Lời giới thiệu
Nhiệm vụ của ngành y tế nước nhà là phải kết hợp tây với đông yĐông y để xây sựng dựng
một nền y tế Việt Nam. Vốn là một thầy thuốc tây y, tôi rất chú ý tìm hiểu về đông yĐông y.
Nhưng qua hơn hai mươi năm học tập, nghiên cứu, đi nghe các lương y giảng giải, chỉ dẫn
về đông yĐông y, tôi vẫn thấy lý thuyết đông yĐông y rất phức tạp, có khi trừu tượng không sao
hiểu được.
Cách đây hơn một năm, tôi được đọc bản thảo cuốn sách này của cụ Trần Đình Sóc. Qua
phần trình bày những suy nghĩ của cụ về phương pháp điều trị đông yĐông y cũng như phần tâm
đắcTâm đắc (trình bày những ca bệnh, thường là nặng, mà cụ đã chữa khỏi), tôi đã tìm thấy
những lời giải đáp có phần nào sáng tỏ.
Trong ba phần của cuốn sách, tác giả đã tích cực bảo vệ quan điểm thống nhất về
nguyên lý cơ bản của phương pháp biện chứng luận trị: nguyên nhân cơ bản phát sinh ra
bệnh là mất thế quân bình âm dương, nguyên lý cơ bản chữa khỏi bệnh là phục hồi thế quân
bình âm dương đó.
Loại trừ những khía cạnh duy tâm, vô lý mà người đã gán ghép cho quan niệm âm dương
của triết học phương đông, tác giả đã chứng minh trên các trường hợp cụ thể rằng âm dương bao
hàm ở nhiều ý nghĩa vật lý và toán học về năng lượng học. Đó không phải là một cái gì bất động,
một khối vật chất hay một khối lượng âm dương cụ thể nào.
Dương và âm trong y lý phương đông là cái thế so sánh giữa tổng sinh lực của cơ thể tiêu
hao đi, lấy một thế quân bình làm tiêu chuẩn. Mất quân bình là sinh bệnh, mà phục hồi được
quân bình là tạo điều kiện cơ bản để khỏi bệnh.
Nhận định này, chúng tôi thấy có phần phù hợp với quan điểm của y học hiện đại mà Antô-ni Hoóc (A. Horst), dựa vào điều khiển học của Vin-nơ (Wiener) đã trình bày trong Bệnh Lý
Phân Tử: “Trong cơ thể, các phản ứng hóa và những hoạt động sống xảy ra theo nguyên tắc tự
điều hòa, đưa đến cân bằng động của nội môi… tổng hợp quá mức một chất này, nhưng lại thiếu
những chất khác dẫn tới tình trạng cơ thể không điều hòa mà lâm bệnh”. (An-tô-ni Hooc, Bệnh
Lý Phân tử. Cơ thể là một hệ hóa lý tự điều khiển, trang 71 và 82, bản dịch tiếng Việt. Nhà xuất
bản Y học 1973).
Cách đây gần hai nghìn năm, Trương Trọng Cảnh đã phát hiện vấn đề rối loạn quân bình
âm dương và xếp các loại bệnh thành ba loại bệnh dương và ba loại bệnh âm.
Cụ Trần Đình Sóc, qua nhiều năm nghiên cứu đông yĐông y và qua thực tiễn trị bệnh, đã
nghiên cứu cặn kẽ bệnh Thiếu âm và bệnh Quyết âm (thuộc ba loại bệnh âm trong y lý của Trọng
Cảnh), và đã có những nhận định và phát triển rất độc đáo và về các vấn đề:
•
Âm dương trong y lý đông phương.
• Nguyên nhân tổng hợp phát sinh bệnh và nguyên nhân cơ bản chữa khỏi bệnh.
• Ý nghĩa biện chứng luận trị.
• Nhận định bệnh thuộc dương hay thuộc âm với sự phân biệt mạch thường và mạch biến,
chân tượng và giả tượng (vấn đề về hiện tượng và bản chất của bệnh hàn và bệnh nhiệt).
• Những nguyên tắc và phương pháp quân bình âm dương, điều trị với những bài thuốc là
dược liệu cụ thể.
Nhưng chính những nét độc đáo đó của tác giả (trong những quan niệm về y lý, về phương
pháp điều trị và dùng dược liệu) mà cuốn sách này sẽ đặt ra không ít những vấn đề khiến nhiều
1. TÌM HIỂU ĐÔNG Y
Tài liệu nội bộ - Công ty cổ phần Y Dược Lis
người phải suy nghĩ. Tôi được biết tác giả, qua nhiều lần sửa đổi bổ sung, đã cố gắng giải đáp
các vấn đề đã đặt ra. Song, theo chỗ tôi nhận định, đây chưa phải là một công trình khoa học với
đầy đủ tính chất chuẩn xác của nó để có thể thỏa mãm mãn mọi hoài nghi, thắc mắc của độc giả.
Đây trước hết mới chỉ là những suy nghĩ, những thu hoạch của tác giả qua nhiều năm nghiên cứu
và thực nghiệm được ghi lại với mục đích khiêm tốn là phổ biến tới quần chúng, và trước hết là
tới các bạn đồng nghiệp, càng sớm và càng rộng càng hay.
Tôi đã gặp nhiều người bệnh được cụ Sóc chữa khỏi, cũng như những người, bằng phương
pháp tương tự như cụ Sóc, chữa khỏi nhiều bệnh nhân. Ở bệnh viện, chỗ tôi công tác, một số
bệnh chữa theo phương pháp rút ra từ cuốn sách này cũng đã thu được những kết quả bước đầu.
Thực tế trên, kết hợp với phần tâm đắcTâm đắc mà tác giả đã ghi lại khá tỉ mỉ, cho phép tôi
tin rằng cuốn sách sẽ đem lại những lợi ích xứng đáng cho những ai quan tâm đọc nó, vì như
người ta thường nói, cuộc sống vốn là một cuốn sách vĩ đại. Chúng ta chờ đợi những kết quả trực
tiếp theo kiểm nghiệm giá trị của cuốn sách.
Cụ Trần Đình Sóc, năm nay đã 75 tuổi, cụ đã viết cuốn sách này giữa lúc đế quốc Mỹ đánh
phá miền Bắc ác liệt, bản thân lại đang bị ốm rất nặng, với ý thức tốt đpẹđẹp là muốn góp phần
mình vào công cuộc bảo vệ sức khỏe của nhân dân, đông thời góp phần xây dựng nền y học Xxã
hội chủ nghĩa của nước nhà. Sau này, tuy thường xuyên yếu đau, cụ vẫn để nhiều công chức sức
để sửa chữa và bổ sung
cuốn sách.
Trước nhiệt tình các
mạng của cụ Sóc, Bác sĩ
Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn
Văn Hưởng đã quan tâm
động viên cụ Sóc nhiều để
2. TÌM HIỂU ĐÔNG Y
Tài liệu nội bộ - Công ty cổ phần Y Dược Lis
cụ hoàn thành công việc,
đã ủy nhiệm cho tôi viết
vài lời giới thiệu.
Vậy xin trân trọng giới
thiệu tài liệu này với các
bạn đồng nghiệp đông
yĐông y và tây Tây y để
tham khảo và đóng góp
thêm ý kiến, cũng kính
mong các đồng nghiệp,
nhất là các vị có những
tâm đắcTâm đắc về
3. TÌM HIỂU ĐÔNG Y
Tài liệu nội bộ - Công ty cổ phần Y Dược Lis
Thương hàn luận của ta
sẽ viết các tâm đắcTâm
đắc của mình hoặc của
ông cha để truyền lại,
đặng góp phần xây dựng
nền y học Việt Nam xã Xã
hội chủ nghĩa.
Hà Nội, ngày 10 tháng 6 năm 1974
BS. Nguyễn Hữu Thuyết.
4. TÌM HIỂU ĐÔNG Y
Tài liệu nội bộ - Công ty cổ phần Y Dược Lis
Lời nói đầu
Đã từ lâu, Đảng và Chính phủ ta có chỉ thị khai thác và tận dụng vốn y học cổ truyền (đông
yĐông y) là ngành chữa bệnh và phòng bệnh đã phục vụ nhân dân mấy ngàn năm.
Chính phủ đã cho thành lập Viên Viện nghiên cứu Đông yĐông y, chúng ta có nhiệm vụ
đóng góp phần hiểu biết của mình, trước hết phải cố gắng nắm được nguyên lý cơ bản và phần
triết học của đông yĐông y.
Có người nói lý thuyết đông yĐông y rất phức tạp: nào âm dương ngũ hành, nào ngũ vận
lục khí, nào hàn nhiệt thực hư, quân hỏa tướng hỏa v.v… thực là trừu tượng; các nhà đông
yĐông y biện luận mỗi nhà một khác nhau, thiếu cơ sở khoa học. Tóm lại, một số người chỉ cho
đông yĐông y là một môn trị liệu theo kinh nghiệm chủ nghĩa, có nhiều tính chất siêu hình.
Lại có người nói đông yĐông y hợp tác với nhau để khoa học hóa đông yĐông y.
Để giải đáp vấn đề thứ nhất, trước hết chúng ta thử nghiên cứu xem đông yĐông y có tính
khoa học hay không, hay đúng là một môn trị bệnh theo kinh nghiệm chủ nghĩa. Sau sẽ nghiên
cứu lý do tại sao các nhà đông yĐông y không thống nhất luận cũng như thực hành trị liệu.
Giải đáp vấn đề thức nhất thì vấn đề thứ hai sẽ giải đáp dễ dàng. Bởi vì nếu bản thân đông
yĐông y vốn có tính chất khoa học thì chỉ nên đặt vấn đề “hiện đại hóa đông yĐông y” mà thôi.
Còn như đông yĐông y quả thật không có tính khoa học, thì khoa học hóa đông yĐông y là vấn
đề rất khó, vì nó đã là không có cơ sở khoa học.
Để góp chút ít tư liệu nhằm khẳng định tính chất khoa học của đông yĐông y, mặc dầu khả
năng còn có hạn, chings chúng tôi cũng cố gắng viết tập sách này trên cơ sở những nguyên lý cơ
bản về phương pháp biện chứng luận trị của Trương Trọng Cảnh mà chúng tôi cho là khoa học
và thực tiễn hơn cả so với học thuyết của các y gia khác.
Sẽ có độc giả thắc mắc cớ sao chúng tôi nói về Trọng Cảnh mà không dẫn chứng lời Trọng
Cảnh trong một sách nào, theo như cách viết sách nghiên cứu khoa học hiện thời.
Nguyên lai tài liệu của Trọng Cảnh đã mất mát trong thời loạn Tam Quốc. Đến thời Tần,
Vương Thúc Hòa mới sưu tầm được một số còn lại của Trọng Cảnh viết ra bộ Thương hàn luận
và Kim Quỹ Yếu Lược, trong đó có tham gia ý kiến của mình vào, khiến cho người sau đọc hai
bộ sách ấy không nắm được bản sắc của Trọng Cảnh. Do đó, Trung Quốc cũng như Việt Nam ít
ai trị bệnh như Trọng Cảnh.
Đến thời Thanh, có Trần Niệm Tố xuất bản bộ “Trần Tu Viên” theo phương pháp Trọng
Cảnh. Sau đó, Đường Dung Xuyên ra bộ “Trung Tây Hối Thông”, bổ chính bộ “Trần Tu Viên”,
làm cho nhiều người hiểu được phần nào phương pháp Trọng Cảnh, chữa bệnh thu được nhiều
hiệu quả tốt.
Đồng thời một số y gia Nhật BnarBản Bản dựa vào sáu loại bệnh hình tam dương tam âm,
pháp chẩn đoán cùng cũng là pháp và phương của Trọng Cảnh – tuy đã bị các chú gia chhus chú
thích sai lầm – với tinh thần khách quan phê phán và dầy công thực nghiệm, đã khám phá được
nhiều điều chính xác của Trọng Cảnh như Đại Chung Kinh Tiết, tác giả bộ “Hoàng Hán Y Học
Yếu Quyết”, Thanh Bản Cầu Thân- một nhà tây y đã thực nghiệm phương pháp Trọng Cảnh
trong vòng 18 năm – tác giả bộ “Hoàng Hán Y Học”, và nhiều tác giả khác. Những y gia Nhật
BnarBản giúp cho giới đông yĐông y hiểu rộng biết nhiều về Trọng Cảnh, thu được kết quả kỳ
diệu trong trị bệnh.
Dưới đây chúng tôi sẽ có những đoạn chứng dẫn lời của hai tác giả Nhật Bản kể trên.
Tập sách này chỉ là những điều tâm đắcTâm đắc thu hoạch được trong vòng 30 năm nghiên
5. TÌM HIỂU ĐÔNG Y
Tài liệu nội bộ - Công ty cổ phần Y Dược Lis
cứu trên kinh nghiệm thực tiễn lâm sàng của bản thân. Qua các tài liệu trên, lược thuật và tìm
hiểu phương pháp biện chứng luận trị của Trọng Cảnh có phân tích phê phán và tổng hợp, chúng
tôi ghi chép lại nhằm mục tiêu: gợi ý các bạn đồng nghiệp đông tây y để chúng ta nghiên cứu tập
thể, đặng tìm xem đông yĐông y có cơ sở thật sự khoa học hay không, góp phần nhỉ nhỏ bé vào
công cuộc xây dựng một nền y học Việt Nam xã Xã hội chủ nghĩa.
Tập sách này chưa đáp ứng những đòi hỏi của một số độc giả muốn biết rõ hơn về Trương
Trọng Cảnh, xin các vị ấy thông cảm.
Chúng tôi cũng trình bày vài nét về sự biến đổi của y học Trung Quốc, và giới thiệu sơ qua
về tiểu sử của cụ Tạ Văn Kinh tức cụ Nhất Kinh – một nhà đông yĐông y nổi tiếng – là người
Việt Nam gần đây đã phát huy và áp dụng với tinh thần sáng tạo phương pháp của Trọng Cảnh.
Tiếp đến phần tâm đắcTâm đắc và phần bệnh án, để chứng minh cụ thể thành quả của phương
pháp biện chứng luận trị trong Thương Hàn Luận.
Từ trước tới nay, trên mấy ngàn năm thực tiễn và ngày gần đây, đông yĐông y là một kho
tàng quý báu về kinh nghiệm, về lý luận, về chữa bệnh, phòng bệnh, đã giúp ích không phải là
nhỏ cho sự sống còn và sự phát triển của các dân tộc Á Đông. Chúng ta có nhiệm vụ kế thừa
đúng mức để xây dựng, khỏi lãng phí và thêm phong phú kho tàng y học nước nhà.
Chúng tôi mạnh dạn trình bày với tinh thần khách wuan quan tài liệu này để góp phần hiểu
, đây chỉ là những
sở đắc, không dám khẳng
định là đúng. Chúng tôi
ước mong các vị độc giả
góp ý phê bình để tài liệu
này được hoàn hảo hơn,
xin vô cùng cảm tạ.
biết thêm về đông yĐông y
6. TÌM HIỂU ĐÔNG Y
Tài liệu nội bộ - Công ty cổ phần Y Dược Lis
Tổ
Canh
Trần Đình Sóc
7. TÌM HIỂU ĐÔNG Y
Tài liệu nội bộ - Công ty cổ phần Y Dược Lis
“Luận án”
NGUYÊN LÝ CƠ BẢN VỀ PHƯƠNG PHÁP TRỊ BỆNH CỦA TRƯƠNG TRỌNG CẢNH
CỦA TRƯƠNG TRỌNG CẢNH
Ở Trung Quốc, cuối đời Đông Hán (Công nguyên 150-219), Trương Trọng Cảnh đã đúc
kết lý luận y học từ thời Đông hán trở về trước với óc sáng tạo và phát triển thành quy tắc chẩn
bệnh mà nay gọi là “ Phương pháp biện chứng luận trị’’.
Ông quan niệm người ta khỏe mạnh là do cơ năng hoạt động sinh lý trong thân thể luôn giữ
được thể quân bình âm dương, hay là luôn thống nhất được mâu thuẫn giữa âm và dương: người
ta có bệnh là do hoạt động sinh lý mất thế quân bình âm dương, hay là không thống nhất được
mâu thuẫn giữa âm và dương.
Cho nên việc chẩn bệnh là việc tìm hiểu phần âm quá hay bất cập, phần dương thái quá hay
bất cập của bệnh nhân để quyết định nguyên nhân phát bệnh do âm thiên thắng hay do dương
thiên thắng mà sinh ra hiện tượng này, hiện tượng nọ tức là những chứng bệnh. Việc trị bệnh là
việc dung dùng phương pháp điều trị con người có bệnh nhằm mục đích quân bình âm dương,
hay thống nhất mâu thuẫn giữa âm và dương của con người ấy thì sẽ khỏi bệnh.
Trong cơ thể người ta giữ được thế quân bình âm dương thì cơ năng đề kháng bệnh mạnh,
điều đó gọi là CHÍNH KHÍ. Còn lục dâm: phong, hàn, nhiệt, thấp, táo, hỏa, cho đến vi khuẩn, vi
rút, nói chung cái gì ở môi trường bên ngoài xâm nhập vào cơ thể làm thành bệnh tật đều gọi là
TÀ KHÍ.
Khi chính khí thịnh thì tà khí không xâm nhập được. Nếu chính khí suy, tà khí xâm nhập
được thì sinh bệnh. Bệnh này mang tính chất hoàn cảnh của môi trường bệnh trong cơ thể bệnh
nhân mà đổi thành bệnh hàn hay nhiệt. Âm dương trong cơ thể mất quân bình là nguyên nhân có
trước, tà khí bên ngoài xâm nhập vào làm thành bệnh là nguyên nhân có sau.
Phương pháp trị bệnh của Trương Trọng Cảnh nhằm mục đích quân bình âm dương, chủ
yếu là chữa môi trường thụ bệnh, làm cho môi trường không thích hợp với tà khí, đồng thời cơ
năng đề kháng bệnh trở nên sung sức đấu tranh với tà khí, bảo vệ cơ thể, tà khí sẽ bị tiêu diệt.
Một khi môi trường bên trong cơ thể trở lại thế quân bình âm dương, không những tà khí bị tiêu
diệt, mà còn điều chỉnh mọi sinh hoạt sinh lý, phục hồi mọi chức năng của phủ tạng, đem lại
trạng thái chính thường, và duy trì được thế quân bình mối lien liên hệ nhịp nhàng giữa cơ thể
với môi trường bên ngoài, cho nên con người trở lại khỏe mạnh, bởi vì môi trường bên trong cơ
thể thống nhất trên thế thắng với môi trường bên ngoài.
Thế là Phương pháp trị bệnh của Trương Trọng Cảnh chữa con người bệnh là chủ yếu, nói
cách khác, chữa nguyên nhân phát bệnh có tính chất tổng thể và tổng hợp, chứ không chữa theo
bệnh danh và cục bộ. Bởi vì cơ thể là một khối thống nhất mọi mặt hoạt động sinh lý, cả về thể
chất lẫn tinh thần.
Trọng Cảnh đã phát minh một quy luật khách quan về bệnh tật, đó là vấn đề hiện tượng và
bản chất, đó là vấn đề hiện tượng và bản chất âm dương sau đây:
Theo Trọng Cảnh, hết thẩy các loại bệnh: ngoại cảnh, nội thương, hư lao, truyền nhiểm,
thần kinh, tạp bệnh, thiếu nhi, phụ nữ, thai tiền, sản hậu, cho đến bệnh ngoài da,v.v.., bệnh nào
cũng có bản chất khác nhau: hoặc âm thiên thắng hoặc dương thiên thắng, mà hiện tượng (tức
bệnh chứng) thì đại khái giống nhau. Ví dụ: bệnh nhân A mắc bệnh mất ngủ do bản chất âm
8. TÌM HIỂU ĐÔNG Y
Tài liệu nội bộ - Công ty cổ phần Y Dược Lis
thiên thắng, bệnh nhân B mắc bệnh mất ngủ do bản chất dương thiên thắng, hai người đều có
hiện tượng mất ngủ như nhau. Phép điều trị phải căn cứ vào bản chất của bệnh mà chữa mỗi
người một khác. Bệnh nhân A phải dung loại dương dược (thuốc có chất hung hưng phấn thần
kinh), bệnh nhân B phải dung dùng loại âm dược (thuốc có tính chất ức chế thần kinh). Một đằng
dùng dương dược, một đằng dùng âm dược, cả hai đều nhằm mục đích thống nhất âm dương của
cả hai người bệnh, cho nên cả hai người đều khỏi. Nếu không phân biệt bản chất âm dương, tuyệt
đối dung dùng âm dược mà chữa, may gặp bệnh dương thiên thắng thì bệnh khỏi, nếu không
may gặp bệnh âm thiên thắng, bệnh sẽ biến chứng phiền phức hơn, có thể nguy cho bệnh nhân.
Một ví dụ khác: bệnh sốt thương hàn, một thuộc bản chất dương thiên thắng, một thuộc
bản chất âm thiên thắng, cả hai đều có hiện tượng đại khái giống nhau: nhiệt độ lên cao trên dưới
40 độ, thân thể ra mồ hôi, nằm trằn trọc không yên, tay chân vật vã, khát nước, nói mê, đại tiện
táo kết, có khi lưỡi đen…phép điều trị thuộc bản chất dương thiên thắng-tùy trường hợp – hoặc
dung dùng bài thuốc có vị thạch cao, chi mâu, chi tử…( âm dược) để thanh nhiệt, hoặc dung
dùng bài thuốc hạ (hạ phân táo kết) để thoát nhiệt thì khỏi bệnh. Bệnh thuộc bản chất âm thiên
thắng, dung dùng những bài thuốc có vị can khương, phụ tử, quế…(dương dược) để ôn bổ thì
khỏi bệnh. Phép chữa khác nhau mà cùng chung một mục đích thống nhất âm dương của hai
người bệnh đem lại kết quả như nhau. Nếu không phân biệt bản chất âm dương, tuyệt đối dung
dùng phép thanh nhiệt hay thoái nhiệt, không may gặp chứng âm thiên thắng thì nguy đến tính
mệnh.
Vấn đề hiện tượng và bản chất âm dương đối với đông yĐông y quan trọng là như thể. Nếu
bỏ bản chất chạy theo hiện tượng, hay nói theo thuật ngữ đông yĐông y sẽ không còn tính chất
khoa học nữa, nó sẽ là một môn trị bệnh theo kinh nghiệm chủ nghĩa.
9. TÌM HIỂU ĐÔNG Y
Tài liệu nội bộ - Công ty cổ phần Y Dược Lis
VẤN ĐỀ ÂM DƯƠNG TRONG ĐÔNG YĐÔNG Y
Lý thuyết âm dương là một khái niệm trừu tượng trong triết lý của đông phương, thể hiện
quy luật khách quan về mâu thuẫn phổ biến ở thế giới tự nhiên. Nhưng tùy từng trường hợp và
phạm vi, nó có nội dung khác nhau, đại đồng và tiểu dị.
Trước hết chúng ta phải gạt bỏ cái ý nghĩ âm dương đây là khái niệm máy móc, thô kệch,
hẹp hòi, là âm và dương về vật lý, hay là lien liên tưởng đến điện âm và điện dương.
Nói chung, âm dương là hai trạng thái trong một bản thể có tính chất mâu thuẫn mà không
rời nhau, vẫn chống đối nhau, tác động lẫn nhau để đạt được một thế quân bình hai chiều trong
bản thể mâu thuẫn ấy, có thể tạm gọi là thống nhất trong từng giai đoạn.
Về y lý, âm dương là thế nào?
Âm dương trong y lý khác với âm dương trong điện học, chúng là hai trạng thái có tính
chất mâu thuẫn cơ bản trong sự hoạt động của cơ thể con người.
Xin lấy những hiện tượng đối lập và thống nhất đi đôi với nhau, không thể tách ròi rời
nhau trong cơ thể để hội thong với quy luật âm dương trong y lý:
Sự tiêu hóa và bài tiết trong cơ thể: một số thực phẩm đưa vào ống tiêu hóa, số lượng thực
phẩm ấy tạm gọi là cái đến. Qua quá trình tiêu hóa, phần nào đồng hóa với cơ thể được thì được
huyết đưa đi khắp cơ thể dinh dưỡng tế bào; phần nào dị hóa với cơ thể được bài tiết ra ngoài; cả
hai phần này tạm gọi là cái đi. Cái đến và cái đi phải được thống nhất cùng nhau.
Lại như sự thay đổi trong cơ thể ; chất dinh dưỡng khi đi theo máu thấm qua thành mao
quản vào dinh thể( môi trường trao đổi chất) để cung cấp cho tế bào, đồng thời những chất hủy
hoại và khí cacbonic trong tế bào đào thải vào dinh thể lại thấm qua thành mao quản mà vào
máu, rồi được bài tiết ra ngoài cơ thể. Sự trao đổi chất ấy, sự thay cũ đổi mới ấy phải được thống
nhất cùng nhau.
Đi sâu một bước nữa, ta thử xem sự trao đổi chất và năng lượng, cùng với sự đồng hóa
trong các tế bào: “sự trao đổi chất và năng lượng thực hiện qua hai quá trình: đồng hóa và dị hóa.
Đồng hóa là quá trình biến hóa những chất lấy từ ngoài vào, tổng hợp thành những chất sống của
cơ thể và tích lũy năng lượng. Dị hóa là quá trình phân giải các chất sống trong cơ thể, giải
phóng năng lượng cần thiết cho các hoạt động sống và thải cặn bã ra ngoài. Hai quá trình này
mâu thuẫn với nhau nhưng lien liên hệ chặt chẽ với nhau; đồng hóa cần đến năng lượng giải
phóng trong dị hóa. Nói đúng hơn, đó là hai mặt của một quá trình thống nhất. Sự trao đổi chất
giữa cơ thể với môi trường thể hiện qua dinh dưỡng và bài tiết mới là biểu hiện bề ngoài của
đồng hóa và dị hóa. Căn bản hơn là sự đồng hóa, dị hóa xảy ra trong các tế bào”(Sinh vật học
hiện đại phổ thông).
Đơn giản dễ thấy như việc tuần hoàn: phát huyết và hồi huyết giao lưu với nhau phải được
thống nhất cùng nhau; cũng như khả năng sinh nhiệt và khả năng tán nhiệt… đều thế cả.
Tất cả những hiện tượng sinh lý đi đôi với nhau mà trái ngược nhau, thống nhất với nhau,
ấy là trạng thái chính thường; khi mất quân bình thì một mặt thái quá, một mặt bất cập; ấy là
trạng thái bệnh tật. Nói chung, hết thẩy tác dụng sinh lý trong cơ thể đều thể hiện theo quy luật
mâu thuẫn và thống nhất mâu thuẫn, mà cổ nhân coi là theo quy luật âm dương.
Tóm tại, âm dương là hai trạng thái trong cơ thể thể hiện nội dung của quy luật mâu thuẫn
này, tác động lẫn nhau, không rời nhau được. Cho nên trong cơ thể không có cái gì thuần âm
cũng như không có cái gì thuần dương. Trong dương có âm, trong âm có dương. Đã có dương là
10. TÌM HIỂU ĐÔNG Y
Tài liệu nội bộ - Công ty cổ phần Y Dược Lis
có âm, đã có âm là có dương, tức là “âm trung chi dương”, “dương trung chi âm” trong y lý.
Âm dương biến động luôn luôn ở trạng thái tương đối, không nhất định ở mức độ nào,
cũng không cố định đại biểu cho sự vật nào. Tùy theo sự chuyển biến về mặt đối lập của sự vật
mà âm dương biến đổi.
Nếu quan niệm tuyệt đối cái này là âm, cái kia là dương là quan niệm âm dương tĩnh tại,
không đúng với thực tế.
Trên đây là nói về tác động âm dương ở từng bộ phận, từng cục bộ hoạt động sinh lý trong
cơ thể, cũng như gần đây, người ta quan niệm âm là khiếm năng, dương là dư năng. Còn âm
dương cụ thể là gì trong y lý đông phương, chúng tôi sẽ trình bày trong một bài khác ở dưới.
11. TÌM HIỂU ĐÔNG Y
Tài liệu nội bộ - Công ty cổ phần Y Dược Lis
NGƯỜI TẠNG HÀN, TẠNG NHIỆT, BỆNH HÀN BỆNH NHIỆT
Trên thực tế khách quan, qua quá trình thực tiễn lâm sàng, chúng tôi nhận thấy hiển nhiên
trong bệnh nhân những có người tạng hàn và có người tạng nhiệt. Người tạng hàn có bệnh - Bất
cứ bệnh gì - bệnh sẽ mang tính chất hoàn cảnh bên trong môi trường cơ thể, trở nên có tính hàn
gọi là bệnh hàn ; người tạng nhiệt cũng như trên - bệnh trở nên có tính nhiệt gọi là bệnh nhiệt.
Người tạng hàn khi có bệnh hoặc sắp có bệnh, mạch tượng hiện ra: trầm, trì, vi, tế, vô lực.
Người béo thì béo bệu, trông người có vẻ nặng nề, ì ạch, bụng phệ ít hay nhiều. Người tạng hàn
nói chung, không phân biệt béo gầy, lớn nhỏ, trai gái, già trẻ, thường có ít nhiều hiện tượng sau
đây:
Thể ôn bình thường dưới 37 độ. Người hay mệt nhọc, cử động chậm chạp, da xanh xao
hoặc có quầng xanh xám chung quang quanh mắt. Có người mặt lúc đỏ lúc xanh nhợt, hoặc mặt
đỏ chân tay lạnh suốt thời gian có bệnh. Trời chưa lạnh họ đã thấy lạnh, trời chưa bức họ đã thấy
bức. Có người không giám dám tắm nước lạnh trong mùa hè. Hay buồn ngủ mà khó ngủ, hoặc
mất nhủ , hoặc ngủ li bì, hay thấy ác mộng. Khi khát, uống ít nước và ưa uống nước nóng. Ăn ít,
khó tiêu hóa, hoặc ăn nhiều, chậm ăn thì mệt lả mà người vẫn gầy yếu, hoặc bụng đói mà miệng
không muốn ăn. Đại tiện táo hoặc tiền tào táo hậu đường, hoặc phân không thành khuôn, có
người cứ bốn năm giờ sáng phải vội đi ngoài, phân sền sệt. Có người hay đi tiểu đêm; nước tiểu
ít thì vàng, đục hoặc đỏ, nhiều thì trắng trong; cũng có người hay đi đái rắt, có khi ra huyết. Hay
sôi bụng, đau bụng hoặc đau ngang thắt lưng, đau hai bả vai.Tay chân hay lạnh, buồn, mỏi, tê
hoặc máy mắt giật khi ngủ. Hay nằm co đùi hoặc ôm lấy hai bàn tay. Có người hay ù tai, hoa mắt
chóng mặt, váng đầu, thị lực kém. Khi ốm nặng, sốt thì nhiệt độ lên cao mà sợ rét, trong cơn mê
sảng thì chợt mê chợt tỉnh, nói những chuyện cũ mà mình đã trải qua. Nếu bị lưỡi đen thì lưỡi
vẫn ướt như lúc bình thường, lấy ngón tay sờ thấy mặt trên lưỡi thấy mềm mại trơn nhẵn, và thân
thể hay có âm thư ( nhọt bọc). Về mặt tinh thần, bạc nhược, bi quan, tiêu cực, hay nghi ngờ, do
dự, hay lo nghĩ vớ vẩn, mất bình tĩnh, gắt gỏng, kém trí nhớ. Trẻ em nhỏ tuổi thường biểu hiện
da xanh trong, xanh bủng, bụng to, bụng ỏng, hay chớ, không chịu ăn, đi ngoài thất thường: phân
lỏng, phân xanh, sống phân, phân có mùi tanh; nhiều nước mũi, nước dãi, dử mắt, miệng hôi;
thân thể hay nóng âm ấm về đêm, ra mồ hôi trộm, chân lạnh, hoặc gan bàn chân nóng hơn chỗ
khác. Đặc biết có em ngủ hay nằm sấp. Các Em cũng hay có rôm, nhọt, mụn, đầu đanh màu đỏ
tím…
Người tạng nhiệt khi có bệnh hoặc sắp có bệnh , mạch tượng hiện ra: phù, sác, khẩn, hoạt,
hữu lực. Người béo thì béo chắc, có vẻ vững vàng, hoạt bát; cũng có người gày gò, cằn cỗi như
cành khô. Người tạng nhiệt nói chung- cũng không phân biệt béo, gầy, già, trẻ, lớn, nhỏ… có
những hiện tượng tương phản rõ rệt với người tạng hàng, có những hiện tượng đại khái giống
nhau, nhưng nhận xét ký vẫn có màu vẻ khác nhau; họ chịu được rét, được bức, hoạt động linh
lợi. Nếu có khát thì uống nhiều nước mà ưa uống nước nguội, nước lạnh, thích ăn thức ăn mát
như trái cây, rau sống …Nếu có mệt nhọc cũng không mệt nhọc lắm; có người mặt đỏ chân
không lạnh; khó ngủ hoặc mất ngủ, ngủ không li bì, ít mộng mị; đắng miệng, khô cổ, se môi,
giộp lưỡi, lở miệng, chóng mặt, choáng váng, nhức đầu; trong lồng ngực, hai bên sườn đầy hơi bí
bích; đau ngực, viêm cổ họng, đau lưng, đau bụng khan, đại tiện táo bón, tiểu tiện khó đi, đi đái
rắt, đi tiểu ra huyết, nước tiểu ít, vàng, đỏ. Khi ốm hay phát sốt rét hoặc sốt nóng, sợ nóng mà
không sợ rét, có khi chân tay lạnh, ra nhiều mồ hôi; mê sảng thì liên miên không tỉnh, nói những
12. TÌM HIỂU ĐÔNG Y
Tài liệu nội bộ - Công ty cổ phần Y Dược Lis
chuyện lảm nhảm, câu nọ sọ câu kia, nếu lưỡi bị đen thì khô lưỡi, nóng hôi hổi, lấy ngón tay sờ
vào mặt lưỡi thấy nổi gai ram ráp, mắt nhìn thao láo, tay quờ quạng tục gọi là tay bắt chuồn
chuồn. Bệnh thể hay khẩn cấp, đầu não hay căng thẳng; hay bị bang băng huyết , nục huyết, ứ
huyết, khái huyết, phát viêm, nhiều đờm; nếu có huyết áp cao hay bị ngất, xuất huyết não, hay có
mụn nhọt. Về mặt tâm lý tinh thần: quả quyết, bộp chộp, nóng nảy. Trẻ em nhỏ tuổi da không
xanh nhợt, xanh bủng, ít mũi dãi, bụng ít to, không ỏng, đại tiện ít phân lỏng, phân xanh, hay
nóng bức, nhiều mồ hôi, hay mọc rôm sẩy, mụn, nhọt màu đỏ tía…
Trên đây là hiện tượng và mạch tượng thông thường của người tạng hàng, tạng nhiệt. Đôi
khi có trường hợp đặc biệt là người tạng hàn hiện ra một vài hiện tượng người tạng nhiệt của
người tạng nhiệt, người tạng nhiệt hiện lên một vài hiện tượng của người tạng hàn. Mạch tượng
cũng xảy ra vài trường hợp như thể. Cái trái ngược đó được gọi là giả tượng. Cũng có khi vì tập
quán từ thưở bé, ví như người tạng hàn lại ưa uống nước lạnh. Cho nên chẩn đoán bệnh nhân gặp
trường hợp đặc biệt ấy, cần phải tế tâm nhận xét cái nào là giả tượng (hiện tượng trái với bản
chất), cái nào là chân tượng (hiện tượng đúng với bản chất), cái nào là thói quen, để khỏi ngộ
nhận người tạng hàn, tạng nhiệt, bệnh hàn, bệnh nhiệt.
13. TÌM HIỂU ĐÔNG Y
Tài liệu nội bộ - Công ty cổ phần Y Dược Lis
NGƯỜI KHÔNG THUỘC VÀO TẠNG HÀN, TẠNG NHIỆT
Người không thuộc vào tạng hàn, tạng nhiệt là người khỏe mạnh, không có bệnh. Hoạt
động sinh lý của cơ thể người ấy luôn luôn giữ được thế quân bình âm dương, tức là thống nhất
thường xuyên sự mâu thuẫn cơ thể. Nói theo đông yĐông y là người có toàn vẹn chính khí hay
nguyên khí bản thân.
Những người này thích ứng được với môi trường ở bên ngoài, họ không bị ảnh hưởng về
thời tiết thay đổi đột ngột, họ chịu được khí hậu bức cũng như rét, họ đến nơi sam sơn lơn lam
chướng khí cũng chẳng sao; họ ăn uống theo sở thích; chẳng có thức ăn thức uống thong thông
thường làm giảm việc tiêu hóa; họ ngủ hay thức dễ dàng tùy ý, họ lao động bền bỉ và dẻo dai. Về
mặt tinh thần: họ vui vẻ, thích hoạt động, tự chủ được mình.
Nhưng nếu họ không bảo vệ được sự quân bình âm dương trong cơ thể bằng phép vệ sinh;
thể dục thể thao có chừng mực, ăn ngủ có điều độ, lao động thao tác đều đều, ít tham vọng thị
dục…nếu ẩm thực khởi cư mất điều độ, quá lao tâm, lao lực, nhiều dục vọng, trác tán…họ sẽ trở
nên người tạng hàn hay tạng nhiệt.
Còn như thấy một bệnh nhân phát cả chứng hàn và chứng nhiệt mà gọi là người tạng bán
hàn và bán nhiệt thì không đúng với thực tế. Đó là người tạng hàn có hiện tượng giả nhiệt.
14. TÌM HIỂU ĐÔNG Y
Tài liệu nội bộ - Công ty cổ phần Y Dược Lis
TẠI SAO THỂ TRẠNG NGƯỜI TA CHIA RA HAI TRẠNG THÁI KHÁC NHAU
TRONG KHI CÓ BỆNH HOẶC SẮP CÓ BỆNH VÀ ÂM DƯƠNG TRONG Y LÝ CỤ
THỂ LÀ GÌ?
KHI CÓ BỆNH HOẶC SẮP CÓ BỆNH VÀ ÂM DƯƠNG TRONG Y LÝ CỤ THỂ LÀ GÌ?
Qua những biểu hiện khác nhau kể trên, chúng tôi đặt vấn đề tại sao trạng thái thể tạng con
người có bệnh hoặc sắp có bệnh lại chia ra hai loại như vậy? Và về y lý, âm dương cụ thể là gì?
Chúng tôi xin giải thích cụ thể như sau:
Người ta sống đòi hỏi một số lượng sinh lực nhất định cho hoạt động cơ thể: tiêu hóa, hô
hấp, tuần hoàn, bài tiết, vận động, suy nghĩ…sinh lực là danh từ chung để chỉ cho năng lực dung
dùng trong sự sống có thể là nhiệt năng để đảm bảo nhiệt độ, hóa năng để tiêu hóa thức ăn, cơ
năng để hoạt động tim phổi, ruột… có thể là điện năng trong vấn đề tư duy.
Cái khả năng tổng hợp của cơ thể con người để phát huy số sinh lực này có dư trên số
lượng yêu cầu có thể coi là tạng nhiệt (dương hữu dư), số sinh lực này quá dư (dương thiên
thắng) thì cơ thể mất thế quân bình âm dương sẽ phát hiện ít nhiều hiện tượng bất thường (như
đã kể trên đây), ấy là nguyên nhân có trước của bệnh tật. Khi gặp nguyên nhân có sau xảy đến
như cảm mạo lục dâm: phong, hàn, nhiệt, thấp, táo, hỏa (ngoại cảm), vi khuẩn, vi rút xâm nhập
(truyền nhiễm), những sự việc do người ta làm ra như ăn uống, khởi cư nhất nghi, lao tâm, lao
lực quá độ, thị dục, trác tang, vô hạn…(nội thương), hết thẩy những cái ấy đều gọi là tà khí hay
bệnh tà, khi cơ thể của người ấy sẽ đủ điều kiện phát bệnh. Bệnh này sẽ mang tính chất hoàn
cảnh của môi trường bên trong cơ thể mà bệnh nhiệt hay là bệnh có tính chất dương thiên thắng.
Chứng cấp tính, chứng phát viêm, chứng xung huyết thường thấy ở người tạng nhiệt.
Cái khả năng tổng hợp của cơ thể con người để phát huy số lượng sinh lực nhất định trong
cơ thể ở dưới số lượng yêu cầu, có thể coi là tạng hàn ( dương bất túc tức âm hữu dư), số lượng
sinh lực này quá thấp ( âm thiên thắng) thì cơ thể mất thế quân bình âm dương, sẽ phát hiện ít
nhiều hiện tượng khác thường ( như đã kể trên) , ấy là nguyên nhân có trước, . Một khi có
nguyên nhân có sau xảy đến, cơ thể có đủ điều kiện phát bệnh. Bệnh này sẽ mang tính chất hoàn
cảnh của môi trường bên trong cơ thể mà thành bệnh hàn hay là bệnh có tính chất âm thiên
thắng. Chứng mạn tính( cũng có nhiều chứng cấp tính và phát viêm), bệnh kinh niên, trầm kha,
cố tật, bệnh suy nhược thần kinh thường thấy ở người tạng hàn.
Có trường hợp số sinh lực nhất định cho hoạt động cơ thể quá thấp dưới số lượng yêu cầu (
tức là dương suy) không đủ khả năng chuyển hóa thành tân dịch gọi là âm dương câu hư (âm
dương câu hư không có nghĩa là âm dương đều hư ngang nhau). Trường hợp này do nhiều
nguyên nhân gây ra:
1. Tiên thiên bất túc tức là suy nhược ngay trong bào thai
2. Thị dục quá độ
3. Ngộ độc nghiêm trọng hoặc bị mất máu nhiều quá
4. Ăn uống thiếu chất dinh dưỡng
5. Tuổi suy lão…
Do đó, Đông yĐông y căn cứ vào bệnh có tính chất dương thiên thắng hay âm thiên thắng
làm nguyên lý cơ bản để trị bệnh, nhằm quân bình âm dương để khôi phục trạng thái chính
thường của sự hoạt động sinh lý trong cơ thể - hay nói theo đông yĐông y - để khôi phục chính
khí trong cơ thể , chính khí sẽ tạo điều kiện cho tự nhiên liệu năng tự chữa khỏi bệnh, bảo vệ
sinh lực và điều chỉnh mọi sai lệch trong hoạt động sinh lý theo quy luật của tự nhiên. Tuy những
15. TÌM HIỂU ĐÔNG Y
Tài liệu nội bộ - Công ty cổ phần Y Dược Lis
hoạt động sinh lý là phức tạp, tựu chung chúng vẫn phối hợp chặt chẽ với nhau theo quy luật
khách quan chi phối thống nhất toàn than thân con người, kể cả thể chất và tinh thần.
Khi chính khí đã trở lại bên trong cơ thể, không những nó tự chữa khỏi bệnh, đem lại trạng
thái chính thường trong hoạt động sinh lý, mà còn duy trì thế quân bình hay là thống nhất mối
lien liên hệ nhịp nhàng giữa môi trường bên trong cơ thể và môi trường bên ngoài tức là thế giới
tự nhiên, cho nên ngoại tà không vào được cơ thể gây bệnh tật.
Chích pháp luật luận trong sách Tố Vấn nói:” Chính khí toàn vẹn ở môi trường bên trong
cơ thể, tà khí ở môi trường bên ngoài không xúc phạm vào được” (chính khí tồn nội, tà bất khả
can). Bình nhiệt luận trong sách ấy nói:” tà khí tập hợp được ở trong cơ thể, tất nhiên là chính
khí không vẹn toàn” (tà chi sở tấn, kỳ khí tất hư).
Cái mà đông yĐông y gọi là chính khí hay nguyên khí phải chăng là cái khả năng tổng hợp
phát huy số lượng sinh lực trong cơ thể vừa đúng số lượng yêu cầu không hơn không kém?
Để đề phòng bệnh tật khi thấy trong người đã phát sinh ít nhiều hiện tượng khác thường ,
thầy thuốc chẩn đoán phối hợp mạch tượng với hiện tượng đã xảy ra, xem người ấy:
• Nếu âm hữu dư tức là số lượng sinh lực ở dưới số lượng yêu cầu nhất định, thì dùng
thuốc dương dược để nâng cao số lượng sinh lực đạt tới mức yêu cầu (quân bình âm
dương) .
• Nếu dương hữu dư tức là số lượng sinh lực có dư trên số lượng yêu cầu nhất định, thì
dùng thuốc âm dược để hạ thấp số lượng sinh lực đạt tới mức yêu cầu (quân bình âm
dương).
• Nếu âm dương câu hư tức là số lượng sinh lực quá thấp dưới số lượng yêu cầu nhất
định, không đủ khả năng hóa tân dịch, thì dùng thuốc dương dược để tăng cường sinh
lực đạt tới mức yêu cầu là chủ yếu, đồng thời phối hợp với âm dược có tính chất tư
dưỡng tân dịch là chủ yếu, đó là bổ dương tư âm (quân bình âm dương).
(Sự chuyển hóa ra tân dịch đòi hỏi cơ thể nhiều hóa năng, đòi hỏi rất nhiều năng lượng
tổng hợp, làm tiêu hao rất nhiều năng lượng cơ thể, cho nên đông yĐông y hay quan niệm tâm
tân dịch là âm).
Một khi âm dương quân bình, chính khí trở lại trong con người bệnh ấy, bệnh tà không có
điều kiện xâm nhập làm thành bệnh được, mà người khỏe mạnh. Trọng Cảnh nói: “Thầy thuốc
giỏi chữa bệnh từ khi chưa phát bệnh” (Thượng công trị vị bệnh), có phải là thế chăng?
Giải thích quy luật âm dương của đông yĐông y theo những nguyên lý của năng lượng về
sinh lý:
Như vậy có thể giải thích tổng hợp và cụ thể âm và dương ở cơ thể con người trong y lý
đông phương là hai cái thế của khả năng phát huy sinh lực dưới hay trên một cái thế yêu cầu lấy
làm tiêu chuẩn quân bình của một cơ thể con người. Chúng là hai tỷ lệ so sánh giữa tổng sinh lực
phát sinh và tổng sinh lực tiêu hao đi. Âm và dương không phải là hai tính chất của một vật gì,
một chất gì như là tính lý hóa: vật này là âm, chất kia là dương, như người ta thường quan niệm
chất lượng là âm, năng lượng là dương chẳng hạn - đó là do nghĩa âm dương suy luận ra.
Trong đông yĐông y có quan niệm huyết âm, khí là dương, ngũ tạng là âm, lục phủ là
dương v.v…theo nhơ như chúng tôi hiểu: đó là cổ nhân dùng hai chữ âm dương làm dấu hiệu
nhận thức cái này với cái kia có quan hệ mật thiết với nhau.
Khi đã thống nhất được sự phát sinh tổng sinh lực và sự tiêu hao tổng sinh lực (tức là khôi
phục thế quân bình âm dương), thì cơ thể tự giải quyết tổng hợp tất cả những mâu thuẫn âm
16. TÌM HIỂU ĐÔNG Y
Tài liệu nội bộ - Công ty cổ phần Y Dược Lis
dương trong từng bộ phận, từng cục bộ - như đã nói ở trên – của toàn thân người bệnh.
TÍNH CHẤT CỤ THỂ CỦA CÁC CHẤT TRONG Y LÝ
Đối với con người, các chất trong thực phẩm, nhất là trong dược liệu, đều có tính chất
riêng: hoặc là ức chế, hoặc là hưng phấn sự phát huy sinh lực của cơ thể, không phải là do bản
chất những thực phẩm, những dược liệu ấy là âm hay là dương như có điện âm hay điện dương.
Chất nào có bản tính giảm phát huy sinh lực, hay đòi hỏi nhiều năng lượng quá trong sự đồng
hóa mà làm giảm sự phát huy sinh lực, hoặc nó tiêu hao quá nhiều số lượng sinh lực trong (bị
mất chữ)cơ thể nên nó mang tính chất hàn gọi là âm. Trái lại, chất nào có dặc tính đẩy mạnh sự
phát huy sinh lực, tăng cường sự hoạt động trong cơ thể nên nó mang tính chất nhiệt họi là
dương. Lại có chất có tính năng kích thích sự hoạt động sinh lý như tính năng tuần hoàn máu,
tăng hô hấp, tăng nhiệt độ v.v.. do đó, hô hấp đòi hỏi nhiều không khí, ăn uống đòi hỏi nhiều thứ
mát v.v.. đó là nó làm tăng trong một thời gian nào đó sự hoạt động trong sơ thể, có khi quá mất
cân đối, nên nó mang tính chất nhiệt nhất thời, cũng có thể gọi là giả nhiệt.
Vậy thì khái niệm âm dương trong y ký lý phương đông rõ ràng duy vật và khoa học, chứ
không phải siêu hình như ta tưởng.
Đông yĐông y phát minh lý thuyết âm dương - quy luật phổ biến chi phối thống nhất toàn
thể con người – cho nên đông yĐông y tuy thiếu tri thức về khoa học thực nghiệm như sinh lý
học, giải phẫu học, bệnh lý học, vi khuẩn học v.v… mà vẫn chữa khỏi bệnh một cách chắc chắn,
vì nắm được quy luật âm dương nói trên, tìm ra nguyên nhân tổng hợp gây phát dinh sinh ra
bệnh tật và các nguyên lý chữa khỏi tật bệnh.
CÁC HIỆN TƯỢNG VỀ SINH LÝ VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA NGƯỜI TẠNG NHIỆT VÀ
TẠNG HÀN
Muốn cho vấn đề về tạng nhiệt và tạng hàn được sáng tỏ hơn, chúng tối xin có ý kiến sau
đây :
Như trên chúng tôi đã trình bày, cái khả năng tổng hợp của cơ thể con ngưởi để phát huy số
sinh lực cần thiết cho sự sống có dư trên số lượng yêu cầu, có thể coi là tạng nhiệt (dương hữu
dư hay dương thiên thắng); cái khả năng tổng hợp của cơ thể con người để phát huy số lượng
sinh lực cần thiết cho sự sống ở dưới số lượng yêu cầu, có thể coi là tạng hàn (dương bất túc tức
âm hữu dư hay âm thiên thắng). Vì hạn chế về tri thức sinh lý học, chúng tôi không thể trình bày
cụ thể được bằng những trạng thái cơ bản về sinh lý học biểu diễn trong cơ thể con người tạng
nhiệt và tạng hàn, ví như tình hình, thành phần dinh thể (môi trường thay đổi chất của tế bào),
những sở trở ngại về sự đồng hóa và dị hóa trong tế bào, hay là sự phát tiết và bài tiết chẳng hạn.
Theo kinh nghiệm, ngoài những hiện tượng thông thường như chúng tôi đã nói ở trên,
chúng tôi nhận thấy người tạng nhiệt có bệnh nặng thường bị thiếu thành phần nước trong cơ thể,
hoặc thiết tân dịch (nội tiết và ngoại tiết) mà đông yĐông y quen gọi là âm hư. Người tạng hành
có bệnh nặng thường hay bị thừa thành phàn phần nước trong cơ thể, nên hay sinh ra nhiều đờm
dãi thành bệnh ho, han, phù thũng, cổ chướng v.v…hay phát nhiệt về chiều, về đông yĐông y
gọi là “nội hàn ngoại nhiệt”. Những bệnh nhận nhân tạng hàn uống thuốc bổ (bổ dương) thường
tự bài tiết ra nhiều nước hoặc đờm (do thổ, tiểu tiện, đại tiện, hãn theo tưng từng trường hợp)
trước khi khỏi bệnh. Những bệnh nhân mà chúng tôi gọi là tạng hàn, nếu họ được kiểm nghiệm
máu ở bệnh viện đều thấy số lượng hồng cầu của họ ít hơn số lượng trung bình, mà người nào
17. TÌM HIỂU ĐÔNG Y
Tài liệu nội bộ - Công ty cổ phần Y Dược Lis
mức độ tạng hàn càng nhiều thì số lượng hồng cầu càng ít. Đây cũng là một triệu chứng khá cụ
thể của người bị tạng hàn. Những điều kể trên là hiện trượng mấu chốt về sinh lý thường hiện ra
trên những người tạng nhiệt và tạng hàn trong khi họ có bệnh mà chúng tôi nhận thấy.
Vấn đề này, chúng tôi mong các nhà khoa học tây y lý hội cái khái niệm về tạng nhiêt nhiệt
và tạng hàn của chúng tôi đã trình bày để bổ sung bằng tài liệu khoa học cho vấn đề được thêm
phần cụ thể.
Điều kiện về sinh lý của âm dương có thể biểu hiện bằng thông số. Sơ bộ có những điều
kiện mà tây y đã nắm vững sau đây:
• Số hồng cầu trên một mm3? Khả năng sinh hồng cầu?
• Số bạch cầu trên một mm3? Khả năng sinh bạch cầu?
• Khả năng sinh nhiệt của máu?
• Nhiệt độ trung bình của máu?
• Tỷ lệ glucose trong máu (gr)? pH của máu?
• Tỷ lệ một số chất (vi lượng trong máu) có tính chất xúc tác?
• Áp suất trong máu?
• Sức mạnh tuần hoàn? Mạch và tim?
18. TÌM HIỂU ĐÔNG Y
Tài liệu nội bộ - Công ty cổ phần Y Dược Lis
SÁU LOẠI BỆNH HÌNH CỦA TRƯƠNG TRỌNG CẢNH
Từ thời xưa cách đây khoảng năm nghìn năm, Trung Quốc đã có khoa chữa bệnh bằng
khoa châm cứu, lấy lục kinh trong sách Nội kinh làm nền tảng.
Lý thuyết lục kinh quan niệm trong, cơ thể con người có hệ thống kinh lạc phân bố khắp cơ
thể từ đầu đến mình mẩy, chân tay, liên lạc từ bì phu qua cơ nhục vào phủ tạng, có quan hệ với
tác động sinh lý trong cơ thể (là một hệ thống đặc thù không phải hệ thống thần kinh), có có
chức năng chi phối quy luật âm dương giữa các phủ tạng, các bộ vị có quan hệ trực tiếp hoặc
gián tiếp với nhau thành một chỉnh thể thống nhất. Tác dụng kinh lạc tiến hành hoạt động sinh lý
theo quy luật âm dương trong khi cơ thể trong trạng thái chính thường. Khi cơ thể mất thế quân
bình âm dương, phát sinh bệnh biến ở bộ vị nào trong cơ thể, nó sẽ phản ánh mạch tượng và
chứng hậu đặc trưng ở bộ vị ấy. Do đó, thầy thuốc chuẩn đoán có cơ sở để phân biệt bệnh thuộc
tính chất âm thiên thắng hay dương thiên thắng và chữa, nhằm mục đích phục hồi thế quân bình
âm dương trong cơ thể thì bệnh sẽ khỏi.
Hệ thống kinh lạc có sáu đường kinh gọi là lục kinh: ba đường kinh thuộc về dương là:
kinh Thái dương, kinh Thiếu dương, kinh Dương minh: ba đường kinh thuộc về âm là: kinh Thái
âm, kinh Thiếu âm, kinh Quyết âm. Kinh thái dương chia ra kinh Thủ thái dương tiểu trường và
kinh Túc thái dương bàng quang; kinh Thiếu dương chia ra làm linh Thủ thiếu dương tam tiêu và
kinh Túc thiếu dương đởm; kinh Dương minh chia ra kinh Thủ dương minhh đại trường và kinh
Túc dương minh vị. Kinh Thái âm chia ra làm kinh Thủ thái âm phế và kinh Thúc thái âm tỷtỳ;
kinh Thúc thiếu âm thận; kinh Quyết âm cha ra kinh thủ Quyết âm tâm bào lạc và kinh túc Quyết
âm can. Những kinh kể trên cộng lại thành mười hai kinh gọi là “Thập nhị kinh mạch”. Kinh
mạch là đường đi của mười hai kinh. Kinh nào cũng từ tay và từ chân đi qua các bộ vị trên thân
thể rồi vào phủ, tạng, liên lạc với nhau có mạch lạc, có thống hệ. Học thuyết lục kinh là cơ sở
khoa học của đông yĐông y nói chung, của Khoa Châm cứu nói riêng.
Tổng kết tài liệu trong sách Nội kinh là một cách sáng tạo và có phát minh, Trọng Cảnh đã
hệ thống hóa và tinh giản hóa lý thuyết lục kinh vào trong sáu loại bệnh hình sáng lập ra phương
pháp Biện chứng luận trị. Sáu loại bệnh hình là: bệnh Thái dương, bệnh Thiếu dương, bệnh
Dương minh, bệnh Thái âm, bệnh Thiếu âm, bệnh Quyết âm. Ba loại bệnh dương thuộc bản chất
dương thiên thắng tức bệnh nhiệt, gọi là bệnh tam dương. Ba loại bệnh âm thuộc bản chất âm
thiên thắng tức bệnh hàn, gọi là bệnh tam âm. Sáu loại bệnh này, mỗi loại có mạch tượng và một
nhóm hậu chứng đặc chưng của nó đi đôi với nhau làm mục tiêu để nhận thức từng loại bệnh và
những phương thuốc thích nghi cho những trường hợp bệnh biến của từng loại bệnh ấy.
Xin trình bày sáu loại bệnh hình sau đây:
1. Bệnh Thái dương, mạch phù, đầu nhức, gáy cứng, phát nhiệt mà sợ rét (đề cương). Bệnh
tà có tính chất nhiệt ở cơ biểu, tức là ở vào phần tổ chức mặt ngoài của cơ thể.
2. Bệnh Thiếu dương, mạch huyền tế hoặc trầm khẩn, miệng đắng, cổ họng khô, mắt hoa,
phát cơn rét đến cơn nóng, trong lồng ngực và hai bên sườn đầy hơi bí bách lắm, người
lìm lịm không muốn ăn uống, tim rạo rực, hay buồn nôn (đề cương). Bệnh tà cũng có
tính chất nhiệt ở bán biểu bán lý, tức là bệnh tà không ở cơ biểu mà cũng không ở phủ
tạng, ở vào khoảng xoang ngực và xoang bụng trên.
3. Bệnh Dương minh, mạch dại, bệnh tà có tính chất cực nhiệt xung thực, (chứa đầy) ở dạ
dày và ruột, toàn thân nóng có mồ hôi, không sợ rét mà sợ nóng (đề cương). Bệnh
Dương minh có hai chức trạng:
19. TÌM HIỂU ĐÔNG Y
Tài liệu nội bộ - Công ty cổ phần Y Dược Lis
a. Toàn thân nóng lắm, ra nhiều mồ hôi, miệng khát, lưỡi khô, tim rạo rực, trong ruột
không có phân táo kết, nhiệt tạ tà ở dạ dày, ruột và tán mạn khắp thân thể từ trong ra
ngoài cơ phục. Mạch tượng hiện ra phù hoạt hoặc hồng dại. Đó gọi là chứng “Dương
minh kinh”.
b. Về chiều hôm phát cơn trào nhiệt (cơn nóng lên xuống đúng giờ), tay chân dâm dấp
mồ hôi, bụng đầy cứng mà đau, đại tiện bí kết, mê man nói nhẩmnhảm, bệnh nặng thì
tinh thần hoảng hốt, mê man không biết sự việc gì, nhãn cầu lờ đờ mất vẻ trong sáng,
mắt nhìn trừng trừng, có cơn ho, tay suyễn nhẹ, tay quờ quạng (tục gọi là “bắt chuồn
chuồn”); lưỡi có khi có gáu vàng hoặc đen, trên mặt lưỡi có nổi gai và nóng hôi hổi.
Mạch tượng hiện ra trầm, thực mà có lực. Đó gọi là chứng “Dương minh phủ”, cũng
gọi là chứng “Chính dương dương minh”… Chứng này nguy cấp hơn chứng trên, và
là chứng nặng nhất trong ba loại bệnh tam dương.
4. Bệnh Thái âm, mạch hoãn và nhược, bụng đầy và đau từng lúc, ăn vào thì thổ ra, đi
ngoài luôn luôn (đề cương). Bệnh tà có tính chất hàn tỳ và vị (bệnh này khác với bệnh
Dương mình là hàn ở tỳ và vị thuộc về chứng hư; (bệnh Dương minh thì nhiệt tà ở vị và
trường thuộc chứng thực).
5. Bệnh Thiếu âm, mạch vi, tế, chỉ sợ rét không sợ nóng, mà chỉ hay buồn ngủ (tinh thần
bạc nhược, mắt lơ mơ có trạng thái nửa thức nửa ngủ), tay chân giá lạnh (đề cương).
Bệnh tà có tính chất cực hàn chủ yếu ở tâm và thận, hàn tà còn ở khắp cơ thể từ trong
phủ tạng ra ngoài cơ nhục. Đề cương của bệnh thiếu âm chỉ cử ta ra mạch tượng và
chứng hậu đặc trương: chỉ hay buồn ngủ của nó làm mục tiêu để phân biệt với năm loại
bệnh hình kia, nhất là phân biệt với bệnh Dương minh; vì hai loại bệnh này, trong khi có
sốt thương hàn, thường hay phát hiện những chứng trạng tương đối giống nhau; nếu
không chú ý có tế nhận đề cương của hai bệnh, sẽ có thể nhầm lẫn thì rất nguy hiểm.
Bệnh Thiếu âm có chững chứng hoãn và chứng cấp đều là bệnh nặng.
6. Bệnh Quyết âm,. Mạch mạch vi, tế, hầu như muốn tuyệt hoặc trầm, trì, vô lực, tiêu khát
(khát và uống nước không khỏi khát), khí từ hạ tiêu đưa lên xúc động vào tim, trong tim
nóng và đau, bụng đói mà miệng không muốn ăn, ăn vào thì thổ ra giun, nếu uống thuốc
hạ (hạ phân táo) thì đi ngoài không dứt (đề cương). Bệnh tà căn bản thuộc hàn, có khi
phần nửa người bên dưới là lạnh dồn nhiệt lên trên, cho nên nửa phần người bên trên
nóng, do đó bệnh Quyết âm gọi là chứng thượng nhiệt hạ hàn; cũng gọi là chứng âm
thắng dương thắng phục vì khi dương thắng thì nhiệt, âm thắng thì hàn. Bệnh tà chủ yếu
ở can và tâm bào lạc là loại bệnh rất nguy cấp. (sẽ có ý kiến về bệnh Quyết âm ở phần
Tâm đắcTâm đắc).
Sáu loại bệnh hình này (cũng có thể gọi là sáu phạm trù bệnh tật), mỗi loại bệnh biểu hiện
thể chất cỉa của bệnh nhân như tạng hàn, tạng nhiệt; mức độ hàn nhiệt nhiều hay ít; bộ vị phát
bệnh nông hay sâu; bệnh tình hoãn hay cấp. Nói chung là âm dương, hàn nhiệt, hư thực, biểu lý,
thủy hỏa, khí huyết, phủ tạng, tính khí thần cho đến ngũ hành sinh khắc, không nói đến mà đã
bao hàm ở trong thân thể phải chăng là sáu trạng thái của thân thể?
Bệnh tam dương có tính bệnh và hợp bệnh.
Khi mới phát bệnh, ví như bệnh Thái dương chưa điều trị bệnh chưa khỏi, bệnh chuyển
sang bệnh Thiếu dương (bệnh Thái dơpng dương phát ra nướctrước, bệnh Thiếu dương phát ra
sau mà bệnh Thái dương còn tồn tại) gọi là Thái dương Thiếu dương tính bệnh; bệnh Thái dương
có trước chưa khỏi lại chuyển sang bệnh Dương minh gọi là Thái dương Dương minh tính bệnh.
20. TÌM HIỂU ĐÔNG Y
Tài liệu nội bộ - Công ty cổ phần Y Dược Lis
Bệnh Thái dương và bệnh Thiếu dương đồng thời cùng phát gọi là Thái dương Thiếu
dương hợp bệnh; bệnh Thiếu dương và bệnh Dương minh đồng thời cùng phát bệnh gọi là Thiếu
dương Dương minh hợp bệnh. Cả ba bệnh cùng phát một lúc gọi là tam dương hợp bệnh. Tính
bệnh và hợp bệnh có phương pháp điều trị khác nhau.
Bệnh Tam âm không có tính bệnh mà có kiêm bệnh.
Lại như bệnh nghịch trị là bệnh do thầy thuốc chữa sai nguyên tắc thành ra biến chứng,
Trọng Cảnh có phương pháp cứu nghịch để cứu vãn những trường hợp ấy.
BẢN SẮC CỦA SÁCH THƯƠNG HÀN LUẬN
Căn cứ vào tên sách là Thương Hàn Luận và tài liệu trong sách Nội Kinh giải thích bệnh
thương hàn: “Đông thương vu hàn, xuân tất bệnh ôn” (Mùa đông cảm hàn khí, sang xuân thành
bệnh ôn nhiệt), người ta quan niệm phương pháp trị bệnh của Trọng Cảnh chỉ chữa bệnh thương
hàn truyền nhiễm thuộc chứng ôn nhiệt mà thôi. Bởi vây, học thuyết Trọng Cảnh không được
phổ cập trong y giới. Sự thực thì sách Thương Hàn Luận vạch ra phương pháp “Biện chứng luận
trị” chữa đa số các bệnh kể cả ngoại cảm nội thương, hư lao, truyền nhiễm, thần kinh cho đến
bệnh ngoài da với những dược phương đích đáng cho các loại bệnh ấy.
Đặc điểm nữa của Trọng Cảnh đã thành lập, quy nạp những cái phức tạp – phải suy luận,
nhận xét bối rối khó khăn – như âm dương, hàn nhiệt, hư thực, biểu lý, thủy hoả, khí huyết, phủ
tạng, khinh khí thần, bộ vị phát bệnh, bệnh tình, bệnh thế cho tới ngũ hành sinh khắc v.v…vào
trong từng bệnh hình trong sáu bệnh hình đã nói trên. Qua thực tiễn lâm sàng của bản thân,
chúng tôi nhận thấy quả thực là như vây.
Thương Hàn chỉ có sáu loại bệnh hình mà nói là chữa đa số các bệnh, mới nghe không khỏi
hoài nghi.
Nguyên lai thuộc sáu loại bệnh hình thuộc vào sáu kinh trong thân thể con người, chúng là
sáu môi trường thụ bệnh, hay nói cách khác, chúng là sáu nguyên nhân có trước của bệnh tật. Bởi
vì nếu một kinh, có khi hai, ba kinh trong thân thể mất thế bình quân âm dương ( nguyên nhân có
trước) thì bệnh tà (nguyên nhân có sau) mới có điều kiện xâm phạm vào một, hai, ba kinh ấy mà
phát bệnh. Chữa bệnh là chữa nguyên nhân có trước (môi trường thụ bệnh), không phải là chữa
nguyên nhân có sau (bệnh danh). Do đó, vô luận bệnh gì, một khi môi trường đã không còn thích
hợp với bệnh thì bệnh phải hết.
Sở dĩ Trọng Cảnh không gọi là sáu kinh mà gọi là sáu bệnh, là ông tinh giản hóa với tính
cách lập thành thuyết lục kinh vào trong sáu loại bệnh hình ấy, để cho dễ phổ cập, khỏi phải nhận
thức với tài liệu phiền phức của thuyết lục kinh. Đó là điều độc đáo của Hán y.
Chữa bệnh theo thương hàn luận là biện chứng xem bệnh thuộc vào phạm trù loại bệnh
hình nào trong sáu loại bệnh hình, sẽ chữa theo lệ chữa loại bệnh hình ấy.
Ví dụ: chữa bệnh tả chẳng hạn, kể cả bệnh dịch tả: nếu thấy mạch vi tế, tay chân quyết
lãnh, sợ rét mà không sợ nóng, mắt như buồn ngủ (mạch tượng và chứng hậu đặc trưng giống
như đề cương của bệnh Thiếu âm), chữa bệnh tả sẽ theo lệ chữa bệnh Thiếu âm; nếu thấy mạch
địa, mạch sác hoặc mạch hoạt, có khi mạch trầm mà hữu lực, không sợ rét mà sợ nóng, nếu khát
thì uông uống nhiều nước và ưa nước nguội (mạch tượng và chứng hậu đặc trưng giống như đề
cương của bệnh Dương minh), chữa bệnh tả theo lệ chữa bệnh Dương minh; nếu thấy mạch hoãn
và nhược, bụng đầy và đau từng lúc, ăn vào thì thổ, đi ngoài luôn luôn (mạch tượng và chứng
21. TÌM HIỂU ĐÔNG Y
Tài liệu nội bộ - Công ty cổ phần Y Dược Lis
hậu đặc trưng giống đề cương bệnh Thái âm), chữa bệnh tả sẽ theo lệ chữa bệnh Thái âm. Bệnh
tả còn nhiều phụ chứng khác như đau bụng, ra nhiều mồ hôi, khát, bí tiểu tiện, co quắp tay chân,
seo da đầu ngón tay v.v… có phụ chứng này hay phụ chứng khác không kể, vẫn căn cứ vào
mạch tượng và chứng hậu đặc trưng giống như đề cương của loại bệnh hình nào, sẽ chữa theo lệ
chữa bệnh hình ấy, phụ chứng sẽ cùng khỏi với bệnh.
Một ví dụ khác: chữa bệnh sốt rét, kể cả bệnh sốt rét rừng:
• Nếu thấy mạch tượng và chứng hậu đặc trưng giống đề cương bệnh Thiếu dương, sẽ
chữa khỏi bệnh sốt rét theo lệ chữa bệnh Thiếu dương.
• Nếu thấy mạch tượng và chứng hậu đặc trưng giống đề cương bệnh Thiếu âm, sẽ
chữa khỏi bệnh sốt rét theo lệ chữa bệnh Thiếu âm.
Các bệnh khác đều theo tôn chỉ ấy. Dĩ nhiên là phải sử dụng phương dược cho thích đáng
có gia giảm, số lượng thuốc nhiều hay ít, hoặc phối hợp hai, ba phương trong một bệnh tùy từng
trường hợp.
Qua đó chứng minh rằng phương pháp trị bệnh của Trọng Cảnh chữa môi trường thụ bệnh
mà khỏi bệnh.
NGUYÊN TẮC QUÂN BÌNH ÂM DƯƠNG TRONG SÁU LOẠI BỆNH HÌNH TAM
DƯƠNG VÀ TAM ÂM.
Ba loại bệnh tam dương đều là chứng thực thuộc bản chất nhiệt tức là dương thiên thắng.
phương pháp trị liệu đại khía khái như bệnh Thái dương môi trường thụ bệnh ở cơ biểu, dùng
thuốc phát hãn để khu trục bệnh tà; bệnh Thiếu dương môi trường thụ bệnh ở bán biểu bán lý,
dùng thuốc hòa giải để khu trục bệnh tà; bệnh Dương minh, môi trường thụ bệnh ở vị, trường;
nếu là trường hợp chứng Dương minh phủ, sẽ dùng thuốc hạ đẻ để khu trục bệnh tà; nếu trường
hợp là chứng Dương minh kinh, sẽ dùng thuốc thanh giải để khu trục bệnh tà v.v… những phép
phát hãn, hòa giải, hạ, thanh giải là những phương tiện khác nhau để khu trục bệnh tà mà cứu
cánh chung vẫn triệt bớt phần dương thiên thắng để phục hồi thế quân bình âm dương trong cơ
thể, đem lại trạng thái chính thường. Đó là “tà khứ chính an” (khu trục hết bệnh tà thì chính khí
trở lại an toàn).
Ba loại bệnh tam âm đều là chứng hư thuộc bản chất hàn, tức là âm thiên thắng (âm thiên
thắng chủ yếu là do dương suy). Phương pháp trị liệu lại khác hẳn: không dùng những phép phát
hãn, hòa giải, hạ, thanh giải như trên, mà cả ba lọa loại bệnh đều chỉ dùng phép ôn bổ để khu trục
bệnh tà. Tuy phương dược của từng loại bệnh có khác nhau, mà căn bản những phương dược ấy
vẫn nhằm mục đích ôn bổ, nghĩa là bù phần dương thiếu. chủ yếu trị vào căn nguyên của phần
âm thiên thắng, phục hồi thế quân bình âm dương trong cơ thể; một khi cơ năng đầy đủ sẽ tự khu
trục bệnh tà bằng cách tự hãn, tự hạ, tự giải , tự nâng cao nhiệt năng v.v…tùy thuộc môi trường
thụ bệnh nông sâu, hay bệnh tình nặng hay nhẹ, bệnh thế hoãn cấp, đem lại trạng thái chính
thường cho cơ thể. Đó là chính an tà khứ (chính khí trở lại an toàn sẽ tự khu trục bệnh tà đi hết).
Qua kinh nghiệm lâm sàng của chúng tôi: những bệnh tam âm do đờm ẩm, thủy khí tích tụ
quá nhiều trong cơ thể như bệnh cổ chướng, bệnh phù thũng v.v… có thể dùng thuốc ôn hạ để
khu trục đờm ẩm, thủy khí ra ngoài qua đường đại tiện, rồi dùng thuốc ôn bổ, chính khí trở lại, sẽ
tự khu trục thủy khí, đờm ẩm ra ngoài trước khi khỏi bệnh. Nếu bệnh nhẹ hơn thì sẽ không có sự
bài tiết thủy khí, đờm ẩm mà khỏi bệnh.
Nếu không nắm vững quy tắc ấy, chữa bệnh tam dương bằng phương pháp trị bệnh tam
22. TÌM HIỂU ĐÔNG Y
Tài liệu nội bộ - Công ty cổ phần Y Dược Lis
âm, sẽ có thể gây tai họa cho bệnh nhân. Chữa bệnh tam âm bằng phương pháp trị bệnh tam
dương sẽ có thể xảy ra biến chứng, có những trường hợp thành hoại bệnh không cứu vãn được.
với quy tắc trị liệu bệnh tam dương và tam âm trên đây, và qua quá trình thực tiễn kinh nghiệm
quá trình lâm sàng của bản thân, chúng tôi rút ra một nguyên tắc như sau:
• Dương thịnh âm suy thì phải phạt dương để cứu âm (bớt dương đi để phục hồi thế
quân bình).
• Âm thịnh dương suy thì phải bổ dương để chống âm (thêm dương vào để phục hồi thế
quân bình).
Như thế có nghĩa là :
• Dương thiên thắng thì thương tổn âm tức tân dịch (nội tiết và ngoại tiết), cho nên phỉa
phải triệt bớt dương để bảo vệ âm, bởi vậy dương thiên thắng không có phép bổ âm
mà chỉ có phép triệt bớt dương để phục hồi thế quân bình (đó là phép nhiệt giả hàn
chi trong sách Nội kinh).
• Âm thiên thắng chủ yếu là dương suy, nên phải bổ dương để chống âm, bởi vậy âm
thiên thắng không có phép triệt bớt âm mà chỉ có phép bổ dương để phục hồi thế quân
bình (đó là phép hàn giải nhiệt chi trong sách Nội kinh).
Nguyên tắc quân bình âm dương về loại bệnh tam âm giải quyết như vậy là rất khoa học,
khác nào như giải một bài toán về đại số, muốn hạôn shaj giá trị tuyệt đối của một con số âm (-)
thì phải cộng thêm một con số dương (+), chứ không phải bớt âm (-) bằng cách trừ âm (-).
Ngoài ra Trọng Cảnh đôi khi cũng phối hợp châm cứu với phương dược. Để nâng cao hiệu
quả trị liệu và tiết kiệm thuốc, chúng ta cũng có thể làm như vâyvậy.
Theo chúng tôi nghĩ, việc phối hợp này dựa tên nguyên tắc: công thức, mức độ châm cứu
và phương thang phải thống nhất với nhau để cùng đạt mục đích quân bình âm dương, cụ thể là:
• Đối với bệnh tam dương, bản chất dương thiên thắng, phép chữa là phạt dương (phát
hãn, hòa giải, tả, thanh giải) để cứu âm, nên dùng phép châm.
Trong mỗi bệnh hình tam dương có phân ra :
Một chứng thực tương đối mà Trọng cảnh kèm thêm tiếp vị ngữ trúng phong, nên
dùng phép châm tả là chủ yếu.
Một chứng hư tương đối mà Trọng Cảnh kèm thêm tiếp vị ngữ thương hàn, nên
dùng phép châm bổ, hoặc bình bổ, bình tả là chủ yếu.
• Đối với bệnh tam âm, bản chất dương suy, phép chữa là bổ dương (ôn bổ), nên dùng
phép ôn châm và cứu là chủ yếu.
Xin chú ý những điều sau đây:
Dương thiên thắng, do nhiệt làm tiêu hao tân dịch mà gọi là dương thịnh âm suy, có nghĩa
là vì dương thịnh làm thương tổn âm, âm là tân dịch. Gọi tân dịch là âm, bởi sự chuyển hóa trong
cơ thể tạo thành tân dịch (nội tiết và ngoại tiết) đòi hỏi nhiều năng lượng. Bệnh tam dương dùng
biện pháp công, tả, hòa giải, thanh giải đều là phương pháp phạt phần dương thừa. Nếu không
phạt dương kịp thời, thì nhiệt sẽ làm tiêu hao tân dịch (âm), như vậy là vì dương làm thương tổn
âm, chứ không phải vì thiếu âm mà sinh ra phát nhiệt (đây là chân tượng nhiệt). Do thiếu khách
quan do nhận định, lấy quả làm nhân, khiến cho hiểu nhầm như thế. Chúng ta chớ thấy người
xưa dùng lương dược, âm dược đề hòa giải nhiệt, thanh giải nhiệt - phạt phần dương thiên thắng
- mà cho là bổ âm. Quan niệm như vậy là sai nguyên tắc quân bình âm dương. Nên hiểu theo
nghĩa nhiệt giả hàn chi.
Âm thiên thắng, tức là dương suy, không đủ năng lượng cần thiết để chuyển hóa thành tân
23. TÌM HIỂU ĐÔNG Y
Tài liệu nội bộ - Công ty cổ phần Y Dược Lis
dịch, mà thành ra dương suy tới một mức độ nào đó thành ra âm cũng hư, trên thực tế có nghĩa là
thiếu tân dịch (âm). Do thiếu tân dịch, cơ thể sinh ra những giả tượng nhiệt (khát nước, khô môi,
lở lưỡi, lở miệng, mặt đỏ, phát trào nhiệt, đại tiện táo…). Cũng bởi nhận xét thiếu khách quan,
người ta cho là âm hư phát nhiệt, có nghĩa là vì thiếu âm mà sinh ra phát nhiệt. Cũng do sự lấy
quả làm nhân như trên, không phân biệt chân tượng nhiệt và giả tượng nhiệt, dẫn đến hiểu nhầm
là âm hư mà phát nhiệt, nên quen dùng phương pháp bổ âm để chữa như chữa các bệnh dương
thiên thắng. Đó cũng là làm sai nguyên tắc quân bình âm dương (đáng lẽ phải bổ dương).
Trong ba loại bệnh âm thiên thắng, để khôi phục thế quân bình âm dương, chủ yếu dùng
phép ôn bổ (bổ dương). Gặp trường hợp giả tượng nhiệt, biểu hiện một cách trầm trọng, thêm
vào những bài thuốc ôn bổ phải tạm thời dùng một vài vị lương dược để giải quyết giả tượng
nhiệt ấy; khi giả tượng nhiệt đã hết, bỏ ngay lương dược để ôn dược phát huy đầy đủ tác dụng
trong việc giải quyết mâu thuẫn âm dương trong cơ thể. Khi thế quân bình âm dương trong cơ
thể đã được khôi phục, giả tưởng nhiệt mất hẳn, đồng thời bệnh khỏi và người trở nên khỏe
mạnh.
Quân bình âm dương là thống nhất hai mặt mâu thuẫn, khả năng phát sinh và khả năng tiêu
hao sinh lực, đưa đến một thế cân đối âm dương.
Âm dương trong y lý là hai cái thế so sánh giữa tổng sinh lực cơ thể tiêu hao đi, lấy một
thế quân bình làm tiêu chuẩn (âm dương là hai tỷ lệ, chứ không phải là hai trạng thái đơn độc).
Mỗi người có một thế bình quân âm dương, luôn biến chuyển theo những tác động phức tạp của
sinh lý cơ thể. Nghĩa là trạng thái động, không phải là trạng thái tĩnh ; không nên cho rằng âm
dương là hai khối lực lượng bí hiểm nào đó quân bình ngang nhau trong cơ thể con người.
Ý NGHĨA CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG LUẬN TRỊ
Nói về biện chứng luận trị, chúng tôi xin phân biệt hai danh từ chứng hậu và chứng trạng
khác nhau như thế nào :
Chứng trạng là những hiện tượng phát nhiệt, sợ rét, nhức đầu, ẩu thổ, nói mê, lưỡi đen,
lạnh chân v.v…
Chứng hậu là nhóm chứng trạng đồng thời cùng phát, tổng hợp thành một đề cương của
một bệnh hình nào đó trong sáu loại bệnh hình tam dương và tam âm.
Những bệnh mà cùng một bệnh danh mà khác chứng hậu và mạch tượng thì phép trị
bệnh khác nhau; những bệnh có bệnh danh khác nhau mà chứng hậu và mạch tượng giống
nhau thì phép trị bệnh cùng chung một phương pháp.
Xin thuyết trình cụ thể :
Ví dụ chuẩn đoán bệnh phế viêm. Ngoài những chứng trạng biểu hiện bệnh phế viêm, lại
có chứng hậu ; phát nhiệt, sợ gió, đau khớp xương, đau mình, đau lưng, phát suyễn, không có mồ
hôi, mạch phù khẩn: đó là bệnh phế viêm thuộc phạm trù bệnh Thái dương, phải uống bài Ma
hoàng thang để phát hãn thì khỏi.
• Bệnh phế viêm mà có chứng hậu : trong lồng ngực và hai bên sườn đầy hơi bí bích
lắm, người lìm lịm không muốn ăn uống, mạch phù tế. Đó là bệnh phế viêm thuộc
phạm trù bệnh Thiếu dương, phải uống bài Tiều sài hồ thang để hòa giải thì khỏi.
• Bệnh phế viêm mà có chứng hậu : khạc ra đờm, trong nhực bĩ ngạch (tình trạng bế tắc,
cứng rắn), không nằm yên được, khí xung lên yết hầu, thốn mạch vi phù, đó là bệnh
24. TÌM HIỂU ĐÔNG Y
Tài liệu nội bộ - Công ty cổ phần Y Dược Lis
phế viêm thuộc phạm trù bệnh Thái dương mà bệnh độc uất trệ ở hung bộ, nên phải
uống bài Qua đế tán cho thổ ra thì khỏi.
• Bệnh phế viêm mà có chứng hậu : không đi đại tiện được, phúc bộ đầy cứng, phát
suyễn, trào nhiệt, nói mê, mạch trầm trì có lực, đó là bệnh phế viêm thuộc phạm trù
bệnh Dương minh, phải uống bài Đại thừa khí thang để hạ thì khỏi.
• Bệnh phế viêm mà có chứng hậu : phát nhiệt, sợ rét, chân tay lạnh, mắt như buồn ngủ,
mạch vi tế, đó là bệnh phế viêm thuộc phạm trù bệnh Thiếu âm, phải uống bài Phục
linh tứ nghịch khứ sâm gia quế thang, thêm tế tân, chế bán hạ, để ôn bổ thì khỏi.
Năm trường hợp bệnh phế viêm, mỗi trường hợp chữa một khác, vì chúng cùng một bệnh
danh mà môi trường phát bệnh và bản chất phát bệnh khác nhau.
Một ví dụ khác: chẩn đoán bệnh phế kết hạch, bệnh trường viêm, bệnh thận viêm chẳng
hạn. Nếu ba bệnh ấy, ngoài những chứng trạng biểu hiện về từng bệnh, lại có chứng hậu trong
lồng ngực và hai bên sườn đầy hơi bí bích lắm, mạch phù tế, chứng hậu và mạch tượng cùng
giống nhau, thì chữa cả ba bệnh ấy theo lệ chữa bệnh Thiếu dương, vì bệnh danh tuy khác nhau
mà môi trường và bản chất của bệnh là một. Nếu ba bệnh ấy đều có chứng hậu phát nhiệt sợ rét,
chân lạnh, mắt như buồn ngủ, mạch vi tế, chứng hậu và mạch tượng cùng giống nhau, thì chữa cả
ba bệnh ấy theo lệ chữa bệnh Thiếu âm, vì bệnh danh tuy khác nhau mà môi trường và bản chất
của bệnh là một.
Nhà danh y Nhật Bản Đại Trủng Kinh Tiết nói về tôn chỉ của Thương hàn luận: “Kỳ chứng
nhược đồng tắc vạn bệnh nhất phương; kỳ chứng nhược dị tắc nhất độc vạn phương”, nghĩa là
một phương thuốc có thể chữa muôn bệnh khác nhau, nếu những bệnh ấy có chung một chứng
hậu (những bệnh ấy có cùng chung một môi trường, một bản chất); những bệnh có cùng chung
một bệnh danh mà chứng hậu của chúng khác nhau (môi trường và bản chất của những bệnh ấy
khác nhau), thì những bệnh cùng một bệnh danh ấy sẽ chữa với muôn phương thuốc khác nhau.
Có thể lấy câu ấy tổng kết phép biện chứng luận trị.
Có lẽ có người sẽ hỏi tại sao không thêm những vị hàn lương như sinh địa, mạch môn
v.v… để chuyên chữa bệnh phế viêm vào những bài thuốc trong năm trường hợp chữa bệnh phế
viêm ở trên đây? Xin trả lời rằng: những bài Ma hoàng thang, Tiểu sài hồ thang, Qua đế tán, Đại
thừa khí thang là những bài thuốc không trực tiếp chữa bệnh phế viêm, mà chúng là những
phương đi đôi với pháp để chữa những bệnh thuộc phạm trù bệnh tam dương, cho nên không
phải thêm vị nào khác. Ví dụ như bệnh phế viêm thuộc loại bệnh Thái dương, pháp là phát hãn,
phương là Ma hoàng phương, uống thuốc cho ra mồ hôi thì khỏi.
• Bệnh phế viêm thuộc loại bệnh Thiếu dương, pháp là hòa giải, phương là Tiểu sài hồ
thang, uống thuốc cho môi trường bán biểu, bán lý được hòa giải thì khỏi.
• Bệnh phế viêm thuộc loại bệnh Thái dương mà bệnh độc uất trệ ở hung bộ, pháp là
thổ, phương là Qua đế tán, uống thuốc cho thổ ra thì khỏi.
• Bệnh phế viêm thuộc loại bệnh Dương minh, pháp là hạ, phương là Đại thừa khí
thang, uống thuốc cho đi ngoài được thì khỏi.
Dùng phép hãn, hòa giải, thổ, hạ, là những phép để triệt bớt phần dương thiên thắng nhằm
khôi phục thế quân bình âm dương trong cơ thể. Khi cơ thể thống nhất mâu thuẫn giữa âm và
dương thì sẽ tự chữa khỏi bệnh.
Còn những bệnh thuộc phạm trù bệnh tam âm, pháp của ba loại bệnh Thái âm, Thiếu âm và
Quyết âm đều là ôn bổ (bổ dương), cho nên dùng những bài ôn bổ có thể gia những vị trực tiếp
chữa một bệnh nào đó, ví như bệnh phế viêm thuộc loại bệnh Thiếu âm, dùng bài Phục linh tứ
25. TÌM HIỂU ĐÔNG Y
Tài liệu nội bộ - Công ty cổ phần Y Dược Lis