Thị xã Quảng Trị qua các thời kỳ lịch sử
Từ thời đại Hùng Vương theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi thì vùng đất Quảng Trị
xưa thuộc một trong 15 bộ của nước Văn Lang, Âu Lạc với tên gọi là Việt Thường Thị.
Thời Triều Việt vương, đổi làm nội bản của châu Bắc Cảnh thuộc nước Nam Việt, đây là
phên dậu thứ tư về phương Nam(1). Học giả Đào Duy Anh dẫn Việt Nam sử lược và
cho rằng Việt Thường Thị là vùng đất thuộc Hà Tĩnh ngày nay; còn Nhật Nam mới là
vùng Bình Trị Thiên và Quảng Nam ngày nay(2). Các nhà khảo cổ học thì chứng minh
trong giai đoạn tiền Chămpa ( nhất la từ giữa thế kỷ I tr.CN đến đầu CN), vùng đất
Quảng Trị ngày nay trực thuộc tiểu quốc Bắc Chăm, nằm trong vùng Amaravati. Bộ
phận cư dân ở đây mặc dù không thuộc hệ chính thống của bộ lại Dừa (Narikela
vams’a), cư trú vùng Bắc đèo Hải Vân - nhưng họ cũng là hậu duệ của cư dân Sa Huỳnh
mà tuyến phát triển của nó là từ Bàu Tró lên Sa Huỳnh và lên Chăm cổ. Bộ phận cư dân
này thuộc nhóm tộc Mã Lai - Đa đảo vốn có đời sống riêng và có thể đã hình thành nên
một tiểu quốc riêng bên cạnh tiểu quốc của bộ lạc Dừa trước và trong khi bị lệ thuộc
vào người Hán phương Bắc.
Năm 111 tr.CN, nhà Hán thay thế nhà Triệu xâm lược nước ta. Ngoài hai quận
Giao Chỉ, Cửu Chân, nhà Hán chiếm vùng đất Bắc Chăm và lập ra quận Nhật Nan (3).
Quận Nhật Nam có năm huyện: Tây Quyển, Tỉ Ảnh, Chu Ngô (Vô Lao), Lô Dung và
Tượng Lâm. Quận trị lúc đầu đóng ở Tây Quyển, về sau dời sang Chu Ngô (4). Theo học
giả Đào Duy Anh thì Ti Ảnh có thể là huyện Địa Lý và Ma Linh sau này, còn Chu Ngô
chắc là vùng đất thuộc lưu vực sông Thạch Hãn sau đổi thành Châu Ô (5). Như vậy,
Quảng Trị cổ lúc ấy có thể thuộc một phần của huyện Tỉ Ảnh và toàn bộ huyện Chu
Ngô. Tuy nhiên, sự cai trị của nhà Hán đối với vùng này có lẽ rất lỏng lẽo chứ không
như ở Giao Chỉ, Cửu Chân.
Khi vương quốc cổ của người Chăm được thành lập từ thế kỷ II sau cuộc khởi
nghĩa vũ trang giành độc lập của Khu Liên/Ku Rung (tộc trưởng/ vua) vào năm 190
niên hiệu Sơ Bình, tiêu diệt bộ máy đô hộ ở Tượng Lâm( Quảng Nam ngày nay), xây
dựng quốc gia Lâm Ấp từ Nam Hải Vân trở vào; người Chăm đã nhanh chóng Bắc tiến
đem quân đánh chiếm các huyện còn lại của Nhật Nam (năm 349 dưới thời Phạm Văn),
lấy Hoành Sơn làm biên giới phía Bắc (6), chia đặt lại thành 5 châu (theo tên gọi của cổ sử
Việt Nam, là: Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh, Ô, Rí (Lý). Tuy nhiên, trong nhiều thế kỷ sau
đó, mặc dù về cơ bản là đất Chămpa nhưng từ Đèo Ngang đến Hải Vân là vùng tranh
chấp Hoa - Chăm kéo dài cho tới thế kỷ X. Vì thế, đây là vùng đệm của văn hóa Hán,
Việt Cổ - Chăm cổ. Quảng Trị nằm trong cùng đệm ấy với 2 châu là Ma Linh và Châu
Ô. Lỵ sở châu Ma Linh nằm ở thành Cổ Lũy (Vĩnh Giang nay) và lỵ sở châu Ô nằm ở
thành Thuận Châu (Triệu Long nay).
Từ thế kỷ XI trở đi, vùng đất Quảng Trị lần lượt được đặt dưới quyền quản lý
của người Việt. Bắt đầu từ chiến dịch chinh phạt của quốc gia Đại Việt do vua Lý Thánh
Tông và Lý Thường Kiệt cầm quân đánh vào Vijaya (Chà Bàn), bắt được vua Chăm là
Chế Củ (Yan Cri Rudravarman hay Rudravarman IV) vào năm 1069, đã dẫn tới một
cuộc trao đổi ngang giá trong lịch sử giữa việc bảo toàn mạng sống của một vị vua
Chăm thất trận với việc giao vùng đất rộng lớn gồm 3 châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh
cho Đại Việt đã diễn ra. (Trước đó cuộc thân chinh của Lê Hoàn năm (982) vào đất
Chăm đã tiêu diệt vương triều Indrapura (Đồng Dương) nhưng chỉ đánh rồi về). Từ
đây, một phần đất Quảng Trị là châu Ma Linh thuộc về người Việt. Để hợp thức hóa
lãnh thổ, năm 1075, nhà Lý đã đổi châu Địa Lý thành châu Lâm Bình, châu Ma Linh
thành châu Minh Linh(7) (bao gồm huyện Vĩnh Linh, Gio Linh và một phần đất của thị
xã Đông Hà (phía bắc sông Hiếu, Cam Lộ ngày nay), đặt quan cai trị, chiêu mộ nhân
dân đến các khai thác.
Dưới thời nhà Trần, nhờ mối quan hệ giao hảo giữa hai quốc gia Chăm - Việt
ngày càng được tăng cường (mặc dù vẫn có vài xung đột nhỏ) nên đã tạo tiền đề cho
cuộc tình duyên lịch sử giữa công chúa Đại Việt là Huyền Trân với người đứng đầu
vương quốc Chăm là Chế Mân (Jaya Shimhavarman III) được nối kết (tháng 6 năm Bính
Ngọ - 1306). Cuộc hôn nhân nhuốm màu sắc chính trị đã mang lại cho dân tộc Việt một
vùng đất hai châu Ô, Lý “vuông nghìn dặm” mà vương quốc Chămpa đã dùng làm quà
sính lễ để có được “một gái thuyền quyên” đất Bắc. Sau đám cưới Huyền Trân, phần đất
phía Nam Quảng Trị - Châu Ô của Chămpa sát nhập vào đất đai của Đại Việt (8) (trong
đó bao gồm huyện Triệu Phong, Hải Lăng, thị xã Quảng Trị và một phần thị xã Đông
Hà (phía nam sông Hiếu) ngày nay). Năm 1307, nhà Trần cho đổi châu Ô thành châu
Thuận, châu Lý thành châu Hóa.
Cuối thời Trần và suốt thời Hồ, vùng đất phía Bắc Quảng Trị là châu Minh Linh
thuộc trấn Tây Bình, gồm các huyện Đơn Duệ, Tả Bố, Dạ Độ. Vùng đất phía nam là
Châu Thuận thuộc trấn Thuận Hóa với việc quản lãnh 4 huyện là: Lợi Điều, Thạch Lan,
Ba Lãng và An Nhân(9). Lỵ sở châu Minh Linh đặt ở Đơn Duệ, còn lỵ sở châu Thuận đặt
tại thành Thuận Châu (thủ phủ châu Ô của Chămpa xưa). Tên gọi của các huyện Đơn
Duệ, Tả Bình, Dạ Độ, Lợi Điều, Thạch Lan, Ba Lăng và An Nhân về sau thay đổi hoàn
toàn nên rất khó xác định. Các huyện thuộc châu Nam Linh: Đơn Duệ có thể là khu vực
phía bắc huyện Vĩnh Linh ngày nay (nơi còn tên làng là Đơn Duệ, có chợ huyện là dấu
vết của trung tâm huyện lỵ cũ); Tả Bình có thể là toàn bộ vùng phía bắc Gio Linh ngày
nay; còn Dạ Độ có thể là vùng phía đông huyện Gio Linh và phía đông huyện Triệu
Phong nằm ở hạ nguồn sông Thạch Hãn ngày nay. Theo học giả Đào Duy Anh thì:
huyện Ba Lãng ở vào khoảng miền Bắc huyện Hải Lăng và Triệu Phong; huyện Lợi
Điều có thể là vùng đất thuộc huyện Thành Hóa/Cam Lộ; huyện An Nhân có thể là
huyện Hải Lăng; huyện Thạch Lan có thể là vùng đất huyện Hướng Hóa ngày nay (10).
Thời thuộc Minh (1406 – 1428) và đầu đời Lê, Châu Minh Linh được đổi thành
châu Nam Linh (năm Vĩnh Lạc thứ 5 – 1407) thuộc phủ Tân Bình (lộ Tân Bình thời Lê
sơ). Huyện Tả Bố đổi thành huyện Tả Bình, còn các huyện Đơn Duệ, Dạ Độ giữ nguyên.
Ở phía Nam vẫn đặt châu Thuận thuộc phủ Thuận Hóa (lộ Thuận Hóa và thừa tuyên
Thuận Hóa thời Lê sơ) với việc quản lãnh 4 huyện là: Lợi Điều, Thạch Lan, Ba Lãng và
An Nhân.
Năm 1471, với chiến dịch của Lê Thánh Tông đánh chiếm kinh đô Vijaya, kéo
biên giới Đại Việt vào tận Phú Yên, kết thúc sự tồn tại của vương quốc Chămpa; đồng
thời mở ra một trào lưu di dân mạnh mẽ của người Việt tiếp tục vào khai phá vùng
Thận Quảng, trong đó có Quảng Trị. Dưới thời Lê, năm Quang Thuận thứ 7 (1466) chia
đặt lại cả nước thành 12 đạo thừa tuyên. Từ năm Quang Thuận thứ 10 (1469), sau khi
vua Lê Thánh Tông cho định lại bản đồ của các phủ, châu, huyện, xã, trang sách thuộc
12 thừa tuyên trong cả nước, châu Nam Linh đổi làm huyện Minh Linh (gồm 8 tổng, 63
xã) thuộc phủ Tân Bình. Châu Thuận cải đặt thành hai huyện: Hải Lăng (gồm 7 tổng, 75
xã) và Vũ Xương (8 tổng, 33 xã) cùng với 2 châu: Sa Bôi (10 tổng, 68 xã) và Thuận Bình
(6 tổng, 26 xã) ở miền Tây, thuộc phủ Triệu Phong nằm trong thừa tuyên Thuận Hóa (11).
Dưới thời nhà Mạc, vùng đất Quảng Trị gồm có: huyện Minh Linh (65 xã), thuộc
phủ Tân Bình; 2 huyện Hải Lăng (gồm 49 xã) và Vũ Xương (59 xã) cùng với 2 châu: Sa
Bồn (11 trang, 68 sách) và Thuận Bình (19 sách, 10 động) thuộc phủ Triệu Phong (12). Trị
sở của phủ Triệu Phong có lẽ được đặt tại thành Thuận Châu, trên đất làng Vệ Nghĩa.
Năm 1558, Nguyễn Hoàng trong khi chạy trốn để tránh khỏi lưỡi gươm oan
nghiệt của người anh rể là Trịnh Kiểm đã mang theo cả mưu đồ cát cứ vào trấn thủ
Thuận Hóa. Ái Tử, huyện Vũ Xương trở thành thủ phủ nhà chúa - trung tâm chính trị văn hóa, xã hội của cả Đàng Trong suốt một thời gian dài 68 năm (1558 – 1626). Trong
thời gian này, thủ phủ nhà chúa đã được di chuyển đến ba lần: lần thứ nhất ở Dinh Ái
Tử (1558 – 1570); lần thứ 2 ở Dinh Trà Bát (1570 – 1600) và lần thứ ba ở Dinh Cát (1600 –
1626). Huyện Minh Linh thuộc thủ phủ Tiên Bình, huyện Vũ Xương đổi thành huyện
Đăng Xương cùng với huyện Hải Lăng thuộc thủ phủ Triệu Phong đều nằm trong trấn
Thuận Hóa.
Sau khi chúa Nguyễn dời kinh đô vào Phú Xuân thì vùng đất Quảng Trị được
gọi là Cựu Dinh của xứ Thuận Hóa thuộc cương vực Đàng Trong của các chúa Nguyễn.
Đơn vị hành chính bao gồm: huyện Hải Lăng (có 5 tổng: Hoa La (19 xã, 2 phường, 1
thôn), An thư (5 xã, 1 thôn), An Dã ( 21 xã, 1 phường), Câu Hoan (6 xã, 1 thôn, 1
phường), An Khang (16 xã, 1 thôn, 2 phường), huyện Đăng Xương (có 5 tổng: An Phúc
(15 xã, 1 phường), An Lưu (22 xã, 2 phường, 2 giáp), An Cư (26 xã), An Đôn ( 22 xã, 8
phường, 5 giáp), An Lạc ( 22 xã, 18 phường)> thuộc phủ Triệu Phong và huyện Minh
Linh có 5 tổng: An Xá (17 xã, 1 thôn, 1 phường), Minh Lương (21 xã, 13 phường), Bái
Trời (20 phường), Thủy Ba (16 xã, 1 thôn, 2 phường), Yên Mỹ (15 xã, 1 thôn, 12 phường)
thuộc phủ Quảng Bình(13).
Năm 1801, sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, lên ngôi hoàng đế, Gia Long cho lấy 2
huyện Hải Lăng, Đăng Xương (phủ Triệu Phong) và huyện Minh Linh (phủ Quảng
Bình) để lập ra dinh Quảng Trị(14). Riêng phía tây lại đặt đạo Cam Lộ, mọi việc cống
Man, thuế Man đều thuộc dinh Quảng Trị.
Lần đầu tiên, tên Quảng Trị xuất hiện với vai trò của một đơn vị hành chính.
Năm 1806, đưa dinh Quảng Trị trực lệ thẳng vào kinh sư Huế. Lỵ sở dinh Quảng Trị từ
năm 1801 – 1809 được đặt trên khu vực của hai làng Ái Tử và Trà Bát. Từ cuối năm
1809, Gia Long cho quyển lỵ sở dinh Quảng Trị về làng Thạch Hãn và bắt đầu cho xây
thành Quảng Trị để biến khu vực này thành một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội của một địa hạt nằm sát kinh đô về phía Bắc.
Đến năm Minh Mạng thứ 4 (1823), ở miền núi đặt châu Hướng Hóa thuộc đạo
Cam Lộ. Năm Minh Mạng thứ 8 (1827), cho đổi dinh Quảng Trị thành trấn Quảng Trị,
không còn trực lệ và đặt cửu châu ở đạo Cam Lộ. Năm 1830, giao cho tri phủ Triệu
Phong kiêm lý Minh Linh, thống hạt Đăng Xương, Hải Lăng. Đến năm Minh Mạng thứ
13 (1832) mới đổi trấn thành tỉnh Quảng Trị và cải đạo Cam Lộ thành phủ Cam Lộ, đặt
chức tri phủ kiêm lý châu Hướng Hóa mà thống hạt cả cửu châu. Năm Minh Mạng thứ
15 (1834), cải châu Hướng Hóa làm huyện Hướng Hóa. Năm Minh Mạng thứ 17 (1836),
trích lấy 2 huyện Đăng Xương và Minh Linh đặt thành huyện Địa Linh, giao cho phủ
Triệu Phong kiêm lý Đăng Xương, thống hạt 3 huyện Địa Linh, Minh Linh, Hải Lăng.
Năm Tự Đức thứ 3 (1850), đổi huyện Hướng Hóa thành huyện Thành Hóa. Năm 1853,
Tự Đức bỏ tỉnh Quảng Trị lập thành đạo và sát nhập vào phủ Thừa Thiên.Theo đó, các
phủ Triệu Phong, Cam Lộ đều bỏ; huyện Địa Linh cũng bỏ và giao cho huyện Minh
Linh kiêm nhiếp; các huyện Hải Lăng, Đăng Xương, Minh Linh, Thành Hóa và Cửu
Châu do đạo quản lý(15). Năm Tự Đức thứ 29 (1876), lại đổi đạo thành tỉnh, đặt Bình Trị
tuần phủ và đặt lại hai phủ: Triệu Phong, Cam Lộ, kiêm lý hai huyện Đăng Xương và
Thành Hóa. Theo đó, huyện Đăng Xương được đổi thành huyện Thuận Xương (1883);
huyện Minh Linh đổi thành huyện Chiêu Linh. Năm Đồng Khánh thứ nhất - 1886, đặt
lại huyện Gio linh (trên cơ sở của huyện Địa Linh cũ). Sách Đồng Khánh địa dư chí cho
biết dưới thời Đồng Khánh (1886- 1888), đạo Quảng Trị có 5 huyện: Đăng Xương (5
tổng: Bích La (24 xã, thôn, phường, giáp), An Đôn ( 25 xã, thôn, phường, ấp, giáp), An
Cư ( 26 xã, thôn, phường), An Lưu ( 20 xã, phường, giáp), An Dã (23 xã, phường, giáp),
Hải Lăng 4 tổng : An Thái (24 xã, phường), Câu Hoan ( 9 xã, thôn, phường), An Thư ( 6
xã, thôn, phường), An Nhân ( 23 xã, thôn, phường), Minh Linh 4 tổng: Minh Lương ( 19
xã, thôn, phương), Xuân Hòa ( 14 xã, phường), Thủy Ba (21 xã, thôn, phường), Hồ Xá
(21 xã, thôn, phường), Gio Linh 2 tổng : An Xá (20 xã, thôn, phường), An Mỹ (29 xã,
thôn, phường) và Thành Hóa 4 tổng người kinh là: Cam Lộ (26 xã, thôn, phường,
giáp), An Lạc (26 xã, thôn, phường), Bái Ân (22 phường), Mai Lộc ( 21 thôn, phường) và
9 tổng người thiểu số là: Viên Kiều (11 xã, ấp), Làng Thuận (10 xã, ấp), Làng Sen (9 xã,
ấp), Tầm Linh (6 xã, ấp), A Nhi ( 8 ấp), Làng Hạ (9 ấp), Tam Thanh (5 xã, ấp), La Miệt ( 5
xã, ấp), Ô Giang ( 4 ấp)(16).
Năm Thành Thái Thứ nhất (1889), đổi huyện Chiêu Linh thành huyện Vĩnh
Linh. Năm Duy Tân thứ 2 (1908), đặt lại huyện Hướng Hóa. Lúc này , tỉnh Quảng Trị
bao gồm 2 phủ, 6 huyện và 9 châu ky mi. Phủ Triệu Phong có 4 huyện: Thuận
Xương/Đăng Xương, Hải Lăng, Vĩnh Linh, Gio Linh . Phủ Cam Lộ có 2 huyện: Thành
Hóa, Hướng Hóa. Cửu châu ky mi là Mang/ Mường Vanh, Na Bốn/ Bí, Thượng Kế (3
châu này nguyên là đất châu Sa Bôi cũ), Tầm Bồn, Mang/Mười Bổng, Ba Lan, Tá Bang,
Xương Thịnh, Làng Thìn (6 châu này nguyên là đất châu Thuận Bình cũ). Những châu
này về sau thuộc về lãnh thổ nước Lào(17).
Ngày 3/5/1890, toàn quyền Đông Dương ra một sắc lệnh giải thể tỉnh Quảng Trị
sát nhập vào tỉnh Quảng Bình thành tỉnh Bình Trị. Ngày 23/1/1896, toàn quyền Đông
Dương lại ra nghị định tách Quảng Trị ra khỏi địa hạt thuộc quyền công sứ Đồng Hới,
hợp cùng với Thừa Thiên đặt dưới quyền khâm sứ Trung Kỳ, đặt một phó công sứ đại
diện cho khâm sứ ở Quảng Trị. Đến năm 1900, toàn quyền Đông Dương lại ra nghị định
tách Quảng Trị ra khỏi Thừa Thiên thành tỉnh độc lập gồm 4 phủ: Triệu Phong ( huyện
Thuận Xương cũ), Hải Lăng, Vĩnh Linh, Cam Lộ và một huyện là Gio Linh. Ngày
17/2/1906 , toàn quyền Đông Dương ra quyết định thành lập thị xã Quảng Trị. Năm
1908, phủ Cam Lộ tách 3 tổng người Kinh lập thành huyện Cam Lộ và 9 tổng người dân
tộc thiểu số lập thành huyện Hướng Hóa. Ngày 5/9/1929, khâm sứ Trung Kỳ ra nghị
định thành lập thị trấn Đông Hà thuộc phủ Triệu Phong. Tỉnh lỵ đóng ở thị xã Quảng
Trị.
Từ sau cách mạng tháng 8 (1945) đến khi hòa bình lập lai (1954), các đơn vị hành
chính cấp phủ được đổi thành cấp huyện và tên gọi không có gì thay đổi. Đa số các xã
cũ thuộc các huyện được sát nhập lại và mang các tên mới như: Triệu Phong ( có 7 xã:
Triệu Quang, Triệu Bình, Triệu An, Triệu Sa, Triệu Thanh, Triệu Sơn, Triệu Hòa), Gio
linh ( có 4 xã: Linh Tiên, Linh Hòa, Linh Quang, Linh Châu), Vĩnh Linh ( có 4 xã: Vĩnh
Hội, Vĩnh Hiền, Vĩnh Hoàng, Vĩnh Liêm), Hải Lăng ( có 4 xã: Hải Định, Hải Phong, Hải
Hưng, Hải Thạch), Cam Lộ có 3 xã (Vĩnh Hộ, Cam Lộc, Cam An)(18).
Sau năm 1954, theo Hiệp định Genève, vĩ tuyến 17 trở thành biên giới chia cắt
nước ta thành hai miên Nam - Bắc, theo đó, tỉnh Quảng Trị bị chia làm hai. Huyện Vĩnh
Linh (phần phía bắc sông Bến Hải) được lập thành một đặc khu của miền Bắc, tương
đương với một đơn vị hành chính cấp tỉnh, trực thuộc Trung Ương (19).
Phần lớn diện tích và dân cư Quảng Trị còn lại ở phía nam sông Bến Hải thì
thuộc chính quyền Sài Gòn. Tên gọi của tỉnh vẫn được giữ nguyên. Cấp đơn vị hành
chính các huyện gọi là cấp quận. Tháng 6/1955, chính quyền Sài Gòn ra nghị định bỏ thị
xã Quảng Trị cải thành xã Quảng Trị (thuộc quận Hải Lăng); bỏ thị trấn Đông Hà cải
thành xã Đông Hà (thuộc quận Cam Lộ). Ngoài các đơn vị hành chính cũ như: Triệu
Phong (19 xã),
Hải Lăng (23 xã), Gio Linh ( 6 xã), Cam Lộ (13 xã), Hướng Hóa (14 xã), còn có
thêm 2 quận được lập mới là: Trung Lương có 3 xã (Trung Giang, Trung Hải, Trung
Sơn) và Ba Lòng ( gồm các xã: Ba Lương, Ba Xuân, Ba Hy, Ba Bình, Ba Thanh, Ba Dăng,
Ba Linh)(20). Tỉnh lỵ đóng ở xã Quảng Trị thuộc quận Hải Lăng.
Ngày 11/6/1965, chính quyền Sài Gòn cho lập thêm một quận mới lấy tên là quận
Mai Lĩnh ( gồm 7 xã: Quảng Trị, Hải Trí, Hải Quy, Hải Thượng, Hải Phú, Hải Lệ và
Triệu Thượng) (21).
Ngày 21/12/1967, chính quyền Sài Gòn ra nghị định bãi bỏ quận Trung Lương và
sát nhập các xã thuộc quận này vào quận Cam Lộ(22).
Ngày 29/4/1968, chính quyền Sài Gòn cho lập quận Đông Hà với việc quản lãnh
7 xã (Đông Hà, Đông Hòa, Đông Phong, Đông Thạnh, Đông Xuân, Đông Lễ, Đông
Lương)(23).
Năm 1972, một phần đất từ phía bắc sông Thạch Hãn trở ra được giải phóng, thị
xã Đông Hà trở thành tỉnh lỵ mới của Quảng Trị cho đến sau ngày giải phóng hoàn
toàn miền Nam.
Từ tháng 2/1976, thực hiện nghị quyết 245-NQ/TW ngày 20/9/1975 của Bộ Chính
Trị về việc bỏ khu, hợp tỉnh và Nghị quyết số 19/NQ ngày 20/12/1975 của Bộ Chính Trị,
Chính phủ CMLTCHMN Việt Nam đã ra Nghị định về việc giải thể khu vực Vĩnh Linh
để sát nhập vào tỉnh Bình Trị Thiên mới được thành lập (bao gồm tỉnh Quảng Bình và
khu vực Vĩnh Linh của miền bắc và tỉnh Quảng Trị, tỉnh Thừa Thiên của miền Nam) (24).
Theo đó, một sô huyên, thị xã, cũng được sát nhập lại với quy mô lớn hơn: 2 huyện
Vĩnh Linh và Gio Linh nhập lại thành huyện Bến Hải; huyện Cam Lộ thời gian đầu
thuộc Bến Hải sau đó tách ra để nhập với thị xã Đông Hà; 2 huyện Triệu Phong và Hải
Lăng nhập thành huyện Triệu Hải(25).
Ngày 01/7/1989, Quốc hội nước Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ( khóa
VIII, kỳ họp thứ 5) quyết định tách tỉnh Bình Trị Thiên thành 3 tỉnh: Quảng Bình,
Quảng Trị, Thùa Thiên Huế, Tỉnh lỵ tỉnh Quảng Trị đóng tại thị xã Đông Hà.
Sau tách tỉnh địa giới và tên của các huyện cũng có sự thay đổi. Ngày 16/9/1989,
thành lập thị xã Quảng Trị (có 2 phường)(26) . Tháng 3/1990, tách huyện Bến Hải thành 2
huyện là Gio Linh (gồm 16 xã) và Vĩnh Linh ( gồm một thị trấn và 20 xã), tách huyện
Triệu Hải thành 2 huyện Triệu Phong (21 xã) và Hải Lăng (20 xã)(27).
Ngày 19/10/1991, thành lập lại huyện Cam Lộ ( 8 xã)(28). Ngày 17/12/1996, thành
lập huyện Đakrông (từ 10 xã của huyện Hướng Hóa và 3 xã của huyện Triệu Phong) và
phân định lại địa giới huyện Hướng Hóa (21 xã, 1 thị trấn), Triệu Phong (19 xã)(29).
Ngày 01/10/2004, thực hiện Nghị định 174/NĐ-CP-2004 của Chính Phủ, một huyện mới
mang tên huyện Đảo Cồn Cỏ được thành lập. Đến nay toàn tỉnh có 8 huyện: Vĩnh Linh
(có 2 thị trấn và 20 xã), Gio Linh (có 1 thị trấn và 19 xã), Cam Lộ (có 1 thị trấn và 8 xã),
Hướng Hóa (có 1 thị trấn và 19 xã). Đakrông (có 13 xã), Triệu Phong (có 1 thị trấn xà 18
xã), Hải Lăng (có 1 thị trấn và 20 xã) và huyện Đảo Cồn Cỏ; 2 thị xã: Đông Hà ( 9
phường) và Quảng Trị (2 phường).
____________
Chú thích:
(1) Nguyễn Trãi, Dư địa chí. Phan Huy Tiếp dịch. Nxb Sử học. Hà Nội 1960.Tr.43
(2) Đào Duy Anh. Đất nước Việt Nam qua các đời. Nxb Thuận Hóa 1994.Tr.19
(3) Sách Thủy kinh chú của Lịch Đạo Nguyên nói năm Nguyên Đỉnh 6 (110 tr. CN) đời
Hán Vũ Đế đặt quận Nhật Nam.
(4) Phan Huy Lê (và những người khác). Lịch sử Việt Nam, tập 1. Nxb Đại học và
Trung học chuyên nghiệp. Hà Nội, 1983. Tr.288.
(5) Đào Duy Anh. Đất nước Việt Nam qua các đời. Sđd. Tr 62.
(6) Phan Huy Lê (và những người khác). Lịch sử Việt Nam, tập 1. Sđd. Tr.291-293.
(7) Viện khoa học xã hội Việt Nam. Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1. Nxb khoa học xã
hội. Hà Nội, 1993, tr.274 và 278.
(8) Viện khoa học xã hội Việt Nam. Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2.Sđd.tr.90-91.
(9) Lê Quý Đôn. Phủ biên tạp lục. Nxb khoa hoc và xã hội. Hà Nội, 1977. Tr.37-38.
(10) Đào Duy Anh. Đất nước Việt Nam qua các đời.Sđd, tr.159-160.
(11) Lê Quý Đôn. Phủ biên tạp lục. Sđd, tr. 41 và 44.
(12) Dương Văn An. Ô châu cận lục. Nhà văn hóa. Bộ Giáo Dục Sài Gòn, 1960,
tr.22,23 và 33,38,39.
(13) Lê Quý Đôn. Phủ biên tạp lục. Sđd, tr. 80-82.
(14) Quốc sử quán Triều Nguyễn. Đại nam thực lục chính biên, tập 1 . Nxb,Sử học, Hà
Nội 1962 Tr.431.
(15) Quốc sử quán Triều Nguyễn. Đại Nam nhất thống chí, tập 1. Nxb, Thuận Hóa.
Huế, 1992, Tr.98-109.
(16) Quốc sử quán Triều Nguyễn. Đồng khánh địa dư chí lược. Bản dịch của Văn
Thanh, 26 trang đánh máy trên giấy khổ A4,( lưu ở Bảo tàng Quảng Trị).
(17) Đào Duy Anh. Đất nước Việt Nam qua các đời. Sđd. Tr 208.
(18) Các quyết nghị 1027 – QN/P5 ngày 17/8/1950; Quyết định số 1109 – Qn/P5
ngày 14/9/1950; Quyết nghị 1123 – Qn/P5 ngày 18/9/1950; Quyết nghị 1104 – QN/P5
ngày 18/9/1950 của UBKCHC Liên khu 4. Dẫn theo: Nguyễn Quang Ân.Việt Nam – những
thay đổi về địa danh và địa giới các đơn vị hành chính 1945 – 1997. Nxb Văn Hóa thông tin.
Hà Nội 1997, Tr.42-44.
(19) Nghị định số 570 – TTg ngày 16/6/1955 của thủ tướng chính phủ nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa.Dẫn theo Nguyễn Quang Ân, Việt Nam- nhứng thay đổi , Tr.58
(20) Nghị định soos215 – HC/P6 ngày 17/5/1958 của Bộ trưởng bộ nội vụ Việt
Nam Cộng hòa.Dẫn theo: Nguyễn Quang Ân. Việt Nam – những thay đổi địa danh…Sđd, Tr.
102 – 103.
(21),(22),(23) Nghị định 880 – Nv ngày 11/6/1965, Nghị định số 286 – ND/P. Th.
T/PC ngày 21/12/1967, Nghị định số 377-ND/NV ngày 29/4/1968, của thủ tướng chính phủ
nước Việt Nam cộng hòa.Dẫn theo Nguyễn Quang Ân, Việt Nam- nhứng thay đổi về địa
danh… Tr.185,201,204.
(24) Theo Nguyễn Quang Ân, Việt Nam- nhứng thay đổi về địa danh và địa giới
các đơn vị hành chính 1945 – 1997, Sđd, Tr.234.
(25) Quyết định số 62-CP của hội đồng chính phủ ngày 11/3/1977, Dẫn theo
Nguyễn Quang Ân, Việt Nam- nhứng thay đổi về địa danh… Tr.502.
(26),(27),(28). Quyết định số 134-HĐBT. Quyết định sô 91-HĐBT, quyết định số
328-HĐBT của hội đồng Bộ Trưởng ngày 16/9/1989,Dẫn theo Nguyễn Quang Ân, Việt Namnhứng thay đổi…Sđd, Tr.502,507,552.
(29) ) Nghị định số 83-CP của Chính phủ ngày 17/12/1996.Dẫn theo Nguyễn
Quang Ân, Việt Nam- nhứng thay đổi về địa danh…Sđd, Tr.648.