Sáng kiến kinh nghiệm
PhÇn Më §Çu
NguyÔn H÷u Hïng
I. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta tự hào với bạn bè thế giới bằng một tác phẩm mang đậm đà bản
sắc dân tộc, đồng thời cũng là đỉnh cao về nghệ thuật, đó là kiệt tác Đoạn trường tân
thanh - thường được gọi bằng nhan đề quen thuộc là Truyện Kiều của Nguyễn Du
(1). Trong chương trình THCS, giáo viên và học sinh được tìm hiểu nhiều đoạn trích
hay của tác phẩm, song đó chỉ là những mảng nhỏ mà dẫu có tuyệt đối đến mấy cũng
không thể tạo nên được một cái nhìn trọn vẹn, chỉ đến với tác phẩm trong sự toàn
vẹn của một chỉnh thể mới có thể cho chúng ta một cái nhìn nghiêm túc, khoa học,
thấu đáo về đỉnh cao nghệ thuật này của nước nhà. Với ý nghĩa như vậy, bản thân đi
vào tìm hiểu đề tài Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều, đây
là một công trình khoa học nhỏ, song nó có thể hữu ích với giáo viên và học sinh khi
đi vào tìm hiểu những đoạn trích được giảng dạy trong chương trình.
II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng của đề tài là tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Trong đề tài, giới hạn phạm vi nghiên cứu là giá trị nội dung và nghệ thuật của
Truyện Kiều. Bản thân đi vào tìm hiểu một cách sơ lược nhất những giá trị căn bản
về nội dung, nghệ thuật tác phẩm, đồng thời đi vào tóm tắt những chi tiết về con
người cũng như sự nghiệp văn chương của tác giả Nguyễn Du.
III. Lịch sử vấn đề
Với vị trí là đỉnh cao nghệ thuật của đất nước, Truyện Kiều được hầu hết
những nhà nghiên cứu lớn về văn học tìm hiểu, với những tên tuổi như Đào Duy
Anh, Trương Chính, Hoài Thanh, Nguyễn Lộc, Đặng Thanh Lê, Nguyễn Đăng Na,
Trần Nho Thìn v.v. Trong đó có thể kể đến những công trình như chương viết về
Nguyễn Du trong cuốn giáo trình Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - hết
thế kỷ XIX của Nguyễn Lộc, Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm của Đặng Thanh
Lê v.v. Đây là những công trình nghiên cứu trọn vẹn về Nguyễn Du và Truyện Kiều,
bản thân đã thực hiện đề tài này dựa trên những gợi ý hết sức quý báu của các nhà
nghiên cứu, đặc biệt là từ hai công trình của Nguyễn Lộc và Đặng Thanh Lê.
IV. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu một tác phẩm cụ thể, hơn nữa đây lại là tác phẩm dựa trên
cốt truyện của văn học Trung Quốc, do đó cần sử dụng đồng thời các phương pháp
so sánh, phân tích, tổng hợp… để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
PhÇn néi dung
Trường THCS Yªn L¹c
1
Sáng kiến kinh nghiệm
NguyÔn H÷u Hïng
Chương I
CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG CỦA NGUYỄN DU
I. Cuộc đời
1. Thời đại
Thời đại là một cơ sở sâu xa tạo nên sự xuất hiện gương mặt thiên tài văn học
Nguyễn Du. Ông sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu (dương lịch là ngày 3 tháng 1
năm 1766) tại kinh đô Thăng Long và lớn lên ở đấy. Ông mất ngày 16 tháng 9 năm
1920 tại Huế. Nhà thơ sống vào giai đoạn lịch sử xã hội Việt Nam có nhiều biến
động dữ dội, nhất là khoảng 30 năm đầu của cuộc đời nhà thơ. Nguyễn Du đã có dịp
chứng kiến những biến cố lịch sử trọng đại nhất: Sự sụp đổ thảm hại của tập đoàn
phong kiến thống trị Lê-Trịnh, vận mệnh ngắn ngủi nhưng rạng rỡ của phong trào
Tây Sơn và triều đại Quang Trung, công cuộc trung hưng của nhà Nguyễn.
Như vậy, Nguyễn Du đã có một cuộc đời trải dài theo một thời đại mà
truyền thống nhân văn và tinh thần dân tộc được kết tinh một cách rực rỡ. Những
biến cố xã hội, truyền thống nhân văn và tinh thần dân tộc của thời đại ấy đã để lại
những âm hưởng, những màu sắc trong nhân cách cũng như sáng tác của nhà thơ.
2. Gia đình
Nguyễn Du xuất thân trong một gia đình phong kiến đại quý tộc, trí thức, tài
hoa và có danh vọng vào bậc nhất đương thời. Không những thế, gia đình ông còn có
một truyền thống về văn học. Hoàn cảnh gia đình đã có những tác động rõ rệt đối với
sự hình thành thiên tài văn học ở Nguyễn Du.
Gia đình Nguyễn Du có nhiều người đậu đạt cao và làm quan to tại triều đình:
Thân sinh của Nguyễn Du đậu tiến sĩ, từng làm tể tướng.
Nguyễn Khản, anh cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du đậu tiến sĩ giữ chức lớn
dưới cả hai thời Trịnh Sâm và Trịnh Tông .
Nguyễn Huệ, bác ruột Nguyễn Du, đậu tiến sĩ.
Theo Phạm Ðình Hổ thì dòng họ này có 12 tiến sĩ và 5 quận công.
Hoàn cảnh gia đình đã để lại những dấu ấn vàng son trong tâm hồn nhà thơ và
cũng chắc chắn rằng qua thực tiễn của gia đình, ông cũng đã nhận thức được nhiều
điều về giới quan lại đương thời.
Dòng họ này còn có truyền thống văn học. Thân sinh của ông là Nguyễn Nghiễm
- một sử gia cũng là một nhà thơ. Nguyễn Khản giỏi thơ Nôm, tương truyền có dịch
Chinh phụ ngâm. Nguyễn Hành, Nguyễn Thiện (cháu gọi Nguyễn Du bằng chú) đều
là những nhà thơ, nhà văn nổi tiếng đương thời.
3. Nguyễn Du
Những gì Nguyễn Du để lại cho đời đã chứng tỏ ông là một tài năng xuất
chúng về văn học của đất nước. Xuất thân trong một gia đình phong kiến đại quý tộc
có danh vọng vào loại bậc nhất đương thời nhưng Nguyễn Du sống trong nhung lụa
không được bao lâu. Bởi vì nhà thơ lớn lên giữa lúc gia đình đang sụp đổ nhanh
chóng theo đà lụn bại của tập đoàn phong kiến thống trị Lê - Trịnh. Nguyễn Du phải
sớm đương đầu với những biến cố lớn lao của gia đình và xã hội. Có lúc nhà thơ
cũng bị hất ra giữa cuộc đời, đã từng chịu nhiều nỗi bất hạnh. Ông có một thời gian
Trường THCS Yªn L¹c
2
Sáng kiến kinh nghiệm
NguyÔn H÷u Hïng
dài khoảng 16 năm sống lưu lạc ở quê vợ ở Thái Bình, quê cha Hà Tĩnh. Những năm
tháng bất hạnh này có ảnh hưởng trực tiếp quyết định đến sự hình thành con người
nghệ sĩ vĩ đại ở ông.
Nguyễn Du là một nhà thơ có tấm lòng nhân đạo sâu xa. Qua Thơ chữ Hán, Văn
chiêu hồn, đặc biệt Truyện Kiều ta thấy ông luôn day dứt về số phận con người, đã
hơn một lần nhà thơ thốt lên tiếng kêu ai oán cho những số phận người phụ nữ bất
hạnh:
Ðau đớn thay phận đàn bà
Như vậy, có thể nói, thiên tài Nguyễn Du đã được tạo nên từ những yếu tố cơ
bản: tài năng, tri thức, vốn sống, tâm hồn, tư tưởng tình cảm.
II. Sự nghiệp văn chương
1. Tác phẩm chữ Hán
Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) 1786-1804.
Nam trung tạp ngâm: 1805-1812.
Bắc hành tạp lục: 1813-1814.
Cả ba tập thơ đã được tập hợp lại thành tập Thơ chữ Hán của Nguyễn Du do nhóm
Lê Thước và Trương Chính giới thiệu, xuất bản năm 1965 gồm 243 bài thơ.
2. Tác phẩm chữ Nôm
Ðoạn trường tân thanh (tên Truyện Kiều là do quần chúng đặt cho tác phẩm).
Văn chiêu hồn (còn gọi là Văn tế thập loại chúng sinh).
Sinh tế Trường Lưu nhị nữ.
Thác lời trai phường nón.
Chương II
ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH
I. Một số vấn đề chung về Truyện Kiều
1. Nguồn gốc tác phẩm
Truyện Kiều của Nguyễn Du có tên là Ðoạn trường tân thanh, theo ý kiến
truyền thống thì nhan đề tác phẩm có nghĩa là tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột. Gần
đây nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Na đã đưa ra một công trình nghiên cứu mới,
trong đó lý giải về nhan đề tác phẩm: Đoạn trường là một loài hoa màu hồng, gọi là
thu hải đường, liên quan đến tích một cô gái khóc nhớ người yêu, nước mắt nhỏ
xuống loài hoa này; tân thanh là từ chỉ một thể văn viết theo lối nhạc phủ, do đó ý
nghĩa tên tác phẩm phải là một tác phẩm thơ ca viết theo lối nhạc phủ về một kiếp
hoa đau khổ. Đây là một ý kiến mới cho độc giả hướng đến một cách hiểu rất khoa
học, hợp lý.
Tác phẩm không phải do Nguyễn Du hoàn toàn hư cấu mà tác giả đã dựa vào một
tác phẩm của văn học cổ Trung Quốc có tên là Kim Vân Kiều truyện của tác giả có
biệt hiệu là Thanh Tâm Tài Nhân.
Trường THCS Yªn L¹c
3
Sáng kiến kinh nghiệm
NguyÔn H÷u Hïng
So sánh nội dung hai tác phẩm Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện người ta
thấy chúng giống nhau về cơ bản. Có thể nói Nguyễn Du đã dựa khá sát vào Kim
Vân Kiều truyện để viết tác phẩm của mình. Từ đây đã làm nảy sinh hai vấn đề
trong giới nghiên cứu.
Tại sao Nguyễn Du lại dựa vào tác phẩm của Thanh Tâm mà không dựa vào tác
phẩm khác để sáng tác?
Phần sáng tạo của Nguyễn Du là ở đâu?
Với vấn đề thứ nhất, năm 1954 trở về trước có nhiều ý kiến cho rằng sở dĩ
Nguyễn Du dựa vào tác phẩm Kim Vân Kiều truyện để viết Truyện Kiều là vì hoàn
cảnh và tâm sự của nhân vật chính trong Kim Vân Kiều truyện giống hoàn cảnh và
tâm sự của Nguyễn Du. Kiều đính ước với Kim Trọng, về sau do hiện thực nên lỗi
hẹn, không còn giữ được chữ trinh. Nguyễn Du là tôi trung của nhà Lê mà lại làm
quan cho nhà Nguyễn. Nguyễn Du không giữ được chữ trung. Ông đã dịch, phỏng
dịch tác phẩm của Thanh Tâm để gửi gắm tâm sự của mình (Tiêu biểu cho loại ý
kiến này là ý kiến của cụ Ðào Duy Anh, Trần Trọng Kim, Dương Quảng Hàm).
Sau này luận điểm này bị bác bỏ vì các giải thích trên đã thu hẹp giá trị vốn có
của Truyện Kiều. Ðã quy vấn đề xã hội thành vấn đề cá nhân thì không đáng với nội
dung thực của tác phẩm.
Ý kiến chung hiện nay là thừa nhận sự gửi gắm tâm sự của Nguyễn Du nhưng đó
không phải là tất cả, là chủ yếu. Sở dĩ ông đến với tác phẩm này là vì trong tác phẩm
là câu chuyện về một con người tài hoa bị vùi dập. Vấn đề số phận con người là vấn
đề thường trực trong tâm hồn nhà thơ. Ông dựa vào tác phẩm để viết Truyện Kiều để
giải bày những băn khoăn, những day dứt của mình về số phận con người.
Với vấn đề thứ hai, có hai khuynh hướng sai lầm. Các học giả thời thực dân coi
Truyện Kiều là một tác phẩm dịch, phỏng dịch, khuynh hướng khác lại cho rằng
Truyện Kiều là hoàn toàn sáng tác (Phan Khôi).
Chúng ta phải thấy rằng, vấn đề vay mượn đề tài, cốt truyện của văn học nước
ngoài là một hiện tượng bình thường của văn học thế giới. Thời đại Nguyễn Du, hiện
tượng này rất phổ biến, việc vay mượn này không hề hạ thấp nhà văn và cũng không
ngăn cản sáng tạo của người cầm bút. Hơn nữa, tác phẩm của Thanh Tâm có tác
dụng gợi ý rất lớn đối với Nguyễn Du, nói như Hoài Thanh không có Kim Vân Kiều
truyện thì chưa chắc có Truyện Kiều của Nguyễn Du
Dựa khá sát vào Kim Vân Kiều truyện nhưng Nguyễn Du sáng tạo cũng rất
nhiều. Ông đã tạo theo cách riêng của mình trên cơ sở những điều trông thấy, những
cảm xúc, những suy nghĩ của bản thân hoàn cảnh xã hội Việt nam đương thời. Nói
chung nhà thơ đã có cống hiến về nhiều mặt, nổi bật nhất là vấn đề ngôn ngữ, thi
pháp, nghệ thuật xây dựng nhân vật. Nguyễn Du cũng đã tước bỏ những chi tiết tự
nhiên chủ nghĩa của nguyên tác. Về mặt tinh thần nhân đạo ông vượt xa Thanh Tâm,
mặt khác ông là một nhà nho thâm trầm nên nhưng yếu tố tiêu cực càng sâu sắc hơn.
Tổng quát lại về nội dung cũng như về nghệ thuật, Truyện Kiều của Nguyễn Du
đã vượt xa bản gốc đúng như Nhữ Bá Sĩ (1788-1876) đã nhận xét “Kỳ tài diệu bút,
Thanh Hiên viễn quá Thanh Tâm".
2. Thời điểm sáng tác Truyện Kiều
Có hai loại ý kiến khác nhau:
Trường THCS Yªn L¹c
4
Sáng kiến kinh nghiệm
NguyÔn H÷u Hïng
Có ý kiến cho rằng, Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều trước khi đi sứ Trung
Quốc, cụ thể có ý kiến cho là ông viết tác phẩm khi giữ chức quan Ðông Các (18051809).
Có ý kiến cho rằng Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều sau khi đi sứ về (18141820).
Dư luận hiện nay đồng tình với ý kiến thứ nhất.
II. Nội dung Truyện Kiều
Truyện Kiều là một cuốn tiểu thuyết bằng thơ, là tác phẩm phản ánh xã hội
thông qua vận mệnh và tính cách nhân vật trung tâm: Vương Thúy Kiều.
Ngoài nhân vật trung tâm Thúy Kiều, nhân vật Từ Hải giữ vị trí quan trọng thứ
hai trong tác phẩm. Từ không chỉ đóng vai trò là vị cứu tinh của Kiều, không chỉ có
tác dụng soi sáng một số nét trong tính cách của Kiều mà nhân vật này còn giữ một
vị trí tương đối độc lập trong tác phẩm. Từ phản ánh nhiều vấn đề xã hội, Từ biểu
hiện nhiều chủ đề có tính độc lập tương đối so với các vấn đề xã hội, các chủ đề
được xác định từ nhân vật Thúy Kiều.
Vậy việc phân tích tác phẩm phải dựa trên cơ sở phân tích số phận và tính cách
hai nhân vật này (chủ yếu là phân tích tính cách).
Tác phẩm mở đầu bằng thuyết tài mệnh tương đố (tài mệnh ghét nhau) và kết
thúc bằng giải pháp tu tâm nhưng chất liệu làm nên tác phẩm lại là những điều trông
thấy mà đau đớn lòng của tác giả. Ngoài vấn đề trung tâm được đặt ra trong tác phẩm
là vấn đề số phận con người trong xã hội phong kiến suy tàn nhà thơ còn phản ánh
khát vọng lớn lao của con người thời đại nên phải phân tích tác phẩm với hai nội
dung này.
1. Vận mệnh của con người thể hiện qua nhân vật Thúy Kiều
a. Thúy Kiều là hiện thân cho tài hoa, nhan sắc và những phẩm chất tốt đẹp của
con người.
Dụng ý của Nguyễn Du là muốn xây dựng Kiều thành một hình ảnh lý tưởng về
người phụ nữ, nàng là hiện thân của tài hoa, nhan sắc và những phẩm chất tốt đẹp
của con người.
* Kiều là hiện thân của tài hoa, nhan sắc
Nguyễn Du đã rất dụng công trong việc giới thiệu tài sắc của nàng Kiều, bút pháp
miêu tả của ông khá độc đáo. Trước khi đi vào giới thiệu Thúy Kiều, nhà thơ đã cực
tả vẻ đẹp của Thúy Vân tưởng như không thể có một vẻ đẹp nào khác sánh bằng:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da
Miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân, nhà thơ đã tạo tiền đề, tạo điểm tựa của nghệ thuật
đòn bẩy để tập trung khắc họa tài sắc của Thúy Kiều. Bằng một loạt nét miêu tả có
tính chất ước lệ kết hợp với những từ ngữ chọn lọc Nguyễn Du đã khắc họa một cách
đậm nét vẻ đẹp của Thúy Vân, một vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu.
Trường THCS Yªn L¹c
5
Sáng kiến kinh nghiệm
NguyÔn H÷u Hïng
Từ nét đẹp của Thúy Vân, Nguyễn Du đưa ta đến với vẻ đẹp của Thúy Kiều bằng
một câu thơ chuyển tiếp rất tài tình:
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Nhà thơ đã không đi vào miêu tả trực tiếp, cụ thể hình tượng mà chỉ viết “Kiều
càng…”, lời đánh giá chỉ có một ý là không có gì so sánh được. Nếu ở Vân tác giả
chú ý làm nổi bật nét đoan trang, phúc hậu thì ở Kiều cái mà ông muốn nhấn mạnh là
nét sắc sảo, mặn mà. Cái sắc sảo là cái thông minh, cái mặn mà chính là cái đằm
thắm, cái đa tình, cái cốt cách nổi bật nhất ở Thúy Kiều.
Kiều là con người tuyệt sắc và cũng là con người tuyệt tài. Tài của nàng là tài
cầm, kỳ, thi, họa. Cái tài này thật ra là biểu hiện của cái tình. Tài năng của Thúy
Kiều được thể hiện tập trung nhất là ở tài thi phú, ở cung đàn có sức chinh phục tuyệt
đối.
Như vậy, cốt cách tài sắc của Kiều hiện lên dưới ngòi bút của Nguyễn Du khá nổi
bật. Những trang thơ miêu tả tài sắc ấy là một trong những biểu hiện của tư tưởng
nhân đạo của Nguyễn Du trong Truyện Kiều và khi viết nên những trang thơ ấy nhà
thơ đã được đánh giá là nghệ sĩ của cuộc đời.
Thuý Kiều là hiện thân của những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ, của con
người bị áp bức dưới thời đại phong kiến.
* Thúy Kiều là hiện thân của những phẩm chất tốt đẹp
Khía cạnh đặc sắc nhất trong phẩm chất của Kiều là trong nàng luôn tồn tại một
con người thiết tha với tình yêu tự do, với hạnh phúc lứa đôi. Ðiều này được thể hiện
tập trung nhất trong mối tình Kim- Kiều.
Vốn là một con người thông minh, nhạy cảm nên qua cuộc đời Ðạm Tiên, Kiều
đã nhận ra đau khổ như một quy luật nghiệt ngã, tất yếu đối với tất cả những người
phụ nữ và tất nhiên là không loại trừ nàng:
Ðau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Kiều cũng đã dự cảm được những bất hạnh của đời mình.
Rằng hồng nhan tự nghìn xưa
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu
Nỗi niềm tưởng đến mà đau
Thấy người nằm đó biết sau thế nào.
Nhận thức như thế, dự cảm như thế nhưng đến khi Kim Trọng xuất hiện Kiều đã
đi theo tiếng gọi của tình yêu một cách mãnh liệt. Ðến với tình yêu, Kiều đã dành hết
lòng mình cho một tình yêu tha thiết, sâu sắc và nàng đã chủ động xây dựng hạnh
phúc của tình yêu. Tất cả những điều ấy đã nói lên một điều: Kiều là một con người
rất thiết tha với hạnh phúc.
Con người thiết tha với hạnh phúc tình yêu ấy cũng chính là một con người giàu
đức hi sinh. Kiều luôn nghĩ đến hạnh phúc của người khác trước khi nghĩ đến hạnh
phúc của mình. Gia đình gặp cơn tai biến, Kiều đã quyết định bán thân để làm tròn
chữ hiếu, hành động này khiến nàng buộc phải hi sinh tình yêu đầu tiên trong sáng
nhưng vô cùng mặn nồng của mình với Kim Trọng.
Trường THCS Yªn L¹c
6
Sáng kiến kinh nghiệm
NguyÔn H÷u Hïng
Kiều là một con người giàu ý thức, trong đau khổ nàng luôn ý thức được những
khổ đau của bản thân và luôn có khát vọng vươn lên một cuộc sống trong sạch. Rơi
vào lầu xanh của Tú Bà, Thúy Kiều đã tìm đến cái chết rồi sau đó lại trốn theo Sở
Khanh. Sự gắn bó của nàng với Thúc Sinh, Từ Hải cũng đều xuất phát từ khát vọng
đó.
Ngoài ra nàng còn là một con người giàu tình nghĩa, chung thủy trong tình yêu.
Tóm lại, hoàn toàn có thể nói Kiều là hiện thân của những vẻ đẹp của con người,
nàng là kết tinh những tinh hoa của con người, là con người chứa đựng tất cả những
gì đẹp đẽ nhất.
b. Kiều là hiện thân của những con người bị áp bức.
Thúy Kiều là hiện thân của tất cả những nỗi oan khổ của người phụ nữ trong xã
hội xưa. Bao trùm là nỗi khổ vì hạnh phúc tình yêu tan vỡ, nỗi khổ của kiếp lầu
xanh, kiếp làm lẽ, kiếp làm nô tỳ và những sự chà đạp khác về mặt nhân phẩm. Thiên
tài của Nguyễn Du đặc biệt được biểu hiện khi ông đi sâu miêu tả những đau khổ
của con người nạn nhân này.
Mở đầu cho chương lệ sử của cuộc đời Kiều là nỗi oan kêu trời không thấu của
gia đình nàng. Tai họa đã ập đến đột ngột trong lúc những rung động về mối tình đầu
đang còn ngân nga trong lòng người thiếu nữ. Vì mục đích làm tiền, bọn sai nha đầu
trâu, mặt ngựa đã đánh đập cha và em nàng một cách tàn nhẫn. Trong hoàn cảnh bi
đát ấy, Kiều đành phải đi đến quyết định bán mình.
Bán mình để cứu cha, để vãn hồi hạnh phúc gia đình, một vấn đề đặt ra với nàng
lúc này. Ðó là lời thề với chàng Kim. Khi từ biệt Kim Trọng về Liêu Dương thọ tang
chú, Kiều đã hẹn ước trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai. Ðây là lời thề sâu nặng,
lời thề được thốt ra từ đáy lòng nàng. Cuối cùng người con gái ấy đã quyết định nhờ
em gái mình là Thúy Vân thay lời nước non. Với tài năng, với tấm lòng nhân đạo cao
cả, với tấm lòng yêu thương con người bao la của mình, Nguyễn Du đã miêu tả một
màn trao duyên này rất thành công. Có lẽ nhờ sự cảm thông kỳ diệu mà tác giả đã lột
tả hết những đau đớn của nhân vật khi mối tình tuyệt đẹp tan vỡ một cách chân thực
và xúc động.
Trao duyên cho em, ban đầu lời lẽ của Kiều có vẻ dứt khoát. Vì hạnh phúc của
người yêu mà Kiều đã nhờ Vân thay lời nước non với tất cả sự tha thiết:
Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Cậy có nghĩa là nhờ, nhờ với tất cả sự tha thiết; chịu là nhận, nhận với tất cả sự
thiệt thòi. Cậy, chịu đã nói lên cái tinh tế của Kiều; lạy, thưa thể hiện thái độ của
nàng, Kiều đã coi em mình như ân nhân, tạo nên không khí trang trọng để đưa Thúy
Vân vào cuộc, cũng là để Thúy Vân không thể từ chối. Nếu em nhận lời thì Kiều sẽ
mãn nguyện lắm:
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Thế nhưng khi giở đến những kỷ vật, trao kỷ vật tình yêu cho em. Nàng lại trở
nên lúng túng, mâu thuẫn:
Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Trường THCS Yªn L¹c
7
Sáng kiến kinh nghiệm
NguyÔn H÷u Hïng
Của chung là của ai, là của Kim Trọng và Thúy Vân và hãy cho Kiều một phần
trong đó nữa? Tại sao lại là của chung? Kiều như cảm thấy đời mình mất tất cả, nàng
rơi vào hố sâu hụt hẫng. Nàng cố bấu víu, cố níu kéo một chút xíu hạnh phúc lại cho
mình, "Biết bao nhiêu đau đớn trong hai tiếng đơn sơ ấy". Trao duyên cho em với tất
cả sự khẩn cầu, mong em nhận tất cả rồi Kiều lại sợ mất tất cả vì thế tình cảm, suy
nghĩ của nàng càng trở nên lúng túng, mâu thuẫn:
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa
Mai sau dù có bao giờ
Ðốt lò hương ấy so tơ phím này
“Mai sau dù có bao giờ” - câu thơ toàn những hư từ chỉ khả năng, được xếp vào
loại những câu thơ hay nhất của tác phẩm diễn tả sự đau khổ đến tột cùng, đến mức
không còn dám tin đó là sự thật nữa.
Trao duyên cho em xong Kiều mới nghĩ đến mình. Nàng thương cho thân phận
của mình. Tình cảm của Kiều lâm ly đến cực độ, Nàng đã quên cô em gái Thúy Vân
trước mặt, nàng độc thoại với mình rồi nói với người yêu vắng mặt:
Bây giờ trâm gãy bình tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi
Ðã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây
Thật ra đây không còn là những lời nói nữa. Ðây là những tiếng khóc, tiếng khóc
nức nở đến quặn lòng. Nước mắt của người trong truyện và người viết truyện như
còn dầm dề trên trang giấy .
Tiếp theo là quãng đời 15 năm lưu lạc của Vương Thúy Kiều trong xã hội đầy rẫy
bọn ác nhân. Suốt thời kỳ thanh xuân tươi đẹp và quý giá của mình nàng đã trải qua
biết bao cảnh ngộ đoạn trường (những cảnh ngộ bi kịch): Hai lần làm gái lầu xanh,
hai lần làm nô tỳ, một lần làm lẽ, ba lần đi tu. Nói chung Kiều đã trải qua những địa
vị thấp hèn nhất trong xã hội ngày xưa. Sống thân phận con người bị áp bức nàng đã
phải nếm trải đủ mùi cay đắng, tủi nhục. Thể xác bị chà đạp, tài hoa nhan sắc bị giày
vò, nhân phẩm bị sỉ nhục, quyền sống bị tước đoạt, tất cả những mơ ước lớn nhỏ hết
thảy đều tan tành thành mây khói.
Thể xác bị chà đạp: Kiều bị đánh đòn 3 lần.
Nhân phẩm bị sỉ nhục: Ðiều xót xa, xót xa hơn là kẻ sỉ nhục Kiều lại là lũ buôn
thịt, bán người như Tú Bà , là kẻ quyền uy và độc ác như mẹ con Hoạn Thư.
Mọi mơ ước đều tan tành: Ước mơ được sống trong hạnh phúc không thực hiện
được, ước mơ được sống trong sạch cũng không xong, chua xót quá Kiều phải thốt
lên:
Thân lươn bao quản lấm đầu
Trường THCS Yªn L¹c
8
Sáng kiến kinh nghiệm
NguyÔn H÷u Hïng
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa.
Thậm chí Kiều chịu tra tấn cực hình để được yên thân làm một người vợ lẽ cũng
không xong, đi tu cũng không được yên ổn.
Tóm lại, cuộc đời Kiều, cuộc đời của một cô gái tài sắc vẹn toàn có những phẩm
chất tốt đẹp kết cục chỉ là một cung gió thảm mưa sầu. Nàng phải trải qua hầu hết
những kiếp đời oan khổ của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Với hình tượng
con người đa nạn này nhà thơ đã đề cập đến vấn đề số phận con người trong xã hội
phong kiến thối nát khá sâu sắc.
Những trang thơ tố cáo xã hội của Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở đấy, trong tác
phẩm nhà thơ còn viết những lời phê phán trực tiếp đối với những thế lực tàn bạo. Vì
thế mà bản án tố cáo xã hội của Truyện Kiều trở nên sâu sắc hơn, toàn diện hơn bất
kỳ tác phẩm văn học nào cùng thời.
2. Những ước mơ lớn lao của con người
a. Giấc mơ về tình yêu tự do
Giấc mơ này được thể hiện tập trung trong mối tình Kim - Kiều. Thái độ của
Nguyễn Du đối với mối tình này là thái độì đồng tình, ngợi ca. Ðiều đó được thể hiện
ở chỗ nhà thơ đã đem hết tài năng, tâm lực, tình cảm để xây dựng mối tình này. Tất
cả chỉ độ vài tháng thôi, vài tháng so với 15 năm lưu lạc của Kiều thì quả là ngắn
ngủi. Thế mà Nguyễn Du đã giành 1/8 tác phẩm để trang điểm cho cái thuở ban đầu
lưu luyến ấy.
Qua mối tình Kim - Kiều tuyệt đẹp nhà thơ đã gửi gắm nhiều quan niệm mới mẻ,
táo bạo của mình về tình yêu. Nhưng nổi bật nhất là quan niệm, là khát vọng về tình
yêu tự do. Mối tình ấy là mối tình nằm ngoài mọi ràng buộc của lễ giáo phong kiến.
Mối tình được diễn ra theo một quá trình diễn biến rất hợp lý nên rất hấp dẫn.
+ Bước1: Kim, Kiều gặp gỡ.
Nhà thơ đã để cho Kim, Kiều gặp nhau trong một hoàn cảnh khá đặc biệt về
không gian và thời gian. Ðó là một buổi chiều tà bên nấm mộ "hương khói vắng
tanh" của Ðạm Tiên- nhân vật vừa là hiện thân của cái mệnh vừa là nạn nhân của cái
mệnh. Lần gặp gỡ đầu tiên này thật ngắn ngủi và đột ngột. Hai người chưa kịp nói
với nhau một lời nhưng trái tim đôi lứa đã thật sự xúc động. Sự rung động ấy đã
được Nguyễn Du ghi nhận với một thái độ thông cảm, trân trọng và cũng đầy tế nhị:
Người quốc sắc, kẻ thiên tài
Tình trong như đã mặt ngoài còn e
+ Bước 2:Tiếp theo lần gặp gỡ ban đầu ấy là mối tương tư.
Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không
Câu thơ như một lời trách móc, lời trách móc ấy bao hàm nhiều nỗi niềm: Có băn
khoăn, có lo lắng và có cả một chân trời hy vọng. Thúy Kiều là vậy còn Kim Trọng
thì sao?
Trở về nhà Kim Trọng cũng tương tư Kiều không kém. Trước khi miêu tả mối
tương tư của chàng trai si tình ấy nhà thơ đã viết hai câu thơ để biện hộ cho nhân vật,
để người đọc không hiểu nhầm nhân vật của mình.
Cho hay là giống hữu tình,
Ðố ai gỡ mối tơ mành cho xong
Trường THCS Yªn L¹c
9
Sáng kiến kinh nghiệm
NguyÔn H÷u Hïng
Tình yêu là cái vốn có của con người , cái vốn có của cuộc sống, là quy luật của
con tim. Ðã là quy luật thì không ai ngăn cản được. Kim Trọng tương tư Kiều mà
quên cả nghĩa vụ, quên cả những thú vui hàng ngày. Ðối với chàng hạnh phúc lứa
đôi được đặt lên trên hết. Không phải chỉ ngồi mà tương tư, Kim Trọng đã tìm cách
đến ở gần nhà Kiều (Con người này đến với tình yêu rất quyết liệt):
Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều
Xăm xăm, đè nẻo, Lam Kiều, lần sang
Câu thơ rất sinh động, nhịp thơ 2 – 2 – 2 - 2 gợi hình ảnh một chàng Kim đang
xăm xăm bước đi, ý tưởng đang bị cuốn vào tình yêu không còn biết gì xung quanh.
+ Bước 3: Sau đó mấy tuần trăng Kim, Kiều lại gặp nhau, lần này chàng đâu chịu
bỏ lỡ cơ hội, tuy chưa xin phép cha mẹ nhưng Kim Trọng đã ngỏ lời với Thúy Kiều.
Trước những lời tỏ tình đột ngột của Kim Trọng, Kiều đã đáp lại tế nhị, tâm lý này
của nhân vật cũng rất đạt. Kiều từ chối mà không ra từ chối, từ chối mà không làm
cho Kim Trọng thất vọng. Chàng tiến thêm một bước nữa thuyết phục nàng, thuyết
phục trên cơ sở hạnh phúc. Trước những lời thuyết phục có lý ấy nàng đã chấp nhận
một cách tế nhị. Kiều cũng đã chưa xin phép cha mẹ, nàng đã vượt quyền cha mẹ đế
gắn bó với chàng Kim:
Rằng trong buổi mới lạ lùng
Nể lòng có lẽ cầm lòng cho đang
Ðã lòng quân tử đa mang
Một lời vâng tạc đá vàng thủy chung
Và cũng trong lần gặp gỡ đó họ đã trao kỷ vật cho nhau.
Ðến với nhau, đến với tình yêu, cả Kim lẫn Kiều không hề để một chút tính toán
nào về địa vị, về môn đăng hộ đối làm vẩn đục mối tình của họ. Ðặt trong hoàn cảnh
xã hội phong kiến mối tình Kim-Kiều quả là táo bạo, vượt lễ giáo phong kiến, vượt
thời đại.
+ Bước 4: Tình yêu đã được nuôi dưỡng một thời gian và đã có được nhiều kỷ
niệm nên đến với Kim Trọng Thúy Kiều đã có những cử chỉ táo bạo. Nàng đã chủ
động xây dựng hạnh phúc cho mình. Nhân dịp cha mẹ và hai em đi vắng, Kiều đã
sang nhà người yêu để tình tự:
Nhà lan thanh vắng một mình
Ngẫm cơ hội ngộ đã giành hôm nay
Kiều mừng vui, nàng như reo lên, rối rít sắp đặt hoa quả và sang nhà chàng Kim:
Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mái tường
Gót sen này quả thật còn làm ngơ ngác nhiều thiếu nữ ngày nay. Nàng tình tự với
người yêu trọn một ngày mà vẫn còn thấy quá ít ỏi. Trời tối rồi nàng mới sực nhớ :
Vắng nhà chẳng tiện ngồi dai.
Trở về nhà thấy cha mẹ và hai em vẫn chưa về nàng lại:
Cửa ngoài vội rủ rèm the
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.
Hai từ xăm xăm gợi hình ảnh một nàng Kiều đi băng băng, không rón rén, không
nhìn trước nhìn sau. Cái đáng sợ nhất là dư luận, là những quan niệm khắt khe của lễ
giáo, Kiều cũng không sợ nốt. Câu thơ không còn là một câu thơ bình thường nữa
Trường THCS Yªn L¹c
10
Sáng kiến kinh nghiệm
NguyÔn H÷u Hïng
mà là vũ khí, là gươm giáo. Bằng hành động này của Thúy Kiều, Nguyễn Du đã phủ
nhận những nguyên tắc của đạo đức phong kiến:
- Nam nữ thụ thụ bất tương thân.
- Nam đáo phòng nữ nam tắc loạn
- Nữ đáo phòng nam nữ tắc dâm.
Và cũng chính trong lần gặp gỡ này hai người đã thề nguyền với nhau. Nhà thơ
đã miêu tả một đêm thề nguyện tuyệt đẹp. Cái đẹp ở đây là sự thống nhất tuyệt vời:
một mà hai, hai mà một, cái đẹp của sự bình đẳng.
Tóm lại, đây là một mối tình sâu sắc trong ý nghĩa chống phong kiến.Kim- Kiều
đã hành động theo tiếng gọi của trái tim chứ không phải theo những tín điều của Nho
giáo. Hạnh phúc của đôi lứa được đặt trên hết. Còn lễ giáo phong kiến, công danh
phong kiến bị đẩy xuống hàng thứ hai. Tuy nhiên những hành động của Kim, Kiều
đã có cơ sở trong hiện thực đời sống. Ðây là thời kỳ con người có yêu cầu đòi giải
phóng tình cảm, giải phóng bản năng. Tình yêu ấy cũng được bắt nguồn từ những
tình cảm lành mạnh, hồn nhiên, trong sáng trong văn học dân gian.
Tình yêu tự do có những sắc thái rất riêng: hồn nhiên, trong sáng, mãnh liệt, thủy
chung và bền vững.
b. Giấc mơ tự do và công lý.
Giấc mơ này được thể hiện qua hình tượng nhân vật Từ Hải, đây là nhân vật mà
giới nghiên cứu bình luận ít nhưng có nhiều mâu thuẫn. Có một nhà nho vô danh đã
bình luận về Từ Hải như sau:
Bốn bể anh hùng còn dại gái
Thập thành con đĩ mắc mưu quan.
Vấn đề mà giới nghiên cứu tranh luận nhiều là Từ có dính dáng gì đến Nguyễn
Huệ không? Cảm hứng của nhà thơ bắt nguồn từ đâu khi xây dựng Từ?
Từ Hải vốn là một con người có thật trong lịch sử phong kiến Trung Quốc, Từ là
một tên cướp biển vùng Giang Nam, bị lịch sử Trung Quốc lên án. Ở hai tác phẩm
Sự tích Vương Thúy Kiều - Mao Khôn và Truyện Vương Thuý Kiều - Dư Hoài,
nhân vật chưa có gì để gọi là anh hùng.
Ðến Thanh Tâm, tác giả đã đổi lốt cho nhân vật này, ông đã xây dựng Từ trở
thành một đại vương. Từ một con người có tài năng, đức độ của một người anh hùng
nhưng trong tính cách của nhân vật này vẫn còn rơi rớt tính cách giặc cỏ - tính cách
của một tên tướng cướp tầm thường. Nhìn chung Thanh Tâm Tài Nhân chưa gửi gắm
vào nhân vật này một ước mơ gì lớn lao, nhân vật chưa đáp ứng được khát vọng gì
của cuộc sống.
Ðến Truyện Kiều, Nguyễn Du đã xây dựng Từ thành một nhân vật anh hùng vơi
màu sắc lý tưởng, ông tước bỏ tất cả những chi tiết khiến người ta nghĩ Từ là một
con người tầm thường.
Từ xuất hiện trong hoàn cảnh nào của cuộc đời Kiều? Rơi vào lầu xanh lần thứ
hai, thái độ của Kiều trong Kim Vân Kiều Truyện dường như bình thản đón nhận số
phận. Thái độ ấy làm cho tính chất bi kịch của đoạn đời này không rõ nét, bị phá vỡ.
Giữa lúc ấy Từ Hải xuất hiện. Vai trò của Từ rõ ràng không được đề cao. Còn trong
Truyện Kiều, rơi vào lầu xanh lần hai, Kiều bế tắc đến tuyệt vọng, nàng như bị dồn
đến chân tường:
Trường THCS Yªn L¹c
11
Sáng kiến kinh nghiệm
NguyÔn H÷u Hïng
Ðầu xanh có tội tình gì
Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi
Biết thân chạy chẳng khỏi trời
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.
Giữa lúc ấy thì Từ xuất hiện, sự xuất hiện ấy có ý nghĩa. Nhân vật như một vị cứu
tinh, bước vào đời Kiều như một ngôi sao sáng lạ, chiếu sáng cả cuộc đời Thúy Kiều,
cả xã hội Truyện Kiều:
Lần thâu gió mát trăng thanh
Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi
Con người này như thế nào? Con người này phi thường về mọi phương diện,
những gì gắn với nhân vật này đều phi thường.
Diện mạo được tác giả miêu tả với bút pháp tượng trưng, tạo ấn tượng phi
thường:
Râu hùm hàm én mày ngài
Vai năm tấc rộng, thân mười tấc cao.
Ðây là sáng tạo của Nguyễn Du, chi tiết này không có trong Kim Vân Kiều
truyện.
Tài năng của Từ cũng rất phi thường:
Ðường đường một đấng anh hào
Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài
Hành động cũng thật phi thường. Ðiều này thể hiện trong hành động đến với tình
yêu của Từ. Chàng khẳng định với Kiều là đến nhà chứa không phải để ăn chơi mà
để tìm người tri kỉ:
Từ rằng tâm phúc tương cờ
Phải người trăng gió vật vờ hay sao?
Và chỉ sau vài lời đối thoại, Từ đã yêu Kiều và nhận ra nàng là một người tri kỷ
không phải nhiều lắm ở đời:
Nghe lời vừa ý gật đầu
Cười rằng tri kỷ trước sau mấy người
Về lý tưởng: Lòng khao khát tự do và ham chuộng công lý là hai nét nổi bật trong
tính cách của nhân vật này. Trong hai nét tính cách ấy thì lòng khao khát tự do nổi
bật hơn. Từ là con người sống và hành động hoàn toàn không bị một dục vọng nhỏ
bé nào ràng buộc cả, sống là đội trời, đạp đất, là “Giang hồ quen thói vẫy vùng” là
“Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo”.
Ðến tình yêu nồng thắm của Kiều cũng không giữ được bước chân khao khát tự
do của chàng;
Nửa năm hương lửa đang nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời vời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng dong.
Từ cất bước ra đi rất nhẹ nhàng. Chàng không dại gái, nếu như dại gái thì Từ đã
không ra đi giữa lúc tình yêu đang nồng thắm như vậy. Kiều vốn thông minh, nàng
biết không thể nào giữ Từ ở lại nên chỉ một mực xin chàng cho mình đi cùng:
Nàng rằng phận gái chữ tòng
Trường THCS Yªn L¹c
12
Sáng kiến kinh nghiệm
NguyÔn H÷u Hïng
Quyết lòng xin chàng đi thiếp cũng đi.
Nhưng Từ đã khuyên Kiều ở lại, hẹn bao giờ chiến thắng sẽ đón nàng nghi gia, có
lâu thì cũng một năm thôi, nói rồi:
Quyết lời dứt áo ra đi
Gió đưa bằng tiện đã lìa dặm khơi.
Từ ra đi theo tiếng gọi của tự do như cánh chim bằng gặp gió.
Thêm một lần nữa nhà thơ đã thể hiện khát vọng sống tự do của nhân vật khi
Kiều khuyên Từ ra hàng. Lúc đó Từ Hải chỉ có một băn khoăn duy nhất là được, mất
tự do. Hàng thì được áo xiêm, danh tước nhưng phải gò mình vào cuộc sống gò bó,
từ bỏ cuộc sống ngang tàng và cuối cùng Từ đã đặt tự do lên trên cả công hầu, danh
tước:
Một tay xây dựng cơ đồ
Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành.
Bó thân về với triều đình,
Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu.
Áo xiêm ràng buộc lấy nhau,
Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?
Sao bằng riêng một biên thùy
Sức này đã dễ làm gì được nhau
Chọc trời khuấy nước mặc dầu
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai.
Trong tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân khi Thúy Kiều khuyên Từ Hải ra hàng
thì ngoài nỗi băn khoăn về lẽ mất tự do Từ Minh Sơn còn tính đến chuyện nếu không
hàng thì vàng luạ, đàn bà, con gái tùy ý ta muốn
Tóm lại, Từ Hải nổi bật lên như một thần tượng của lòng khát khao cuộc sống tự
do. Thực chất tự do của Từ mang ý nghĩa chống đối trật tự phong kiến và cũng mang
màu sắc chính trị của xã hội, là tư tưởng vô quân thực sự. Ðặt trong hoàn cảnh xã hội
phong kiến, một xã hội không thừa nhận sự tồn tại của cá nhân và do đó cũng không
thừa nhận tự do của con người thì sự tự do ấy có một ý nghĩa tiến bộ. Tuy nhiên tác
phẩm cũng có hạn chế: Tự do để làm gì? Tự do cho ai? Những điều này chưa được
đề cập đến.
Khát vọng công lý được thể hiện trong giai đoạn Thúy Kiều - Từ Hải. Có thể nói
đây là nét tính cách nổi bật thứ hai của nhân vật. Tuy không nổi bật bằng Khát vọng
tự do nhưng nét tính cách này lại là phần tiến bộ nhất trong con người Từ, Từ được
quần chúng yêu mến cũng nhờ nét tính cách này.
Thứ công lý mà nhân vật thực hiện ở đây là thứ công lý nào? Ðó là thứ công lý
trong tay người bị áp bức vì người cầm cán cân công lý là Kiều. Trong màn báo ân
báo oán Kiều mới thực sự là người phán xét, phân xử.
Cảnh báo oán trừng trị bọn Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Hoạn Thư không
phải chỉ để cứu vớt Kiều, trả oán cho Kiều mà còn là để phủ nhận bọn này. Những
thế lực tàn bạo tuy mới được tóm về một phần nhưng chúng cũng là những kẻ tiêu
biểu rồi.
Trường THCS Yªn L¹c
13
Sáng kiến kinh nghiệm
NguyÔn H÷u Hïng
Tòa án này dựng lên đã được sự đồng tình tuyệt diệu của ba quân, của những
người xa gần, của trời đất. Ðây là thứ công lý được quần chúng ủng hộ và hoàn toàn
nằm ngoài đạo đức phong kiến, một thứ công lý nhìn chung còn đơn giản .
Nhưng giấc mơ Từ Hải cuối cùng là một giấc mơ bế tắc không lối thoát. Con
người anh hùng rất mực này cuối cùng đã nghe theo lời Kiều đầu hàng Hồ Tôn Hiến
với những lý lẽ tầm thường để rồi bị phản bội và chết một cách oan uổng. Từ Hải
chết thể hiện sự bế tắc trong thế giới quan của Nguyễn Du.
Như vậy hình tượng Từ Hải bắt nguồn từ thời đại đã tạo nguồn thi hứng cho Nguyễn
Du, hình tượng Từ Hải cũng được lấy từ Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài
Nhân đồng thời cũng mang những nét chủ quan của nhà thơ.
3. Phần tiêu cực của Nguyễn Du thể hiện trong tác phẩm
Nhân sinh quan tiến bộ của Nguyễn Du đã tạo nên những nhân tố tích cực nhất
của Truyện Kiều. Mặt khác, tác giả lại là một nhà nho nên ông cũng chưa vượt qua
được những hạn chế của ý thức hệ phong kiến cũng như những hạn chế của thời đại
nên phần hạn chế vẫn còn khá nặng nề. Cụ thể là trong tác phẩm nổi bật một số quan
niệm duy tâm siêu hình: Ðó là thuyết thiên mệnh của nhà nho được nhà thơ cụ thể
hóa trong các quan niệm tài mệnh tương đố, hồng nhan bạc phận, là thuyết duyên
nghiệp nhân quả của nhà phật có pha trộn quan niệm quả báo của nhân dân. Chính
những tư tưởng trên đã gây ra những mâu thuẫn trong thế giới quan của nhà thơ.
Mâu thuẫn giữa nhận thức và lý giải về số phận con người.
+Nhận thức của nhà thơ về số phận con người thì đúng.
+Thế nhưng khi đi vào giải thích thì nhà thơ lại mắc phải sai lầm.
Mâu thuẫn trong giải pháp.
+Giải pháp bằng hình tượng nghệ thuật thì đúng.
+Giải pháp triết lý thì sai lầm.
III. Nghệ thuật của Truyện Kiều
Tất cả mọi người đọc Truyện Kiều đều nhất trí cho rằng nghệ thuật của tác phẩm
là tuyệt diệu. Chỗ được nhất trí cao nhất là ngôn ngữ Truyện Kiều phong phú, tinh
luyện, giàu sưc gợi cảm, gợi tả và trong sáng. Nghệ thuật viết Truyện Kiều như kết
cấu chuyển đoạn, kể chuyện, mô tả... đều đạt đến mức tuyệt diệu.
1. Ngôn ngữ
a. Ngôn ngữ Truyện Kiều phong phú, đa dạng.
* Phong phú về từ vựng.
Theo thống kê của tổ ngôn ngữ viện văn học thì Truyện Kiều có 3412 từ. Số từ
phong phú này càng trở nên phong phú hơn bơi vì Nguyễn Du có nhiều biện pháp
phát triển thêm vốn từ như: Phát triển các từ nhiều nghĩa, đồng nghĩa.
* Ða dạng về lớp từ.
Nguyễn Du sử dụng nhiều lớp từ, đáng chú ý nhất là hai lớp từ:
Nguồn khẩu ngữ: Bao gồm cả thành ngữ và tục ngữ, ca dao, ngôn ngữ lấy trong
đời sống hàng ngày của nhân dân. Nhà thơ đã sử dụng vốn từ này một cách biến hóa
và có nâng cao rõ rệt.
Nguồn bác học: Từ Hán-Việt, điển tích, điển cố.
Tác giả đã dùng nhiều từ Hán-Việt, thành ngữ, tục ngữ Hán-Việt một cách đúng
lúc, đúng chỗ có chọn lọc nên chúng không cầu kỳ, khó hiểu. Từ gốc Hán- Việt
Trường THCS Yªn L¹c
14
Sáng kiến kinh nghiệm
NguyÔn H÷u Hïng
chiếm tỉ lệ 35% của ngôn ngữ Truyện Kiều thế nhưng ông đã góp phần Việt hóa từ
gốc Hán bằng cách dịch ra tiếng Việt.
Truyện Kiều còn có thứ ngôn ngữ nhóm tức là thứ ngôn ngữ nghề nghiệp chẳng
hạn ngôn ngữ của bọn buôn thịt bán người.
Tóm lại: Vốn từ phong phú và đa dạng nói trên đã giúp Nguyễn Du dựng lại một
bức tranh xã hội rộng lớn, phức tạp với nhiều hạng người khác nhau. Nhờ có vốn từ
phong phú nên tình huống dù có phức tạp đến mấy ông cũng tìm được cách nói hay
nhất, trúng nhất.
b. Ngôn ngữ Truyện Kiều trong sáng; giàu hình ảnh; giàu sức gợi, truyền cảm.
Câu thơ tả cảnh mùa thu:
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng.
Hai câu thơ rất trong sáng, hàm súc và giàu hình ảnh. Ngôn ngữ của chúg là ngôn
ngữ thuần Việt, chỉ riêng từ thành" là từ Hán Việt nhưng đã được sử dụng nhiều lần
và trở nên quen thuộc. Qua hai câu thơ, người đọc có thể hình dung được một làn
nước thu trong vắt, hình dung được một cảnh có đường nét, có cảnh vật xa gần. Ở
đây tả cảnh là để nói tình, cảnh được nhìn qua đôi mắt của Thúc Sinh khi trên con
đường trở về với Kiều sau một chuỗi ngày dài sống nặng nề vơi Hoạn Thư.
c. Ngôn ngữ Truyện Kiều điêu luyện được sử dụng một cách cân nhắc có chọn
lựa
Ngôn ngữ của Thúy Kiều khi trao duyên cho em là Thúy Vân:
Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Cậy em, em có chịu lời, câu thơ giản dị nhưng lại chứa cả một khối tâm sự của
nhân vật. Kiều phải nói cậy mà không nói nhờ, mượn (ba từ này cùng nghĩa nhưng
khác nhau về mức độ và sắc thái biểu cảm. Cậy là nhờ với tất cả sự tha thiết và biết
ơn). Bởi vì câu chuyện mà nàng sắp cậy đây là một sự gửi gắm, ký thác tâm hyết của
một người sắp phải đi xa và không bao giờ trở lại (cho nên có thể coi đây là những
lời trăng trối). Việc Kiều nhờ có liên quan đến tương lai và hạnh phúc của Vân. Tình
yêu đối với Kim Trọng được nàng coi là lý tưởng, là mơ ưóc, là thiêng liêng nhưng
đối với Vân chắc gì đã vậy. Cho nên Kiều phải nói chịu Kiều nói chịu chứ không
nói nhận bởi chịu bao hàm ý thiệt thòi tức Vân nhận sự hy sinh về mình. Ở đây nàng
đã đứng về phía Thúy Vân để Vân nhìn nhận vấn đề. Vả lại hai từ cậy, chịu chúng
nói lên cái thiết tha, mong mỏi cuối cùng của Kiều, chúng phù hợp về lòng vị tha và
biểu hiện sự tinh tế trong tâm hồn và trên hết chúng lột tả được hoàn cảnh bi kịch của
nàng.
Nguyễn Du còn có tài sử dụng các hư từ như các liên từ trong các câu phức hợp,
chẳng hạn từ mà: Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Từ “mà” này chỉ mối quan hệ vừa là nhân quả vừa là mâu thuẫn vừa là sự thừa
tiếp về mặt thời gian, vừa giữ vai trò nhịp điệu câu thơ.
Nguyễn Du sử dụng quan hệ hô ứng trong lặp: Dù.. .chẳng; Mà.. thì.
d.Cú pháp câu thơ Truyện Kiều cũng mang tính chất thơ ca rõ rệt
Câu thơ trong Truyện Kiều mang tính chất câu đối của cú pháp tiếng Việt và
Nguyễn Du đã phát huy cao độ tính chất này bằng việc sử dụng những hình thức đối
Trường THCS Yªn L¹c
15
Sáng kiến kinh nghiệm
NguyÔn H÷u Hïng
ngắn trong nội bộ câu 6 cũng như câu 8. (Lê Trí Viễn đã thống kê hình thức đối ngẫu
trong cau 6 có 10 dạng, trong câu 8 có đến 20 dạng).
Nguyễn Du có cách ngắt nhịp rất biến hóa. Ví dụ:
Nửa chừng xuân/ thoắt gãy cành thiên hương.
Ðã tu/ tu trót/ quá thì/ thì thôi.
Nguyễn Du còn sử dụng còn sử dụng nhiều lối tạo câu mang màu sắc tu từ rõ rệt.
Chẳng hạn đảo trạng ngữ lên trước danh từ: Ào ào đổ lộc rung cây
hoặc đảo định ngữ trước danh từ: Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang.
Câu cảm thán và nghi vấn tu từ có rất nhiều trong Truyện Kiều, nhiều nhất là
đoạn diễn tả tâm trạng Thúy Kiều trong đêm tái hợp, mục đích là xoáy sâu vào nỗi
đau đớn của nàng: Nghĩ mình chẳng thẹn mình sao?
Trong các câu thơ Truyện Kiều có hầu hết các kiểu câu hiện đại, hoặc mầm mống
của các câu hiện đại cho nên ngôn ngữ của Truyện Kiều rất gần với ngôn ngữ hiện
đại.
Tóm lại, từ các nguồn khẩu ngữ, ngôn ngữ văn học dân tộc, ngôn ngữ nước ngoài
Nguyễn Du đã tiến hành chọn lọc, thâu tóm những tinh hoa, xây dựng được những
hình thái, lời nói tiêu biểu; cung cấp những mẫu mực cho ngôn ngữ văn học dân tộc
về nhiều mặt. Ðó là một sự đóng góp rất lớn lao. Thành tựu về nghệ thuật ngôn ngữ
của Nguyễn Du trước hết được cắt nghĩa với sự phát triển của ngôn ngữ dân tộc
trong thế kỷ XVIII đặc biệt với ngôn ngữ thơ ca. Mặt khác đứng về chủ thể sáng tạo
mà nói nhà thơ đã tiếp thu và vận dụng có sáng tạo vốn văn chương bác học của dân
tộc và Trung Quốc theo hai hướng dân tộc hóa và quần chúng hóa.
2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Ðây là khâu trung tâm của nghệ thuật tiểu thuyết nhưng là chỗ non yếu nhất của
văn học đương thời. Nguyễn Du đã đột phá từ khâu yếu này và đã có sự đóng góp
lớn lao vào nền văn học đương thời.
a. Nguyễn Du chú ý cá thể hóa nhân vật của mình.
Nhân vật trong Truyện Kiều nói chung là sinh động, có sức sống lâu bền là nhờ
ông đã cá thể hóa nhân vật bằng ba biện pháp sau đây: Miêu tả ngoại hình, ngôn ngữ
nhân vật, hành động nhân vật.
* Ngoại hình nhân vật
Ngoại hình nhân vật trong Truyện Kiều bao giờ cũng cốt ý biểu hiện thế giới nội
tâm nhân vật (so với văn học đương thời đây là nét mới). Tất nhiên trong việc miêu
tả ngoại hình nhân vật có lúc tác giả vẫn chưa thoát khỏi được khuôn sáo, ước lệ
(Kiều, Kim Trọng là tiêu biểu nhất). Nhưng bước đầu ông đã hé mở cho người đọc
thấy được những đặc điểm bên trong của nhân vật (về phương diện này nhân vật
phản diện có nhiều đóng góp hơn).
Miêu tả ngoại hình nhưng Nguyễn Du không tả tỷ mỷ mà chỉ khắc họa những nét
nổi bật nhất, nắm đúng cái thần của nhân vật.
Ví dụ:
+ Tú Bà, chủ nhà chứa vốn xuất thân từ gái làng chơi cho nên có màu da nhờn
nhợt, có thân hình phì nộn đến kinh tởm.
Trường THCS Yªn L¹c
16
Sáng kiến kinh nghiệm
NguyÔn H÷u Hïng
+ Mã Giám Sinh: vốn là học sinh của trường Quốc Tử Giám, đóng vai chồng hờ
để đi mua gái cho nên hắn phải có ngoại hình mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.
* Ngôn ngữ nhân vật
Ngôn ngữ nhân vật là một yếu tố quan trọng giúp ta xác định tính cách nhân vật
bởi lời ăn tiếng nói luôn phản ánh con người thực hơn những cái khác. Nguyễn Du
đã cho mỗi nhân vật của mình một thứ ngôn ngữ một thứ ngôn ngữ riêng, phù hợp
với bản chất, tâm lý, tính cách của nhân vật, ngôn ngữ của nhân vật này không thể
dùng cho nhân vật khác.
Ví dụ:
+ Ngôn ngữ của Sở Khanh, tên ma cô dắt gái xưa vốn là một học trò (biết họa
vần) là thứ ngôn ngữ có tính chất phóng đại, nói nhiều:
Rằng: ta có ngựa truy phong
Có tên dưới trướng vốn dòng kiện nhi
Thừa cơ lên bước ra đi,
Ba mươi sáu chước, chước gì là hơn.
+ Mã Giám Sinh: Dè dặt, giọng nhát gừng, gỏn lọn:
Rằng: Mua ngọc đến Lam Kiều
Sinh nghi xin dạy bao nhiêu cho tường...
* Hành động nhân vật.
Nguyễn Du chú ý tới phương diện làm gì, làm như thế nào của nhân vật: Tác giả
chú ý tới phương diện cá thể hóa nhân vật. Ông đã thu xếp cho Mã Giám Sinh, Tú
Bà, Hoạn Thư mỗi nhân vật một cách ngồi. Qua các cách ngồi ấy người ta biết được
địa vị giai cấp và tính cách của chúng (Tú Bà ngồi vắt nóc, Mã Giám Sinh ngồi tót,
Hoạn Bà ngồi trên...)
b. Nguyễn Du đi sâu miêu tả nội tâm, tâm lý nhân vật.
Nhà thơ thường miêu tả cảnh vật để qua đó thể hiện nội tâm nhân vật. Về điểm
này ông đã kế thừa Chinh phụ ngâm.
Ðoạn tiêu biểu nhất là đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích. Tâm trạng của nàng đầy
phức tạp. Tác giả tập trung tả cảnh lầu Ngưng Bích để khắc họa tâm trạng Kiều lúc
này:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Buồm ai thấp thoáng cách buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ dàu dàu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Ðây là một cảnh có nhiều tầng, nhiều lớp được dựng lên như một tòa thành sầu
vây hãm con người nạn nhân. Cái buồn của Kiều không chỉ toát lên từ điệp từ buồn
trông kéo dài như một khúc nhạc sầu trùm lên cả đoạn thơ mà nó thấm vào từng chữ,
từng dòng. Trong bức tranh thiên nhiên đó ta còn bắt gặp một không gian sâu thẳm,
vời vợi, một không gian có chiều dài như một dòng sông, chiều rộng mênh mang của
mặt nước, chân mây dính liền với màu xanh vô tận của đất trời.
Trường THCS Yªn L¹c
17
Sáng kiến kinh nghiệm
NguyÔn H÷u Hïng
Ở đây như có cái gì ngơ ngác, bàng hoàng của một con người khi nhận thấy đời
mình thay đổi quá nhanh chóng.
Kiều muốn tìm kiếm một cái gì đó, hay một con người trong không gian mịt mù
đó nhưng không có gì ngoài cánh buồm xa xa, ngoài hoa trôi man mác biết là về
đâu. Có cái gì bấp bênh, vô định trong hình tượng thuyền hay hoa ấy. Ðó phải chăng
là cuộc đời nàng Kiều đang vô định, bấp bênh. Chứng kiến cảnh ấy thì đến đám cỏ
nội cũng phải dàu dàu như buồn như lo cho thuyền, cho hoa; thuyền mong manh xa
bến, hoa biết về đâu.
Sống giữa không gian mênh mông xa vắng đó Thúy Kiều bỗng thấy sóng gió nổi
lên thật mạnh làm nàng hãi hùng và lo sợ. Âm thanh gầm thét như muốn nuốt chửng
con người bé nhỏ, đơn độc này. Từ kêu chứa đựng cái gì đó bí hiểm. Phải chăng đây
là tiếng kêu cứu của nạn nhân và tiếng kêu xót thương của tác giả? Có biết hết
nghịch cảnh của đời Kiều, tâm sự của nàng bây giờ ta mới cắt nghĩa được tại sao một
cô gái thông minh như vậy lại nhanh chóng ngả theo lời lừa gạt sáo rỗng của Sở
Khanh. Nàng đang hốt hoảng, lo sợ không còn bình tĩnh được nữa(Kiều giống như
một người sắp chết đuối vớ phải bọt bể để rồi rơi nhanh hơn nữa vào vũng bùn của
xã hội phong kiến.
c. Nguyễn Du chú ý đến sự phát triển tính cách của nhân vật
Rõ nhất là ở nhân vật Thúy Kiều, tính cách của Kiều là một tính cách động. Càng
về sau Kiều càng trở nên già dặn, khôn ngoan hơn trong cuộc sống, lòng tin ở định
mệnh cũng nặng nề hơn, cái buồn đen tối cũng ngày càng dằng dặc hơn. Trong khi
đó ngọn lửa ham sống yêu đời thiết tha, sôi nổi lúc đầu lại dần dần bị mưa gió, bão
táp của cuộc đời làm cho tàn lụi dần đi.
Tóm lại, về phương diện xây dựng nhân vật Nguyễn Du có kế thừa truyền thống,
kế thừa văn học nước ngoài một cách có sáng tạo và nâng cao rõ rệt.
VẬN DỤNG
Đề bài 1:
Phân tích những thành công về nghệ thuật miêu tả, khắc họa nhân vật của
thi hào Nguyễn Du qua các đoạn trích “ Truyện Kiều”.
A.Phân tích đề
1.Xác định kiểu bài: Phân tích + Chứng minh
2. Nội dung: Nghệ thuật miêu tả , khắc họa nhân vật của Nguyễn Du
3. Tư liệu : Các đoạn trích trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du
(Chị em Thúy Kiều ; Mã Giám Sinh mua Kiều ; Kiều ở lầu Ngưng Bích; Thúy Kiều
báo ân, báo oán )
B. Lập dàn ý:
I. Mở bài:
Dẫn dắt và đưa được vấn đề nghị luận – thành công về nghệ thuật miêu tả
nhân vật của Nguyễn Du qua các đoạn trích Truyện Kiều.
II. Thân bài:
1. Những đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả, khắc họa nhân vật:
Trường THCS Yªn L¹c
18
Sáng kiến kinh nghiệm
NguyÔn H÷u Hïng
+ Nguyễn Du đã xây dựng thành công cả nhân vật chính diện và phản diện, với bút
pháp riêng biệt:
- Khắc họa chân dung nhân vật chính diện ( Thúy Kiều, Thúy Vân) bằng bút pháp
ước lệ, tượng trưng mẫu mực, độc đáo.
Phân tích, chứng minh qua Chị em Thúy Kiều: Qua các từ ngữ ước lệ (khuôn trăng,
nét ngài), qua điển cố , điển tích (một hai nghiêng nước
nghiêng thành), qua các hình ảnh thiên nhiên mĩ lệ (làn thu thuỷ, nét xuân sơn), qua
các biện pháp tu từ truyền thống dày đặc như ẩn dụ (hoa cười, ngọt thốt), so sánh
(mây thua, tuyết nhường), đối (3/3, 4/4, 2/2), qua cách bố cục cân đối giữa tả chung,
tả riêng lại tả chung… Nguyễn Du đã khắc hoạ thành công chân dung của hai Kiều.
Tuy cùng là tuyệt sắc giai nhân nhưng lại không giống nhau .
Thúy Vân có vẻ đẹp tươi tắn, đoan trang, phúc hậu. vẻ đẹp như dự báo trước số phận
yên bỉnh của nàng sau này.
Thúy Kiều đã đẹp sắc sảo mặn mà, lại còn có tài năng điêu luyện đủ cả cầm, kì, thi,
họa theo đúng quan niệm thẩm mĩ phong kiến. Nàng là một cô gái có tâm hồn phong
phú, sâu sắc, nhạy cảm.Tài sắc nghiêng nước nghiêng thành… như dự báo tương lai
đau khổ bất hạnh về số phận của nàng.
- Khắc họa tính cách nhân vật phản diện qua miêu tả ngoại hình, ngôn ngữ, cử chỉ,
hành động một cách cụ thể, chi tiết (phân tích, chứng minh qua Mã Giám Sinh mua
Kiều).
Mã Giám sinh là nhân vật phản diện, thuộc tâng lớp lưu manh buôn thịt bán người,
được khắc họa bằng bút pháp tả thực thành công nhất. Hắn là một con buôn lọc lõi
và đê tiện, giả danh một giám sinh đi hỏi vợ. Về tính danh, tung tích mập mờ. Diện
mạo trai lơ. Ngôn ngữ cộc lốc, hành động thô bỉ, xấc xược, vô lễ, ti tiện. Hắn lạnh
lùng vô cảm trước những đau khổ của con người. Người đọc sẽ nhớ mãi chân dung
tên lái buôn họ Mã với những chi tiết đắt giá.
+ Miêu tả nội tâm nhân vật qua ngôn ngữ độc thoại và nghệ thuật tả cảnh ngụ
tình( phân tích, chứng minh qua Kiều ở lầu Ngưng Bích ).
Đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Nghệ
thuật tả cảnh ngụ tình tuyệt diệu của thi hào trong đoạn thơ cho ta cảm nhận sâu sắc
nỗi buồn tủi, cô đơn, lo sợ… của nàng Kiều trước ngoại cảnh rộng lớn, heo hút, mịt
mờ… Những lời độc thoại nội tâm biểu lộ nỗi nhớ thương da diết của Kiều trong
cảnh “bên trời góc bể bơ vơ ”. Tình cảm thương nhớ người yêu, thương xót cha mẹ
càng làm rõ đức hạnh , thủy chung , hiếu thảo, vị tha của nàng.
+ Khắc họa tính cách nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại qua Thúy Kiều báo ân báo
oán .
Qua lời Kiều nói với Thúc Sinh cho thấy nàng là người trọng ân nghĩa. Qua lời Kiều
nói với Hoạn Thư cho thấy nàng là người sắc xảo, bao dung. Những lời Kiều nói với
Thúc Sinh, Hoạn Thư cho thấy nàng là người nặng tình nặng nghĩa, vị tha cao cả
Lời đối đáp của Hoạn Thư bộc lộ rõ tính cách“khôn ngoan”, “quỷ quái tinh ma”
của nhân vật này, mụ đã khôn khéo để kịp thoát tội.
2. Đánh giá chung:
Trường THCS Yªn L¹c
19
Sỏng kin kinh nghim
Nguyễn Hữu Hùng
- Thỳy Võn, Thỳy Kiu, nhng nhõn vt chớnh din khỏc nh T Hi, Kim Trng
u c Nguyn Du tụn vinh v c khc ha bng bỳt phỏp c l c in. H l
nhng nhõn vt lớ tng, c mụ t vi nhng chi tit chn lc, ngụn ng trang
trng phự hp vi cm hng tụn vinh, ngng m trõn trng con ngi. L nột ch
o lm nờn chu ngha nhõn o trung i.
- Nhõn vt phn din nh Mó Giỏm Sinh cng nh S Khanh, Tỳ B, H Tụn Hin
c khc ha bng bỳt phỏp t thc, ngụn ng trc din. Tuyn nhõn vt ny gn
vi thỏi phờ phỏn, t cỏo xó hi, to nờn cm hng hin thc ca Nguyn Du.
- Tụn trng truyn thng ngh thut trung i nhng Nguyn Du cng in du n cỏ
nhõn in m trong vic khc ha chõn dung tng nhõn vt. Mi nhõn vt u cú in
hỡnh riờng rt sng ng, tht hn c ngi tht. Chớnh vỡ vy ngi ta thng
núi: ti sc nh Thỳy Kiu, ghen nh Hon Th, trỏo tr nh S Khanh
- Qua khc ha chõn dung m th hin tớnh cỏch, t cỏch nhõn vt cựng cm hng
nhõn vn nhõn o ca Nguyn Du trc cuc i v con ngi.
III. Kt bi:
Khng nh v ý ngha, tỏc dng ca vn
* Yờu cu v k nng:
- Hc sinh nhn thc ỳng yờu cu ca v kiu bi, ni dung, gii hn.
- Bit cỏch lm bi ngh lun vn hc: b cc rừ rng, lp lun cht ch; din t
trong sỏng, biu cm; khụng mc li chớnh t, dựng t, vit cõu.
* Yờu cu v kin thc:
Trờn c s nm vng cỏc trớch on Truyn Kiu ó hc, hc sinh cn phõn tớch
lm ni bt c nhng thnh cụng v ngh thut ca Nguyn Du qua cỏc on th
ú.
Hc sinh cú th trỡnh by theo nhiu cỏch khỏc nhau nhng phi bỏm sỏt yờu cu
ca l nờu bt c nhng thnh cụng v ngh thut miờu t, khc ha nhõn vt
ca thi ho Nguyn Du qua cỏc on trớch Truyn Kiu ó hc (nu lc sang phõn
tớch nhõn vt thỡ tr na s im). Nờn gi tờn tng on trớch v c sc t ngi
ni bt, sau ú m rng.
bi 2:
Nhận định về giá trị t tởng trong sáng tác của thi hào Nguyễn Du, có ý kiến
cho rằng:
Nguyễn Du là một con ngời suốt đời khắc khoải về con ngời, về lẽ đời.
( Nguyễn Du toàn tập - Mai Quốc Liên, NXB Văn học, H.1996)
Hãy chọn phân tích một hoặc một số tác phẩm của Nguyễn Du làm sáng tỏ
nhận định trên.
A.Phõn tớch
1.Xỏc nh kiu bi: Phõn tớch + Chng minh
2. Ni dung: T tng nhõn o trong cỏc sỏng tỏc ca Nguyn Du c bit l
Truyn Kiu
3. T liu : - Cỏc on trớch trong Truyn Kiu ca Nguyn Du
(Ch em Thỳy Kiu ; Mó Giỏm Sinh mua Kiu ; Kiu lu Ngng Bớch; Thỳy Kiu
bỏo õn, bỏo oỏn )
Trng THCS Yên Lạc
20
Sỏng kin kinh nghim
Nguyễn Hữu Hùng
-Cú th l cỏc tỏc phm ca Nguyn Du.
B. Lp dn ý:
I. M bi:
- Dn dt v a c vn ngh lun : T tng nhõn o trong cỏc sỏng tỏc
ca Nguyn Du c bit l Truyn Kiu
- Dn li ý kin ca Mai Quc Liờn
II. Thõn bi:
1 - Giải thích nhận định:
- õy l nhn xột v t tng ca Nguyn Du trong tỏc phm ca ụng.
- Ni dung nhn xột: Nh th luụn hng v cuc i , s phn con ngi , nhng
ngi cựng kh c bit l ngi ph n . Nguyn Du th hin cao s trõn trng ,
yờu thng vi tng nhõn vt , dnh trn tõm huyt i tỡm li gii ỏp cho s phn
ca mi con ngi.Vỡ th ụng ó vit nhng trang th, vn, thm m s khc khoi
v nhõn tỡnh, th thỏi v cú ý kin cho rng : Quyn Kiu thm l ngi vit nú v
ngi c nú . ú l cỏi Tõm ca ngi ngh s thiờn ti Nguyn Du
- C s t tng :
Vn thuc tng lp quý tc nhng Nguyn Du tng tri nhng cnh i c cc nht
(Mi nm phiờu bt trờn t Bc v sỏu nm n dt ni quờ nh ) nờn ụng hiu sõu
sc i sng trong xó hi. ễng c bit quan tõm n tng lp bỡnh dõn, nhng con
ngi cựng kh trong xó hi phong kin ang suy tn lỳc by gi.
ễng cú ụi mt nhỡn thu hiu cuc i v trỏi tim yờu thng ó giỳp Nguyn Du
cú quan im nhõn vn sõu sc bao trựm trong ton b cỏc sỏng tỏc ca mỡnh.
Nm tri nhiu ni c cc, nh th luụn day dt, bn khon mun tỡm li gii cho s
phn con ngi trc cuc i dõu b, trm luõn.
2. Phần phân tích chứng minh ý kiến:
Hc sinh cú th chn mt hay mt s tỏc phm tiờu biu ca Nguyn Du lm
sỏng t nhng vn
- Cỏc sỏng tỏc ca Nguyn Du u th hin s yờu thng v cm thụng sõu
sc vi nhng con ngi au kh: Bi kch ti sc, Thỳy Kiu phi t b tỡnh yờu
trong sỏng dn thõn vo ti li, lu lc v ti hn, cụ n v bt hnh. Nng Tiu
Thanh tr p, ti hoa cht trong cụ n v ti hn. Nhng ngi ca n, k n, nhng
em bộ, nhng hnh kht sng ó c cc, vong hn vt vng trong Vn chiờu
hn. gi ni au nhõn tỡnh sõu sc .
- Cỏc sỏng tỏc ca ụng u ca ngi v tin tng nhng con ngi mang v p
tng trng cho ti sc v o c nhõn cỏch con ngi . cao m c cuc sng
t do, cụng bng. Nhõn vt ca Nguyn Du trong hon cnh no cng ý thc v nhõn
cỏch , khỏt khao vn lờn tỡm li s trong sỏng ca lng tõm . Nhõn vt T Hi
khi dy nim tin v gic m cụng lý v t do trong xó hi phong kin gian ỏc. Tinh
yờu thy chung v sõu sc Kim Kiu tan v ri sum hp li du n tt p trong
lũng c gi.
- Vấn đề nhân sinh đặt ra trong những bức tranh hiện thực xã hội phong kiến
thối nát, thế lực đồng tiền, bộ mặt giai cấp thống trị và tay sai, bản chất đê tiện của
bọn lu manh. Tất cả các thế lực ấy đã vùi dập con ngời và ớc mơ của họ. Nhà thơ cố
gắng đa ngời đọc đi tìm lời giải đáp ngọn nguồn bi kịch và câu hỏi lớn đó vẫn làm
ông khổ đau, day dứt, trăn trở suốt cuộc đời.
III. Kt bi:
Trng THCS Yên Lạc
21
Sáng kiến kinh nghiệm
NguyÔn H÷u Hïng
- Khẳng định vấn đề: Tư tưởng nhân đạo nó thấm nhuần sâu sắc trong sáng tác
của Nguyễn Du.
- Cùng với tài năng nghệ thuật bậc thầy của người nghệ sĩ làng Tiên Điền, tư
tưởng nhân đạo đã làm nên sức sống lâu bền trong các tác phẩm của ông.
PhÇn KÕt luËn
Xét về cả hai mặt nội dung và nghệ thuật Truyện Kiều xứng đáng là tác phẩm ưu
tú nhất của văn học Việt Nam trong quá khứ.
Truyện Kiều còn có hạn chế về cả nội dung lẫn nghệ thuật nhưng phần đóng góp
của Nguyễn Du là hết sức to lớn và là phần chủ yếu. Tác phẩm không phải là sáng
tác của một cá nhân mà là tập đại thành của truyền thống văn học dân tộc, là kết tinh
của một giai đoạn phát triển rực rỡ của nền văn học dân tộc.
Cho đến ngày nay Truyện Kiều không chỉ có giá trị lịch sử mà còn có giá trị thực
tế bởi tiếng kêu thương tâm của nàng Kiều trong xã hội cũ và những ước mơ tốt đẹp
của Nguyễn Du đang thúc giục chúng ta trên bước đường cách mạng xây dựng Tổ
quốc đem lại cuộc sống hạnh phúc, no ấm cho con người. Ngoài ra Truyện Kiều còn
có giá trị bồi dưỡng thẩm mĩ cho chúng ta và góp phần to lớn về phương diện lý luận
văn học.
Vì quá yêu, say mê Truyện Kiều của Nguyễn Du nên tôi mạnh dạn trình bày một
vài suy nghĩ của mình về khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật cuả Truyện
Kiều tất yếu có chỗ chưa thỏa đáng . Với tinh thần khoa học và tình yêu thương con
người chân thành, đằm thắm, rất mong các đồng nghiệp bổ khuyết cho đề tài bớt đi
phần thiếu sót.
Yên Lạc ngày 01 tháng 12 năm 2011
Người viết đề tài
Nguyễn Hữu Hùng
Trường THCS Yªn L¹c
22