơng chần chừ, do dự .
1. Qua mấy chục năm đổi mới , nước ta đã đạt được những
thành tựu bước đầu quan trọng , nhưng còn khó khăn nhiều mặt.
Nền kinh tế nhiều thành phần hình thành , cơ chế thị trường ngày
càng mở rộng , xu hướng hợp tác đa phương , song phương vượt
khỏi biên giới quốc gia và các thể chế chính trị. Tất cả tình hình ấy
vừa tạo vận hội mới, vừa là những thách thức mới đối với sự phát
triển của đất nước.
Dù chúng ta đã đạt được những thắng lợi bước đầu đáng
phấn khởi , nhưng còn khơng ít người đang lo lắng , ngờ vực về tính
định hướng XHCN của nền kinh tế. Trong khi đó , các thế lực thù
địch trong và ngồi nước nhân cơ hội này đã ráo riết tăng cường
hoạt động “diễn biến hòa bình” với mưu toan xóa bỏ nốt một số
nước XHCN còn lại, trong đó có nước ta.
Trên thế giới , sau khi Liên xơ và Đơng Âu tan vỡ, những
biến động về kinh tế, chính trị-xã hội đang có lợi cho CNTB, xung
đột dân tộc , sắc tộc, tơn giáo diễn ra ở nhiều nơi, dẫn đến nguy cơ
đưa thế giới tới chỗ bất ổn và cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc,
dân chủ và CNXH gặp rất nhiều khó khăn.
Trước tình hình đó, đã xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau
xoay quanh chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung và triết học Mác –
Lênin nói riêng . Một số người muốn nghiên cứu , tìm kiếm giá trị
đích thực học thuyết M-L , mà phần nào nó bị hiểu lầm, ngộ nhận
và vận dụng sai lệch với mọi biến dạng trong thực tế . Nhưng cũng
có người tỏ ra ngờ vực , muốn xem xét, đánh giá lại nhiều vấn đề cơ
bản đã được khẳng định. Thậm chí, có cả những người – vì lý do
này hay lý do khác, nhân cơ hội này ra sức cơng kích hòng phủ

nhận tồn bộ học thuyết Mác – Lênin với thái độ hằn học thù địch
rõ rệt.
Trong khi đó, đội ngũ những người trực tiếp nghiên cứu và
giảng dạy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, số lượng
những người có học hàm, học vị tăng lên, nhưng tiếc thay - số lượng
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 2015

519


ấy khơng thật sự đã “chính danh” và khơng làm thay đổi về chất.
Bộ phận làm cơng việc này (nghiên cứu và giảng dạy) chỉ nhằm có
cơng ăn việc làm, chứ chưa phải để khẳng định bản thân, để cống
hiến cho xã hội. Lại có số, thấy nhàm chán với cơng việc mình
đang làm, thấy “bẽ bàng” với cơng việc của mình... Vậy phải chăng
cơng việc của đội ngũ chúng ta, phần nào bị “ tha hóa” (hiểu theo
nghĩa: “ lao động bị tha hóa”1 ).
Cho dù thế nào thì việc nghiên cứu và giảng dạy chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cũng phải tiếp tục ở các
trường Cao đẳng và Đại học của chúng ta – khi chúng ta còn “định
hướng XHCN”. Nhưng có một thực tế trong q trình giảng dạy
chủ nghĩa Mác – Lênin, nhất là triết học, chúng ta còn một số hạn
chế:
- Chưa làm rõ tính hệ thống của mơn học , cũng như của từng
chương, mục của mơn học; trong khi đó, tính hệ thống là một trong
những đặc trưng quan trọng của tri thức triết học. Có thể thấy, việc
giảng dạy triết học của chúng ta thường chỉ được thực hiện như một
sự liệt kê từ mục này sang mục kia, từ chương này sang chương
khác, mà ít chú ý đến tính logich trong q trình chuyển tiếp giữa
các mục, các chương. Hạn chế này làm cho người học khó tiếp thu

và nó là một trong những ngun nhân khiến cho người học cho
rằng: Học triết học sao khó thế !.
- Vì lý do liên quan đến chương trình, nội dung của giáo trình
và áp lực thời gian, nên người dạy chưa giành cho triết học xã hội
(CN DVLS) vị trí xứng đáng. Nội dung chương trình mơn học gồm
3 chương, 2 chương đầu: CN DVBC và phép BCDV có nội dung
ổn định, khơng thay đổi nhiều và thế giới nói chung , cho dù có
nhiều phát minh của khoa học tự nhiên tìm ra kết cấu ngày càng
phức tạp của thế giới thì việc khái qt về mặt triết học cũng chỉ ra
rằng thế giới vật chất ln ln vận động tn theo qui luật khách
quan vẫn khơng thay đổi là tất yếu. Trong khi đó, sự vận động, phát
triển của xã hội dù tn theo qui luật khách quan vẫn chịu ảnh
1

M, E, tồn tập, Nxb CTQG, H. 2000, t 42, ttr 168.

520

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HCM

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO


hưởng của nhân tố chủ quan , như ý chí, khát vọng, tình cảm (mà
khơng phải lúc nào cái chủ quan cũng hướng hoạt động của mình
theo đúng qui luật khách quan) . Vì vậy, trong lĩnh vực xã hội, mọi
ngun lý, qui luật của triết học Mác – Lênin đều giữ ngun được
tính chân lý qua các bước thăng trầm của lịch sử. Do đó, mà hiện
nay, khi giảng phần triết học xã hội (CN DVLS) có nhiều vấn đề
giảng viên phải “tế nhị” bỏ qua hoặc đề cập cũng ở chừng mục

nhất định, vì nó đụng chạm đến những nội dung mang tính chính trị
của nó và cả thực tiễn của trong nước cũng như quốc tế, như : vấn
đề giai cấp, đấu tranh giai cấp, vấn đề cách mạng xã hội, vấn đề
quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ..v.v..
Hạn chế này làm cho cả người dạy và người học rơi vào tình
trạng chấp nhận thụ động, do đó khơng phát huy được khả năng sáng
tạo của cả hai phía trong việc tìm tòi để đưa ra khái qt lý luận mới phù
hợp với nhu cầu mà thực tiễn đặt ra. Và do đó, khi vận dụng lý luận vào
từng trường hợp cụ thể khơng tránh khỏi dẫn đến tình trạng gò ép, lúng
túng.
Khi giảng dạy , giảng viên thường ưu tiên nhiều cho giảng
ngun lý mang tính thế giới quan , mà xem như ý nghĩa phương
pháp luận của vấn đề. Trong khi đó, cơng cụ để sinh viên sử dụng
sau này trong học tập , nghiên cứu và cc sống , khơng phải chủ
yếu là thế giới quan mà là những chỉ dẫn về mặt phương pháp luận.
Cũng có một số thực tế trong kết cấu của nội dung, phần ý nghĩa
phương pháp luận lại nằm ở cuối bài, vì vậy có thể do lý do thời
gian, hay một lý do nào khác nên giảng viên chỉ giảng sơ qua phần ý
nghĩa phương pháp luận; cũng có thể đưa ra một vài ví dụ khơng
sát với nội dung, thậm chí còn u cầu sinh viên tự nghiên cứu…
Hạn chế này làm giảm đáng kể vai trò phương pháp luận,
cũng như sự hấp dẫn của triết học Mác – Lênin, từ đó làm người học
khơng thấy rõ giá trị khoa học của triết học Mác – Lênin, cũng như
gây khó khăn cho họ khi học các mơn khác của chủ nghĩa Mác –
Lênin và các mơn khoa học khác.
2. Đội ngũ giảng viên triết học Mác – Lênin đang đứng trước
những u cầu và thách thức: Một mặt, phải đứng vững trên lập
trường chính trị macxit, giữ vững ngun tắc Đảng; Mặt khác phải
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 2015


521


bắt nhịp được với hơi thở cuộc sống, với những biến động của lịch
sử và phải làm cho triết học Mác – Lênin “Thể hiện cơ bản nhất sự
thơng thái của con người khơng chỉ trong lĩnh vực nhận thức mà cả
trong cơng viêc khác” như Descar2 đã hằng ước mơ đối với triết học
nói chung . Quan trọng hơn , để góp phần làm cho dân nước mình ,
nhất là đội ngũ trí thức có một tư duy khoa học, cách mạng , ví như
Ănghen đã khẳng định “Một dân tộc muốn đứng trên đỉnh cao của
thời đại thì phải có tư duy triết học”3.
Vậy nên đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy là tất
yếu, là cơng việc thường xun. Nhưng trong q trình giảng dạy
cần chú ý những vấn đề cơ bản sau đây:
- Giữ vững bản chất cách mạng và khoa học của triết học
Mác – Lênin, cũng như vai trò kim chỉ nam của nó đối với sự phát
triển xã hội; Nắm vững tư tưởng cơ bản của các nhà kinh điển, quan
điểm đổi mới lý luận của Đảng; Đồng thời có cách tiếp cận mới về
thời đại; có những nội dung thích hợp để sinh viên có thể nhận thức
được các nội dung lý luận cần truyền đạt, từ đó lý giải những vấn đề
thực tiễn, cuộc sống đã, đang và sẽ xảy ra. 4.
- Trong điều kiện phát triển hết sức nhanh chóng của khoa
học, cơng nghệ, những thành tựu mới nhất của khoa học hiện đại đã
đặt ra nhiều vấn đề có ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận
thì triết học macxit cần hiện đại hóa kiến thức bằng cái mới, khơng
để lạc hậu so với thời đại. Trước đây Ănghen đã nhấn mạnh “Mỗi
khi khoa học tự nhiên có những phát minh mang tính chất vạch thời
đại thì chủ nghĩa duy vật khơng thể khơng thay đổi hình thức của
nó”5 Cùng với những điều kiện kinh tế - xã hội, những phát minh
lớn trong khoa học tự nhiên như: Qui luật bảo tồn và chuyển hóa

năng lượng, thuyết tiến hóa, thuyết tế bào… đã dẫn đến sự ra đời
của triết học Mác. Sự phát triển của triết học Mác lên trình độ mới
về chất do Lênin thực hiện cũng diễn ra trong hồn cảnh như vậy.
Ngày nay, triết học Mác cũng phải có những bước phát triển mới về
2

Descarte, các ngun lý triết học, M 1970, tr 222.
M, E, tồn tập Nxb CTQG, H. 1994, t 20, tr 685
4
NQ của Bộ chính trị về cơng tác lý luận trong giai đoạn hiện nay.
5
M, E, tồn tập , Nxb CTQG, H. 1994, t 20, tr 697.
3

522

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HCM

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO


chất, nếu khơng nó sẽ khơng còn đóng vai trò cách mạng và sáng
tạo của mình trong điều kiện phát triển như vũ bão của khoa học và
cơng nghệ. Đây là cơng việc lớn lao, đòi hỏi sự đầu tư trí tuệ của
nhiều người và chỉ có thể thực hiện được với sự hợp tác về chun
mơn giữa triết học Mác-Lênin với khoa học tự nhiên; đặc biệt là sự
tự trang bị kiến thức, hiểu biết của giảng viên triết học về các thành
tựu của khoa học cơng nghệ mới.
- Phải gắn việc giảng dạy triết học Mác- Lênin với lịch sử
hình thành phát triển của bản thân nó, cũng như lịch sử của tư tưởng

nhân loại nói chung. Đây là cách khắc phục tốt nhất quan điểm lệch
lạc cho rằng triết học Mác-Lênin là “độc nhất vơ nhị”, mà khơng
thấy được đó là sự kết tinh trí tuệ nhân loại và đòi hỏi khơng ngừng
bổ sung, phát triển. Việc coi nhẹ lịch sử tư tưởng nhân loại , vì vậy
đã dẫn đến việc làm nghèo nàn chính bản thân triết học Mác –
Lênin, từ đó kéo theo sự nghèo nàn trí tuệ của người học triết học.
Việc gắn kết giữa triết học M-L với tư tưởng nhân loại, nên khéo
léo kết hợp với từng nội dung bằng phương pháp so sánh , đối
chiếu. Làm được như vậy sự thuyết phục , sự hấp dẫn của triết học
Mác – Lênin càng tăng lên.
- Khi giảng dạy triết học Mác – Lênin, các giảng viên cần
quan tâm, tơn trọng đối tượng, nhu cầu của người học của chúng ta
là sinh viên- tầng lớp xã hội đặc thù, bộ phận tiêu biểu của thanh
niên trong xã hội; Họ là người đã trưởng thành về thể lực đang
trong giai đoạn tích lũy kiến thức, nghề nghiệp và cuộc sống để
chuẩn bị cho cơng việc khi ra trường. Cùng với việc trang bị cho
sinh viên kiến thức, tình cảm, lý tưởng… q trình giảng dạy trong
trường Đại học, cùng với các bộ mơn khoa học khác, triết học Mác
– Lênin có nhiệm vụ phát triển những phẩm chất trí tuệ cho họ, rèn
luyện cho sinh viên có năng lực tư duy chính xác, tư duy biện
chứng. Với u cầu đó, đòi hỏi khi giảng dạy triết học Mác – Lênin,
các giảng viên phải góp phần làm cho sinh viên có khả năng nắm
bắt đối tượng một cách chuẩn xác trong hoạt động học tập, nghiên
cứu của họ. Có khả năng giải quyết các tình huống; khả năng ứng
xử, giải quyết tốt các mối quan hệ , các biến đổi của cuộc sống;
Hình thành được tính độc lập trong tư duy và sử dụng được lý luận,
kinh nghiệm để giải quyết các vấn đề đặt ra mà khơng phụ thuộc
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 2015

523



vào người khác; và có khả năng phản biện về chính trị, về văn hóa,
về học thuật …
3. Sự thành cơng của một bài giảng triết học Mác – Lênin
chủ yếu là nội dung, nhưng khơng thể phủ nhận vai trò của phương
pháp. Theo chúng tơi, cần thực hiện các phương pháp sau đây:
- Nên kết hợp phương pháp thuyết trình với các phương
pháp khác: Thời đại ngày nay cho dù là thời đại của cơng nghệ và
phương tiện dạy học hiện đại, nhưng do đặc thù của triết học là tri
thức mang tính hệ thống, khái qt và tính lý luận; cộng với cơ sở
vật chất phục vụ cho việc học, cách thức tổ chức học … nên việc
giảng dạy triết học, thì phương pháp thuyết trình vẫn cần thiết. Hơn
nữa, phương pháp này được thực hiện tốt thì khi giảng dạy triết học,
nó có những ưu thế sau đây: Một là, phương pháp cho phép giảng
viên trình bày những vấn đề lý luận khó, trừu tượng mà sinh viên
khơng dễ dàng tự hiểu trong các giáo trình, tài liệu được. Còn nữa,
đối tượng học là sinh viên năm đầu, nếu khơng có sự giảng dạy cặn
kẽ của giáo viên thì liệu có hiểu được khơng? Hai là, phương pháp
này giúp cho giảng viên sử dụng ngơn ngữ sư phạm để diễn đạt một
nội dung tri thức phức tạp một cách rõ ràng chính xác. Từ đó, giúp
cho sinh viên dễ dàng hơn trong việc tiếp cận nội dung của mơn
học. Ba là, phương pháp này cho phép trong một thời gian hạn chế,
giảng viên có thể truyền thụ được lượng thơng tin lớn cùng một lúc
cho nhiều sinh viên. Bốn là, khơng đơn thuần chỉ trang bị cho sinh
viên thế giới quan, phương pháp luận khoa học, mà còn giáo dục
nhân cách, đạo đức, niềm tin và lý tưởng cách mạng cho họ. Vì vậy,
phương pháp thuyết trình bằng ngơn ngữ sư phạm, giáo viên có thể
làm được điều đó mà khơng có phương pháp nào có thể mạnh hơn.
- Mặc dù phương pháp thuyết trình có những ưu điểm đã đề

cập ở trên, nhưng nó cũng bộc lộ hạn chế là làm cho sinh viên thụ
động, chỉ cho phép người học đạt đến trình độ tái hiện tri thức đã
lĩnh hội, chưa phát huy được tính tích cực, chủ động của người học.
Chính vì vậy, trong giảng dạy giảng viên cần kết hợp phương pháp
thuyết trình với các phương pháp giảng dạy tích cực như phương
pháp đối thoại, phương pháp xử lý tình huống, phương pháp nêu,
phát hiện và giải quyết vấn đề.

524

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HCM

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO


Việc kết hợp các phương pháp làm cho bài giảng sinh động ,
hấp dẫn và hơn hết làm cho sinh viên dễ hiểu bài, phát huy được
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của họ - Một u cầu quan trọng
của giáo dục đại học.
- Kết hợp giảng dạy lý thuyết trên lớp với thảo luận: Thực
hiện phương pháp này sẽ tăng sự hấp dẫn của mơn học vốn thuần
túy mang tính lý luận, sẽ phát huy được tính chủ động của sinh viên
và có cơ hội để giáo viên nắm được kết quả giảng dạy của mình. Để
thực hiện phương pháp này, giảng viên phải chuẩn bị các đề tài có
sự kết hợp giữa lý luận với thực tiễn và cố gắng để các đề tài thảo
luận khơng xa lạ với cuộc sống. Và trong q trình thảo luận, giảng
viên nên phải biết kết hợp hài hòa giữa vai trò tổ chức, hướng dẫn,
gợi mở của giảng viên với việc phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của sinh viên.
- Bài giảng của giảng viên cần có phần cứng, mang tính ổn

định được nêu trong giáo trình (pháp lệnh giáo dục); Đồng thời cần
có phần mềm, cho phép chủ động, linh hoạt, nhạy bén để bài giảng
phản ánh được những biến đổi về kinh tế, chính trị-xã hội diễn ra
hàng ngày, hàng giờ.
- Ngồi việc thực hiện những phương pháp giảng dạy như đã
chỉ ra thì cũng phải đổi mới phương pháp đánh giá kết quả học tập
của sinh viên. Bài thi khơng thể dừng lại ở việc phản ánh khả năng
thuộc bài của sinh viên, mà quan trọng hơn bài thi phải phản ánh
được năng lực sáng tạo, trình độ vận dụng lý luận vào đời sống, vào
hoạt động thực tiễn. Nếu vẫn duy trì phương pháp đánh giá kết quả
học tập của sinh viên chủ yếu dựa trên sự tái hiện kiến thức như bấy
lâu nay thì sinh viên khơng cần chủ động đọc bài trước ở nhà để
tham gia tích cực vào hoạt động trên lớp, vì sinh viên chỉ cần học
thuộc bài trước kỳ thi là đủ, thậm trí khơng cần phải đến lớp nghe
giảng. Do đặc điểm của mơn học và nhằm kích thích tư duy sáng
tạo, khả năng vận dụng lý luận vào thực tiễn (Điều mà giáo dục của
chúng ta đang hướng tới) thì đề thi triết học nói riêng, các mơn khoa
học Mác –Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, phải ra theo
hướng mở. Vì thế trong đề thi phải có các câu hỏi tổng hợp, luận
giải vấn đề, liên hệ và vận dụng trong thực tiễn. Nếu có thi trắc
nghiệm thì cũng nên kết hợp với tự luận. Đề thi trắc nghiệm có hiệu
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 2015

525


quả thì nên xây dựng theo hướng: (1)Dạng mở: đòi hỏi SV nêu đúng
một khái niệm, một định nghĩa hay một luật điểm nào đó; (2)Dạng
câu điền vào chỗ chấm; (3)Dạng câu hỏi đúng, sai: Dạng này sẽ
đưa ra nhiều đáp án, u cầu SV trả lời đúng ,sai , (4)Dạng câu hỏi

lựa chọn: u cầu sinh viên lựa chọn để xắp xếp thứ tự, lựa chọn các
yếu tố cấu thành một qui luật, một ngun lý; (5)Dạng câu hỏi diễn
giải: Đòi hỏi sinh viên vận dụng lý luận đã học phân tích, lý giải
một vấn đề lý luận hay thực tiễn để kiểm tra năng lực tư duy của
sinh viên. Đây là dạng câu hỏi khó, được đánh giá cao, dùng để
phân loại sinh viên.
Do có nhiều dạng câu hỏi, nên thang điểm cũng khác nhau,
chia làm 2 loại: Loại ½ điểm cho câu hỏi thuộc dạng câu 1,2,3,4;
Loại 1 điểm cho câu hỏi dạng câu 5.
4. Để nâng cao chất lượng dạy và học các mơn lý luận trong
các trường đại học và cao đẳng, ngồi việc nỗ lực tự thân của những
giảng viên, những đơn vị quản lý như các bộ mơn, các khoa LLCT
của các trường, còn có sự hiệp lực, quyết tâm của Bộ GD-ĐT, của
các trường Đại học. Trên tinh thần đó chúng tơi đề nghị:
+ Về phía Bộ GD-ĐT:
- Trả lại tên gọi của từng bộ phận cơ bản cấu thành chủ
nghĩa Mác – Lênin như trước đây.
- Chỉ nên có chương trình khung cho từng mơn học và để các
trường chủ động biên soạn giáo trình cho phù hợp với tính đặc thù
của từng trường.
- Về nội dung, nên viết lại phần 3: Lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin về CNXH. Về kết cấu thì ổn, nhưng nội dung nhiều
chỗ chưa rõ, chưa chính xác, nhất là những nội dung liên quan đến
các khái niệm, chẳng hạn khái niệm giai cấp cơng nhân, khái niệm
dân chủ, nền dân chủ; khái niệm nhà nước XHCN; khái niệm nền
văn hóa, nền văn hóa XHCN… và một số nội dung khác, chẳng hạn:
Những điều kiện qui định sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân;
Vai trò của Đảng cộng sản…

526


ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HCM

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO


- Đề nghị Bộ rà sốt và kiểm tra, nhắc nhở các trường thực
hiện đầy đủ các chế độ cho đội ngũ làm cơng tác này.
+ Về phía các trường:
- Phải thể hiện quyết tâm chính trị được thể hiện trong các
nghị quyết của Đảng bộ, chi bộ về cơng tác giáo dục chính trị, tư
tưởng nói chung và cơng tác giảng dạy LLCT nói riêng.
- Tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất về tổ chức giảng
dạy, về chế độ đãi ngộ với đội ngũ là cơng tác giảng dạy LLCT.
- Cùng với các giảng viên lý luận, nhà trường phải nghiêm
túc thực hiện lịch trình giảng dạy, chương trình, nội dung giảng dạy
và đánh giá kết quả học tập một cách nghiêm túc.
5. Đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy nhằm nâng
cao chất lượng giảng dạy, học tập các mơn lý luận chính trị trong
các trường đại học, khơng chỉ có mục đích tự thân, mà đó còn là u
cầu của thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn
ngày nay. Cơng việc này khơng thể tiến hành một cách hình thức
mà phài thực chất; khơng thể nóng vội chủ quan, hấp tấp, vội vàng
nhưng cũng khơng thể chần chừ, do dự, rụt rè; cũng khơng phải chỉ
riêng Bộ GD-ĐT, mà phải là sự chung tay giúp sức của các tổ chức
chính trị nhất là tổ chức Đảng và chính phủ. Tất cả những cố gắng
của ngành GD, của Đảng, Nhà nước và tồn xã hội, nhằm đào tạo
một đội ngũ trí thức mới, có thế giới quan khoa học, có đạo đức
lương tâm trong sáng, có trình độ chun mơn, năng động, tích cực,
sáng tạo trong thực tiễn, có đủ bản lĩnh để khẳng định bản thân

trong cơng việc và trong giao tiếp xã hội ./.

KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 2015

527



×