MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài
Trong hoạt động báo chí, công chúng là một đối tượng đóng vai trò đặc
biệt. Đây vừa là đối tượng phản ánh và cũng là đối tượng phục vụ của báo chí.
Báo cho đóng vai trò tác động đến tâm lí công chúng để từ đó tạo ra những
chuyển biến tích cực trong hành vi. Để đánh giá về mức độ ảnh hưởng của
một tác phẩm báo chí, một tờ báo cần phải phâm tích kĩ tâm lí tiếp nhận của
công chúng để xem công chúng tiếp nhận bài báo/tờ báo đó ở mức độ nào?
Bằng những đường tiếp nhận nào?... Phân tích tâm lí tiếp nhận của công
chúng cũng là một cơ sở quan trọng giúp đưa ra những đánh giá cần thiết để
đổi mới, nâng cao hiệu quả của sản phẩm báo chí.
Đặc biệt, ở các tờ báo viết cho lứa tuổi thanh niên, việc phân tích tâm lí
tiếp nhận của công chúng càng đóng vai trò quan trọng khi bài báo không chỉ
mang tính chất thông tin mà còn là cẩm nang hướng dẫn, định hướng lối sống.
Tâm lí lứa tuổi thanh niên rất phức tạp, bao gồm cả tâm lí tiếp nhận báo chí.
Do đó, việc nghiên cứu kĩ tâm lí tiếp nhận báo chí ở lứa tuổi này sẽ có lợi ích
trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm báo chí cho phù hợp với nhu cầu
của lứa tuổi.
2.
Đối tượng nghiên cứu, phạm vi khảo sát.
-
Đối tượng nghiên cứu: mức độ đáp ứng tâm lí tiếp nhận công chúng của
-
chuyên mục “Thanh niên và giáo dục” trên báo Thanh niên.
Phạm vi khảo sát: trên các ấn phẩm báo Thanh niên phát hành từ 14/9/2012
đến 23/11/2012.
Bài viết bao gồm các ý chính sau:
1.
2.
Giới thiệu nhóm đối tượng công chúng thanh niên
Phân tích các tác phẩm báo chí trong chuyên mục “Thanh niên và giáo dục”
3.
dựa trên tâm lí tiếp nhận của công chúng.
Các bài học kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng tác động đến tâm lí tiếp
nhận của công chúng trong một bài báo.
NỘI DUNG
I.
Giới thiệu về đối tượng công chúng thanh niên.
1
1.
Đặc điểm tâm lí công chúng thanh niên
Căn cứ theo Luật Thanh niên (số 53/2005/QH 11, ngày 29/11/2005),
thanh niên được tính từ 16 đến 30 tuổi. Đây là lứa tuổi diễn ra nhiều biến cố
trong cuộc đời: bắt đầu từ việc học phổ thông, thi đại học, tìm việc làm và
định hướng cuộc sống. Do diễn ra nhiều biến cố nên tâm lí ở lứa tuổi này
cũng có nhiều phức tạp.
Ở lứa tuổi 16 – 30 tuổi, các quan hệ xã hội của thanh niên được mở rộng.
Đối tượng học sinh cuối cấp II và học sinh cấp III đứng trước một thách thức
khách quan của cuộc sống: phải chuẩn bị lựa chọn cho mình một hướng đi sau
khi tốt nghiệp phổ thông, phải xây dựng cho mình một cuộc sống độc lập
trong xã hội… Những thay đổi trong vị thế xã hội, sự thách thức khách quan
của cuộc sống dẫn đến làm xuất hiện ở lứa tuổi thanh niên những nhu cầu về
hiểu biết thế giới hiểu biết xã hội và các chuẩn mực quan hệ người - người,
hiểu mình và tự khẳng định mình trong xã hội...
Bước sang tuổi thanh niên, các chức năng tâm lý của con người cũng có
nhiều thay đổi, đặc biệt là trong lĩnh vực phát triển trí tuệ, khả năng tư duy.
Các nghiên cứu tâm lý học cho thấy rằng hoạt động tư duy của thanh niên rất
tích cực và có tính độc lập tư duy lý luận phát triển mạnh. Thanh niên có khả
năng và rất ưa thích khái quát các vấn đề. Sự phát triển mạnh của tư duy lý
luận liên quan chặt chẽ với khả năng sáng tạo. Nhờ khả năng khái quát thanh
niên có thể tự mình phát hiện ra những cái mới. Với họ điều quan trọng là
cách thức giải quyết các vấn đề được đặt ra chứ không phải là loại vấn đề nào
được giải quyết.
Về nhận thức: tuổi thanh niên là thời kì quan trọng nhất để phát triển và
hoàn thiện trình độ nhận thức về tự nhiên, về xã hội và về bản thân. Ngày nay,
với tốc độ phát triển của khoa học, kĩ thuật, công nghệ quá nhanh, thanh niên
không chỉ mạnh hơn về sức khỏe mà trí tuệ cũng là một nguồn lực to lớn của xã
hội. Do có tư duy logic, tư duy lí luận phát triển, thanh niên có thể nhận thức
được những vấn đề lí luận phức tạp một cách có phê phán. Do ham muốn hiểu
2
biết và tư duy sáng tạo, thanh niên không chỉ tiếp thu những thành tựu khoa học
kĩ thuật mà còn biết ứng dụng chúng vào đời sống thực tế cũng như khả năng
tìm tòi những phát minh, sáng chế mới. Tóm lại, thanh niên luôn khát khao tìm
tòi cái mới, có năng lực nhạy cảm tiếp thu cái mới, có óc tưởng tượng sáng tạo
và tư duy khoa học (theo cuốn: giáo trình tâm lí học tuyên truyền).
Do những phát triển về tâm lí đó mà nhu cầu tiếp nhận thông tin qua báo
chí của thanh niên cao hơn ở các độ tuổi khác, đặc biệt là các thông tin mới
trong xã hội có tác động trưc tiếp đến cuộc sống, tương lai của họ như: vấn đề
giáo dục, chuyện trường học, việc làm, hoạt động đoàn, thông tin định hướng
lối sống, thông tin kinh tế, những thông tin về thế giới giải trí, sức khỏe, ẩm
thực, thể thao, hôn nhân và gia đình… Các thông tin trên báo chí cũng phải
mới, chính xác và mang tính khái quát cao, phù hợp với khả năng tư duy
nhanh, sáng tạo của lứa tuổi và đưa ra được cách giải quyết hợp lí, có tính
định hướng cho người đọc.
Những vấn đề mà lứa tuổi thanh niên ít quan tâm là các bài báo cáo, các
văn bản chính trị dài dòng nếu không có sự áp dụng vào cuộc sống và được
báo chí phản ánh lại. Những thông tin về sức khỏe, lối sống người cao tuổi
cũng không phải là vấn đề mà lứa tuổi đăch biệt quan tâm trên báo chí.
2.
Vấn đề giáo dục trong tâm lí thanh niên
Ngày nay, khi mà trí tuệ đã trở thành yếu tố hàng đầu thể hiện quyền lực
và sức mạnh của một quốc gia, thì các nước trên thế giới đều ý thức được
rằng giáo dục không chỉ là phúc lợi xã hội, mà thực sự là đòn bẩy quan trọng
để phát triển kinh tế, phát triển xã hội. Đây là phương thức tạo ra nguồn nhân
lực chất lượng cho phát triển đất nước. Vấn đề giáo dục được cả xã hội quan
tâm chú ý bởi lẽ bất cứ sự thay đổi nào của giáo dục cũng sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến cả một thế hệ, sự phát triển của đất nước trong tương lai.
Giáo dục là một trong những vấn đề đặc biệt quan tâm của thanh niên.
Với độ tuổi từ 16 đến 30 tuổi, một bộ phận không nhỏ trong thanh niên là học
sinh, sinh viên. Những biến đổi trong ngành giáo dục sẽ có ảnh hưởng trực
3
tiếp đến đối tượng này. Do đó, vấn đề giáo dục cũng là sự quan tâm hàng đầu
của thanh niên. Các thông tin về đào tạo, tuyển sinh, học phí, lựa chọn ngành
nghề,… luôn là các vấn đề lớn trong mảng giáo dục mà thanh niên quan tâm.
Phân tích các tác phẩm báo chí trong chuyên mục “Thanh niên
II.
và giáo dục” báo Thanh niên dựa trên tâm lí tiếp nhận của công
chúng mục tiêu
1.
Báo Thanh niên và chuyên mục “Thanh niên và giáo dục”
Báo Thanh niên ra số báo đầu tiên ngày 3/1/1986, là diễn đàn của Hội
liên hiệp Thanh niên Việt Nam. Báo đặt trụ sở tại số 248, đường Cống Quỳnh,
Quận 1 – TP Hồ Chí Minh. Đây là một trong những tờ báo có số lượng phát
hành lớn nhất Việt Nam với 300.000 bản một ngày (có thời điểm phát hành
hơn 400.000 bản) (tính đến tháng 3/2012). Báo ra hàng ngày với nội dung
phong phú, đáp ứng nhu cầu thông tin lớn của độc giả như: thông tin thời sự,
xã hội – chính trị, kinh tế, giáo dục, đời sống, du lịch, sức khỏe và ẩm thực,
thời sự quốc tế… Ông James Thomas Campbell, từng là nhà báo và chuyên
gia Cố vấn truyền thông của Chính phủ Anh đã đánh giá rất cao Báo Thanh
Niên trong một khóa tập huấn công tác phát ngôn báo chí do Bộ Ngoại giao
Việt Nam phối hợp với Bộ Ngoại giao Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc
Ireland tổ chức tại Hà Nội năm 2006: “Tôi thấy đây là tờ báo có cách đưa tin
ấn tượng nhất, hấp dẫn nhất và chuyên nghiệp nhất. Tôi sẽ rất lấy làm hạnh
phúc nếu được là phóng viên của tờ báo này” (theo www.baomoi.com).
Chuyên mục “thanh niên và giáo dục” là chuyên mục cố định trong ấn
phẩm báo Thanh niên phát hành hàng ngày. Đây là nơi phản ánh sâu sát tình
hình học đường, chuyển tải các thông tin biến động về tình hình giáo dục
đồng thời đưa ra các biện pháp, ý kiến của các chuyên gia về một số vấn đề
trong nền giáo dục hiện nay. Độc giả có thể tìm ở chuyên mục này nhiều
thông tin đa dạng về giáo dục như: thông tin đào tạo, tuyển sinh của các
trường Đại học – Cao đẳng, định hướng việc làm, tình hình giạy và học ở bậc
phổ thông, các chính sách mới, đề xuất mới nhằm cải cách giáo dục, các vấn
4
đề học đường… Chuyên mục có kết cấu đơn giản, chặt chẽ, gây được sự chú
ý của độc giả bao gồm một bài viết chính truyền tải về một vấn đề trong giáo
dục và các thông tin đi kèm để bổ sung cho bài viết. Với bố cục đó, chuyên
mục “Thanh niên và giáo dục” trên báo Thanh niên ra hàng ngày chỉ tập trung
làm rõ một vấn đề nhất định mà không giản trải nhiều vấn đề, tạo sự tập trung
của độc giả vào vấn đề chính, nâng cao hiệu quả chuyển tải.
2.
Cách chọn đề tài và nhu cầu, thị hiếu của công chúng
“Thị hiếu tiếp nhận là mức độ biểu hiện cao hơn của nhu cầu tiếp nhận.
nhu cầu ở mức độ này được thường xuyên thỏa mãn thường trở thành ham
thích, say mê. Chúng thường ở hai dạng là: thị hiếu lành mạnh (tích cực) và
thị hiếu tầm thường (tiêu cực)” (Tâm lí học báo chí - tài liệu khoa Báo chí –
Đh Khoa học xã hội và Nhân văn). Ở lứa tuổi thanh niên, thị hiếu chủ yếu là
các thông tin về thế giới giải trí với các ngôi sao ca sĩ, diễn viên hay những
câu chuyện tình cảm động, những thông tin giật gân về các vụ cướp, giết,
hiếp… Đây là các chủ đề không mang nhiều thông tin định hướng cho lứa
tuổi thanh niên.
Các tác phẩm báo chí trong chuyên mục “Thanh niên và giáo dục” có
chủ đề đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu , phù hợp với tâm lí tiếp nhận mà
không đáp ứng những thị hiếu không lành mạnh của công chúng thanh
niên.Chủ đề được phóng viên tập trung khai thác để đưa vào chuyên mục là
các vấn đề liaan quan trực tiếp đến cuộc sống hàng ngày, chuyện học tập và
định hướng nghề nghiệp tương lai được nhiều độc giả ở lứa tuổi thanh niên
quan tâm vì chúng tác động trực tiếp đến quyền lợi, tình hình học tập và định
hướng tương laic ho thanh niên như:
-
Vấn đề hiện trạng dạy và học ở các cấp có các bài viết: “Vẫn loạn đào tạo và
tuyển sinh” (số 266, ngày 23/9) với nội dung là những mờ ám đáng nghi vấn
và các chiêu “lách luật” của hình thức đào tạo theo địa chỉ sử dụng ở các
trường Đại học hiện nay. Trong bài “Học thêm cấm thì mặc cấm: học sinh
gánh hậu quả nặng nề” (số 270, ngày 26/9) đề cập đến vấn đề những tác động
5
xấu đến tâm lí học sinh khi học thêm quá nhiều. Bài viết “Đề mở vô tư, chấm
văn vô cảm” (số 287, ngày 13/10) có chủ đề là những vấn đề bất cập trong
việc ra đề mở và chấm bài môn văn… còn nhiều vấn đề khác xuay quanh tình
hình dạy và học ở các cấp được phản ánh đầy đủ, đa diện trong chuyên mục
-
“Thanh niên và giáo dục”.
Chủ đề về học phí có bài viết “Phụ huynh kêu trời vì lạm thu” (số 257, ngày
14/9) đề cập đến vấn đề: các trường thu học phí đầu năm có nhiều khoản
-
ngoài quy định quá cao khiến phụ huynh lao đao.
Chủ đề về các ý kiến, đề xuất đổi mới giáo dục: bài viết “Có nên dạy các môn
khoa học bằng tiếng Anh” (số 296, ngày 22/10) đề cập đến vấn đề những khó
khăn trong việc đưa tiếng Anh vào giảng dạy các môn khoa học. Bài “Phải
phân luồng học sinh phổ thông” (số 305, ngày 31/10) có nội dung xoay quanh
các ý kiến đổi mới bậc học phổ thông như rút ngắn thời gian đào tạo, phân
-
luồng người học từ bậc phổ thông…
Chủ đề định hướng việc làm trong tương lai có khá nhiều bài viết: bài “Xu
hướng việc làm trong tương lai” (số 328, ngày 23/11) chỉ ra các ngành nghề
tiềm năng cần nhiều nhân công trong tương lai, bài viết “Dự báo nhu cầu
thiếu giáo viên trong tương lai” (số 289, ngày 15/10) đề cập đến vấn đề sẽ
-
thiếu giáo viên trong tương lai…
Chủ đề cuộc sống sinh viên có bài viết: “Sinh viên không dám đi vệ sinh” (số
277, ngày 3/10) phản ánh tình trạng các khu nhà vệ sinh xuống cấp nghiêm
-
trọng, không đáp ứng được nhu cầu sinh viên ở các khu KTX và trường học.
Chủ đề tình hình giáo dục hiện tại có các bài phân tích sâu như sau: “Học sinh
giỏi chưa mê ngành sư phạm: lo cho tương lai nền giáo dục” (số 284, ngày
10/10), “Thiếu dự báo, học sinh chọn nghành nghề chưa đúng” (số 326, ngày
21/11)…
Các chủ đề trong chuyên mục “Thanh niên và giáo dục” khá đa dạng,
phản ánh nhiều mặt của tình hình giáo dục, đáp ứng đầy đủ nhu cầu thông tin
và định hướng tương lai cho lứa tuổi thanh niên.
6
3.
3.1.
Đầu đề, cách dẫn dắt, trình bày, sử dụng ngôn ngữ, lối phân tích tác động
tích cực đến đường nhận thức lí tính của độc giả
Đầu đề, cách dẫn dắt ấn tượng
Các bài viết trong chuyên mục “Thanh niên và giáo dục” có đầu đề sapô
đơn giản, đi thẳng vào vấn đề khiến cho độc giả dễ dàng tiếp cận và hiểu được
nội dung bài viết. Độc giả thanh niên ở mọi cấp học: phổ thông, đại học đều
có thể hiểu được vấn đề mà tác giả đang nhắc tới trong bài viết.
Trong bài viết: “Học sinh giỏi chưa mê ngành sư phạm: lo cho tương lai
nền giáo dục” (mục lục trang )có tile rất rõ ràng. Đọc tile, người đọc có thể
hiểu ngay nguyên nhân và hậu quả của vấn đề là học sinh giỏi không chọn
ngành sư phạm, trong tương lai sẽ thiếu giáo viên giỏi thực sự, đó là nỗi lo
lớn của ngành giáo dục. Sapô của bài viết khá đơn giản chỉ ra vấn đề một cách
trực tiếp: “Nếu người giỏi, có tâm huyết cứ xa lánh ngành sư phạm, đời sống
giáo viên không được quan tâm đúng mức thì giáo dục Việt Nam sẽ nhận hậu
quả hết sức nặng nề”. Sapô đặt dưới dạng một giả thuyết, gây tâm lí tò mò,
cuốn hút độc giả. Ai cũng muốn tìm hiểu ngọn nguồn, mối liên hệ giữa học
sinh giỏi không chọn ngành sư phạm với tương lai nền giáo dục, những
nguyên nhân sâu xa dẫn đến “hậu quả nặng nề”. Xen trong bài viết là các tile
xen, dẫn dắt người đọc qua các lập luận để chứng minh cho luận điểm ban
đầu: “Thiếu giáo viên giỏi”, “Chỉ là “thợ dạy””, “Mất dần vị thế người thầy”.
Trong bài viết “Sinh viên không dám đi vệ sinh” (mục lục trang ), có tile
rất hấp dẫn. Khi đọc đầu đề, ngay lập tức thu hút sự quan tâm chú ý của
không chỉ các đối tượng học sinh, sinh viên mà các đối tượng khác cũng
muốn tìm hiểu xem lí do vì sao mà sinh viên không dám đi về sinh? Đoạn
sapô đơn giản, trả lời trực tiếp cho vấn đề nêu ra ở tile bài đồng thời cũng tóm
gọn nội dung cả bài viết: “Hệ thống nhà vệ sinh ở các trường Đại học – Cao
đẳng và kí túc xá tại TPHCM hiện đang xuống cấp nghiêm trọng, rất bẩn thỉu
và mất vệ sinh nhưng dường như các cơ quan quản lí chưa mấy quan tâm”.
Đọc đoạn sapô, độc giả sẽ càng muốn tìm hiểu thêm xem NVS ở các trường
7
Đại học – Cao đẳng và kí túc xá bẩn đến mức nào mà sinh viên không dám đi
vệ sinh, một nhu cầu cực kì thiết yếu của sinh lí con người và động thái khắc
phục của các cơ quan quản lí ra sao. Song sng với bài viết, tác giả còn đưa ra
nhiều ảnh mi họa vừa làm bằng chứng khách quan cho bài viết, vừa thu hút
độc giả tiếp nhận thông tin bằng trực quan sinh động, khắc phục thình trạng
đọc chữ khô khan của báo in.
Qua hai ví dụ phân tích nêu trên cho thấy, các bài viết trong chuyên mục
“Thanh niên và giáo dục” có cách dẫn dắt (đầu đề, sapô) đơn giản, đi thẳng
vào vấn đề, gây ấn tượng trực tiếp đến người đọc, đồng thời cũng giúp người
đọc dễ hiểu, có thể tiếp cận được vấn đề một cách dễ dàng. Đây là lợi thế
khắc phục tình trạng vòng vo, nhiều chữ gây tâm lí ngại đọc, ngại tiếp xúc của
độc giả. Đồng thời, lối dẫn dắt trực tiếp vào vấn đề này cũng phù hợp với tâm
lí tiếp nhận của lứa tuổi thanh niên: muốn biết nhanh, trực tiếp vào bản chất
vấn đề mà không mấy quan tâm đến lời văn, thông tin bên lề.
3.2.
Cách trình bày, ngôn ngữ đại chúng phù hợp với tâm lí tiếp nhận của độc
giả
Hầu hết các bài viết trong chuyên mục “Thanh niên và cuộc sống” đều
sử dụng tile xen để phân chia các luận điểm trong quá trình lập luận của tác
giả. Cách trình bày này khiến cho bài viết trở nên logic hơn và độc giả cũng
dễ dàng tiếp cận thông tin. Nếu ở mức độ đọc lướt, tile chính, sapô kết hợp
với các tile xen đã khía quát bước đầu nội dung vấn đề. Các tile xen không chỉ
khái quát nội dung luận điểm mà còn khá hấp dẫn, lôi cuốn độc giả tìm hiểu
sâu hơn về vấn đề.
Trong bài viết: “Đề mở vô tư, chấm văn vô cảm” (mục lục trang ), ngoài
tile chính hấp dẫn, đi thẳng vào vấn đề: những bất cập trong việc ra đề mở và
chấm bài môn văn hiện nay, tác giả còn sử dụng các tile xen như: “Đề “mở”
bao nhiêu cho vừa?”, “Cần sự tương tác giữa thầy trò tron chấm văn” để làm
rõ và mở rộng hai khía cạnh của một vấn đề: ra đề mở không có chừng mực
8
lợi bất cập hai, vậy thì chuẩn mực nào cho đề mở và chấm văn đề mở cần làm
như thế nào?
Trong thiết kế trang báo của chuyên mục “Thanh niên và giáo dục” cũng
gây cuốn hút cho độc giả. Bài viết trọng tâm được đặt chính giữa với diện tích
lớn nhất (thường chiếm ½ trang báo). Bên dưới bài viết và lề bên phải là các
thông tin bổ sung cho bài viết. Với cách trình bày này đã gây được sự chú ý
của độc giả vào bài viết chính và tìm hiểu thông tin làm sáng rõ cho vấn đề ở
các tin phụ, tác động ở mức độ đọc chi tiết của độc giả. Với cách trình bày
này đã gây ấn tượng, sức hấp dẫn ban đầu về thị giác, tác động tích cực đến
đường tiếp nhận cảm tính của độc giả
Ngôn ngữ sử dụng trong các bài viết là ngôn ngữ đại chúng, dễ hiểu.
Mọi đối tượng thanh niên dù đi học hay không cũng có thể hiểu được vấn đề
mà tác giả đang nhắc đến. Khi tác giả sử dụng từ viết tắt trong bài viết bao giờ
cũng có chú thích kèm theo ở đầu bài viết như: “kí túc xá” (KTX), “đào tạo
theo địa chỉ sử dụng” (ĐTTĐCSD), …
Cách trình bày logic và ngôn ngữ sử dụng mang tính đại chúng, dễ hiểu
đã tác động ở mức độ đọc lướt và đọc chi tiết của độc giả, đáp ứng được tâm
lí tiếp nhận của công chúng thanh niên là đi thẳng trực tiếp vào vấn đề, ngôn
ngữ đơn giản, không văn hoa, lối trình bày nổi bật, logic.
3.3.
Lối phân tích và chi tiết ấn tượng
Lối phân tích của các bài viết trong chuyên mục “Thanh niên và giáo
dục” có tính chặt chẽ, làm nổi bật vấn đề, phù hợp với lối tư duy logic của lứa
tuổi thanh niên. Trong bài viết có các chi tiết cụ thể, xác thực không chỉ làm
sáng rõ vấn đề, cung cấp thông tin cho độc giả mà còn tăng tính khách quan,
độ tin cậy cho lập luận của tác giả.
Bài viết: “Phụ huynh kêu trời vì lạm thu” (mục lục trang ), tác giả đã
đưa ra những phân tích chi tiết cho luận điểm các trường học đang có tình
trạng lạm thu đầu năm học. Để làm rõ luận điểm, tác giả đã đưa ra ví dụ ban
đầu ở trường THPT chuyên Hà Nội Amsterdam có tình trạng lạm thu tiền quỹ
9
lớp và quỹ phụ huynh lên đến hàng triệu đồng trong khi đây là trường được
nhà nước đầu tư ngân sách khá nhiều, tiếp theo là ở các trường khác cũng có
tình trạng tương tự, kể cả các trường ở miền núi, nông thôn. Ban đầu là thu
phí để chỉnh trang cơ sở vật chất của nhà trường, tiếp đến là học thêm, học
phụ đạo các môn phụ cũng thu phí. Song song với việc chỉ ra thực trạng lạm
thu ở các trường, tác giả còn đi tìm câu trả lời cho tình trạng lạm thu bằng
những câu hỏi phỏng vấn với chính lãnh đạo nhà trường để lí giải cho việc
lạm thu. Các chi tiết được sử dụng trong bài khá chính xác, cụ thể, có khả
năng chứng minh cho luận điểm của tác giả: “Trường THCS Lê Văn Thiêm
(H. Đức Thọ, Hà Tĩnh): tiền xây dựng (dao động từ 260.000 đến 320.000 tùy
từng cấp học), hỗ trợ dạy và học (100.000), quỹ khuyến học (50.000), vệ sinh
– điện nước (50.000), xây tủ sách dùng chung, tiền đồng phục, tiền bảo
hiểm…..”, trong đoạn liệt kê này, tác giả đã liệt kê ra tới 14 khoản thu phí đầu
năm ở một trường nông thôn. Với chi tiết này, độc giả cùng đủ hiểu về tình
trạng lạm thu ở các trường thành phố. Ngoài các con số “biết nói”, tác giả còn
đưa vào bài viết thông tin về phản ứng của nhà trường về tình trạng lạm thu:
thầy Lê Trọng Tuấn, phó hiệu trưởng trường THPT chuyên Hà Nội
Amsterdam cho rằng “Nhà trường chưa biết thông tin về việc thu tới 2 – 2,5
triệu đồng tiền quỹ lớp đối với học sinh” hay “Trả lời cho câu hỏi về việc nhà
trường được đầu tư ngân sách lớn như vậy mà tại sao các lớp vẫn phải thu
tiền để mua quạt, ông Tuấn cho rằng: mỗi lớp đã được lắp 4 quạt điện nhưng
phụ huynh các lớp vẫn kêu chưa đủ mát và muốn tự lắp thêm”, rồi đến lời
biện hộ của cô Nguyễn Thị Hà Thanh – hiệu trưởng trường THPT Nguyễn
Trãi (Thường Tín – Hà Nội) “Trường có thu tiền học thêm nhưng là tự
nguyện, ai đăng kí học mới thu với mức 4.000 đồng một tiết học thường và
5.000 đồng một tiết học nâng cao”, đồng thời tác giả cũng lập luận thêm “Nếu
học phụ đạo thì chỉ với những học sinh yếu, kém thôi, đằng này lớp có 24 học
sinh thì cả 24 học sinh phải đi học”… Những chi tiết và lập luận mà tác giả
đưa ra khá logic và tác động đến tư duy người đọc. Từ đây, độc giả có thể
10
hiểu rằng: những câu trả lời của lãnh đạo nhà trường chưa giải thích rõ ràng,
thỏa đáng cho tình trạng lạm thu. Cùng với bài viết chính, trong chuyên mục
còn có các thông tin khác, bổ sung và mở rộng thông tin cho vấn đề tình trạng
lạm thu ở các trường học dịp đầu năm. Đó là các tin: “Đóng tiền thay bàn ghế
đa năng” (lời giải thích không hợp lí của một số lãnh đạo nhà trường ở
TPHCM), “chấn chỉnh “lạm thu”tiền trường” (động thái của UBND tỉnh, Sở
GD-ĐT tỉnh Thừa Thiên – Huế yêu cầu các cơ sở giáo dục, đào tạo thu các
khoản phí đúng quy định đồng thời có sự kiểm tra sát sao ở các cơ sở).
Tuy nhiên, trong bài viết và các thông tin đi kèm chính vẫn chưa chỉ ra
được động thái quyết liệt của các địa phương và hình thức xử phạt đối với
lãng đạo các trường để chấn chỉnh việc lạm thu mà mới chỉ dừng lại ở việc
yêu cầu, đề nghị. Đây chính là thông tin mà đông đảo độc giả quan tâm và
cũng làm yên lòng công chúng.
Trong bài viết: “Xử lí hàng loạt các trường sai phạm” (mục lục trang ),
tác giả đã thực hiện bài phỏng vấn với ông Nguyễn Huy Bằng – Chánh thanh
tra bộ GD – ĐT về quyết định xử phạt một loạt các đơn vị giáo dục sai phạm
của Bộ. Mở đầu bài viết, tác giả đã dẫn lời ông Nguyễn Huy Bằng trả lời cho
câu hỏi: áp dụng hình thức xử phát đối với các cơ sở đào tạo có sai phạm như
thế nào?: “Các đơn vị bị kiến nghị rút giấy phép là do không có chức năng
đào tạo ĐH – CĐ trên lãnh thổ Việt Nam. Đơn vị không có chức năng giáo
dục, đơn vị có phép đào tạo sơ cấp nghề nhưng tìm cách “lách luật” để đào
tạo, cấp bằng ĐH, CĐ…”Để làm rõ và mở rộng vấn đề, tác giả đã đưa ra
nhiều câu phỏng vấn mang tính chất đi thẳng vào vấn đề: “đây có phải là lần
đầu tiên Thanh tra Bộ GD – ĐT xử lí quyết liệt bằng cách kiến nghị rút giấy
phép 4 đơn vị giáo dục”, “Các cơ sở giáo dục bị đề nghị rút giấy phép đa
phần là các đơn vị có yếu tố nước ngoài. Qua đợt này, Bộ có động thái nào
để siết chặt hơn nữa với các đơn vị tương tự hay không”, “Hiện tại, Bộ mới
chỉ có danh mục các chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài được cấp
phép tại các trường. Trong khi phụ huynh, học sinh rất cần có nguồn tham
11
khảo tương tự với các đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài. Ông có ý kiến gì về
việc này?”… Các câu trả lời của ông Nguyễn Huy Bằng được đưa vào trong
bài phỏng vấn cũng đi vào đúng trọng tâm câu hỏi, đảm bảo đầy đủ lượng
thông tin mà độc giả cần biết.
Trong phần box của bài viết, tác giả đã liệt kê danh mục các trường, các
cơ sở giáo dục bị xử phạt và hình thức vi phạm. Đây là thông tin mà đông đảo
thanh niên, đặc biệt là các đối tượng thanh niên hiện đang theo học tại các
trường hoặc theo chương trình đào tạo của các cơ sở giáo dục. Tuy nhiên,
trong phần này, tác giả chưa cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết về hướng
giải quyết cho người học ở các cơ sở đào tạo nếu bị rút giấy phép hoạt động.
Đồng thời, trong bài viết, tác giả cũng chưa giải thích rõ hình thức đào tạo
theo địa chỉ sử dụng là gì và hình thức đào tạo như thế nào? Hay hình thức
“lách luật” trong liên kết đào tạo ĐH – CĐ ở các trường chưa được cấp phép
có tác động như thế nào đến tình hình xã hội cũng như cơ cấu ngành giáo dục.
Khiến người đọc hiểu không sâu nội dung bài phỏng vấn.
Qua hai ví dụ phân tích trên cho thấy: các bài viết trong chuyên mục
“Thanh niên và giáo dục” có lối phân tích rõ ràng, logic, sử dụng các chi tiết
cụ thể, khách quan, có giá trị làm sáng tỏ cho lập luận của tác giả nhưng đồng
thời cũng tạo được sự tin cậy của độc giả vào bài viết. Lối phân tích chặt chẽ
cùng các chi tiết có giá trị đã đáp ứng nhu cầu ở mức độ đọc sâu (đọc có sự
phân tích, so sánh), có tính chất hệ thống, định hướng rõ ràng, tác động đến
con đường nhận thức lí tính của độc giả.
4.
Thông điệp trong tác phẩm được chuyển tải đến người đọc một cách rõ
ràng
Do có cách dẫn dắt trực tiếp, lối phân tích chặt chẽ, logic và hệ thống chi
tiết xác thực, có giá trị chứng minh cao nên thông điệp trong các bài viết được
người đọc dễ dàng “giải mã” và có tác động sâu đến nhận thức của độc giả.
Bài viết “Xu hướng việc làm trong tương lai” (mục lục trang ) đã chỉ ra
các nhóm ngành nghề có xu hướng cần nhiều nhân công trong tương lai.
12
Thông điệp mà tác giả muốn gửi tới độc giả thanh niên, đặc biệt là đối tượng
học sinh cấp III là: cân nhắc, lựa chọn kĩ lưỡng ngành nghề theo học trong
tương lai, cần nhìn xa và nắm bắt những biến động của thị trường lao động,
không nên đi theo phong trào trước mắt. Thông điệp này được thể hiện rõ
ràng từ các đoạn: “Tài chính ngân hàng sẽ cần chất hơn lượng”, “Ngành sản
xuất và tiêu dùng phát triển bề vững”, “Công nghệ, kĩ thuật, kiến trúc, xây
dựng nhu cầu cao”, thông qua các lập luận chặt chẽ, có cơ sở và các con số
xác thực cùng với lời nhận định của chuyên gia có uy tín. Từ đó có vai trò
định hướng tương lai và tác động đến ý thức của công chúng, hình thành tư
duy không chạy theo đám đông dẫn đến tình trạng thiếu việc làm, mất cân
bằng cơ cấu lao động.
Bài “Phải phân luồng học sinh phổ thông” (mục lục trang ) có nội dung
xuay quanh các ý kiến đổi mới giáo dục ở bậc phổ thông như: rút ngắn thời
gian học, phân luồng học sinh theo nguyện vọng nghề nghiệp ngay từ cấp III.
Trong bài viết này, thông điệp mà tác giả muốn chuyển tải đến người đọc
không chỉ là thông tin về ý kiến đổi mới giáo dục của các chuyên gia mà còn
muốn gửi tới độc giả thanh niên lời khuyên: cần xác định rõ ngành nghề trong
tương lain gay từ khi học phổ thông để có những hướng đi phù hợp.
Thông điệp trong bài “Dự báo nhu cầu giáo viên trong tương lai” (mục
lục trang
) là: trong tương lai từ năm 2024, ngành giáo dục sẽ thiếu giáo
viên. Đối với lứa tuổi thanh niên từ độ tuổi 18 đến 30 tuổi thì đây có thể chỉ
đơn thuần là thông tin phản ánh về tình trạng nền giáo dục, tuy nhiên, với đối
tượng học sinh cấp II, cấp III thì đây lại là định hướng nghề nghiệp tốt cho
tương lai.
Bằng cách cử tiếp nhận (lời dẫn, tile, sapô, trình bày…) trực tiếp, hấp
dẫn, lối phân tích chặt chẽ, thuyết phục cùng các chi tiết đáng tin cậy, thông
điệp trong các bài viết được người đọc giải mã dễ dàng. Đặc biệt ở lứa tuổi
thanh niên, nhu cầu về thông tin lớn, đòi hỏi phải nhanh chóng, đi thẳng vào
vấn đề, thông điệp rõ ràng, cụ thể.
13
5.
Các tác phẩm có tính khách quan nhưng cũng thể hiện rõ ý kiến chủ
quan của tác giả, thỏa mãn nhu cầu của người đọc
Biểu hiện của tính khách quan trong các bài viết của chuyên mục “Thanh
niên và giáo dục” là: tác giả trích dẫn nhiều ý kiến của các chuyên gia, sử
dụng nhiều số liệu chính xác để người đọc tự so sánh, đối chiếu và rút ra
những bài học tốt đối với bản thân. Điều này phù hợp với tâm lí tiếp nhận của
công chúng thanh niên, lứa tuổi mà cái tôi cá nhân bộc lộ ở mức độ khá cao,
không thích bị áp đặt, không thích bị “dạy dỗ”. Cùng với các yếu tố khách
quan, trong bài viết, yếu tố chủ quan của tác giả cũng được bộc lộ khá rõ
thông qua cách tiếp cận đề tài, cách phân tích, lập luận và đánh giá.
Ví dụ trong bài viết: “Thiếu dự báo, học sinh chọn ngành chưa đúng”
(mục lục trang ), yếu tố khách quan được tác giả sử dụng là ý kiến nhận đinh
của các chuyên gia về tình trạng thừa nhân lực trong khi chỉ tiêu đào tạo vẫn
nhiều vì thông tin dự báo chưa chuyên nghiệp. Đó là các chuyên gia PGS –
TS Nguyễn Kim Hồng – Phó hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm TPHCM, ông
Lê Văn Ngọ - Giám đốc Sở GD – ĐT Nghệ An, Tiến sĩ Trần Huy Hoàng –
Trưởng khoa Ngân hàng trường ĐH Kinh tế TPHCM, ông Trần Anh Tuấn Giám đốc Trung tâm dự báo nguồn nhân lực và thông tin thị trường lao động
TPHCM, và các số liệu chứng minh “chỉ riêng hai trường CĐ Sư phạm Nghệ
An và ĐH Vinh, hằng năm cho ra trường hơn 1000 giáo viên”, “theo khảo sát
cung cầu của Viện nhân lực ngàng ngân hàng – tài chính và Hay Group.
Trong năm 2013 sẽ có khoảng 32.000 sinh viên chuyên ngành tài chính –
ngân hàng ra trường, nhưng các tổ chức tài chính – ngân hàng chỉ cần tuyển
20.000 người”… Yếu tố chủ quan của tác giả không chỉ được thể hiện qua
cách chọn góc độ tiếp cận, chọn chuyên gia phỏng vấn mà còn được thể hiện
rõ qua các lập luận trong bài viết: “Tuy nhiên, số lượng thí sinh dự thi vào
ngành này (ngành tài chính – ngân hàng) đều tăng. Chính vì thế mà hầu hết
các trường ĐH ngoài công lập đều mở những ngành này và xem là thế mạnh
để tuyển được thí sinh. Các trường DDaHH công lập trước đây chỉ đào tạo
14
những nghề đặc thù, nay cũng phải mở thêm nững ngành liên quan đến kế
toán – tài chính để thu hút thí sinh”, “trugn tâm Dự báo Quốc gia thường chỉ
mua lại thông tin từ tổ chức nước ngoài để đưa ra dự báo…”. Cá yếu tố chủ
quan và khác quan được kết hợp nhuần nhuyễn trong bài viết không chỉ cung
cấp thông tin chính xác, đáng tin cậy cho độc giả, giúp độc giả tự suy nghĩ,
liên hệ với bản thân mà bài báo còn làm tốt chức năng định hướng tư tưởng
tiếp cận cho độc giả.
Một ví dụ khác là bài viết “Học sinh giỏi chưa mê ngành sư phạm: lo
ngại cho tương lai ngành giáo dục” (mục lục trang ) nêu lên vấn đề đáng lo
ngại cho nền giáo dục khi ngành sư phạm không tuyển sinh được học sinh
giỏi. Yếu tố khách quan vẫn là ý kiến nhận xét, nhận định của các chuyên gia
đầu ngành như: nhà giáo Nguyễn Quang Kính – thành viên của nhóm nghiên
cứu đề tài cấp nhà nước về đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, Tiến sĩ Bạch Văn
Hợp – Hiệu trưởng trường ĐH Sư phạm TPHCM, GS Trần Hồng Quân – Chủ
tịch Hiệp hội các trường ĐH – CĐ ngoài công lập, ý kiến của các giáo viên
trong ngành… Yếu tố chủ quan là những lập luận của tác giả về vấn đề:
“chính vì thực trạng này mà xảy ra những sự việc đáng tiếc. Chẳng hạn
trường hợp học sinh phổ thông phát hiện GV dạy tiếng Anh phát âm sai”,
“sinh viên năm cuối và giáo viên đều có biểu hiện năng lực dạy tốt hơn là
năng lực giáo dục. Nói nôm na là phẩm chất “thợ dạy” nổi trội hơn phẩm
chất “thợ giáo””, “trong khi ngành GD – ĐT luôn kêu gọi và yêu cầu giáo
viên phải dổi mới phương pháp dạy học, lấy người học làm trọng tâm thì kết
quả nghiên cứu lại cho thấy năng lực tìm hiểu của người học là yếu nhất
trong các tiêu chí chuẩn nghề nghiệp GV hiện nay”, “chất lượng GV không
tốt còn dẫn đến hệ quả là chữ “lễ” không còn thiêng liêng như trước”…
Các bài báo trong chuyên mục “Thanh niên và giáo dục” hội tụ đầy đủ
yếu tố chủ quan và khách quan, đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiếp nhận thông tinh
chính xác, cụ thể, tự liên hệ, so sánh của độc giả, đồng thời cũng có chức
15
năng định hướng lói tư duy của độc giả theo đúng thông điệp mà tác giả muốn
chuyển tải.
6.
Các bài viết đáp ứng đúng yêu cầu của thể loại, nâng cao uy tín của
phóng viên và tờ báo
Các tác phẩm trong chuyên mục “Thanh niên và giáo dục” đáp ứng đầy
đủ các yêu cầu tác động đến tâm lí tiếp nhận của công chúng của loại hình
báo in. Với cách trình bày, hình ảnh minh họa chi tiết và lối dẫn dắt hấp dẫn,
bài báo đã tác động đến đường tiếp nhận bằng thi giác cảm tính của độc giả.
Những phân tích, đánh giá sâu, các chi tiết khách quan, phù hợp đã tác động
đến đường tiếp nhận bằng thi giác lí tính của độc giả. Từ việc lôi cuốn độc giả
đọc bài báo, những thông tin trong bài báo còn giúp độc giả tự nhận thức vấn
đề thông quan quá trình duy nghĩ, liên hệ, từ đó hình thành tri thức, thay đổi ý
thức hệ và điều chỉnh hành vi của người đọc. Đó là thành công trong chuyển
tải thông điệp ở thể loại báo in.
Để lập luận cho vấn đề chính trong tác phẩm, phóng viên đã sử dụng nhiều
các đánh giá mang tính khác quan, đáng tin cậy của các chuyên gia và sử dụng
các số liệu chính xác, đồng thời, chính tác giả còn đưa ra những nhận xét, phân
tích để làm rõ dẫn chứng. Việc làm này không chỉ có tác dụng làm nổi bật vấn đề
mà còn tạo sự tin tưởng đối với bài viết, nâng cao uy tín của tác giả.
Đối với tờ báo Thanh Niên, chuyên mục “Thanh niên và giáo dục” luôn
đề cập đến các vấn đề được đông đảo công chúng mục tiêu quan tâm, đáp ứng
nhu cầu thông tin định hướng mà không cổ súy cho những thi hiếu tầm
thường của thanh niên. Đây là điểm tạo nên sự tin tưởng của độc giả trong đối
tượng công chúng mục tiêu và cả độc giả ở lứa tuổi khác. Từ đây cũng góp
phần xây dựng và nâng cao vị thế của tờ báo Thanh Niên trên diễn đàn báo
chí Việt nam hiện nay.
III.
Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tác động đến tâm lí tiếp
nhận của công chúng trong quá trình viết báo
16
Từ khảo sát chuyên mục “Thanh niên và giáo dục” trên báo Thanh Niên
từ (14/9 đến 23/11/2012) và cũng từ yêu cầu cấp thiết của báo chí hiện đại,
người viết báo không chỉ phải đảm bảo đưa thông tin trung thực, khách quan
mà còn phải đảm bảo bài viết của mình có tác động tích cực đến tâm lí tiếp
nhận của công chúng tức là: đáp ứng đúng nhu cầu tiếp nhận, thông điệp rõ
ràng, lối phân tích hấp dẫn… để từ đó thay đổi ý thức hệ và hành vi của công
chúng theo hướng tích cực. Để thực hiện được điều này đòi hỏi cần phải có sự
đổi mới trong nhận thức của cả phóng viên và lãnh đạo tòa soạn. Trong khuôn
khổ bài tiểu luận, xin đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao tác động của bài
báo đến tâm lí tiếp nhận công chúng như sau:
1.
-
Đối với lãnh đạo tòa soạn:
Cần thường xuyên nghiên cứu tâm lí nhóm công chúng mục tiêu. Xã hội luôn
biến đổi, nhiều xu hướng mới nảy sinh, đồng nghĩa với việc tâm lí của công
chúng báo chí cũng luôn thay đổi. Báo chí cần phải bám sát xu hướng tâm lí
của công chúng, xem họ thích thông tin gì, họ cần những thông tin gì để mở
rộng nội dung bài báo và có hướng tiếp cận phù hợp với tâm lí tiếp nhận của
độc giả, làm tốt vai trò định hướng của báo chí. Nếu báo chí không bám sát
nhu cầu thị hiếu của công chúng thì tờ báo đó sẽ nghèo nàn về đề tài, không
-
thu hút được độc giả và hướng tiếp cận không phù hợp với tâm lí của độc giả.
Có phương hướng đào tạo đội ngũ nhà báo có chuyên môn giỏi, có khả năng
phát hiện vấn đề mới, triển khai vấn đề hiệu quả, đồng thời phỉa nắm bắt được
tâm lí độc giả để điều chỉnh hướng tiếp cận trong bài viết của mình. Phóng
viên chính là những người trực tiếp làm ra sản phẩm báo chí có tác động đến
công chúng. Vì vậy, một bài báo hay, có khả năng tác động tích cực đến tâm lí
tiếp nhận của công chúng đòi hỏi người phóng viên phải đầu tư trong suy nghĩ
đề tài, triển khai vấn đề. Nếu phóng viên không có nghiệp vụ chuyên môn tốt và
khả năng nắm bắt tâm lí độc giả tốt thì bài báo sẽ không có giá trị tác động đến
-
tâm lí, nhận thức của độc giả, một bài báo không có giá trị.
Lãnh đạo các toàn soạn cần quan tâm hơn nữa đến chế độ lương, thưởng của
phóng viên, đồng thời cũng có những hình thức phạt hợp lí đối với các trường
hợp phóng viên cẩu thả với bài viết. Biện pháp này nhằm khích lệ phóng viên
17
đào sâu suy nghĩ, tìm tòi thông tin mới, thông tin chính xác, khách quan đáp
ứng nhu cầu ngày một khắt khe của độc giả. Một phóng viên không thể cất
công lặn lội tìm kiếm thông tin mới, chính xác để đưa vào bài viết trong khi
chế độ lương vẫn bằng những phóng viên ngồi một chỗ, cóp nhặt các thông
tin có sẵn để viết bài. Đồng thời cũng gắn trách nhiệm của phóng viên vào bài
báo nhiều hơn, đòi hỏi mỗi người phóng viên phải tự chịu trách nhiệm với
mỗi thông tin mình cung cấp cho độc giả phải đảm bảo chính xác nhất, khách
2.
-
quan nhất.
Đối với cá nhân phóng viên
Có phương hướng nghiên cứu, tìm hiểu thị hiếu, nhu cầu thông tin và tâm lí
-
tiếp nhận của công chúng để có hướng tiếp cận đề tài phù hợp.
Luôn tự rèn luyện, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ của bản thân trong việc
-
tìm kiếm và triển khai đề tài.
Khi viết tiếp cận bất cứ vấn đề gì hay khi viết bài, cần đặt mình vào vị trí của
độc giả để suy nghĩ: đề tài này có phù hợp với nhóm công chúng mục tiêu hay
không, cách phân tích, lập luận này có dễ hiểu, cuốn hút độc giả hay không?...
-
từ đó để xác định phương thức triển khai vấn đề phù hợp.
Có trách nhiệm với mọi thông tin trong bài báo của mình, phải đảm bảo các
-
thông tin đó là chính xác nhất.
Nắm vững các chuẩn mực của đạo đức nghề báo để có hướng tiếp cận nhân
văn với từng vấn đề và suy nghĩ cho tâm lí tiếp nhận của độc giả
Kết luận
Các bài viết trong chuyên mục “Thanh niên và giáo dục” trên báo Thanh
Niên đã có tác động tích cực đến tâm lí tiếp nhận của công chúng. Từ đó đã
tạo nên sự cuốn hút và thương hiệu cho tờ báo Thanh Niên, một tờ báo có
lượng độc giả đông đảo hàng đầu Việt Nam.
Nghiên cứu tâm lí công chúng nói riêng và tâm lí tiếp nhận của công
chúng nói chung là việc làm quan trọng để định hướng đề tài, cách triển khai
vấn đề và nâng cao hiệu quả tác động của bài báo. Việc này cần được tiến
hành thường xuyên, liên tục ở các cơ quan báo chí và trọng nhận thức của
phóng viên khi viết bài.
18
19
Các tài liệu tham khảo
-
Cuốn: giáo trình tâm lí học tuyên truyền – TS Hà Thị Bình Hòa – NXB Chính
-
trị - Hành chính.
Cuốn: tâm lí học báo chí – giáo trình khoa Báo chí – trường ĐH Khoa học xã
-
hội và Nhân văn.
Các trang web:
/> /> /> />
20
Các bài báo sử dụng làm ví dụ trong tiểu luận
21
MỤC LỤC
22