Lăng Khải Định
Theo quan niệm sống gửi thác về của nhà nho và triết lý vô thường của nhà
phật, cuộc sống ở trần gian chỉ là tạm thời, khi thác về thế giới bên kia mới là cuộc
sống thực.Vì thế người Việt Nam từ xa xưa đã rất coi trọng nơi yên nghỉ của mình.
Những lăng mộ của các vị vua triều nguyễn vì thế đã trở thành những công trình
kiến trúc độc đáo, đặc sắc về nghệ thuật cũng như ghi lại dấu ấn của cả 1 giai đoạn
lịch sử. Qua đó phản ánh được tính cách cũng như quan niệm thẩm mỹ của từng
người.Vua Khải Định vị vua thứ 12 của triều nguyễn. Là người cuối cùng cho xây
dựng lăng tẩm chuẩn bị cho sự ra đi của mình. Bước lên ngai vàng giữa tuổi 31,
Khải Ðịnh say sưa với việc xây dựng nơi đặc biệt này cho bản thân. Cho đến nay
Ứng Lăng được xem là một trong số điểm thu hút khách du lịch tại Huế. Lăng
Khải Ðịnh được khởi công xây dựng từ ngày 4/9/1920 và kéo dài trong 11 năm
mới hoàn tất. Ðể có kinh phí xây dựng lăng, vua Khải Ðịnh đã xin chính phủ bảo
hộ cho phép tăng thuế Ðiền lên 30% trên cả nước và lấy số tiền đó để làm lăng.
Kết quả của ngôi lăng này là tốn kém rất nhiều tiền của và công sức người nông
dân lúc bấy giờ. Nói đến lăng Khải Định người ta sẽ nghĩ ngay đến câu thơ:
“Châu ê ơi hỡi châu ê,
Khi đi thì có khi về thì không”.
Có nghĩa là khi lên đây làm việc dân binh chết chóc rất nhiều. Hành động này
của Khải Ðịnh đã bị lịch sử lên án gay gắt.
Lăng Khải Định có diện tích nhỏ nhưng rất lộng lẫy và hoành tráng; kết hợp
hài hoà tinh tế của hai nền kiến trúc, văn hoá Đông - Tây. Có lẽ chính vì vậy mà
lăng Khải Định có cái lạ, có phần ngông nghênh, phô trương và độc đáo so với
các công trình kiến trúc truyền thống của Việt Nam. Vào lăng phải vượt qua hệ
thống của 37 bậc với thành bậc đắp rồng to lớn nhất cả nước, trên sân có hai dãy
Tả - Hữu tùng tự. Vượt 29 bậc nữa lên tầng sân chầu, ở giữa có nhà bia Bát giác
xây bê tông cốt thép hoà trộn cổ kim, trong đó có bia đá. Hai bên sân, mỗi bên có
2 hàng tượng cùng nhìn vào giữa sân. Ngoài tượng như ở các lăng khác, còn có
thêm 6 cặp tượng linh túc vệ, từng đôi tượng cùng loại ở cạnh nhau được làm đối
xứng và cùng đối xứng với đôi tượng phía đối diện. Các tượng này làm bằng chất
liệu đá hiếm trong lăng Khải Ðịnh và đều có khí sắc. Hai cột trụ biểu cao to. Qua 3
lớp nền là đến điện thờ. Từ sân lên cửa điện còn phải qua 15 bậc nữa. Toàn bộ nội
thất trong cung chính của lăng đều được trang trí những phù điêu ghép bằng sành
sứ và thủy tinh.Cung Thiên Định là một công trình gồm 5 phần liền nhau: hai bên
là Tả, Hữu Trực phòng đây là nơi dành cho lính hộ lăng, phía trước là điện Khải
Thành – là nơi để án thờ và chân dung vua Khải Định, chính giữa là Bửu tán đặt
pho tượng nhà vua, trong cùng là khám thờ với bài vị của vua Khải Định.
Vua Khải Định (1885-1925) tên thật là Nguyễn Phúc Bửu Đảo, sau đổi tên là
Nguyễn Phúc Tuấn, con vua Đồng Khánh và bà Dương Thị Thục. Ông là vị vua
-1-
Lăng Khải Định
thứ 12 của triều đại nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, ở ngôi từ năm 1916 đến
năm 1925.
Vua Khải Định
Năm 1889, Vua Đồng Khánh băng hà, Hoàng tử Bửu Đảo còn nhỏ tuổi nên
không được kế vị. Nǎm 1906, Hoàng tử Bửu Đảo được phong là Phụng Hóa công.
Ông là người mê cờ bạc, thường xuyên bị thua, có khi phải cầm bán cả những đồ
dùng và những người hầu hạ. Bửu Đảo còn bắt vợ mình về xin tiền bố mẹ gán nợ
để đánh bạc tiếp. Ông tự sáng chế ra những bộ y phục mới cho mình và cho cả
quan hộ vệ. Ông còn rất chuộng trang điểm, ăn mặc lòe loẹt, không tuân theo y
phục hoàng bào truyền thống của các Hoàng đế và thường bị đả kích trên báo chí
đương thời.
Lên ngôi vua, trước những gương của Thành Thái, Duy Tân, tất nhiên Khải
Định không dám có thái độ gì với người Pháp. Mọi quyền hành đều do Pháp nắm,
ông chẳng có chút quyền hạn nào. Khải Định kết thân với khâm sứ (Charles) Sáclơ để gởi gắm con mình (tức là Bảo Đại sau này) cho vợ chồng Sác-lơ dạy dỗ.
Ngày 20-5-1922, Khải Định sang Pháp dự hội chợ thuộc địa ở Mác-xây. Đây
là lần đầu tiên một ông vua triều Nguyễn ra nước ngoài. Chuyến đi công du của
Khải Định đã làm dấy lên nhiều hoạt động của người Việt Nam yêu nước nhằm
-2-
Lăng Khải Định
phản đối ông. Nhà chí sĩ Phan Chu Trinh đã gửi một bức thư dài vạch tội của ông,
thường gọi là thư Thất điều. Trong thư ấy, Phan Chu Trinh gọi thẳng là Bửu Đảo,
chứ không gọi là vua Khải Định. Tại Pháp, trên tờ báo Người cùng khổ, Nguyễn
Ái Quốc có một loạt bài chế giễu Khải Định và còn viết vở kịch: Con rồng tre,
diễn ở ngoại ô Paris, vạch rõ bản chất bù nhìn của Khải Định. Ở Pháp về tháng 9
nǎm 1924, Khải Định còn lo tổ chức lễ tứ tuần đại khánh rất lớn và vô cùng tốn
kém, bắt nhân dân khắp nơi gửi quà mừng. Sau lễ mừng thọ, ngân sách Nam triều
kiệt quệ, Khải Định cho tǎng thêm 30% thuế điền. Khải Định cũng không được
lòng dân chúng. Ở Huế nhân dân đã truyền tụng câu ca dao phổ biến về Khải
Định:
“Tiếng đồn Khải Định nịnh Tây
Nghề này thì lấy ông này tiên sư”
Về đời tư, vì bất lực, không có con nên Khải Định đã phải tìm cách sao cho
có được một đứa bé để nối dõi tông đường. Trường hợp bà Hoàng Thị Cúc sinh ra
Vĩnh Thụy đã là một cớ cho nhiều chuyện xôn xao đồn đại, trong hoàng tộc, làm
cho Khải Định phải đau đầu, song ông phải cắn rǎng chịu đựng. Đối với những bà
vợ, phải công nhận là Khải Định đã cố gắng giữ được ân tình. Bà vợ họ Trương
ngày xưa bị ông bắt về xin bố mẹ tiền, sống với ông không có hạnh phúc từ thuở
thiếu thời, ông vẫn giành cho cái chức Hoàng quý phi dù bà đã dứt tình đi tu. Bà
Hoàng Thị Cúc, dù xuất thân là con người dân dã, không được cưới hỏi một cách
đàng hoàng, đã sinh được Vĩnh Thụy, nên được ông giành cho tất cả quyền lợi, để
sau này thành bà Từ Cung, đóng vai trò mẫu nghi thiên hạ.
Theo quan niệm xưa “Thứ nhất dương cơ, thứ hai âm phần” bởi vậy việc xây
cất quan trọng sau cung điện là lăng mộ. Từ thời Lý trở về trước lăng tẩm các vua
chúa được xây đựng rất đơn giản. Thời Trấn, Lê về sau mỗi vị vua có một lăng
riêng, nhưng tẩm thì chung. Đến thời Nguyễn, các vua mới có lăng tẩm to thờ
riêng từng người.
Với quan niệm sống gửi thác về. lăng tẩm không phải chỉ là chốn mộ địa u
buồn mà là nơi họ trở về để sống cuộc sống muôn thở. Vì nhận định về sự sống và
cái chết như vậy, vị vua nào cũng nghĩ đến việc xây lăng tẩm cho mình. Trong
lăng tẩm của các vị vua triều Nguyễn người ta không hề gặp những hình ảnh gây
án tượng chết chóc, sợ hãi, lạnh lùng như vào viếng lăng “Minh thập tam lăng” ở
Trung Quốc, ngươi ta cũng không cảm thấy mình trở nên nhỏ bé khi đứng trước
những kim tự tháp đồ sộ của hoàng đế Ai Cập. Mà ở đây người ta bắt gặp những
hình ảnh quen thuộc, gần gũi bởi trong lăng trang trí vô số hoa văn và các chữ
“thọ”, “hỷ”, hình ảnh sông núi, chim muôn.
Các thầy địa lý phải mất hàng tháng hoặc hàng năm trời dò tìm long mạch để
có địa cuộc đại cát hội đủ các yếu tố minh đường huyền thủy, tiền án hậu chẩm,
sơn triều thủy tụ, tả thanh long hữu bạch hổ. Tả thanh long (rồng xanh ở bê trái) là
linh vật thiêng liêng, có tượng là hình rồng, màu xanh màu của hành Mộc ở
-3-
Lăng Khải Định
phương Đông, do đó tương ứng với mùa xuân.trong phong thủy, đại thanh long
tương ứng với dãy núi dài hoặc con sông dài. Thanh long hóa giải tiểu nhân
Hữu bạch hổ (hổ trắng ở bên phải) là linh vật thiêng liêng có tượng hình con
hổ, màu trắng, màu của hành kim ở phương tây, do đó tượng trưng cho mùa thu.
Trong phong thủy bạch hổ tương ứng với thế đất cao.
Tiền án hậu chẩm là núi án phía trước, núi gối phía sau. Minh đường huyền
thủy là chỗ thấp có nước hội tụ trước lăng.trước minh đường (một khoảng đất
trống trước nhà) tụ nước mắt là có phúc. Trước có sông, sau có núi, có thế tàng
phong tụ khí, địa hình cũng là trước thấp sau cao, trước có minh rộng lớn, sẽ
không có bệnh tật.
Địa thế lăng vua Khải Định Được tính toán xâu dựng rất kỹ lưỡng , vị trí các
ngọn núi đồi,khe suối xung quanh lăng đều ứng với các yếu tố phong thủy địa lý,
tạo nên một khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ.
Huyền cung (nơi đạt quan tài) phải đúng long mạch, có sinh khí. Mảnh đất tụ
được sinh khí thì ấm, không thì sẽ lạnh. Nếu chọn được nơi hội tụ tất cả các yếu tố
của nơi đặt huyền cung sẽ mang lại sự thịnh vượng, bình an.
Lựa chọn mảnh đất “mạch núi có sinh khí lưu động”. Đất là hữu hình, sinh
khí (long mạch) trong đất là vô hình, nhưng khi nhìn vào hình thế của đất có thể
nhận biết được đất có sinh khí hay không. Nếu nơi đó hơi lồi như mu con rùa, đầy
đặn, cỏ cây tươi tốt thì chọn đặt huyền cung.
Nơi xây lăng phải có “sa bao”. Sa bao tức là nơi đất có được núi bao bọc. Núi
bao bọc thì tụ khí, tụ được sinh khí, không làm tản sinh khí. Đất cao thì đồi núi ôm
lấy mà không bị khuyết, như vậy là đất lành.
Đặc biệt, đất để xây lăng cần được “ thủy bọc”. Thủy ở đây là dòng nước, hồ
ao, sông suối hoặc biển cả. Thủy là nguồn gốc của tiền tài, là ngoại khí của sinh
khí. Sinh thủy thì sẽ vượng .
Nếu đứng từ vị trí trung tâm của cố đô thì các khu lăng tẩm ở Huế đều nằm
về hướng Tây của kinh thành Huế, đó là biểu tượng “Thái dương tây hạ” mặt trời
lặn phía tây – chỉ việc băng hà của đấng chí tôn.
Mặc dù đã sẵn sàng tiếp nhận phong cách kiến trúc mới mẻ đến từ phương
Tây nhưng vua Khải Định vẫn giữ gìn tuân thủ truyền thống, ứng dụng phong thủy
vào việc xây lăng cho mình như các đời vua trước đã làm. Điều đó thể hiện qua
việc vua Khải Định sai các thầy địa lý cùng các quan chuyên trách đương thời
khảo sát kỹ lưỡng địa thế vá đặc điểm sơn thủy của nhiều nơi trong vùng Nam
sông Hương. Và họ đã tìm được thế đất nắm cách kinh thành Huế cách 10km về
phía Tây Nam, đó là sườn phía tây của một ngọn đồi thuộc ngọn núi Châu Chữ.
-4-
Lăng Khải Định
Núi có tên Châu Chữ mà theo Đại Nam nhất thống chí nằm về phía Tây Bắc của
huyện Hương Thủy, có một con suối kề cận từ phía Nam chảy về. Núi không cao
lắm song nằm giữa khung cảnh thiên nhiên thoáng đãng, có dòng nước uốn mình
qua chân núi, có các dãy đồi thấp nhô xa xa dưới tằm nhìn và một rừng cây xanh
bao bọc. Dưới chân đồi có khe Châu Ê chảy tứ trái qua phải làm “thủy tụ” gọi là
“minh đường”. Ở phía xa xa trước lăng ngay trên trục chính có một ngọn đồi thấp
dùng làm tiền án, hai bên là núi Chóp Vung và núi Kim Sơn ở trong tư thế tả thanh
long hữu bạch hổ. Lăng tựa lưng vào ngọn đồi cao được xem là hậu chẩm. Nhà
vua đổi tên núi Châu Chữ thành Ứng Sơn và gọi tên lăng theo tên núi là Ứng
lăng.
Núi đồi, khe suối của một vùng rộng lớn quanh lăng được dùng làm các yếu
tố phong thủy: tiền án hậu chẩm, tả thanh long hữu bạch hổ, minh đường thủy tụ
làm cho lăng Khải Định có một ngoại cảnh thiên nhiên hùng vĩ và tráng lệ.
Như vậy, các yếu tố sơn thủy kết hợp về mặt phong thủy kiến hà vua hài
lòng, chấp thuận và ra lệnh huy động hàng ngàn nhân công lên vùng núi Châu Chữ
nằm 1920 để phát quang mở đường, làm lộ ra dưới ánh nắng một cuộc đất nằm
nghiêng theo sườn núi, mà sau này lăng Khải Định tọa lạc ở đó.
Kiến trúc lăng Khải Định được người đời sau thường đặt ra ngoài dòng kiến
trúc truyền thống thời Nguyễn bởi cái mới, cái lạ, cái độc đáo, cái nghông nghênh,
… tạo ra từ phong cách kiến trúc.
Về tổng thể Ưng Lăng là mọt khối nổi hình chữ nhật, cao 127 bậc. Sự xâm
nhập của nhiều trường phái kiến trúc như: Ấn Độ Giáo, Phật Giáo, Roman…đã để
lại dấu ấn trên những công trên những công trình cụ thể.
-5-
Lăng Khải Định
Những trụ cổng hình tháp ảnh hưởng từ kiến trúc Ấn Độ. Hai hình trụ biểu
hình chóp mũi nhọn, ảnh hưởng từ kiến trúc Phật Giáo của Ấn Độ. Những hàng
rào có phần tương tự như những hàng rào của các giáo đường .Đây là những
đường nét kiến trúc chịu ảnh hưởng từ kiến trúc La Mã.
-6-
Lăng Khải Định
Ở giữa là bi đình hình bát giác xây bê tông cốt thép. Trong đó có những bia
đá những hàng cột bát giác và vòm cửa theo lối Roman biến thể.
Rõ ràng sự kết hợp của Ứng Lăng là sự kết hợp từ Đông sang Tây, giữa cổ
điển và hiện đại. Nó cho thấy quan điểm thẩm mỹ và tính cách khác biệt hoàn toàn
với các lăng tẩm của các vị vua khác.
Giá trị nghệ thuật của Ứng Lăng là ở phần trang trí nội thất cung Thiên Định,
được xây dựng công phu và tinh xảo. Toàn bộ nội thất trong cung đều được trang
trí những phù điêu ghép bằng sành sứ và thủy tinh. Đó là những bộ tranh tứ quý,
bát bửu, ngũ phú, bộ khay trà,…kể cả những vật dụng rất hiện đại như: đồng hồ
báo thức, vợt tennis, đèn dầu hỏa … cũng được trang trí nơi đây. Công trình gồm 5
phần liền nhau: Hai bên là tả ,hửu trực phòng dành cho lính hộ lăng; phía trước là
điện Khải Thành, nơi có án thờ và chân dung vua Khải Định; chính giũa là bửu
tán, ở phía dưới có pho tượng nhà vua nhà vua và mộ phần ở phía dưới; trong
cùng là khán thờ bài vị của vua.
Trong lăng còn có một bức tượng vua Khải Định đang đứng thể hiện rõ nét
sự kết hợp giữa nghệ thuật Âu và Á. Pho tượng này cao 1m60, cả về hình thức và
tạo hình đều giống như người thực, bên trong mặc long bào nhưng bên ngoài lại
khoác áo kiểu Tây. Tượng của một vị đại nam thiên tử nhưng lại có dáng như một
võ quan Pháp.
-7-
Lăng Khải Định
Người chịu trách nhiệm chính trong việc kiến tạo những tuyệt tác nghệ thuật trong
lăng Khải Định là nghệ nhân Phan Văn Tánh, tác giả của ba bức họa “Cửu Long
Ẩn Vân” lớn vào bậc nhất Việt Nam được trang trí trên trần của ba gian nhà giữa
trong cung Thiên Định.
Đi từ hướng suối Châu Ê chảy trước mặt lăng vào núi Châu Chữ sẽ thấy lăng
Khải Định hiện ra. Vào lăng phải vượt qua hệ thống của 37 bậc với thành bậc đắp
rồng to lớn nhất cả nước, trên sân có hai dãy Tả - Hữu tùng tự, ở hai bên xây kiểu
chồng diêm hai lớp, tám mái, song các vì kèo lại bằng xi măng cốt thép.Vượt 29
-8-
Lăng Khải Định
bậc nữa bước qua cửa tam quan là đến sân bái đình, cửa tam quan được làm bắng
sắt nhập ngoại từ Pháp sang. Sân bái đình thể hiện sự kết hợp độc đáo giữa các
tôn giáo. Như là phía trước có hai đóa hoa sen tượng trưng cho Phật giáo, hàng rào
la thành được thiết kế như một hệ thống các thánh giá tượng trưng cho Thiên
Chúa giáo. Ngoài ra, văn hóa Chăm pa còn được thể hiện rõ rệt qua cột stuba nằm
trên trụ biểu. Trụ biểu tượng trưng cho chế độ phong kiến, chế độ phong kiến
càng lớn mạnh thì trụ biểu càng to và cao nhưng trụ biểu này còn có sự kết hợp
của văn hóa Chăm pa vì mảnh đất này ngày xưa thuộc Châu Ô và Châu Rí của
Chăm pa.
Hai bên sân, mỗi bên có 2 hàng tượng cùng nhìn vào giữa sân. Ngoài tượng
như ở các lăng khác, còn có thêm 6 cặp tượng linh túc vệ (Khi vua còn sống thì
vua hay sử dụng Voi và Ngựa để đi thiết triều hay vi hành. Cho nên khi vua về
cõi vĩnh hằng voi và ngựa cũng đi theo nhà vua), từng đôi tượng cùng loại ở cạnh
nhau được làm đối xứng và cùng đối xứng với đôi tượng phía đối diện. (Thế giới
âm cũng như thế giới dương khi vua còn sống vua có người hầu thì khi vua mất đi
vua cũng phải có kẻ hầu người hạ). Tuy nhiên thì những cặp tượng quan văn,
quan võ này được đúc tương đối nhỏ vì ngày xưa theo thuyết "thiên, địa, nhân"
các vị tiên trên trời thì luôn to hơn người trần, và người âm thì nhỏ nhất.
Sân chầu tượng quan văn quan võ, voi ngựa chầu nhà vua, nhưng tượng này
không phải làm bằng đá như các lăng khác mà làm bằng xi măng giả đá. Khải
Định là ông vua rất sính ngoại, ông thích những nét đẹp hiện đại của văn hóa
phương Tây nên kiến trúc lăng kết hợp giữa Âu và Á, giữa cổ điển và hiện đại.
Ở giữa có nhà bia hình bát giác xây bê tông cốt thép hoà trộn cổ kim trong
đó có bia đá, với những hàng cột cũng hình bát giác, trên những hàng cột có khắc
-9-
Lăng Khải Định
hình rồng 5 ngón (chỉ dùng cho vua, còn quan thì chỉ có 3 hoặc 4 ngón) vòm cửa
hình bán cầu và thấp, các cửa sổ dày và nhỏ và vòm cửa theo lối Roman biến thể.
Khải Định lên ngôi năm 31 tuổi, và sau nhiều năm nghiên cứu phong thủy
tìm ra khu đất đẹp để sau này thác về, cuối cùng khi ở tuổi 36, ông bắt đầu cho
xây dựng lăng tẩm cho mình. Công cuộc xây dựng lăng này đang dang dở thì năm
41 tuổi nhà vua băng hà và việc xây lăng được cựu hoàng Bảo Đại - người con trai
duy nhất của Khải Định tiếp tục hoàn thành. Vậy là việc xây lăng cho Vua Khải
Định được kéo dài qua hai đời vua cha và con (1920-1931) Bia Khải Đức Thần
Công thường do người con viết về công đức của cha mình. Nhưng bài văn bia ở
đây lại được viết bằng chữ Hán, mà Vua Bảo Đại lại không giỏi chữ Hán bằng
chữ Pháp, vì từ nhỏ Bảo Đại được vua cha gửi sang Pháp học, nên bài văn này
không phải chính tay Bảo Đại viết mà do một ông quan cận thần viết. Bài văn bia
kể lại tất cả các công trình kiến trúc được xây dựng dưới quần thể lăng này, sau
đấy Vua Bảo Đại nêu lên tính cách và cuộc đời của vua cha.
Phía sau Bi Đình có một bức bình phong xây bằng xi măng cốt thép, ở ngoài
khảm sành sứ, ngọc, đá. Người ta đào một đường hầm ở dưới lòng đất từ bức bình
phong đến điện chính của lăng (nơi chôn cất nhà vua) là 30m. Sau khi nhà vua
băng hà, quan tài của vua được đưa vào bằng đường hầm ở dưới, sau đó người ta
bịt kín đường hầm. Có một điều đặc biệt Lăng Khải Định khác với nhiều lăng của
các vị vua triều trước, đó là, đối với các lăng của vua triều Nguyễn, thi hài nhà
vua nằm ở đâu đó trong lăng rất khó để xác định, nhưng riêng Lăng Khải Định
- 10 -
Lăng Khải Định
được định vị rõ ràng. Do tình hình lịch sử biến động khi Khải Định lên ngôi vua,
triều đình bị người Pháp thao túng. Nhất cử nhất động của nhà vua đều có ánh
mắt của quan thầy Pháp dõi theo, cũng chính vì thế mà đám tang của Vua Khải
Định có nhiều người nước ngoài đưa tiễn và vì thế thi hài của nhà vua chôn ở đâu
không còn là một điều bí mật như các vua đời trước.
Hiện nay dưới chỗ đặt bức tượng sâu 9m là nơi chôn cất thi hài của nhà vua.
Một điều đặc biệt là trên ngai vàng của nhà vua có một lọng che được làm bằng xi
măng cốt thép trọng lượng trên 1 tấn nhưng trông rất mềm mại, có cảm giác như
những cơn gió thổi có thể làm lọng che khẽ khàng lay động. Người thiết kế cũng
chính là ông Phan Văn Tánh, người vẽ bức “Cửu long ẩn vân”.
Cung Thiên Định là vị trí cao nhất là kiến trúc chính của lăng. Nơi mà tài hoa của
những người thợ khéo léo được phô diễn, gởi gắm. Với mặt bằng xây dựng 34,50m x
26,40m cung Thiên Định được chia làm 5 phần liền nhau.
Hai bên là Tả, Hữu trực phòng dành cho lính hộ tăng.
- 11 -
Lăng Khải Định
Phía trước là điện Khải Thành nơi có án thờ và chân dung vua Khải Định.
Chính giữu là Bửu Tán, pho tượng nhà vua ở trên và phần mộ ở phía dưới.
- 12 -
Lăng Khải Định
Trong cùng là khảm thờ bài vị của vua.
Toàn bộ nội thất của 3 gian giữa trong cung Thiên Định đều được trang trí bằng
những phù điêu được ghép bằng sành sứ và thủy tinh. Đó là những bộ tranh tứ quý, bát
bửu, ngũ phúc, bộ khay trà, vương miện… Kể cả những vật dụng rất hiện đại như: Đồng
hồ báo thức, vợt tenis, đèn dầu hỏa… Cũng được trang trí nơi đây. Những vật liệu cứng
biệt lập qua bàn tay khéo léo của nghệ nhân đã trở thành những tác phẩm nghệ thuật mềm
mại, sống động và vô cùng rực rỡ. Các vật liệu được dùng để trang trí chủ yếu là được
nhập từ nước ngoài như ở Chiết Giang (Trung Quốc) hay ở Tây Ban Nha, Nhật Bản, Bồ
Đào Nha. Khi nhìn vào mặt tiền của cung Thiên Định, chúng ta thấy những vế câu đối:
“Tứ diện hiếu kỳ quan, phong cảnh biệt khai vũ trụ” (Bốn mặt đều là kỳ quan, phong
cảnh mở ra một bầu trời biệt lập) hay câu : “phong cảnh vô biên, vạn trạng thần kỳ thiên
tác hợp” (Phong cảnh mênh mông, có nhiều hình trạng tuyệt vời do trời tác hợp).
- 13 -
Lăng Khải Định
Đặc biệt là chiếc bửu tán bên trên pho tượng đồng trong chính tẩm với những
đường nét mềm mại, thanh thoát khiến người xem có cảm giác nó được làm bằng nhung
lụa có thể xao động trước gió mà quên đi rằng nó đích thực là một khối bê tông cốt thép
nặng gần 1 tấn. Bên dưới Bửu Tán là pho tượng đồng của Khải Định được đúc tại Pháp
vào năm 1920 do hai người Pháp là P.Ducing và F.Barbediene thực hiện theo yêu cầu
của vua Khải Định.Đặc biệt pho tượng được đúc theo tỉ lệ 1:1 (tức là bằng tỉ lệ người
thật). Với tượng đồng vua ngồi trên ngai báu và với rất nhiều hình ảnh cảnh vật lấp lánh
chung quanh, chúng ta dễ có thể cảm tưởng đây là cõi sống hơn là chỗ để chôn người
chết.
Thi hài của vua được đưa vào dưới pho tượng bằng một loại đạo dài gần 30m bắt
đầu từ phía sau Bi Đình. Khi ông qua đời, ông đã cho biết nơi đặt thi hài của mình chứ
không giấu như các vị vua khác. Vì vua Khải Định luôn tin rằng nếu như có các thế lực
thù địch nào đó đến phá lăng mộ của ông thì họ sẽ ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của lăng và
quay về.
Phía sau ngôi mộ là lối kiến trúc được xây dựng như một vầng Mặt Trời đang lặn
biểu thị cho cái chết của vua. Ở phía trên trần của 3 gian nhà giữa trong cung Thiên Định
được trang trí bằng 3 bức bích họa: Cửu Long Ẩn Vân, của nghệ nhân Phan Văn Tánh
lớn vào bậc nhất Việt Nam.
Mặc dù được xây dựng bằng những vật liệu kiên cố, nhưng nó cũng được trùng tu
lại vào các năm 1961, 1973, 1985, 1987 và 1994.
Điện Khải Thành nằm trong cung Thiên Định, thuộc khuôn viên lăng Khải
Định. Trong điện có án thờ vua Khải Định cùng với điện Chính Tâm, điện Khải
Thành tạo thành một quần thể kiến trúc cung điện đẹp, vật liệu trang trí chủ yếu
bằng bê tông cốt sắt gắn mảnh sành với đề tài tứ bình và phong cảnh rất điêu
luyện.
- 14 -
Lăng Khải Định
Bàn thờ Vua Khải Định với nét chạm khắc tinh xảo.
Quả trên bàn thờ vua Khải Định
Trên nhiều gờ mái được phân chia thành ô hộc, các quả được diễn tả rất công
phu, tỉ mỉ và đòi hỏi sự đầu tư thời gian lớn, đặc biệt là phải có được kỹ thuật
khảm ghép và chất kết dính gia chế có tính năng kỹ thuật cao.Những trái đào, lựu,
cụm hoa được ghép từ các ụ chai, mảng sứ trắng, vàng, các trôn mảnh chén sứ
bỗng trở nên sống động, lung linh bởi chúng nằm trong một tổng thể thống nhất
với những ý niệm tạo hình đầy ý nghĩa. Nghệ thuật trang trí theo đề tài bát bửu
thời Nguyễn đã tạo nên các giá trị và những thành tựu nghệ thuật trang trí nổi bật
- 15 -
Lăng Khải Định
trong mỹ thuật cung đình thời Nguyễn. Những hình ảnh bát quả tinh tế về nghệ
thuật đã biểu lộ và phản ánh được kỹ năng trang trí, trình độ sáng tạo của những
nghệ nhân tại Huế. Qua các hình tượng cũng như việc sử dụng các chất liệu khác
như pháp lam, sơn son thếp vàng, chạm khắc gỗ, nghệ thuật khảm sành sứ mang
đậm mẫu thức truyền thống và dấu ấn văn hóa dân gian, mà rõ ràng nhất là qua
các hình thức thể hiện, bút pháp và phong cách chuyển tải, phản ánh trong đó với
tính định hướng tâm linh sâu sắc.
Điện Khải Thành là gian điện chính của cung An Định có kiến trúc gồm
nhiều phòng liên hoàn. Các tường phẳng được trang trí các phù điêu, hoa văn với
nghệ thuật khảm kính sứ điêu luyện, tinh tế. Cùng với tranh trên tường, dưới nền
của điện lát gạch men hoa và trên trần vẽ Cửu Long ẩn hiện trong mây. Cả không
gian 6 mặt đã tạo nên một thế giới nghệ thuật đặc trưng ở điện nói riêng và lăng
Khải Định nói chung.
Bức cửu long ẩn vân trên trần điện Khải Thành
Bức họa làm người xem có cảm giác mây và rồng hòa lẫn vào nhau, mây
cũng là một phần của rồng, tạo ra một khung cảnh rất kỳ bí... Các họa sĩ hiện đại
Việt Nam cho rằng bức bích họa này không chỉ hoành tráng mà còn đạt tới độ mỹ
thuật cao nhất trong nền hội họa nước ta.
Điện Khải Thành cùng với những kiến trúc trong khuôn viên của lăng Khải
Định là những công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật cao, góp phần làm phong
phú và đa dạng hơn nữa quần thể lăng tẩm ở Huế.
Tại lăng Khải Định, trang trí khảm sành sứ, thủy tinh màu đã đạt đến đỉnh
- 16 -
Lăng Khải Định
cao. Nội thất điện Khải Thành (cung Thiên Định) là nơi chứa tải của hầu hết các
đề tài trang trí hoa lá thời Nguyễn với nhiều kiểu thức tạo hình khác nhau. Tại đây
có sự gặp gỡ của các phong cách, bút pháp, đề tài tạo hình trang trí dân gian và
cung đình như các kiểu thức, bộ đề tài cung đình truyền thống mai, lan, cúc ,trúc
và nhiều loại cây cỏ khác rất quen thuộc trong dân gian như những loại cây hoa,
trái đời thường.
Trong trang trí ở lăng Khải Định còn cho thấy tính tam giáo trong khảm sành
sứ rất rõ nét và sinh động.Toàn bộ trang trí bên trong cung Thiên Định không chỉ
phản ánh những giá trị văn hóa, nghệ thuật mà còn đề cập đến vấn đề nhận thức,
chủ đề tư tưởng của công trình và ý muốn của nhà vua. Bên cạnh các đồ án trang
trí rút từ các điển tích Nho giáo và cuộc sống của chốn cung đình, còn có những
đồ án trang trí của Lão Giáo và đặc biệt là hàng trăm chữ Vạn một biểu trưng của
nhà Phật được đắp bằng thủy tinh xanh trên tường hậu tẩm. Phải chăng đó là sự
thể hiện “Tam Giáo đồng hành” trong tư tưởng của vua quan và Nho sĩ đương
thời? Phải chăng nhà vua cũng mong muốn được thư nhàn lúc về già và được nhập
Niết Bàn, được siêu thoát sau khi băng hà ? Hay đó là sự bế tắc về tư tưởng của
Khải Định nói riêng và tầng lớp quan lại thuở đó. Tất cả là những gợi mở đầy thú
vị để du khách chiêm nghiệm mỗi khi tham quan công trình này.
Phổ biến nhất trong Thiên Định Cung là các đồ án hoa lá, tứ bình. Ở bốn góc
điện Khải Thành là hệ thống 16 bức tranh trong bộ tứ bình với bốn loại cây mai –
tượng trưng cho mùa xuân; liên (mùa hạ), cúc (mùa thu), liễu (mùa đông). Phần
trên mỗi bức tranh đều có thơ vịnh bằng chữ Hán:
Hoa mai: Số điểm mai hoa thiên địa tâm
(Mấy cánh hoa mai giống như trái tim của trời đất)
Hoa sen: Thái diệp phong đầu ngọc tĩnh liên
(Ngọn lá lớn trên đỉnh núi đó là cây sen giếng ngọc)
Hoa cúc: Thiên hạ vô song phẩm – nhân gian đệ nhất hương
(Phẩm chất vô song miền hạ giới. Hương thơm số một giữa trần gian)
Cây liễu: Liệt tú phân long ảnh. Phương trì tả Phụng văn
(Các vì sao được phân bố như hình ảnh con rồng, ao thơm phô ra vẻ đẹp con
phụng)
- 17 -
Lăng Khải Định
Bức tranh tứ quý
Tứ quý trong vai trò là biểu tượng của bốn mùa được hình thành ở những cư
dân thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa châu á như Việt Nam và một phần của
Trung Hoa lục địa. Về sau, khi đã được nâng lên thành một biểu tượng của nghệ
thuật, tứ quý thâm nhập vào nhiều nền văn hoá khác nằm cận kề các khu vực văn
hoá thuộc vùng khí hậu nói trên. Cho tới nay, tứ quý là một trong những biểu
tượng nghệ thuật được sử dụng nhiều trong văn hoá truyền thống ở các quốc gia
thuộc khu vực Đông Bắc á như Nhật Bản, Triều Tiên cùng với Trung Hoa và Việt
Nam. Ngoài ra, biểu tượng này còn được các cộng đồng người Hoa và người Việt
ở nước ngoài lưu giữ. Ở những cộng đồng này, tứ quý được xem như một biểu
tượng quan trọng của văn hóa truyền thống.
Bên cạnh những quan niệm bốn mùa được sản sinh từ yếu tố khí hậu của tứ
quý, một yếu tố hết sức quan trọng đã góp phần tạo nên cụm biểu tượng trang trí
này là quan niệm bộ tứ của người phương Đông đã được hình thành từ hàng nghìn
năm qua. Lối tư duy này được người Hán sử dụng nhiều nhất và lâu đời nhất. Đầu
tiên phải kể đến là biểu tượng tứ tượng trong hà đồ của người Trung Hoa, với
quan niệm lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái. Thứ đến là tứ thư
trong tứ thư, ngũ kinh - những kinh sách quan trọng của người Trung Hoa và cũng
là một trong những biểu hiện quan trọng nhất của nền văn hiến Trung Hoa. Thông
qua Đạo giáo và Phật giáo, người Trung Hoa hình thành nên Tứ đại danh sơn - nơi
tu luyện của các vị thần phật, bao gồm: Ngũ Đài sơn, Phổ Đà sơn, Nga Mi sơn và
Cửu Hoa sơn. Ngoài ra còn có tứ đại mĩ nhân, tứ Bồ tát, tứ thiên vương…
Trong quan niệm của người phương Đông, bộ tứ là biểu hiện của sự đầy đủ,
vững chắc, vĩnh cửu, hạnh phúc... như tứ phương, tứ trụ, tứ đức... Thậm chí ở Việt
- 18 -
Lăng Khải Định
Nam, bộ tứ còn được hình tượng hoá thành cụm biểu tượng tứ bất tử gồm bốn vị
thần: Sơn Tinh, Chử Đồng Tử, Mẫu Liễu Hạnh và Thánh Gióng, hoặc tứ chính
trấn bao gồm xứ Đông, xứ Nam, xứ Đoài và xứ Bắc. Trong một trò chơi dân gian
khá thịnh hành trước đây (bài Tam cúc), bốn con bài cùng loại cũng được gọi là tứ
quý hay tứ tử trình làng. Người gặp tứ quý khi chơi bài thường nắm chắc phần
thắng và tứ quý được xem như một biểu hiện của sự may mắn. Như vậy, xuất phát
từ những biểu tượng của bốn mùa nhưng tứ quý trong quan niệm dân gian không
còn là một biểu tượng riêng của thời tiết hay khí hậu nữa mà đã biến thành biểu
tượng của nhiều điều tốt lành khác. Đặc biệt, khi đã trở thành một biểu tượng của
sự may mắn, tứ quý trở thành một niềm ước vọng của mọi người dân bất kể sang
hèn.
Qua đó có thể thấy rằng, người dân sử dụng biểu tượng tứ quý để trang trí
trong nhà không có nghĩa là chỉ để làm đẹp hay chỉ để xem “lịch bốn mùa” mà còn
là để cầu mong sự may mắn. Đây là một nét rất đặc thù trong văn hoá Việt Nam
nói riêng và văn hoá phương Đông nói chung. ở phương Tây, khi cầu nguyện,
người ta thường hướng tới một vị thần linh cụ thể với những điều ước cụ thể. Còn
ở phương Đông, đặc biệt là ở Việt Nam, người dân có xu hướng tự tìm cho mình
những yếu tố may mắn bằng nhiều sự biểu hiện khác nhau như hướng nhà (phong
thuỷ), hướng đi, màu sắc, con số... Thậm chí, còn có cả những điều may mắn chỉ
do một con nhện đưa lại. Chẳng hạn như khi đang dự định một công việc gì quan
trọng, nếu nhìn thấy một con nhện đang kéo tơ đi lên thì chắc chắn công việc đó sẽ
gặp nhiều thuận lợi.
Với lối tư duy trừu tượng như vậy, việc lấy biểu tượng tứ quý để tạo ra sự
may mắn không có gì là lạ. Tuy nhiên, những biểu hiện của biểu tượng này rất
khác nhau. Tuỳ theo quan niệm, lối sống của người dân mỗi lúc, mỗi nơi, tứ quý
lại được thể hiện bằng những cách thức riêng để làm phù hợp với các yếu tố lịch
sử và văn hoá.
Bước vào gian phòng Tẩm của vua, ta thấy ngay được một phong cách đan
xen rất Á – Âu. Bởi vì ông thích những nét đẹp hiện đại của văn hóa phương Tây
nên kiến trúc lăng kết hợp giữa Âu và Á, giữa cổ điển và hiện đại, người ta bảo
lăng có lối kiến trúc đông tây kim cổ giao hòa.Về cách bố trí phong thủy thì mang
đậm châu Á, từ việc chọn lọc vị trí lăng, hướng lăng cũng như địa thế. Về phần
châu Âu, lối kiến trúc không thể nào nhầm lẫn được, từ các hàng rào giáo đường,
cổng hình tháp kiến trúc Ấn Độ, không đi đâu xa, ta hãy nhìn vào cửa ngay lối đi
này, cửa là cửa bốn cánh, trụ là trụ lớn. Ngày xưa, người Việt Nam ta thường xây
cửa tám cánh, trần là trần thấp để có thể đón gió, tránh nắng tránh bão. Từ đó ta có
thể nhận thấy rằng có một sự kết hợp rất hài hòa, tinh tế, hội tụ tinh hoa Á – Âu
Hiện nay trong số những kiến trúc lăng tẩm đầy bí ẩn đó thì Lăng vua Khải
Định so với các công trình lăng tẩm khác còn khá nguyên vẹn và có kiến trúc thật
sự khác biệt. Lăng Khải Định khác với nhiều lăng của các vị vua triều trước. Đó là
- 19 -
Lăng Khải Định
đối với các lăng của vua triều Nguyễn, thi hài nhà vua nằm ở đâu đó trong lăng rất
khó để xác định, nhưng riêng Lăng Khải Định được định vị rõ ràng.
Có hai lí do khiến vua tự tin như vậy, đó là: Thời của người đã quá xa đi rồi
cái thời quật đào mồ mả, cái thứ hai là lăng của người kiến cố về kiến trúc và đẹp
về mỹ thuật, sẽ không ai đành lòng phá cả một hệ thông kiến trúc đẹp như thế này
chỉ để trả thù một cái xác. Do đó, khi còn sống, vua Khải Định cũng đã tự tin nói
với quan lại quần thần rằng: “Sau này trẫm mất, hài cốt trẫm đặt ở đâu thì hãy cho
người đời sau biết, vì trẫm tin chắc rằng người đời sau sẽ biết đón nhận cái đẹp và
biết trân trọng cái đẹp đó”. Mặt khác, do tình hình lịch sử biến động khi Khải Định
lên ngôi vua, triều đình bị người Pháp thao túng. Nhất cử nhất động của nhà vua
đều có ánh mắt của quan thầy Pháp dõi theo, chính vì thế mà đám tang của Vua
Khải Định có nhiều người nước ngoài đưa tiễn nên thi hài của nhà vua chôn ở đâu
không còn là một điều bí mật như các vua đời trước.
Thi hài nhà vua được đặt dưới chỗ bức tượng sâu 9m, người ta đào một
đường hầm ở dưới lòng đất từ bức bình phong đến điện chính của lăng (nơi chôn
cất nhà vua) là 30m. Sau khi nhà vua băng hà, quan tài của vua được đưa vào bằng
đường hầm ở dưới, sau đó người ta bịt kín đường hầm.
Trên mộ là tượng đồng nhà vua được đúc tại Pháp năm 1920,trước khi ông
qua Pháp tham dự hội chợ Marseille (1922) và được tặng bức tượng đồng kích
thước thật 1/1 ngồi trên ngai vàng, khi về nước thì người ta mới mạ vàng ròng ở
bên ngoài. Và nhà vua đang ngồi trên ngai vàng, xoay mặt ra đằng trước, nơi có
văn võ bá quan đang đứng chầu , hàm ý nói rằng sống trần thế vua là vua, thì khi
về cõi vĩnh hằng vua cũng là vua. Cho nên vua mới tạo dáng ngồi như vậy.
- 20 -
Lăng Khải Định
Dưới ngai vàng là bục tam cấp Thiên Địa Nhân, biểu tượng cho Thiên Thời Địa Lợi - Nhân Hòa, trên ngai vàng vua có một cái lọng che – được gọi là Bửu
Tán, đúc năm 1924, trước một năm khi vua qua đời, làm bằng xi măng cốt thép
rồi cho ốp sành sứ ở bên ngoài, trọng lượng lên đến một tấn nhưng trông rất mềm
mại, có cảm giác như những cơn gió thổi cũng có thể làm lọng khẽ khàng lay
động, điều đó cho thấy được rằng tâm huyết của những người nghệ nhân đã thổi
hồn vào trong đó.
Người thiết kế chính là ông Phan Văn Tánh, cũng chính là tác giả bức "Cửu
long ẩn vân" - 9 con rồng ẩn trong mây, thuộc vào bậc lớn nhất Việt Nam thời bấy
giờ. Những bức hoạ long vân với diện tích hàng chục mét vuông trên trần ba
phòng giữa của cung Thiên Định đang được các hoạ sĩ Việt Nam hiện đại công
nhận là những bức hoạ hoành tráng có giá trị mỹ thuật cao nhất của nền hội hoạ
nước ta.
Bức họa làm người xem có cảm giác mây và rồng hòa lẫn vào nhau, mây
cũng là một phần của rồng, tạo ra một khung cảnh rất kỳ bí. Ba bức tranh trên ba
tầng nhà từ xưa đến giờ chưa một lần nào được tô sửa lại cả nhưng vẫn nguyên
như mới. Tuy nhiên, ở đây có một điều đặc biệt hơn là dù lăng xây dựng đã hơn
80 năm nhưng không hề có nhện bám trên ba tầng nhà nơi có bức vẽ "Cửu long ẩn
vân". Mặc dù chung quanh điện có rất nhiều mạng nhện. Cho đến bây giờ người ta
vẫn chưa lý giải được lý do tại sao? Ngay cả màu sắc của bức tranh này, hay ngày
xưa ông Phan Văn Tánh đã sử dụng loại thuốc gì trên nước sơn mà trên ba trần
- 21 -
Lăng Khải Định
nhà không có nhện bám? Hiện nay, công trình hội họa này vẫn là sự ngạc nhiên
cho những nhà nghiên cứu mỹ thuật và họ vẫn chưa tìm được lời giải đáp.
Có giai thoại kể rằng: Lăng được xây từ khi nhà vua còn sống. Có một lần
Vua Khải Định đến để xem tranh thì thấy ông Phan Văn Tánh vẽ rồng lên những
bức tranh, tuy nhiên ông dùng chân để vẽ chứ không dùng tay để vẽ. Khi nhà vua
đến, mọi người đều dừng làm việc xuống nghênh tiếp nhà vua, riêng ông Phan
Văn Tánh vẫn cứ mải mê vẽ trên trần nhà. Khải Định nghĩ rằng ông này đã không
coi trọng nhà vua, và ngay cả con rồng thể hiện uy quyền sức mạnh của nhà vua
mà ông lại dùng chân để vẽ. Nhà vua tức giận cho gọi Phan Văn Tánh xuống để
hỏi tội.
Khi tụt xuống đất, ông Tánh giải thích với nhà vua: "Sở dĩ hạ thần không
xuống nghênh tiếp nhà vua vì mất rất nhiều thời gian mà công trình sẽ không hoàn
thành như nhà vua đã đưa ra. Còn lý do thứ hai hạ thần phải vẽ bằng chân vì nếu
vẽ những bức tranh trên trần nhà bằng tay thì khoảng cách từ tay đến mắt rất gần,
mà muốn nhìn độ đậm nhạt một cách hoàn hảo của một bức tranh có quy mô lớn
như vậy thì phải vẽ bằng chân. Phải nhìn từ xa mới thấy rõ. Sau khi nghe người
thợ đưa ra những lý do như vậy, mặc dù giận nhưng nhà vua không còn lý do gì để
trách, Khải Định quay lại bảo với ông Tánh: "Nếu như Việt Nam này có hai Phan
Văn Tánh như nhà ngươi thì ta sẽ chặt đầu nhà ngươi".
Phía sau ngôi mộ, là vầng mặt trời đang lặn – gọi là thái dương hạ san, như
biểu thị sự băng hà của nhà vua. Trong quan niệm của vua chúa, sống là ở đằng
đông, còn chết là ở đằng tây. Do đó, ngôi mộ của bât kỳ vị vua nào ở Huế cũng
hướng về hướng Tây Nam.
- 22 -
Lăng Khải Định
Trong cùng là khán thờ với bài vị của vị vua đã quá cố, tuy có 12 bà vợ,
nhưng ông không phong ai là Hoàng Hậu cả nên trên án thờ chỉ thờ một mình bài
vị của ông. Ông có duy nhất một người con là vua Bảo Đại, Bảo Đại từ năm 7 tuổi
đã đi du học ở Pháp, được vua cha đưa về lên ngai vàng năm 13 tuổi, làm vua tới
năm 1945 thì vua Bảo Đại đã tự nguyên đưa đất nước cho chính phủ lâm thời, và
ông đã tuyên thệ một câu trên tòa lầu Ngũ Phụng rằng : “thà rằng ta làm dân của
một nước độc lập còn hơn là vua của một nước nô lệ”, chấm dứt chế độ phong
kiến năm 1945. Sau đó ông lưu vong sang Pháp sinh sống, mất năm 1997. Con
cháu của ông đều sinh sống bên Pháp.
Những người trông coi lăng tẩm vua Khải Định kể lại rằng từ ngày mất đi
cho đến nay, ông chưa bao giờ nhận được một nén nhang từ con cháu của mình,
nhưng bù lại, niềm an ủi cho ông là được du khách đến thăm Huế viếng rất nhiều.
Người Huế đã có câu rằng: “Người chết nuôi người sống chẳng nơi nào có được”,
thì ai là người nuôi người sống nhiều nhất, chính là Vua Khải Định. Đó là công
trạng mà chúng ta cần phải ghi nhận khi ông đã để lại một công trình kiến trúc
hoành tráng, công phu như vậy.
Xung quanh mộ là những vòng hoa còn khá nguyên vẹn, được người Pháp
mang đến khi đưa tang Vua Khải Định, vòng hoa được làm bằng kim loại dát
mỏng nên dù trải qua năm tháng nó vẫn giữ được vẻ nguyên vẹn như thuở ban
đầu. Điều này nói lên rằng lăng Khải Định là lăng nguyên vẹn nhất, hầu như chưa
có hư hỏng gì cả.
- 23 -
Lăng Khải Định
Cuối cùng là phòng tranh và phòng cổ vật. Bức tượng vua Khải Định đang
đứng thể hiện rất rõ nét pha trộn Âu - Á. Bức tượng được nhà điêu khắc Pháp tạc
vào khoảng năm 1918, sau đó được thợ đúc đồng người Việt đúc tại Huế. Trước
đây tượng được đặt ở lầu Bát Giác trước cung An Định, sau này mới chuyển về
lăng. Tượng cao 1m60, cả về kích thước và tạo hình đều giống người thật. Tượng
1 vị “Đại Nam Thiên tướng” nhưng lại có vóc dáng của 1 vị võ quan Pháp. Trang
phục của vua pha trộn Âu- Á giữa Tây và Ta. Đầu đội khăn đóng truyền thống, áo
khoác ngoài kiểu Tây nhưng lại thiêu rồng, mây, và sóng, những đặc trưng trên
hoàng bào của Vua nhà Nguyễn. 2 vai đeo ngù võ quan, trước ngực đeo thẻ bài,
tay đeo nhẫn vàng, mặc quần có dải sọc và chân đi giày da. Gần đây, bức tượng
này đã được chuyển về lại cung An Định chứ không còn trưng bày ở Lăng nữa.
Cổ vật của vua Khải Định rất nhiều, trong đó đa phần là được tặng từ dịp lễ
Tứ tuần đại khánh của Vua. Bên cạnh cổ vật thì phòng tranh là nơi trưng bày tranh
ảnh của nhà vua, từ sinh hoạt, đại lễ cho tới lễ tang của Vua đề được bày trí ở đây.
Dưới đây là 1 vài cổ vật và tranh đặc trưng.
- 24 -
Lăng Khải Định
- 25 -