Ngày nay đất nước nói chung, nước Việt Nam ta nói riêng ngày càng
tiến bộ, giàu mạnh theo thời gian. Với chủ trương, chính sách mà Đảng và Nhà
nước đề ra phù hợp, đúng đắn dẫn đến một sự thật khách quan cuộc sống nhân
dân ngày càng ấm no, hạnh phúc, của cải dư thừa. Xã hội phát triển nhu cầu của
người dân cũng tăng cao, không chỉ nhu câu ăn no, có đồ mặc mà giờ đây nhu
cầu của họ thay đổi một cách rõ đó là ăn ngon, mặc đẹp… Để đảm bảo nhu cầu
của bản thân thì trong xã hội đã diễn ra hàng loạt các hoạt động như mua bán,
trao đổi, hoặc một số người với tài sản khổng lồ họ không biết dùng vào việc gì
thì họ đem cho vay, tặng cho người khác. Xét riêng hợp đồng tặng cho, vì đây là
loại hợp đồng có đặc trưng vô cùng đặc biệt đó là không có tính đền bù và là
hợp đồng thực tế. Chính vì đặc trưng này mà trong xã hội xảy ra nhiều tranh
chấp liên quan đến vấn đề tặng cho tài sản. Để minh chứng cho điều trên em
xin giải quyết đề số 06: “Xây dưng một tình huống về tặng cho có điều kiện.
Yêu cầu: trong tình huống có tình tiết người được tặng cho đã thực hiện điều
kiện nhưng bên tặng cho không chuyển giao tài sản đẫn tới phát sinh tranh
chấp giữa hai bên. Giải quyết tình huống theo quy định pháp luật hiện
hành.” làm bài tập học kì Dân sự 2.
Xây dựng tình huống:
Anh A là thành viên của Công ty Hợp danh X( Công ty kinh doanh
ngành nghề sản xuất đồ chơi trẻ em).
Ngày 13/02/2007 Công ty Cổ phần Y muốn kí kết hợp đồng mua bán đồ
chơi trẻ em với Công ty hợp danh X. Công Ty Y đã hẹn với Công ty X về thời
gian, địa điểm kí kết hợp đồng giữa 2 Công ty: 16h ngày 15/02/2007 tại quán
Cafe LoDon 89 Nguyễn Chí Thanh, Đống Đa, Hà Nội.
1
Anh A là thành viên Công ty X được giao nhiệm vụ nhân danh công ty
X đi kí kết hợp đồng với Công ty Y vào thời gian, địa điểm xác định trên.
Sáng ngày 15/02/2007, anh A lái xe oto đi đến địa điểm đã hẹn. Đang
trên đường Thái Hà hướng về địa điểm đã hẹn thì xe oto của anh A bị hỏng và
lúc đó là 14h. Anh A vội chạy vào nhà gần đó – nhà anh C, vào trong nhà anh A
trình bày việc mình nhân danh Công ty X đi kí hợp đồng nhưng đến đây xe bị
hỏng với anh C và anh A thỏa thuận “sẽ tặng cho anh C chiếc điện thoại Iphone
6s đang cầm trên tay với điều kiện anh C trở anh A đến địa điểm trên trước
16h”. Anh C đồng ý, đã trở anh A đến địa điểm như đã hẹn và trước 16h bằng
xe máy của nhà chuyên dùng với mục đích đi lại. Khi anh A kí kết hợp đồng
xong với phía đối tác là Công ty Y thì anh C đến và yều cầu anh A đưa chiếc
Iphone 6s như đã thỏa thuận nhưng anh A đã từ chối không đưa chiếc điện thoại
cho anh C mà thay vào đó anh A đưa cho anh C một số tiền 200 nghìn đồng.
Anh c không đồng ý và xảy ra tranh chấp giữa hai bên.
Giải quyết tình huống:
Theo khoản 1 Điều 470. Tặng cho tài sản có điều kiện quy định:
1.Bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc
nhiều nghĩa vụ dân sự trước hoặc sau khi tặng cho. Điều kiện tặng cho không
được trái pháp luật, đạo đức xã hội.
Theo trên thì anh A yêu cầu anh C thực hiện công việc trở anh A đến
trước 16h quán Cafe LonDon số 87 Nguyễn chí Thanh, Đống Đa, Hà Nội để kí
kết hợp đồng với Công ty Y trước khi tặng cho anh C chiếc Iphone 6s. Công
việc mà anh A yêu cầu hay nói cách khác điều kiện anh A đưa ra hoàn toàn
không trái pháp luật và đạo đức xã hội vì đây chỉ là công việc trở người bình
thường không phải trở công việc trở hàng cấm hay một số công việc mà được
coi là trái pháp luật, đạo đức xã hội.
2
Mặt khác theo Điều 282. Đối tượng của nghĩa vụ dân sự quy định:
1. Đối tượng của nghĩa vụ dân sự là tài sản
2. Đối tượng của nghĩa vụ dân sự phải được xác định cụ thể.
3. Chỉ những tài sản có thể giao dịch được mà pháp luật không cấm,
không trái đạo đức xã hội mới là đối tượng của nghĩa vụ dân sự
Với đặc điểm của Hợp động tặng cho có điều kiện là hợp đồng đơn vụ,
theo đó anh A có nghĩa vụ giao tài sản chiếc Iphone 6s. Theo trên thì đối tượng
của hợp đồng tặng cho có điều kiện là chiếc điện thoại Iphone 6s đáp ứng đầy
đủ điều kiện tại điều 282 BLDS hay nói cách khác đối tượng thực hiện được và
không trái pháp luật, đạo dức xã hội.
Từ đó nếu anh A sau khi đã kí kết hợp đồng xong với Công ty Y và đưa
cho anh C chiếc điện thoại như đã hứa thì hợp đồng tặng cho tài sản có điều
kiện là hoàn toàn hợp pháp và có hiệu lực nhưng theo trên thì anh A đã không
giao chiếc điện thoại Iphone 6s cho anh C và khi đó xảy ra tranh chấp giữa hai
bên
*Thỏa thuận
Theo điều 12 BLDS. Nguyên tắc hòa giải quy định:
Trong quan hệ dân sự, việc hòa giải giữa các bên phù hợp với quy định
của pháp luật được khuyến khích.
Không ai được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực khi tham gia quan
hệ dân sự, giải quyết các tranh chấp dân sự.
Theo đó Luật khuyến khích mọi người khi giải quyết tranh chấp các bên
nên ngồi lại với nhau thỏa thuận, bàn bạc . Theo đó việc anh A không giao chiếc
3
điện thoại cho anh C như đã thỏa thuận và anh C không chấp nhận điều đó, khi
đó anh A với anh C nên ngồi lại với nhau bàn bạc đưa ra ý kiến, cách giải quyết.
+ Trong quá trình ngồi lại với nhau anh C đã trình bày ý kiến của mình
về việc anh A không giao chiếc điện thoại cũng như việc vì sao anh C chấp
nhận trở anh A. Qua quá trình bàn bạc anh A đã thay đổi quan điểm và đã giao
cho anh C chiếc điện thoại.
→ Mọi việc đã được giải quyết
+ Nhưng trường hợp sau khi giao tài sản cho anh C xong anh A lại đòi
lại chiếc điện thoại IP 6s nhưng anh C không đưa
Theo điều 466BLDS Tặng cho động sản quy định
Hợp đồng tặng cho động sản có hiệu lực khi bên được tặng cho nhận tài
sản; đối với động sản mà pháp luật có quy định đăng ký quyền sở hữu thì hợp
đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký.
Theo đó chiếc điện thoại Ịphone 6s là động sản không phải đăng kí
quyền sở hữu theo quy định của pháp luật. Vì là động sản nên hợp đồng tặng
cho tài sản có điều kiện giữa A và C có hiệu lực kể từ thời điểm bên A giao tài
sản cho bên C.
→ Anh A không có quyền đòi lại chiếc điện thoại IP 6s từ tay anh Cvì
hợp đồng đã có hiệu lực
+ Anh A và anh C ngồi lại với nhau bàn bạc đi đến thống nhất anh A sẽ
đưa cho anh C một số tiền là 1 triệu đồng cho việc anh C đã trở anh A và anh C
đồng ý.
→ Mọi việc đã được giải quyết
*Không thỏa thuận được
4
Trong trường hợp các bên đã ngồi lại với nhau thỏa thuận về giá nhưng
giá anh C đưa ra anh A không chấp nhận hoặc việc anh C nhất quyết buộc anh
A nhưng anh A không giao chiếc điện thoại cho anh C. Trong trường hợp đó
anh C sẽ khởi kiện ra Tòa án dân sự yêu cầu Tòa án giải quyết.
Theo khoản 2 điều 470. Tặng cho tài sản có điều kiện quy định:
2. Trong trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ trước khi tặng cho, nếu bên
được tặng cho đã hoàn thành nghĩa vụ mà bên tặng cho không giao tài sản thì
bên tặng cho phải thanh toán nghĩa vụ mà bên được tặng cho đã thực hiện.
Cùng đặc điểm, tính chất với hợp đồng tặng cho tài sản thông thường,
hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện là hợp đồng thực tế.Theo đó, thời điềm
giao kết không làm phát sinh hiệu lực của hợp đồng mà chỉ khi bên tặng cho
giao tài sản và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho thì hợp đồng mới
phát sinh hiệu lực. Theo thỏa thuận giữa anh A và anh C thì anh C thực hiện
cộng việc chở anh A đến địa điểm đã xác định trước khi anh A giao tài sản.
Mặt khác như đã phân tích điều 466 BLDS 2005. Tặng cho động sản
nêu trên thì việc anh A chưa giao tài sản – chiếc điện thoại Iphone 6s chưa làm
phát sinh hiệu lực của hợp đồng tặng cho có điều kiện.
Nghĩa vụ, công việc phải được thực hiện trước và đã hoàn thành nhưng
anh A không giao tài sản tặng cho: Lúc này anh C không thể nói là bên tặng cho
– anh A vi phạm hợp đồng và phải bồi thường thiệt hại cho mình bởi hợp đồng
tặng cho chưa phát sinh hiệu lực. Khi hợp đồng chưa có hiệu lực thì các bên
không có nghĩa vụ gì với nhau hay nói cách khác bên A không phải thực hiện
nghĩa vụ giao chiếc Iphone 6s. Trường hợp này, pháp luật chỉ yêu cầu bên tặng
cho – anh A phải thanh toán chi phí thực hiện nghĩa vụ cho bên được tặng cho –
anh C.
5
Theo trên thì trong suốt thời gian anh C – bên được tặng cho thực hiện
nghĩa vụ hợp đồng tặng cho không hề phát sinh hiệu lực, tài sản vẫn thuộc sở
hữu của bên A. Theo điều 164 BLDS 2005. Quyền sở hữu quy định:
Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định
đoạt tài sản của chủ sở hữu theoquy định của pháp luật.
Chủ sở hữu là cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác có đủ ba quyền là quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản.
Với tư cách là chủ sở hữu đối với chiếc điện thoại IPhone 6s anh A có
đầy đủ 3 quyền năng của chủ sở hữu bao gồm: quyền chiếm hữu( điều 182
BLDS 2005), quyền sử dụng (điều 192 BLDS), quyền định đoạt (điều 195
BLDS). Theo đó viêc anh A quyết định tặng hay không tặng chiếc điện thoại
Iphone 6s cho anh C là quyền của anh A vì đây thuộc quyền định đoạt quy định
tại điều 195 BLDS 2005.
Theo tình huống nêu trên thì anh A và anh C thỏa thuận với nhau việc
anh C thực hiện công việc chở anh A đến địa điểm đã hẹn. Đến đây, hợp đồng
tặng cho ban đầu dường như là một hợp đồng dịch vụ, và khi có tranh chấp sẽ
áp dụng các quy định của hợp đồng dịch vụ để giải quyết.
Theo điều 518 BLDS 2005. Hợp đồng dịch vụ quy định:
Hợp đồng dịch vụ là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng
dịch vụ thực hiện công việc cho bên thuê dịch vụ, còn bên thuê dịch vụ phải trả
tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ.
Theo đó thì anh A và anh C đã thỏa thuận với nhau việc anh C thực hiện
công việc chở anh A. Theo đây thì anh A là bên thuê dịch vụ còn anh C trở
thành bên cung ứng dịch vụ.
6
Theo đó đối với hợp đồng dịch vụ thì đối tượng của hợp đồng dịch vụ là
công việc có thể thực hiện được, không trái đạo đức pháp luật như đa phan tích
trên tại điều 282 BLDS 2005 cụ thể đối tượng mà anh A và C đã thỏa thuận là
việc anh C trở anh A.
Mặt khác đặc điểm của hợp đồng dịch vụ là hợp đồng ưng thuận: “là
những Hợp đồng mà theo quy định của pháp luật, quyền và nghĩa vụ của các
bên phát sinh ngay sau khi các bên đã thoả thuận với nhau xong về nội dung chủ
yếu của Hợp đồng. Trong trường Hợp này, dù rằng các bên chưa trực tiếp thực
hiện các nghĩa vụ đã cam kết nhưng đã phát sinh quyền yêu cầu của bên này đối
với bên kia trong việc thực hiện Hợp đồng. Hay nói cách khác, Hợp đồng ưng
thuận là những Hợp đồng mà thời điểm có hiệu lực của nó được xác định tại
thời điểm giao kết.”
Theo trên kể từ điểm anh Avà anh C giao kết thì giữa anh A và anh C
phát sinh hợp đồng dịch vụ. Khi hợp đồng dịch vụ có hiệu lức kể từ thời điểm
giao kết thì các bên phải thực hiện nghĩa vụ của mình đối với bên kia. Ở đây
bên C có nghĩa vụ chở anh A đến địa điểm đã thỏa thuận còn việc anh A có
nghĩa vụ phải trả tiền trường hợp không thỏa thuận về giá.
* Đến đây thì khi anh C đã thực hiện xong công việc như đã yêu câu phù
hợp với ý chí anh A, do không thỏa thuận trước về giá và anh A đã trả anh C
một khoản tiền nhưng anh C không đồng ý hoặc việc anh C yêu cầu anh A giao
điện thoại cho anh C nhưng không giao. Trong trường hợp này do đây là loại
hợp đồng dịch vụ và đã có hiệu lực nên mọi tranh chấp sẽ áp dụng theo quy
định của hợp đồng dịch vụ.
Theo khoản 2,3 điều 524 BLDS 2005. Trả tiền dịch vụ quy định:
2. Khi giao kết hợp đồng nếu không có thoả thuận về giá dịch vụ,
phương pháp xác định giá dịch vụ và không có bất kỳ chỉ dẫn nào khác về giá
7
dịch vụ thì giá dịch vụ được xác định căn cứ vào giá thị trường của dịch vụ cùng
loại tại thời điểm và địa điểm giao kết hợp đồng.
3. Bên thuê dịch vụ phải trả tiền dịch vụ tại địa điểm thực hiện công việc
khi hoàn thành dịch vụ, nếu không có thoả thuận khác.
Ban đầu nó là một dạng hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện nhưng
không phát sinh hiệu lực hợp đông do anh A không giao tài sản cho anh C và
đến đây nó trở thành hợp đồng dịch vụ có hiệu lực ngay từ thời điểm giao kết.
Chính vì lẽ đó mà ban đầu anh A và anh C đã không có thỏa thuận gì về giá
cũng như sau khi thực hiện xong các bên không nhất chí về giá thỏa thuận.
Theo đó sau khi anh C thực hiện xong công việc của mình thì việc xác
định anh A trả giá thuê dịch vụ chở người thì giá dịch vụ căn cứ vào giá thị
trường của dịch vụ chở người – xe ôm tại thời điểm anh A và anh C giao kết
hợp đồng cụ thể ngày 15/02/2007 tại Thái Hà và anh A phải trả tiền dịch vụ chở
người tại địa điểm quán Café LonDon số 87 Nguyễn Chí Thanh, Đống Đa, Hà
Nội.
Giả sử theo ước lượng tính toán giá dịch vụ xe ôm tại thời điểm
15/02/2007 từ địa điểm giao kết đến số 87 Nguyễn Chí Thanh là 50 nghìn. Thì
theo đó anh A phải trả cho anh C số tiền là 50 nghìn VND.
+Về mặt lí thuyết: đến đây coi như tranh chấp đã được giải quyết, theo
đó anh A phải trả cho anh C số tiền là 50 nghìn VND có thể là cao hơn tùy
thuộc vào việc anh A trả.
+Thực tế: Trên thực tế có không ít vụ xảy ra như trường hợp này,
nhưng thường là vụ liên quan với “số tiền lớn”, theo đó sau khi có quyết định
của Tòa Án buộc anh A phải trả anh C số tiền là 50 nghìn VND. Nhưng anh A
vì lí do gì đó như: “ muốn gây khó dễ cho C..” mà trần trừ không đưa cho anh C
khi anh C cầm trên tay quyết định của Tòa Án đến nhà anh A. Theo đó trong
8
trường hợp này để lấy 50 nghìn VND từ A, anh C phải đem quyết định của Tòa
Án đến cơ quan thi hành án để họ giải quyết bằng biện pháp cưỡng chế thi hành.
Vì trong vụ việc này số tiền mà anh A phải trả cho anh C theo quyết
định của Tòa Án là 50 nghìn VND, đây là số tiền nhỏ không đáng là bao với
anh A – thành viên công ty Hợp Danh X. Do đó sau khi giải quyết ở Tòa Án
thường thì anh A sẽ gửi lại ngay cho anh C không giống như những vụ phải trả
số tiền lớn.
Nguyên nhân dẫn đến việc khẳng định đây là hợp đồng dịch vụ mà
không phải hợp đồng vận chuyển hành khách tuy việc anh C vận chuyển anh A
giống loại hợp đồng vận chuyển hành khách là vì:
+ Bên vận chuyển hành khách trong hợp đồng vận chuyển hành khách
phải đăng ký kinh doanh vận chuyển hành khách. Ở đây theo tình huống anh C
chỉ là một người có phương tiện, không đăng ký kinh doanh vận chuyển hành
khách
+ Với hợp đồng vạn chuyển hành khách thì pháp luật quy định buộc bên
vận chuyển phải mua bảo hiểm hành khách. Trong trường hợp trên anh C mua
xe để đi lại nên không có bảo hiểm hành khách mà chỉ mua bảo hiểm chủ xe
máy.
→Đây là hợp đồng dịch vụ.
Bài tập trên của em còn nhiều thiếu xót, mong thầy cô tận tình giúp để
bài tập của em trở nên hoàn thiện hơn.
EM XIN TRÂN THÀNH CẢM ƠN
9