Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

NHÓM 6 APPLE SINGAPORE

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.81 KB, 32 trang )

TRƯỜNGĐẠIHỌCKINHTẾQUỐCDÂN
MÔNKINHDOANH QUỐC TẾ
----------

BÀI TẬP NHÓM 6
CHỦ ĐỀ:
APPLE
CHI NHÁNH
SINGAPORE

Thựchiện:Nhómsinhviên
Lớp:Kinh doanh quốc tế 1
Giảngviênhướngdẫn: PGS TS Tạ Văn Lợi

HàNội,tháng7năm2016


Danh sách thành viên nhóm 6
Họ và tên

Mã sinh viên

1.

Trần Xuân Chính

11130545

2.

Lê Mai Hương



11131835

3.

Nguyễn Thị Huyền

11131757

4.

Phạm Anh Nam (Nhóm trưởng)

11132668

5.

Đỗ Trần Tân

11133462

6.

Trần Thị Kim Thoa

11133714

7.

Nguyễn Thị Trang


11134093

MỤC LỤC


I. Giới thiệu về Apple Store chi nhánh Singapore
1.

Giới thiệu về Apple
Apple Inc. là tập đoàn công nghệ máy tính của Mỹ có trụ sở chính đặt

tại Silicon Valley ở San Francisco, tiểu bang California. Apple được thành lập
ngày 1 tháng 4 năm 1976 dưới tên Apple Computer, Inc., và đổi tên
thành Apple Inc. vào đầu năm 2007. Với lượng sản phẩm bán ra toàn cầu hàng
năm là 13,9 tỷ USD (2005), 74 triệu thiết bị iPhone được bán ra chỉ trong một
quý 4 năm 2014 và có hơn 98.000 nhân viên ở nhiều quốc gia, sản phẩm là máy
tính cá nhân, phần mềm, phần cứng, thiết bị nghe nhạc và nhiều thiết bị đa
phương tiện khác. Sản phẩm nổi tiếng nhất là máy tính Apple Macintosh, máy
nghe

nhạc iPod

(2001),

chương

trình

nghe


nhạc iTunes,

điện

thoại iPhone (2007), máy tính bảng iPad (2010) và đồng hồ thông minh Apple
Watch (2014-2015) hoạt động trên nhiều quốc gia trên thế giới.
Theo bảng xếp hạng do hãng nghiên cứu thị trường toàn cầu Millward
Brown thực hiện vào năm 2014, Apple đã bị Google soán ngôi thương hiệu đắt
giá nhất thế giới sau 3 năm liên tiếp giữ ngôi quán quân. Theo bảng xếp hạng
này Google xếp vị trí đầu bảng, Apple đứng vị trí thứ hai, tiếp theo lần lượt là
IBM, Microsoft, McDonald's, Coca Cola, Visa…
2.

Giới thiệu về Apple Store chi nhánh Singapore
Hiện nay, Apple có hơn 400 cửa hàng trên toàn thế giới và tập trung chủ yếu

ở những nước có lượng tiêu thụ sản phẩm lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, ...
Thị trường Đông Nam Á với nhiều nước đang phát triển là một thị trường rất
tiềm năng đối với Apple. Tuy nhiên, Apple lại chưa có cửa hàng bán lẻ nào tại
đây. Nắm bắt được vấn đề đó, vào tháng 11 năm 2015, Apple đã xác nhận sẽ mở
cửa Apple Store tại Singapore. Apple Store Singapore sẽ mở cửa và đi vào hoạt
động vào cuối năm 2016, đồng thời trở thành cửa hàng bán lẻ đầu tiên của
Apple ở khu vực Đông Nam Á. Lý do Apple lựa chọn Singapore là vì Singapore là
đất nước của quốc tế, là điểm đến lý tưởng dành cho mua sắm. Cửa hàng Apple
Store tại Singapore sẽ được đặt tại số 270 Orchard Road, Lever 3 Kightsbridge,
Singapore.

Page 3



II. Những vấn đề Apple cần biết khi kinh doanh tại Singapore
1. Môi trường chính trị và hệ thống luật tại Singapore
Hệ thống luật tại Singapore
Khái quát về hệ thống pháp luật Singapore
a.
i)

Hệ thống pháp luật Singapore gần như hoàn toàn chịu ảnh hưởng của pháp luật
Anh, chỉ trừ một số vấn đề mang tính cá nhân đối với cộng đồng Hồi giáo, Ấn Độ giáo
và người Hoa chịu sự điều chỉnh của Luật Hồi giáo, Luật Ấn Độ giáo và phong tục của
người Hoa.Vào thời kỳ đầu của chế độ thuộc địa, Bản Hiến chương thứ hai về công lý
của Anh năm 1826 được coi là hiến chương đưa pháp luật và hệ thống tư pháp Anh
vào các nước thuộc vùng eo biển (Penang, Malacca, Singapore). Bản Hiến chương này
đồng thời khẳng định: việc tiếp nhận chung đối với pháp luật Anh chỉ đúng khi đáp
ứng yêu cầu: thứ nhất, các đạo luật Anh liên quan đến chính sách chung thì được áp
dụng chung; thứ hai, các đạo luật được đem áp dụng phải phù hợp với tập quán, tôn
giáo cũng như pháp luật của địa phương. Như vậy, ngay cả đạo luật được áp dụng
chung cũng vẫn có thể phải sửa đổi để tránh gây bất bình đẳng và áp bức đối với dân
bản địa . Nhiều ngành luật được pháp điển hoá, một hệ thống văn bản pháp luật đầy đủ
được thông qua.Trong quá trình xây dựng nền tư pháp độc lập và đại phương hoá hệ
thống pháp luật của mình, pháp luật Anh được tiếp nhận ở Singapore một cách đặc thù
nghĩa là bằng các điều khoản hay các đạo luật quy định rõ việc tiếp tục áp dụng pháp
luật Anh trong một số lĩnh vực riêng biệt. Một con đường khác để pháp luật Anh thâm
nhập vào Singapore là việc Nghị viện ban hành lại các đạo luật của Anh theo đúng
nguyên văn câu chữ hoặc chỉ thay đổi vài điều khoản, ví dụ như Luật trọng tài năm
1950. Theo hình mẫu pháp luật Anh thông qua Pháp lệnh (Ordinance) về thời hiệu
năm 1959.Bên cạnh pháp luật Anh, Singapore đã ban hành nhiều luật và pháp lệnh
theo mô hình của các nước khác phù hợp hơn với điều kiện thực tế của mình ví dụ như
thông qua Bộ luật Hình sự, Luật về chứng cứ theo hình mẫu của các Bộ luật thuộc địa

Ấn Độ; thông qua Luật về quyền đất đai năm 1956, Pháp lệnh về các quan hệ công
nghiệp năm 1960 và Luật về công ty năm 1967 theo mô hình của Australia.Năm 1979,
Nghị viện Singapore đã sửa đổi Điều 5 Luật Dân sự theo hướng loại trừ việc tiếp nhận
Page 4


các đạo luật Anh trong lĩnh vực thương mại trong một số trường hợp: khi các đạo luật
đó là hệ quả trực tiếp của các công ước, hiệp định quốc tế mà Singapore không phải là
thành viên, khi đã có một đạo luật khác của Singapore với cùng mục đích như đạo luật
của Anh. Tuy nhiên những sửa đổi này cũng vẫn chưa giải quyết được triệt để tính
không xác định của phạm vi tiếp nhận pháp luật Anh. Vì cho rằng việc Anh tham gia
Liên minh châu Âu sẽ làm cho xu hướng phát triển pháp luật thương mại của Anh
ngày càng không còn phù hợp với Singapore nên tháng 11 năm 1993, Nghị viện
Singapore đã ban hành Đạo luật về áp dụng pháp luật Anh với những nội dung chính:
tuyên bố xoá bỏ Điều 5 Luật Dân sự, chấm dứt việc tiếp nhận một cách tự động các
đạo luật tương lai của Anh về thương mại; xác lập danh mục các đạo luật Anh được áp
dụng tại Singapore đồng thời nói rõ phạm vi áp dụng chúng ; chuyển hoá một số điều
khoản của các đạo luật ban hành trước 1826 liên quan đến sở hữu, uỷ thác, bảo hiểm,
thừa kế…vào các đạo luật tương ứng hiện hành của Singapore; khẳng định các án lệ và
Luật Công bằng của Anh đã từng là một bộ phận của pháp luật Singapore trước khi
Luật này có hiệu lực thì vẫn sẽ tiếp tục là một bộ phận của pháp luật Singapore, đồng
thời có thể được sửa đổi tuỳ theo yêu cầu cụ thể và bằng con đường lập pháp. Đạo luật
về áp dụng pháp luật Anh 1993 có ý nghĩa cách mạng nhằm loại bỏ sự không rõ ràng
trong việc áp dụng pháp luật Anh ở Singapore, làm giảm bớt sự phụ thuộc của pháp
luật thương mại Singapore vào pháp luật Anh và vào hoạt động lập pháp tương lai của
Anh .Ở Singapore vẫn áp dụng hoàn toàn học thuyết pháp lý của Anh, thừa nhận án lệ
là nguồn quan trọng của luật. Án lệ của Anh, của Malaysia, của Ấn Độ và các nước
trong Khối Thịnh vượng chung “có hiệu lực thuyết phục” được Toà án Singapore tiếp
nhận trong thực tiễn xét xử .


ii)

Luật Dân sự và các ngành luật liên quan
Trong các quan hệ dân sự – pháp lý ở Singapore chủ yếu sử dụng các quy phạm

thông luật Anh, trừ một số chế định pháp lý cá nhân được diều cỉnh bởi phong tục và
luật của các cộng đồng cụ thể.Năng lực pháp lý của các chủ thể Luật Dân sự được quy
định bởi các văn bản pháp lý dựa trên thông luật Anh. Luật Hợp đồng và Chế định bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng của Singapore về cơ bản theo hình mẫu của pháp luật
Page 5


Anh. Luật Đất đai của Singapore đồng thời dựa trên pháp luật Anh và pháp luật
Australia (về đăng ký bất động sản).Quan hệ sở hữu trí tuệ ở Singapore được điều
chỉnh bởi Luật về quyền tác giả 1987, Luật về Thương hiệu (theo hình mẫu của Luật
về Thương hiệu Anh 1887), Luật về Nhãn hiệu (theo hình mẫu Luật về Nhãn hiệu Anh
1938), Luật về sáng chế 1994. Pháp luật Singapore trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ hoàn
toàn tương ứng với các chuẩn mực quốc tế hiện dại và có điểm khác biệt về xử lý
nghiêm ngặt đối với các vi phạm quyền sở hữu trí tuệ.Luật Lao động của Singapore
quy định quyền thành lập công đoàn, quy định về thoả ước lao động tập thể và quyền
đình công. Quy định về quyền đình công ở Singapore không được sử dụng từ sau 1986
do thủ tục trọng tài hoà giải phức tạp trước khi đình công. Chính phủ Singapore tham
gia tích cực vào điều chỉnh quan hệ lao động và quan hệ cộng đồng xã hội. Luật về
việc làm quy định 44 giờ làm việc 1 tuần. Theo mức độ bảo trợ xã hội đối với người
lao động, Singapore đứng thứ hai ở châu Á sau Nhật Bản.Theo Pháp lệnh về quyền
dân sự (Civil Law Ordinance) ở Singapore các quy định của Luật Kinh doanh của Anh
về tất cả các vấn đề liên quan đến công ty hợp danh, công ty, ngân hàng và hoạt động
ngân hàng, hợp đòng đại lý, vận chuyển, bảo hiểm thương mại trực tiếp có hiệu lực
nếu pháp luật Singapore không có quy định khác. Bên cạnh việc sử dụng trực tiếp
pháp luật Anh như Luật về hợp danh 1890, Luật về chi phiếu 1882…Singapore cũng

đã thông qua các luật của mình như Luật về công ty (dựa trên hình mẫu của Luật về
công ty của Malaysia 1967), Luật về phá sản (dựa trên Luật về phá sản Anh năm
1914).Từ 1965, pháp luật kinh tế của Singapore hướng tới thu hút đầu tư nước ngoài
và khuyến khích các sáng kiến cá nhân. Trong những năm 1990, ở Singapore hình
thành cơ sở pháp lý khá hoàn chỉnh cho các hoạt động miễn thuế (off shore). Quan hệ
trọng tài thương mại quốc tế được điều chỉnh bởi Luật về Trọng tài Thương mại quốc
tế 1994. Nhìn chung, tố tụng dân sự và tố tụng trọng tài ở Singapore được xây dựng
trên cơ sở pháp luật Anh.

iii)

Pháp luật về công ty

Singapore áp dụng khá triệt để hệ thống pháp luật Anh. Một trong những
nguyên tắc của việc áp dụng hệ thống pháp luật Anh ở Singapore là áp dụng đến chừng
Page 6


mực mà chưa mâu thuẫn với tập quán và pháp luật của Singapore. Chính vì vậy, nguồn
luật công ty của Singapore chủ yếu dựa vào các văn bản pháp luật về công ty của Anh
và Úc. Tuy nhiên, luật công ty của Singapore hiện nay cũng chứa đựng nhiều điểm
khác so với luật công ty hai nước trên.Nguồn chủ yếu của luật công ty của Singapore
là Paprtnership Act 1890 và Compaines Act, Business Registration Act, Security Act.
Theo các văn bản pháp luật này thì ở Singapore có các loại hình doanh nghiệp
sau:


Doanh nghiệp tư nhân (doanh nghiệp một chủ)




Hợp danh



Công ty
Theo Luật đăng ký kinh doanh (Luật số 32) thì một cá nhân nào hay một nhóm

những cá nhân có thể thành lập doanh nghiệp một chủ (công ty), hợp danh thông qua
cơ chế đăng ký với cơ quan đăng ký được máy tính hoá. Các thông tin đăng ký tại đây
đều được cung cấp cho bất kỳ ai quan tâm."Công ty " hợp danh không được có quá 20
thành viên, loại trừ đối với các (Công ty) hợp doanh hành nghề được điều chỉnh theo
luật. Để đăng ký thì chủ sở hữu duy nhất hay thành viên (công ty) hợp danh phải có
đơn tới cơ quan đăng ký để được kiểm tra xem tên dự tính của doanh nghiệp hay (công
ty) hợp danh có thích hợp không. Doanh nghiệp một chủ và (công ty ) hợp danh không
là pháp nhân. Chủ sở hữu và thành viên của thành viên hợp danh chịu trách nhiệm cá
nhân đối với hoạt động của doanh nghiệp và (công ty) hợp danh.Doanh nghiệp một
chủ và (công ty) hợp danh không có nghĩa vụ phải nộp báo cáo tài chính hàng
năm.Nhưng thời hạn đăng ký của 2 loại hình doanh nghiệp này là 01 năm và được gia
hạn hàng năm. Một công ty có thể tham gia với tư cách là thành viên hợp danh.
o

Doanh nghiệp tư nhân trong luật của Singapore.
Doanh nghiệp tư nhân trong luật của Singapore không được điều chỉnh bởi các

quy định cụ thể, riêng biệt.Doanh nghiệp tư nhân được coi là doanh nghiệp của cá
nhân.Tài sản của doanh nghiệp tư nhân không có sự tách bạch với tài sản khác của chủ
doanh nghiệp.Khi tham gia các quan hệ kinh tế, dân sự, chủ doanh nghiệp tư nhân
được đối xử như thể nhân.Vì vậy, không có những quy định riêng cho chủ doanh
Page 7



nghiệp tư nhân.Khi chủ doanh nghiệp của cá nhân.Tài sản của doanh nghiệp tư nhân
không có sự tách bạch với tài sản khác của chủ doanh nghiệp.Khi tham gia các quan
hệ kinh tế, dân sự, chủ doanh nghiệp tư nhân được đối xử như thể nhân.Vì vậy, không
có những quy định riêng cho chủ doanh nghiệp tư nhân. Khi chủ doanh nghiệp tư nhân
chết thì doanh nghiệp đương nhiên chấm dứt sự tồn tại.
o

Hợp danh trong pháp luật Singapore
Trong đời sống pháp lý Singapore, hợp danh được điều chỉnh bởi Luật hợp

danh năm 1890 của Anh.Việc áp dụng đạo luật này của Anh được thực hiện thông qua
Đạo luật năm 1993 của Singapore về áp dụng pháp luật Anh. Về cơ bản, hợp danh
trong pháp luật Singapore và hợp danh trong pháp luật Anh không khác nhau đáng kể.
o

Công ty trong hệ thống pháp luật của Singapore
Theo Luật công ty (Luật số 50) thì 2 hay nhiều người có thể thành lập công ty

hoạt động vì mục đích hợp pháp thông qua việc họ ký vào thoả thuận thành lập công ty
và tuân thủ quy định đăng ký. Trong mọi trường hợp một công ty phải có ít nhất 2
thành viên, trừ khi công ty này là một công ty con thuê 100% sở hữu của một công ty
khác. Nếu công ty trong quá trình hoạt động mà còn lại một thành viên và công ty vẫn
tiếp tục hoạt động hơn tháng thì thành viên này bị coi là phạm luật công ty và phải
chịu trách nhiệm về tất cả những khoản nợ xảy ra trong công ty thì việc sở hữu cổ
phiếu của công ty là điều kiện bắt buộc.
Luật quy định có 3 hình thức công ty:
Công ty trách nhiệm hữu hạn theo cổ phiếu: trách nhiệm của các thành viên
công ty là hữu hạn và chỉ hạn chế tới giá đã được thanh toán hay chưa được thanh toán

cổ phiếu mà họ nắm giữ (nếu có). Đây là hình thức công ty thông thường được thành
lập để thực hiện công việc kinh doanh vì mục đích sinh lợi.
Công ty trách nhiệm hữu hạn theo bảo lãnh: trách nhiệm của các thành viên
công ty là hữu hạn và chỉ hạn chế tới giá trị mà họ cam kết cá nhân đóng góp vào tài
sản của công ty trong trường hợp giải thể.

Page 8


Công ty trách nhiệm vô hạn: các thành viên công ty chịu trách nhiệm vô hạn đối
với hoạt động của công ty.Luật công ty Singapore chia các công ty thành công ty cổ
phiếu giao dịch hạn chế (private company) và công ty cổ phiếu giao dịch rộng rãi
(public company). Công ty cổ phiếu giao dịch hạn chế không được quá 50 thành viên,
không được phát hành cổ phiếu và trái nợ cho công chúng và không được nhận tiền
gửi của công chúng. Công ty này cũng có thể hạn chế quyền chuyển nhượng cổ phiếu.
Ngược lại, công ty có cổ phiếu giao dịch rộng rãi không bị ràng buộc bởi những quy
định này. Pháp luật Singapore cho phép một công ty có cổ phiếu giao dịch hạn chế có
thể chuyển đổi thành công ty có cổ phiếu giao dịch rộng rãi và ngược lại, khi công ty
thoả mãn các điều kiện và yêu cầu về thủ tục chuyển đổi.
b.

Môi trường chính trị tại Singapore

Singaporetên chính thức là nước Cộng hòa Singapore, là một thành bang và đảo
quốc tại Đông Nam Á. Singapore là một nước cộng hòa nghị viện, có chính phủ nghị
viện nhất viện theo hệ thống Westminster đại diện cho các khu vực bầu cử. Cộng hòa
nghị viện là một hình thức cộng hòa mà nguyên thủ quốc gia được bầu ra và quốc gia
đó có một nghị viện mạnh và các thành viên chính của bộ phận hành pháp được chọn
ra từ nghị viện đó. Trong đó tổng thống thường không có quyền hành pháp rộng lớn
bởi vì nhiều quyền trong đó được trao cho người đứng đầu chính phủ là thủ tướng.

Hệ thống nghị viện thường có sự phân biệt rõ ràng giữa người đứng đầu chính phủ và
nguyên thủ quốc gia. Ở Singapore tổng thống đứng đầu nhà nước được bầu ra có
quyền hạn hạn chế để cân bằng hệ thống này. Vào năm 1991, sửa đổi Hiến pháp chức
vụ tổng thống đã trở thành một chức vụ dân cử và Tổng thống có một số quyền hạn
nhất định về chi tiêu chính phủ dự trữ tài chính và bổ nhiệm các chức.
Quyền hành pháp thuộc về Nội Các Singapore, do Thủ tướng lãnh đạo và ở một
mức độ thấp hơn rất nhiều là Tổng thống chủ yếu mang tính nghi lễ. Tổng thống
được bầu thông qua phổ thông đầu phiếu, và có quyền phủ quyết đối với một tập hợp
cụ thể các quyết định hành pháp, như sử dụng dự trữ quốc gia và bổ nhiệm các thẩm
phán, song vai trò phần lớn mang tính lễ nghi.
Chính phủ Singapore được thiết lập bởi Hiến pháp nước Cộng hòa Singapore, là
nhánh Hành pháp cao nhất của Nhà nước tại Singapore. Quyền hành pháp thực sự
nằm trong tay Nội các do Thủ tướng đứng đầu cùng các bộ trưởng do ông này chỉ
định và đề đạt lên Tổng thống để bổ nhiệm. Nội các được lập nên bởi chính đảng
chiếm đa số trong sau mỗi kỳ bầu cử quốc hội. Ngoài ra còn gồm:


Cục tác nghiệp được thiết lập bởi Luật Nghị viện, là một cơ quan độc lập của
Chính phủ thuộc quyền quản lý của các bộ và cơ quan ngang bộ. Khác với bộ
và các đơn vị trực thuộc bộ, cục tác nghiệp có vai trò độc lập và linh hoạt hơn.
Đồng thời, nhân viên các cục này không phải là công chức nhà nước.

Page 9




Có năm Hội đồng Phát triển Cộng đồng (CDC) do ban chủ nhiệm của Hội Nhân
dân các quận đề cử. Nếu một quận có dân số từ 150.000 người trở lên, ban chủ
nhiệm Hội Nhân dân của quận ấy có thể đề cử Chủ tịch CDC địa phương mình

làm Quận trưởng. Theo truyền thống, các dân biểu Quốc hội thường giữ vai trò
là Chủ tịch CDC, nên thường kiêm luôn chức Quận trưởng khu vực.
Hiện nay Singapore gồm 8 đảng, bao gồm:

1.
2.

Đảng Democratic Progressive Party (DPP)
Đảng Peoplés Action Party (PAP) – Đảng cầm quyền
Đảng Hành động Nhân dân (PAP) là chính đảng cầm quyền tại Singapore từ

năm 1959. Đây là một trong hai chính đảng chủ yếu tại Singapore cùng với Đảng
Công nhân.Kể từ tổng tuyển cử năm 1959, Đảng Hành động Nhân dân chi phối chế
độ dân chủ nghị viện của Singapore và ở vị trí trung tâm trong sự phát triển nhanh
chóng về chính trị, xã hội, và kinh tế của thành bang. Trong thống trị, chính phủ của
Đảng ban hành các luật nghiêm ngặt mà theo đó át chế tự do ngôn luận và các quyền
tự do dân sự khác, trong khi chịu trách nhiệm về giáo dục công phải chăng thông qua
các kênh như Quỹ Cộng đồng PAP.
Trong tổng tuyển cử năm 2011, Đảng Hành động Nhân dân giành được 81 trong
số 87 ghế được bầu trong Quốc hội Singapore, nhận được 60,14% tổng số phiếu phổ
thông, đây là tỷ lệ thấp nhất kể từ khi đảo quốc độc lập.
3. Đảng Singapore Democratic Alliance (SDA)
4. Đảng Singapore Democratic Party (SDP)
5. Đảng National Solidarity Party
6. Đảng Singapore Justice Party
7. Đảng Singapore Malay National Organization
8. Đảng Workers' Party (WP)
Tại Singapore, Quốc hội đóng vai trò là nhánh lập pháp của chính phủ. Các
thành viên của Quốc hội gồm có các thành viên đắc cử, phi tuyển khu và được chỉ
định.Các thành viên đắc cử được bầu vào Quốc hội trên cơ sở "đa số chế" và đại diện

cho các khu vực bầu cử có một hoặc nhóm đại diện. Đảng Hành động Nhân dân
giành quyền kiểm soát quốc hội với đa số lớn trong tất cả các cuộc bầu cử kể từ khi
Singapore tự trị vào năm 1959. Quốc Hội có 1 viện , 84 dân biểu được bầu qua phổ
thông đầu phiếu, phục vu nhiệm kỳ 5 năm. Có 9 ghế được chỉ định.Ứng cử viên đảng
đối lập nếu kém số phiếu đắc cử một chút vẫn có thể được cho vào quốc hội với danh
nghĩa thành viên không chính thức.
Page 10


2.

Môi trường kinh tế tại Singapore
a.

Tổng quan về nền kinh tế Singapore

Singapore hầu như không có tài nguyên, nguyên liệu đều phải nhập từ bên
ngoài. Hàng năm, Singapore phải nhập lương thực, thực phẩm để đáp ứng nhu
cầu ở trong nước. Singapore có cơ sở hạ tầng và một số ngành công nghiệp
phát triển cao hàng đầu Châu Á và thế giới như: cảng biển, công nghiệp đóng
và sửa chữa tàu, công nghiệp lọc dầu, chế biến, điện tử và lắp ráp máy móc
tinh vi. Singapore có 12 khu vực công nghiệp lớn, trong đó lớn nhất là Khu
công nghiệp Du-rông (Jurong). Singapore là nước hàng đầu về sản xuất ổ đĩa
máy tính điện tử và hàng bán dẫn. Singapore còn là trung tâm lọc dầu và vận
chuyển quá cảnh hàng đầu ở Châu Á.
Singapore cũng được coi là nước đi đầu trong việc chuyển đổi sang nền
kinh tế tri thức. Singapore đang thực hiện kế hoạch đến năm 2018 sẽ biến
Singapore thành một thành phố hàng đầu thế giới, một đầu mối của mạng lưới
mới trong nền kinh tế toàn cầu và Châu Á và một nền kinh tế đa dạng nhạy
cảm kinh doanh. Singapore có nền kinh tế thị trường tự do phát triển cao và rất

thành công. Singapore được hưởng một môi trường kinh tế mở cửa và không
có tham nhũng, giá cả ổn đỉnh, và thu nhập bình quân trên đầu người cao hơn
so với hẩu hết các nước phát triển khác. Nền kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào
xuất khẩu, đặc biệt là các thiết bị điện tử tiêu dùng, sản phẩm công nghệ thông
tin, dược phẩm, và lĩnh vực dịch vụ tài chính. GDP thực tế tăng trưởng trung
bình 7,1% từ năm 2004 - 2007. Nền kinh tế sụt giảm 0,8% trong năm 2009 do
hệ quả của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, nhưng lại hồi phục 14,5%
trong năm 2010 và 5,3% trong năm 2011, với sức mạnh của xuất khẩu. Về lâu
dài, Chính phủ hy vọng sẽ thiết lập một lộ trình tăng trưởng mới tập trung vào
nâng cao năng suất. Singapore đã thu hút được đầu tư lớn vào sản xuất dược
phẩm và công nghệ y tế và sẽ tiếp tục nỗ lực để thiết lập Singapore là trung tâm
tài chính và công nghệ cao của khu vực Đông Nam Á.
Page 11


b.

Một số chỉ tiêu kinh tế của Singapore

GPD( PPP )
GDP(OER)
Tăng
trưởng
GDP
GDP theo đầu
người/năm
Tỷ
lệ
thất
nghiệp

Tỷ lệ lạm phát

Năm 2011
320 tỷ USD

Năm 2012
326 tỷ USD

Năm 2013
339 tỷ
USD(đứng thứ
41 toàn cầu)
287 tỷ USD
3.5%

Năm 2014
445.2 tỷ USD
(đứng thứ 40
toàn cầu)
266.5 tỷ USD
267.9 tỷ USD
307 tỷ USD
4.9%
2.1%
3%(đứng thứ
114 toàn cầu)
60,700 USD
60,900 USD
62,400 USD
81,300 USD

(đứng thứ 7
toàn cầu)
2%
2%
2.1% (đứng thứ 1.9% (đứng thứ
16 toàn cầu)
9 toàn cầu)
5.2%
4.4%
2.4% (đứng thứ 1.5%
84 toàn cầu)
rau quả, trứng, cá, hoa phong lan, cá cảnh

Mặt hàng nông
nghiệp
Các
ngành Điện tử, hóa chất, thiết bị khoan dầu, lọc dầu, sản phẩm cao su và
công nghiệp
chế biến cao su, thực phẩm chế biến và đồ uống, sữa chửa tầu, xây
dựng, xây dựng khu đánh bắt xa bờ, công nghệ sinh học, thầu khoán
Tăng
trưởng
7.8%
3.5%
3%
công nghiệp
Tổng
Kim 781.1 tỷ USD
821 tỷ USD
823.2 tỷ USD

824.6 tỷ USD
ngạch XNK
Kim
ngạch 414.8 tỷ USD
430.6 tỷ USD
442.9 tỷ USD
449.1 tỷ USD
xuất khẩu
(tăng 2.85%)
Tăng 1%
Mặt hàng chính Máy móc thiết bị, hàng hóa tiêu dùng, dược phẩm, hóa chất, nguyên
liệu khai khoáng
Bạn hàng XK Malaysia 12%, Hồng Công 11%, Trung Quốc 11%, Indonesia 10%,
chính
Mỹ 6%, Nhật Bản: 4%
Kim
ngạch 366.3 tỷ USD
390.4 tỷ USD
380.3 tỷ USD
375.5 tỷ USD
nhập khẩu
(giảm 2.5%)
(giảm 1%)
Mặt hàng chính Máy móc thiết bị, nguyên liệu khai khoáng, hóa chất, thực phẩm,
hàng tiêu dùng
Bạn hàng NK Trung quốc 12%, Malaysia 11%, Mỹ 10%, Hàn quốc 6%, Nhật Bản
chính
5%, Indonesia 5%

Page 12



Biểu đồ XK và NK của Singapore qua các năm( tỷ USD)

Biểu đồ XNK của Singapore qua các năm

3. Môi trường văn hóa tại Singapore
Một trong những đặc điểm nổi bật nhất của Singapore là cơ cấu dân số đa dạng
gồm nhiều chủng tộc nhờ vào vị trí địa lý thuận lợi và những thành tựu thương mại
của đất nước. Được ngài Thomas Stamford Raffles thành lập như một đầu mối giao
thương buôn bán vào ngày 29 tháng 1 năm 1819, Singapore - một làng chài nhỏ bé
ngày nào đã nhanh chóng thu hút những người dân nhập cư và các thương nhân đến
từ Trung Quốc, tiểu lục địa Ấn Độ, Indonesia, bán đảo Mã Lai và vùng Trung Đông.
Bị lôi cuốn bởi viễn cảnh tương lai tươi đẹp, những người nhập cư đã mang
theo những nét riêng về văn hóa, ngôn ngữ, phong tục tập quán và các lễ hội của
mình đến Singapore. Các cuộc kết hôn chéo và sự chung sống hòa hợp giữa các dân
tộc đã dệt nên một bức tranh văn hóa đầy màu sắc, hình thành một xã hội Singapore
đa dạng và mang lại cho đảo quốc này một di sản văn hóa phong phú đầy sức sống.

Page 13


Cho đến cuối thế kỉ 19, Singapore đã trở thành một trong những thành phố đa chủng
tộc – đa văn hóa nhất của châu Á với các dân tộc chủ yếu là người Hoa, người Mã
Lai, người Ấn, người Peranakan và những người Á Âu.Ngày nay, người Hoa chiếm
hơn 74% dân số Singapore, và người Mã Lai – những cư dân đầu tiên ở nước này,
chiếm khoảng 13%. Người Ấn chiếm khoảng 9%, còn lại là người Á Âu, Perankan
và các dân tộc khác chiếm hơn 3%. Singapore còn là nơi sinh sống và làm việc của
một cộng đồng người nước ngoài rộng lớn nhau như Bắc Mỹ, Úc, Châu Âu, Trung
Quốc và Ấn Độ.Như một sự phản ánh của nền văn hóa đa dạng, Singapore đã chọn

ra ngôn ngữ đại diện cho bốn dân tộc chính của đất nước. Bốn ngôn ngữ chính thức
trong Hiến pháp của Singapore bao gồm tiếng Anh, tiếng Hoa, tiếng Mã Lai và tiếng
Tamil. Mặc dù tiếng Malay là ngôn ngữ quốc gia,nhưng tiếng Anh là ngôn ngữ
thường được sử dụng trong giao dịch kinh doanh, chính phủ và các phương tiện
giảng dạy trong trường học.Sự có mặt của các ngôn ngữ khác, đặc biệt là các biến thể
của tiếng Mã Lai và tiếng Hoa, đã có ảnh hưởng rõ rệt đến cách dùng tiếng Anh tại
Singapore. Ảnh hưởng này đặc biệt rõ nét trong cách sử dụng tiếng Anh trong giao
tiếp thông thường, một dạng tiếng Anh lai tiếng địa phương thường được biết đến với
tên gọi Singlish. Là một dấu hiệu đặc trưng để nhận biết người Singapore, ngôn ngữ
này tiêu biểu cho hình thức biến tấu ngôn ngữ bằng cách lồng ghép các từ của tiếng
Mã Lai, tiếng Hoa và tiếng Ấn vào tiếng Anh.
Hầu như mọi người dân Singapore đều có thể nói nhiều hơn một thứ tiếng,
trong đó nhiều người có thể nói được tới ba hoặc bốn thứ tiếng. Hầu hết trẻ em lớn
lên trong môi trường song ngữ từ thuở nhỏ và có thể học các ngôn ngữ khác khi lớn
lên. Trong phần lớn dân số biết hai thứ tiếng, tiếng Anh và tiếng Hoa phổ thông là hai
ngôn ngữ được dùng phổ biến nhất trong cuộc sống hàng ngày. Trong khi tiếng Anh
là ngôn ngữ chính được dạy ở trường học thì trẻ em vẫn học tiếng mẹ đẻ để duy trì
truyền thống văn hóa của dân tộc mình.Đối với phần lớn người Hoa thì tiếng Phổ
Thông được chọn là ngôn ngữ chính thay vì các biến thể khác như tiếng Phúc Kiến,
tiếng Triều Châu, tiếng Quảng Đông, tiếng Khách Gia, tiếng Hải Nam và tiếng Phúc
Châu. Tiếng phổ thông là ngôn ngữ được sử dụng phổ biến thứ hai của người
Singapore gốc Hoa, tiếng Phổ Thông đã được dùng rộng rãi kể từ phong trào “Nói
Tiếng Phổ Thông” – phong trào hướng đến cộng đồng người Hoa trong suốt năm
1980. Trong những năm 90, những nỗ lực này nhằm hướng đến những người Hoa
được giáo dục trong môi trường tiếng Anh.

Page 14


Nếu đến Singapore, bạn hãy khám phá những địa điểm văn hóa đa dạng, những

khu tôn giáo quanh đảo quốc và làm quen với xã hội đa văn hóa của Singapore. Dù là
du lịch theo đoàn hay tự mình khám phá Singapore thì chắc chắn bạn cũng sẽ thấy
được một thoáng lịch sử đầy ấn tượng, nền văn hoá đa dạng và lối sống của người
dân tại đây.
Đối với người Singapore, dùng ngón tay trỏ chỉ người khác, nắm chặt nắm tay
hoặc ngón tay giữa đều bị coi là những động tác cực kỳ vô lễ. Hai tay không được
tùy tiện chắp vào sườn bởi vì đó là biểu hiện của sự bực tức.Khi ăn cơm, họ không
được đặt đũa lên trên bát hoặc đặt lên đĩa thức ăn.Người Singapore cho rằng con số
"4", "7", "13", "37", và "69" là những con số tiêu cực và không may mắn, họ ghét và
kỵ nhất con số "7", bình thường họ cố hết sức để tránh gặp phải con số này.Người
Singapore quan niệm màu đen là màu không may mắn, màu tím cũng là màu họ
không thích. Họ chỉ thích màu hồng màu đỏ, bởi vì theo họ màu này tượng trưng cho
sự trang nghiêm, nhiệt huyết mãnh liệt, vui vẻ, dũng cảm và tượng trưng cho sự
khoan dung, độ lượng. Họ cũng thích màu xanh da trời và màu xanh lá cây.
Người dân Singapore không hưởng ứng hút thuốc lá. Ở một số nơi như cầu
thang máy, rạp chiếu phim, trên những phương tiện giao thông công cộng nhất là
trong văn phòng..., quy định là nghiêm cấm hút thuốc, những ai vi phạm quy định
này sẽ bị phạt 500$ Singapore. Tại các nơi khác, cứ muốn hút thuốc phải hỏi ý kiến
và được sự đồng ý của đối phương.Khi nói chuyện và trong giao tiếp, người ta tuyệt
đối cấm kỵ bàn luận sự được mất và chính trị hoặc sự tranh giành xô xát chủng tộc,
thị phi tôn giáo.... nhưng có thể bàn những kinh nghiệm du lịch, cũng có thể về
những nơi nổi tiếng, ở các nơi mà bản thân đã đi qua. Chủ đề được người dân
Singapore bàn tới nhiều nhất là về những món ăn sơn hào hải vị và khách sạn, nhà
hàng. Người Singapore rất kỵ nói "chúc phát tài" bởi vì họ luôn hiểu từ "tài" là "tài
bất nghĩa" hoặc "phúc bất nhân". Khi nói "chúc phát tài" sẽ bị coi là chế giếu mắng
chửi và sỉ vả người khác.
Về tôn giáo và tín ngưỡng, ở Singapore có 5 tôn giáo lớn là: Kitô giáo (gồm Tin
lành và Công giáo), Phật giáo, đạo Lão, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, còn lại dân số theo
các tôn giáo khác ngoài ra còn có các loại hình tín ngưỡng dân gian. Như vậy khoảng
83% dân số Singapore theo tôn giáo, các tôn giáo sống trong đoàn kết và hoà

hợp.Phật giáo là tôn giáo được thực hành phổ biến nhất tại Singapore, với khoảng
trên 40% số cư dân tuyên bố bản thân họ là tín đồ đạo Phật trong cuộc điều tra dân số
gần đây nhất. Vì người Hoa chiếm chủ yếu tỷ lệ dân số quốc gia Singapore, họ di dân
Page 15


sang Singapore mang theo tôn giáo của mình và thu hút thêm các tín đồ.Tôn giáo
được thực hành phổ biến thứ nhì là Ki-tô giáo, sau đó là Hồi giáo, Đạo giáo, và Ấn
Độ giáo. 17% dân số không gia nhập tôn giáo nào. Tỷ lệ tín đồ Ki-tô giáo, Đạo giáo,
và người không tôn giáo tăng trong khoảng thời gian giữa năm 2000 và 2010, mỗi
nhóm tăng 3%, trong khi tỷ lệ tín đồ Phật giáo thì giảm xuống. Các đức tin khác vẫn
ổn định trên quy mô lớn về tỷ lệ dân số.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế và xã hội ở Singapore, điều kiện tồn tại
của tôn giáo truyền thống đã biến đổi làm cho một mặt là tính khoan dung, tính nhân
từ tôn giáo và sự coi trọng hoà bình yên ổn được phát triển và mặt khác là sự bất
đồng giữa các tôn giáo và các giáo phái về các vấn đề như giáo lý, giới luật, sự tranh
chấp về tín đồ…được kiềm chế. Do đó, có thể gác lại những khác biệt để tìm thấy cái
chung, điều hoà tốt quan hệ. Ở Singapore không chỉ tồn tại các loại tôn giáo mà các
hệ phái của các tôn giáo lớn cũng có thể tìm thấy dấu vết của mình ở đây, chẳng hạn
hai phái Hồi giáo lớn là Si-ai và Xăn-ni đều có tín đồ. Cả Phật giáo Đại thừa và Phật
giáo Tiểu thừa cũng có mặt, các tôn giáo và hệ phái có thể cùng tồn tại hoà bình là
nhờ tình hình đất nước Singapore: là một xã hội di dân, là một nước nhỏ đất hẹp,
người không đông nhưng là một xã hội hiện đại, kinh tế phát triển, giáo dục tiên tiến.
Điều đó làm cho mỗi người dân Singapore, dù là tin theo tôn giáo nào, thuộc về dân
tộc nào, về tâm lý, tư tưởng và hành vi đều nhìn thẳng vào hiện thực này. Quan niệm
chính trị của cựu Thủ tướng Lý Quang Diệu trước đây về “3S” là: Sinh tồn
(Survival), An ninh (Sercurity), Thành công (Success) đã đi sâu vào trong lòng
người. Một ý thức lo toan cho nước, cho dân thường có thể du nhập vào quan niệm
tôn giáo của các tín đồ yêu nước.


III. Một số số liệu xuất nhập khẩu về Apple chi nhánh Singapore
1.

5 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Apple

a.

Iphone
Ngày 9/1/2007 Steve Jobs giới thiệu chiếc iPhone thế hệ đầu tiên. Với một

màn hình cảm ứng điện dung đa điểm 3.5 inch cùng những tính năng thời thượng
lúc bấy giờ, iPhone tạo nên cú đột phá thay đổi cả giới công nghệ.Trong suốt quá
trình phát triển, các thế hệ iPhone không ngừng hoàn thiện với những ý tưởng
thiết kế tuyệt vời.Khi iPhone thế hệ đầu ra mắt, nó là một trong những chiếc điện
thoại có màn hình được xem là chuẩn mực lúc bấy giờ. Tuy nhiên chỉ vài năm sau
đó, iPhone 4 trình làng vẫn giữ nguyên kích cỡ màn hình 3.5 inch truyền thống
Page 16


trong khi các hãng khác lại bắt đầu phát triển thiết bị theo xu hướng màn hình lớn
và smartphone của “nhà Táo” trở nên lép vế ở khoản này so với đối thủ. Dĩ nhiên,
đến sau cùng thì Apple cũng không thể bảo thủ mãi và họ cũng chịu hòa mình hội
nhập cùng thị trường.Chiếc iPhone đầu tiên sở hữu màn hình 4 inch – iPhone 5 ra
đời. Và gần đây nhất, một bước đi táo bạo của Apple trong làng smartphone, trình
làng cùng lúc 2 mẫu iPhone mới với kích cỡ màn hình vượt trội so với truyền
thống của hãng – iPhone6 4.7 inch và iPhone6 plus 5.5 inch.
Cho đến nay, Apple đã cho ra mắt 10 mẫu iPhone bao gồm: iPhone 2G, iPhone
3G, iPhone 3GS, iPhone , iPhone 4S, iPhone 5, iPhone 5S, iPhone 5C, iPhone 6,
iPhone 6 Plus.
Đến đầu năm 2014, Apple đã chạm mốc 500 triệu chiếc iPhone được bán

ra.Lần đầu tiên Steve Jobs giới thiệu iPhone năm 2007, ông đã đưa ra mục tiêu đạt
10 triệu chiếc bán ra vào năm 2008.Rất nhiều người đã đặt ra nghi vấn về sự
thành công của chiếc điện thoại khác biệt hoàn toàn smartphone trước đây.
Nhưng thực tế đã cho thấy tầm nhìn của Steve Jobs luôn đi trước thời đại, tính đến
cuối năm 2008, số lượng iPhone mà Apple bán được đạt 13,7 triệu chiếc, vượt xa
kỳ vọng 10 triệu chiếc đặt ra. Cột mốc quan trọng tiếp theo mà Apple đạt được vào
khoảng tháng 2/2011 khi số lượng iPhone bán ra đạt 100 triệu chiếc. Và kể từ đó,
doanh thu của Apple tăng một cách chóng mặt khi chỉ sau một năm, tháng 2/2012
con số này đã gấp đôi và đạt 200 triệu chiếc bán ra. Cuối năm 2012, tuy đã bước
sang quý tài chính đầu tiên của năm 2013 nhưng Apple vẫn ghi nhận một con số
"khủng" khác khi đạt 300 triệu chiếc bán ra. Apple có thể tiêu thụ tới 100 triệu
chiếc iPhone chỉ trong 10 tháng.
b.

Macbook
Macbook có 2 loại chính là Macbook Pro và Macbook Air, trong đó chia ra 4

dòng chính là:


Macbook Air 11-inch



Macbook Air 13-inch



Macbook Pro 13-inch




Macbook Pro 15-inch

Theo công ty nghiên cứ TrendForce, Apple đã bán được 2,53 triệu chiếc
Macbook trong quý I năm 2016, sụt giảm 40,4% so với quý IV năm 2015. Còn so
với quý I năm 2015, doanh số bán Macbook của Apple đã giảm đến gần 1 triệu
Page 17


chiếc. Nguyên nhân là do Apple đã không có thay đổi gì đáng kể đối với dòng sản
phẩm máy tính xách tay của mình trong những năm gần đây. Cụ thể hơn, Apple đã
không có sự thay đổi về thiết kế trên Macbook Air từ năm 2010 cũng như đối với
dòng Macbook Pro chỉ được cập nhật phần cứng kể từ năm 2012 trong khi khung
máy cũng không có sự khác biệt nhiều.
c.

iPad
Năm 2010, Apple tung ra chiếc tablet đầu tiên và họ gọi nó với cái tên là

iPad. iPad là dòng sản phẩm mới đầy hứa hẹn của tập đoàn sau sự thành công
vượt trội của của iPhone trước đó. Nếu như iPhone được xem là định nghĩa lại
khái niệm "smartphone" lúc bấy giờ, thì iPad lại mở đầu ra một xu hướng hoàn
toàn mới, đó là "máy tính bảng" hay còn được gọi là "tablet". iPad lúc mới ra mắt
bị nhiều người ví von là chiếc iPhone hay chiếc iPod Touch phóng to lên nhiều lần,
vì nó chạy cùng hệ điều hành và chức năng cũng không khác nhiều. Tuy nhiên
những gì mà iPad đem lại đã thay đổi suy nghĩ của nhiều người: màn hình to,
không gian làm việc rộng rãi, hiệu năng tốt, tất cả đã khiến cho iPad trở thành
một trong những sản phẩm thành công nhất của Apple.
Trải qua 6 năm phát triển, Apple đã cho ra mắt nhiều dòng iPad như: iPad 1,

iPad 2, iPad 3, iPad 4, iPad 5 và các dòng iPad Mini.
Quý I năm 2016, số lượn iPad bán ra trong quý đã giảm mạnh, nhưng Apple
vẫn tiếp tục thống trị thị trường tablet với 10,3 triệu chiếc iPad được bán ra
tương ứng với 25,9% thị phần. Xếp lần lượt ở các vị trí còn lại là Samsung (6 triệu
chiếc), Amazon (2,2 triệu chiếc), Lenovo (2,2 triệu chiếc) và Huawei (2,1 triệu
chiếc).
Bên cạnh các dòng sản phẩm chủ đạo như iPhone, Macbook, iPad, Apple cũng
sản xuất một số dòng sản phẩm nổi tiếng khác như: iPod, iWatch, iTV hay một số
phần mềm như: iTunes, iMusic,...
2.
a.

5 mặt hàng nhập khẩu và 5 đối tác nhập khẩu lớn của Apple
Foxconn
Tập đoàn công nghệ Foxconn là hãng sản xuất hàng điện tử lớn nhất thế

giới với tên giao dịch là Hon Hai Precision Industry – nhà xuất khẩu lớn nhất tại
Trung Quốc đại lục. Hãng công nghệ khổng lồ của Trung Quốc này lắp ráp các sản
phẩm của Apple như iPad, iPhone, iPod và máy tính Mac tại các nhà máy sản xuất
trên khắp Trung Quốc và Đài Loan. Foxconn là công ty chuyên sảng xuất linh kiện
Page 18


điện thoại và bo mạch chủ, có mối quan hệ khăng khít với Apple và là công ty đứng
đằng sau thành công của các sản phẩm như iPhoen, iPad và iPod.
b.

TPK Holdings

TPK Holdings là nhà phân phối tấm cảm ứng lớn nhất thế giới tính về số

lượng, với 30 đối tác tại Mỹ, Nhật và Hàn Quốc.Công ty Đài Loan này cũng là nhà
phân phối tấm cảm ứng lớn nhất cho sản phẩm iPad và iPhone của Apple. Trong
quý 2/2011, trên 70% trong số doanh thu 1,12 tỷ USD của TPK là đến từ Apple.
Doanh thu khổng lồ của các sản phẩm của Apple đã giúp TPK thu được mức lợi
nhuận kỷ lục trong quý.
c.

Samsung Electronics

Samsung hiện là nhà sản xuất chip nhớ lớn nhất thế giới. Hãng công nghệ
khổng lồ của Hàn Quốc này hiện cung cấp chip và ổ đĩa flash cho Apple. Mối quan
hệ hợp tác của Samsung và Apple mới có từ vài năm trở lại đây, Samsung vừa là
nhà cung cấp vừa là đối thủ của Apple trong mảng điện thoại thông minh và máy
tính bảng.Năm ngoái, hai công ty này đã có nhiều tranh chấp khi Apple buộc tội
Samsung nhái phần mềm và kiểu dáng của iPhone. Đáp lại, Samsung cũng kiện
Apple tội vi phạm bản quyền. Mặc dù có những tranh chấp, nhưng 2 công ty này
vẫn duy trì mối quan hệ hợp tác trong sản xuất và phân phối.Nhiều báo cáo cho
biết mối quan hệ hợp tác này đáng giá trên 5 tỷ USD.
d.

Toshiba

Toshiba chuyên cung cấp tấm LCD cho sản phẩm iPhone 3GS, ổ cứng flash
cho iPhone 4 và được cho là cung cấp màn hình hiển thị Retina của iPhone 4. Hồi
tháng 12/2010, Toshiba công bố kế hoạch chi 1,2 tỷ USD xây dựng nhà máy tại
quận Ishikawa của Nhật để sản xuất tấm LCD độ phân giải cao, chủ yếu để cung
cấp cho iPhone của Apple. Theo Nikkei Business Daily, Apple cũng có vốn trong vụ
đầu tư xây dựng nhà máy này.
e.


Catcher Technology

Catcher Technology là một trong những hãng sản xuất vỏ máy tính và điện
thoại cầm tay hàng đầu thế giới. Công ty này hiện cung cấp vỏ kim loại cho sản
phẩm Macbook của Apple.

Page 19


Ngoài ra, Apple cũng có nhiều đối tác quan trọng khác như: Quanta
Computer của Đài Loan, Intel của Mỹ hay Wintek của Đài Loan. Nhìn chung,
Apple chủ yếu nhập khẩu các linh kiện, phụ kiện điện thoại, máy tính bảng, laptop
từ các nước có giá thành rẻ như Đài Loan, Trung Quốc và Hàn Quốc.
3.

5 đối tác xuất khẩu chủ yếu của Apple
iPhone là một trong những smartphone phổ biến nhất toàn cầu và cũng là

sản phẩm chủ đạo của Apple. Thực tế, tỷ lệ sử dụng iPhone và các sản phẩm của
Apple cao nhất không chỉ ở Mỹ- quê hương của Apple mà còn đến từ các nước
châu Á, đặc biệt là các nước đang phát triển. Apple chỉ nắm giữ thị phần lớn ở
một số ít quốc gia, tuy nhiên đó đều là những thị trường trọng điểm tại các châu
lục. Theo thống kê, trong quý IV năm 2014, Apple nắm 47,4% thị trường Mỹ, nắm
giữ phần lớn các thị trường tại các nước châu Âu như 42,5% tại Anh; 21,4% tại
Đức và 20,85% tại Pháp. 3 nước châu Á lớn cũng là các thị trường quan trọng
của Apple như Nhật Bản (53,8%), Hàn Quốc (33%) và Trung Quốc (18,1% tương
ứng với hơn 200 triệu khách hàng).
Top 10 nước có thị phần của Apple bao gồm:
Nhật Bản 53,8%
Mỹ


47,4%

Úc

44,9%

Anh

42,5%

Hàn Quốc

33%

Đức

21,4%

Pháp

20,8%

Trung Quốc
Ý
Tây Ban Nha

18,1%
17%
9,7%


Tại Việt Nam, các sản phẩm của Apple không phải là sản phẩm được sử
dụng nhiều nhất. Tuy nhiên, theo nhiều thống kê, các sản phẩm của Apple rất
được người tiêu dùng Việt Nam ưa thích, đặc biệt là iPhone. Theo thống kê, vào
tháng 9 năm 2014, có 16,3% người dùng Việt Nam đang sử dụng những chiếc
điện thoại iPhone, thấp hơn SamSung với 27,9% hay Nokia với 17,1%. Nhưng với
5% dân số có thu nhập cao (từ 15 triệu đồng/ tháng trở lên), phần lớn người tiêu
dùng Việt Nam phải lựa chọn các iPhone đời cũ. Mặc dù nhiều người cho rằng,
Page 20


giá cao đã cản trở sự phát triển của Apple ở một số quốc gia có thu nhập thấp,
tuy nhiên trên thực tế, giá cao là điều khiến cho các sản phẩm của Apple được
khao khát.
Như vậy, chúng ta có thể đưa ra kết luận rằng, các sản phẩm của Apple hầu
hết được xuất khẩu ra những thị trường tiêu thụ lớn các thiết bị điện tử công
nghệ cao như Châu Á và Châu Âu.

IV.

Chiến lược kinh doanh quốc tế, cấu trúc và phương thức
thâm nhập của Apple chi nhánh Singapore
1. Chiến lược kinh doanh quốc tế của Apple chi nhánh Singapore
a. Cơ sở xác định chiến lược
o

Sức ép giảm chi phí

Sức ép về chi phí của công ty là cao hay thấp là tùy vào từng thời điểm và từng
chiến lược kinh doanh từng thời kì . Hoạt động trong ngành công nghệ thông tin

được cho là luôn biến đổi liên tục, sản phẩm ưu việt hơn thay thế cho sản trước đó,
do đó chi phí về R&D là khá cao, tuy nhiên Apple chịu một sức ép về chi phí thấp
do Apple chỉ quan tâm đến sản xuất những sản phẩm có khả năng gây khác biệt, có
công nghệ và chất lượng cao, có kho ứng dụng rộng rãi và hiện đại nhất, luôn đưa
ra những mức giá khá cao và luôn tạo sự khác biệt.
Ví dụ :
Chiến lược khác biệt hóa sản phẩm hay chiến lược định vị sản phẩm ( yếu tố
quan tâm hàng đầu là chất lượng sản phẩm ) là chiến lược làm khác biệt các sản
phẩm và dịch vụ của công ty so với đối thủ cạnh tranh, tạo ra điểm độc đáo riêng
làm sao để nó chiếm được 1 chỗ đặc biệt và có giá trị trong tâm trí khách hàng. Do
đó, Apple không ngừng cải tiến sản phẩm, sáng tạo từ việc tạo ra sản phẩm mới
hoàn thiện hơn trong 1 thời gian ngắn so với đối thủ. Dòng điện thoại iPhone mà
Apple đưa ra thị trường không ngừng hoàn thiện với những thiết kế tuyệt với . Từ
những iPhone đời đầu (2007) tạo nên xu hướng sử dụng smartphone với RAM 128
MB với bộ nhớ 4GB và 8GB ,kêt nối EDGE, chất liệu vỏ nhôm màu bạc cho đến
iPhone 3G (2008) hỗ trợ kết nối mạng 3G, hỗ trợ GPS với khả năng tìm đường, nắp
bằng nhựa . Tiếp đến iPhone 3GS(2009), iPhone 4 (2010); iPhone 4s(2011), iPhone
5(2012), iPhone 5S và iPhone 5C(2013); iPhone 6 và iPhone 6 plus (2014). Và mới
nhất là iPhone 7 với màn hình 4,7 inch, độ phân giải Quad HD, cảm ứng lực nhấn
Force Touch; camera chính 12MP, quay video 4K;cấu hính được nâng cấp bộ nhớ
Ram 2GB LPDDR4; hệ điều hành iOS 9.
Page 21


Sức ép từ địa phương

o

Apple chuyên sản xuất các sản phẩm có chất lượng công nghệ cao, kho ứng
dụng rộng rãi cho tất cả các khách hàng chứ không quan tâm đến sở thích và thị

hiếu của từng quốc gia riêng biệt.
Apple sử dụng 2 kênh phân phối chính là bán hàng qua mạng và các nhà phân
phối chính thức tại các quốc gia. Kênh phân phối của Apple rộng lớn và ổn định
trên toàn thế giới. Các công ty phải tuân thủ rất nhiều điều kiện chặt chẽ để có thể
trở thành nhà phân phối chính thức của Apple. Tất cả các chính sách giá, khuyến
mãi, quy định về hệ thống cửa hàng, chế độ bảo hành..đều phải tuân thủ theo quy
định của Apple.
 Chịu

ít sức ép từ địa phương.

b. Chiến lược kinh doanh toàn cầu của Apple
Chiến lược toàn cầu của Apple được thể hiện thông qua:
-

Tung ra các sản phẩm giống nhau và sử dụng cùng 1 chiến lược Marketing
trên tất cả các thị trường.

-

Từng hoạt động tạọ ra giá trị - sản xuất tập trung ở 1 số ít địa điểm với công
nghệ cốt lõi.

-

Chiến lược nhằm gia tăng lợi nhuận trên cơ sở cắt giảm chi phí trên phạm vi
toàn cầu.
o

Khác biệt hóa sản phẩm


-

Mac và các phụ kiện: Mac mini, iMac, Mac Pro, MacBook và các phụ kiện khác.

-

iPad, iPod, iphone, Apple TV, software.
Nhận xét:
-Các dòng sản phẩm của Apple nổi bật là đẹp, mọi chi tiết gần như hoàn hảo, bắt
mắt từ thiết kế đến đóng gói.
- Các sản phẩm của Apple có thiết kế đơn giản không cầu kì nhưng tinh tế và
sang trọng và thời trang.

 Luôn
-

thu hút được sự quan tâm của khách hàng đầu tiên.

Tên các sản phẩm rất dễ nhớ, chủng loại nhiều và đa dạng phục phụ nhiều đối tượng
khách hang.

Page 22


-

Các sản phẩm đều có chất lượng với công nghệ hiện đại, tiên tiến trong nhiều lĩnh vực.
Bên cạnh đó, Apple cũng thường xuyên nâng cấp sản phẩm của mình.
o


-

Chiến lược về giá

Được thực hiện theo vòng đời sản phẩm: Tung ra thị trường với giá cao sau 1 thời gian
giảm giá và lại tiếp tục tung ra sản phẩm mới có sự cải tiến các đặc tính kĩ thuật hoặc
bổ sung các chức năng mới làm cho nó ưu việt hơn với giá cao và lại tiếp tục giảm
giá.

-

Giá cả và chất lượng sản phẩm cao: định giá cao hơn đối thu cạnh tranh vì Apple tin
tưởng rằng 1 sản phẩm chất lượng cao xứng đáng với mức giá cao.
-

Định giá trên toàn cầu và tính dựa theo Đôla Mỹ.
o

-

Chiến lược kênh phân phối

Apple có những nhà phân phối chính thức cho các sản phẩm của hãng rộng khắp ở rất
nhiều quốc gia và ngày càng được mở rộng.

-

Apple có chuỗi các hàng bán lẻ trực tiếp của chính mình và website bán hàng trực
tuyến qua mạng internet.


-

Khách hàng có nhiều lựa chọn tiếp cận sản phẩm. Hiện Apple có khoảng hơn 400 cửa
hàng tại hơn 10 quốc gia.
o
-

-

Chiến lược xúc tiến

Ít quảng cáo ở các quốc gia riêng biệt.

Apple luôn đưa ra những thông điệp đơn giản, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ chia sẻ, đầy ý
nghĩa và chiều sâu.

-

Tạo hình ảnh trong tâm trí khách hàng khi nhắc đến Apple nghĩ đến 1 xu thế để thế
giới đi theo.

2. Cơ cấu tổ chức của Apple
a.

Phân cấp quản lý

Các tập đoàn đa quốc gia như Apple thường lựa chọn phân cấp quản lý. Tuy
nhiên, sự lựa chọn quản lý tập trung hay phân cấp quản lý không mang tính chất
tuyệt đối. Đối với Apple đang theo đuổi chiến lược toàn cầu, phân cấp quản lý của

tập đoàn ở mức độ thấp. Họ quyết định phân tán các hoạt động tạo giá trị trên thế
giới và đặt địa điểm sản xuất tại Trung Quốc nhằm phát huy kinh nghiệm hoạt
động, đồng thời giảm chi phí của doanh nghiệp. Trụ sở chính của tập đoàn định
Page 23


hướng các hoạt động nghiên cứu và phát triển, sản xuất, marketing, ...cho các sản
phẩm trên toàn cầu. Các hoạt động của tập đoàn được phối hợp chặt chẽ với nhau,
tạo áp lực đối với cấp quản lý cao nhất để đưa ra một số quyết định về hoạt động.
b.

Cấu trúc nhóm sản phẩm toàn cầu

Cấu trúc nhóm sản phẩm toàn cầu là cấu trúc trong đó toàn bộ các hoạt động
toàn cầu của doanh nghiệp được tổ chức theo nhóm sản phẩm.
Các sản phẩm của Apple như IPhone, IPad, ITunes, IMac, ... được chia ra
thành các đơnvị trong nước và các đơn vị quốc tế. Như vậy, mỗi chức năng
nghiên cứu và phát triển, marketing, .... được lặp lại ở cả đơn vị quốc tế và đơn vị
nội địa như sau:

Page 24


Page 25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×