Tiểu luận:
HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT QUẢNG CÁO TRONG
CÁC CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH THỰC TẾ
TẠI VIỆT NAM
Môn: Sản xuất quảng cáo
Sinh viên thực hiện:
Lớp:
1
I. QUẢNG CÁO.
1. Khái niệm và đặc điểm.
Quảng cáo là hình thức tuyên truyền được trả tiền để thực hiện việc
giới thiệu thông tin về sản phẩm, dịch vụ, công ty hay ý tưởng, quảng cáo là
hoạt động truyền thông phi trực tiếp giữa người với người mà trong đó
người muốn truyền thông phải trả tiền cho các phương tiện truyền thông đại
chúng để đưa thông tin đến thuyết phục hay tác động đến người nhận thông
tin.
Theo Hiệp hội quảng cáo Mĩ (American advertising Association):
“Quảng cáo là một hoạt động truyền bá thông tin, trong đó nói rõ ý đồ của
chủ quảng cáo, tuyền truyền hàng hóa, dịch vụ của chủ quảng cáo trên cơ
sở có thu phí quảng cáo, không trực tiếp nhằm công kích người khác”
Ở Việt Nam, theo Pháp lệnh về Quảng cáo số 39/2001 PL –
UBTVQH 10 ban hành ngày 16 tháng 1 năm 2001, quy định: “Hoạt động
quảng cáo bao gồm việc giới thiệu và thông báo rộng rãi về doanh nghiệp,
hàng hóa, dịch vụ, nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi, biểu tượng theo nhu cầu
hoạt động của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.”
Người ta dựa vào 6 yếu tố để phân biệt quảng cáo với các hình thức
truyền thông khác:
Quảng cáo là một hình thức truyền thông được trả tiền để thực
hiện.
-
Người chi trả cho quảng cáo là một tác nhân được xác định.
Nội dung của quảng cáo được truyền tải nhằm mục đích thuyết
phục hoặc tác động đến người mua hàng.
Thông điệp của quảng cáo có thể được chuyến đến công chúng
qua nhiều phương tiện truyền thông khác nhau.
Quảng cáo tiếp cận đến đại bộ phận khách hàng tiềm năng.
Không giống như PR, công chúng của quảng cáo được xác định rõ ràng
trong một phạm vi xác định.
Quảng cáo là một hoạt động truyền thông marketing phi cá thể.
2. Các loại hình quảng cáo phổ biến.
2
-
Quảng cáo thương hiệu (brand advertising) nhắm tới mục tiêu
lâu dài là xây dựng hình ảnh hoặc tạo sự nhận biết, liên tưởng về thương
hiệu. Nội dung quảng cáo nhấn mạnh vào thương hiệu.
Quảng cáo địa phương (local advertising) có mục đích chủ
yếu là thông báo đến khách hàng rằng sản phẩm đã có mặt tại một địa điểm
nào đó, thu hút khách hàng đến mua.( VD: quảng cáo khai trương siêu thị,
cửa hàng, chi nhánh thương hiệu,…)
Quảng cáo chính trị (political advertising) là những quảng cáo
được thực hiện bởi các chính trị gia nhằm mục đích vận động tranh cử hoặc
thuyết phục người dân ủng hộ chính sách, ý kiến của mình.
Quảng cáo hướng dẫn (directory advertising) là quảng cáo
hướng dẫn khách hàng cách mua một sản phẩm hay dịch vụ.
Quảng cáo phản hồi trực tiếp (direct – respond advertising) là
hình thức quảng cáo bán hàng trực tiếp. Khách hàng muốn mua hàng chỉ cần
đặt hàng qua điện thoại hoặc email hoặc đơn giản là điền thông tin vào đơn
đặt hàng trực tuyến, sản phẩm sẽ được giao tận nơi.
Quảng cáo thị trường doanh nghiệp (business to business
advertising) là quảng cáo nhắm tới khách hàng là các doanh nghiệp, đại lý
chứ không phải cá nhân người tiêu dùng. (VD: quảng cáo nguyên liệu sản
xuất,…)
-
Quảng cáo hình ảnh công ty (institution advertising) là những
quảng cáo được thực hiện nhằm mục đích đưa đến công chúng hình ảnh tích
cực về doanh nghiệp, tổ chức, thu hút thiện cảm và sự ủng hộ của công
chúng.
-
Quảng cáo dịch vụ công ích (public survice advertising) hay
còn gọi là quảng cáo xã hội. Đó là những quảng cáo hỗ trợ các chương trình
cộng đồng của chính phủ hay các tổ chức phi chính phủ nhằm góp phần giải
quyết các vấn đề xã hội như giao thông, y tế, môi trường,…
3
-
Quảng cáo tương tác (interact advertising) chủ yếu là quảng
cáo trên internet. Người xem có thể trả lời bằng cách click, comment hoặc lờ
quảng cáo đó.
3. Vai trò của quảng cáo.
Quảng cáo là một công cụ hiệu quả giúp doanh nghiệp đạt được
những mục tiêu cụ thể. Tùy thuộc vào mục tiêu của chiến dịch marketing mà
quảng cáo thể hiện những vai trò khác nhau.
a. Đặc trưng hóa sản phẩm.
Hiện nay, trong tình hình thị trường đa dạng các sản phẩm và các
doanh nghiệp cạnh tranh gay gắt thì bản thân doanh nghiệp thường xây dựng
thông điệp quảng cáo nhằm làm nổi bật đặc tính vượt trội của sản phẩm so
với đối thủ. Nhờ đó, doanh nghiệp tạo được sự ưa chuộn và lòng tin về chất
lượng sản phẩm đối với khách hàng. Đặc trưng hóa sản phẩm cũng góp phần
đặc trưng hóa thương hiệu, hình ảnh doanh nghiệp. Điều này được thể hiện
rõ ở các thương hiệu điện thoại di động: Nokia được biết đến với những
dòng điện thoại bền, chất lượng tốt; Samsung nổi tiếng với các dòng điện
thoại ứng dụng và tích hợp công nghệ cao; trong khi đó, LG lại tập trung vào
những chiếc điện thoại kiểu dáng thời trang, trẻ trung và luôn đón đầu công
nghệ mới.
b. Thông tin về sản phẩm.
Quảng cáo được sử dụng với chức năng thông tin về sản phẩm, đặc
biệt là sản phẩm mới. Đặc điểm của quảng cáo là đưa thông tin tiếp cận với
một bộ phận công chúng rộng rãi trong thời gian ngắn và có khả năng đạt
hiệu quả lan truyền cao. Bởi vậy, nó là công cụ đắc lực nhất để doanh nghiệp
cung cấp thông tin về sản phẩm, dịch vụ tới khách hàng, công chúng mục
tiêu. Hơn nữa, đưa thông tin sản phẩm qua quảng cáo còn thu hút một lượng
lớn khách hàng tiềm năng chưa sử dụng sản phẩm, dịch vụ.
c. Hướng dẫn sử dụng sản phẩm.
4
Đối với những loại sản phẩm đặc biệt cần phải có những hiểu biết
nhất định mới có thể sử dụng như các thiết bị điện tử, máy móc, mỹ phẩm,
thực phẩm chức năng hay thuốc,… thì quảng cáo là phương tiện tốt nhất để
tiếp cận một lượng công chúng lớn trong thời gian ngắn. Việc hướng dẫn sử
dụng sản phẩm là trách nhiệm của doanh nghiệp với khách hàng của họ,
đồng thời, điều đó cũng khiến khách hàng cảm thấy an tâm với sản
phẩm,dịch vụ mà họ lựa chọn.
Các quảng cáo dược phẩm thường hướng dẫn chi tiết về công dụng
của thuốc, cách sử dụng, liều dùng và chú ý về chống chỉ định.
d. Mở rộng thị trường.
Mục tiêu chủ yếu của các chiến dịch marketing thường là đẩy mạnh
lượng tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới phân phối, tăng thị phần trên
thị trường chung. Quảng cáo là một trong các công cụ hỗ trợ xúc tiến để đạt
được mục tiêu trên. Ví dụ như các thương hiệu đồ ăn nhanh (KFC, Burger
King, BBQ,…) khi mới bắt đầu chinh phục thị trường Việt Nam đều đã thực
hiện các chiến dịch quảng cáo nhằm tạo sự ghi nhớ thương hiệu trong tâm trí
khách hàng.
4. Các phương tiện quảng cáo.
Có một câu nói rất hay rằng: “Làm kinh doanh mà không quảng cáo
thì khác nào nháy mắt với một chàng trai trong bóng tối, chỉ mình bạn biết
bạn đang làm gì, ngoài ra chẳng ai biết”.
Vì thế mà quảng cáo được thực hiện trên rất nhiều phương tiện truyền
thông khác nhau, gồm những nhóm phương tiện chính sau đây:
Nhóm phương tiện quảng cáo nghe nhìn: quảng cáo truyền hình,
quảng cáo trên đài phát thanh và quảng cáo trên internet.
Nhóm phương tiện quảng cáo in ấn: quảng cáo báo in, quảng cáo tạp
chí, quảng cáo trên catalogue, tờ rơi, lịch.
Nhóm phương tiện quảng cáo ngoài trời: panô quảng cáo, băng rôn,
phướn, biển bảng, …
5
-
Nhóm phương tiện quảng cáo di động: bao gồm quảng cáo trên các
phương tiện giao thông, áo đồng phục, mũ, kẹp tài liệu… có hình ảnh sản
phẩm, doanh nghiệp.
Nhóm các phương tiện quảng cáo khác: quảng cáo bằng cách tổ chức
sự kiện, …
5. QUẢNG CÁO TRÊN TRUYỀN HÌNH.
1. Khái niệm.
Quảng cáo truyền hình là một hình thức quảng cáo đã xuất hiện rất
sớm, từ những năm 50 của thế kỉ 20. Quảng cáo trên truyền hình được đánh
giá mang lại hiệu quả cao nên quảng cáo trên truyền hình không ngừng phát
triển, ngày càng được ứng dụng nhiều hơn.
Quảng cáo trên truyền hình được hiểu là một phương pháp truyền tải
thông điệp quảng cáo của tổ chức, doanh nghiệp đến công chúng của họ qua
phương tiện truyền hình.
2. Đối tượng của quảng cáo trên truyền hình.
Thông thường, một quảng cáo thường phải có ít nhất hai đối tượng
tham gia: bên thuê quảng cáo và phương tiện truyền thông (ở đây là đài
truyền hình). Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế phát triển, tất cả mọi
hoạt động kinh tế đều được chuyên môn hóa thì trong hoạt động quảng cáo
cũng xuất hiện những công ty chuyên sản xuất quảng cáo, sáng tạo các ý
tưởng quảng cáo hay những bộ phận thực hiện các dịch vụ hỗ trợ (booking,
6
…). Bởi vậy, quảng cáo truyền hình hiện nay thường bao gồm bốn đối tượng
tham gia:
2.1. Bên thuê quảng cáo truyền hình.
Bên thuê quảng cáo truyền hình là những cá nhân, tổ chức, doanh
nghiệp trả tiền để quảng bá sản phẩm, dịch vụ của mình thông qua truyền
hình.
2.2. Phương tiện truyền thông.
Phương tiện truyền thông trong quảng cáo trên truyền hình là các đài
truyền hình. Đây là kênh thông tin sẽ truyền tải thông điệp quảng cáo của
bên thuê quảng cáo đến công chúng của họ.
2.3. Công ty quảng cáo.
Công ty quảng cáo là một tổ chức độc lập, có nhiệm vụ thay mặt cho
bên thuê quảng cáo thực hiện các hoạt động hoạch định, tổ chức và tiến hành
các chiến dịch quảng cáo, bao gồm quảng cáo trên truyền hình.
2.4. Các bộ phận hỗ trợ.
Các bộ phận hỗ trợ bao gồm các cá nhân hay tổ chức tham gia quá
trình sản xuất quảng cáo trên truyền hình. Họ có thể làm việc độc lập hoặc là
một bộ phận thuộc công ty quảng cáo, như: diễn viên, người lồng tiếng,
stylist,…
3.
Ưu điểm của quảng cáo trên truyền hình.
Các hình thức quảng cáo trên truyền hình tiếp cận được với một lượng
lớn công chúng trong một thời gian ngắn nên thường xuyên được các tổ
chức, doanh nghiệp sử dụng trong các chiến dịch quảng cáo để truyền đi
thông điệp. Quảng cáo trên truyền hình có nhiều ưu điểm nổi bật:
Một là, quảng cáo trên truyền hình có phạm vi truyền thông
điệp rộng, khả năng tiếp cận được thị trường lớn. Có thể nói, khó có phương
tiện truyền thông nào vượt qua được truyền hình về điều này. Bởi lẽ truyền
hình là phương tiện truyền thông thuộc về đại chúng, không có tính chọn lọc
công chúng như những phương tiện truyền thông khác (phân loại khán giả
theo độ tuổi, ngành nghề, trình độ, vùng miền … như báo, tạp chí). Mặt
7
khác, số lượng người xem truyền hình rất lớn, ở Việt Nam, trung bình mỗi
gia đình có ít nhất một chiếc TV. Vì vậy mà công chúng xem quảng cáo trên
truyền hình nhiều hơn trên các phương tiện truyền thông khác.
Hai là, quảng cáo trên truyền hình tạo được sức hấp dẫn do có
dự kết hợp giữa hình ảnh và âm thanh. Hay nói cách khác, đó là sự kết hợp
ưu điểm của quảng cáo ngoài trời (hình ảnh thu hút) và quảng cáo trên radio
(âm thanh ấn tượng), cùng với các kĩ xảo, đồ họa,… tạo nên sự hấp dẫn, lôi
cuốn, thu hút được sự quan tâm của công chúng.
Ba là, các mẫu quảng cáo trên truyền hình có thể dễ dàng
chuyển sang các phương tiện truyền thông khác. Cụ thể, hình ảnh của quảng
cáo truyền hình có thể chuyển thành poster quảng cáo trên báo, tạp chí, hay
biển quảng cáo ngoài trời. Phần âm thanh của quảng cáo truyền hình có thể
chuyển thành mẫu quảng cáo phát trên radio.
Bốn là, truyền hình là phương tiện giao lưu văn hóa giữa các
quốc gia. Do đó, quảng cáo truyền hình ở nước này hoàn toàn có thể phát
trên kênh truyền hình của nước khác. Không chỉ không gian, khung cảnh và
văn hóa quốc gia có thể được quảng bá mà bản thân sản phẩm, dịch vụ hay
thương hiệu của quốc gia này cũng có cơ hội được biết đến, tiếp cận thị
trường nước ngoài. (VD: bánh Lotte Pie – Hàn Quốc – Lee Min Ho đóng
quảng cáo được chiếu trên VTV3)
Quảng cáo trên truyền hình với những ưu điểm vượt trội là một kênh
truyền thông hỗ trợ đắc lực cho các chiến dịch xúc tiến của doanh nghiệp từ
trước đến nay.
4.
Mục đích của quảng cáo trên truyền hình.
Mục đích cuối cùng của bất kì quảng cáo thương mại nào cũng nhắm
đến việc tăng doanh số, thúc đẩy lợi nhuận. Tuy nhiên, trước đó, quảng cáo
trên truyền hình hướng tới 3 mục đích chính: thông tin, thuyết phục và nhắc
nhớ. Tùy thuộc vào từng giai đoạn trong chu kì sống của sản phẩm mà mục
đích của quảng cáo cũng khác nhau. Chẳng hạn, khi sản phẩm mới tung ra
8
thị trường, quảng cáo chủ yếu nhằm mục đích thông tin về sản phẩm đến đối
tượng khách hàng mục tiêu và khách hàng tiềm năng. Khi sản phẩm ở giai
đoạn tăng trưởng, quảng cáo được thực hiện hướng tới mục đích thuyết phục
khách hàng sử dụng sản phẩm. Còn ở giai đoạn chín muồi của sản phẩm,
quảng cáo thực hiện mục đích nhắc nhớ.
4.1. Quảng cáo thông tin.
Quảng cáo thông tin thường là những quảng cáo có nội dung và mục
đích thông tin cho khách hàng về một sản phẩm mới, thuyết minh ứng dụng
mới của hàng hóa hiện có. Ngoài ra, quảng cáo thông tin còn thông báo cho
người tiêu dùng những nội dung:
Thông báo về sự thay đổi giá của sản phẩm/ dịch vụ.
Giải thích nguyên tắc hoạt động, hướng dẫn sử dụng sản phẩm.
Mô tả dịch vụ.
Đính chính những thông tin không đúng, giảm bớt sự e ngại của
người tiêu dùng.
Xây dựng hình ảnh thương hiệu.
4.2. Quảng cáo thuyết phục.
Quảng cáo thuyết phục thường nhằm mục tiêu xây dựng lòng tin của
khách hàng với sản phẩm, dịch vụ của công ty, hình thành sự ưa thích nhãn
hiệu đối với khách hàng. Từ đó, tạo dựng một đội ngũ khách hàng trung
thành đối với sản phẩm hay thương hiệu. Bên cạnh đó, quảng cáo thuyết
phục cũng thực hiện:
Khuyến khích người tiêu dùng chuyển sang sử dụng thương
hiệu mình.
Thuyết phục người tiêu dùng mua sản phẩm của công ty.
Thay đổi quan điểm của người tiêu dùng về tính chất của sản
phẩm.
4.3. Quảng cáo nhắc nhớ.
Mục đích của quảng cáo nhắc nhớ là nhắc người tiêu dùng về sản
phẩm, dịch vụ mà họ cần đến trong thời gian sắp tới, nhắc người tiêu dùng
về những thông tin liên quan đến sản phẩm hay gợi lại trong tâm trí người
9
tiêu dùng hình ảnh, thông tin, tính chất,… của sản phẩm. (VD: Quảng cáo
các loại kem dưỡng da khi sắp đến mùa đông; Quảng cáo nhắc nhớ về sản
phẩm OMO vào dịp tết,…)
5. Quy trình sản xuất quảng cáo trên truyền hình.
Quảng cáo được xem như là một công cụ hiệu quả nhất giúp truyền tải
thông điệp về sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Cũng bởi thế mà quá
trình sản xuất một quảng cáo được thực hiện rất kĩ lưỡng và cẩn thận để có
một sản phẩm quảng cáo đạt hiệu quả tốt nhất. Về cơ bản, việc sản xuất
quảng cáo trên truyền hình (thường là các TVC quảng cáo) cũng trải qua các
bước giống như sản xuất các quảng cáo trên các phương tiện truyền thông
khác. Tuy nhiên, xét về chi tiết, sản xuất một quảng cáo trên truyền hình trải
qua những giai đoạn sau:
5.1. Giai đoạn tiền sản xuất (Pre – Production)
•
Client Brief: Sau khi tiếp nhận yêu cầu của khách hàng, công ty
quảng cáo cần tiến hành các nghiên cứu bao gồm:
Nghiên cứu về thương hiệu, sản phẩm.
Nghiên cứu các chiến dịch quảng cáo trước đó.
Tìm hiểu mục tiêu mong muốn của khách hàng, thị trường mục
tiêu mà sản phẩm cần quảng cáo nhắm tới, chi phí quảng cáo mà khách hàng
có thể chi trả,…
Thời gian khách hàng muốn thực hiện chiến dịch quảng cáo.
•
Ý kiến của nhà sản xuất ( Production house)
- Định giá cho việc sản xuất TVC.
- Thương lượng về chi phí.
- Trao đổi về quá trình sản xuất.
- Casting, chọn diễn viên.
- Lựa chọn bối cánh, đạo cụ, địa điểm quay, hair-makeup, ....
•
Lên timeline
- Các bên ngồi lại để thống nhất một lịch trình sản xuất chi tiết và
đảm bảo tuân thủ lịch trình một cách nghiêm túc.
•
Duyệt
- Duyệt diễn viên, địa điểm quay, ekip làm việc.
10
- Duyệt lại chắc chắn về yêu cầu của khách hàng để đảm bảo họ
hài lòng nhất.
- Book địa điểm, fix lại thời gian với các thành viên.
- Book giờ lên sóng.
5.2. Giai đoạn sản xuất (Production).
Từ sự chuẩn bị đầy đủ trong giai đoạn tiền sản xuất, giai đoạn
sản xuất thực hiện các công việc quay, chụp hình,… tại các địa điểm đã
chọn, theo kịch bản đã thống nhất.
Để đảm bảo công việc thuận lợi và kết thúc đúng lịch trình, các
thành viên đội sản xuất phải có tinh thần trách nhiệm cao, có mặt đầy đủ,
đúng giờ và nỗ lực hết mình để hoàn thành tốt công việc của mình.
5.3. Giai đoạn hậu sản xuất (Post – Production)
Người biên tập phụ trách tổng hợp lại các đoạn phim đã quay,
những bức ảnh đã chụp chuyển cho bộ phận dựng phim.
Bộ phận dựng phim tiến hành hòa trộn, cắt dựng thành bản thô,
chỉ cắt ráp đơn giản để kiểm tra, nhận feedback từ phía agency và client.
Kiểm tra lại lần cuối về: giấy phép, bản quyền, có vi phạm các
quy định về luật quảng cáo không, kênh phát sóng, giờ phát sóng,...
Nhìn chung, để sản xuất một TVC quảng cáo trên truyền hình phải trải
qua ba giai đoạn nêu trên. Tuy nhiên, tùy thuộc vào nội dung, hình thức và
kịch bản của từng quảng cáo mà các bước thực hiện chi tiết sẽ khác nhau,
thay đổi linh hoạt để tạo ra sản phẩm một cách hiệu quả và tiết kiệm thời
gian, chi phí.
Dưới đây là quy trình sản xuất quảng cáo chung của phòng quảng cáo,
Trung tâm Quảng cáo và Dịch vụ truyền hình – TVAd.
11
12
6. THỰC TRẠNG VIỆC
SẢN XUẤT QUẢNG CÁO TRONG CÁC
CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH THỰC TẾ TẠI VIỆT NAM.
1. Truyền hình thực tế.
Truyền hình thực tế là một thể loại chương trình truyền hình, trong
đó miêu tả thực những tình huống, hoàn cảnh và sự kiện không hề sắp đặt
trước trong kịch bản. Nhân vật chính trong các kênh truyền hình thực tế
thường là những người chưa nổi tiếng.
Thực tế thì, các chương trình truyền hình thực tế không hẳn là không
có kịch bản mà chính xác thì nhà sản xuất đã rất khéo léo xây dựng kịch bản
một cách kín đáo và “thực tế” đến nỗi khán giả không nhận ra. Sức hấp dẫn
của truyền hình thực tế là khiến cho khán giả tò mò. Thường thì người xem
không thể đoán trước được điều gì sẽ xảy ra tiếp theo trong chương trình.
Chẳng hạn như gameshow thực tế đang rất nổi tiếng của Hàn Quốc –
Running Man chỉ đơn giản là chia đội tham gia các trò chơi bình thường.
Thế nhưng, khán giả bị kéo vào đó và hoàn toàn không dứt ra được bởi họ tò
mò muốn biết liệu đội chơi nào sẽ thắng cuộc, và có những điều bất ngờ hài
hước nào sẽ diễn ra tiếp theo.
Các chương trình truyền hình thực tế chủ yếu là để giải trí. Do đó, nội
dung chương trình thực tế được thể hiện sinh động, bất ngờ và thu hút người
xem. Đa số các show thực tế chú trọng yếu tố hài hước, tạo được tiếng cười
sảng khoái cho khán giả. Cũng vì vậy mà các chương trình này thường rất
“đắt” quảng cáo.
Trong vài năm trở lại đây, truyền hình Việt Nam bắt đầu xuất hiện các
gameshow thực tế mua bản quyền format của nước ngoài như Cặp đôi hoàn
hảo (Just the Two of Us), Bước nhảy hoàn vũ, Tìm kiếm tài năng Việt Nam
(Vietnam’s got talent) hay Giọng hát Việt (The Voice),… Sự xuất hiện của
những chương trình có format mới lạ thu hút được sự quan tâm của một
lượng lớn khán giả xem truyền hình cả nước. Mặc dù có không ít “sạn”,
13
nhưng không thể phủ nhận là các gameshow thực tế này có lượng người xem
rất đông. Đó cũng là lý do khiến những gameshow này kín chỗ quảng cáo.
Các hãng sản xuất chương trình truyền hình muốn chương trình truyền
hình thực tế của mình có thể lên sóng truyền hình vào khung giờ vàng buộc
phải đảm bảo được các điều kiện sau đây:
Phải có lượng rating cao, tức là có lượng khán giả xem rất lớn.
Phải đảm bảo số quảng cáo do đài truyền hình quy định. Số
quảng cáo đó được xác định theo nhiều cách khác nhau: Các chương trình
thực tế phát sóng khung giờ nào sẽ được tính số quảng cáo theo khung giờ
đó. Nếu chương trình rơi vào khung giờ ít quảng cáo, đài truyền hình sẽ quy
định theo số quảng cáo cao nhất mà chương trình trước đó đã đạt được. Còn
trong trường hợp chương trình chiếu vào khung giờ mà trước đó đã phát
sóng một gameshow thực tế “hot” thì số quảng cáo được quy định theo số
lượng quảng cáo trung bình của mùa phát sóng chương trình trước đó.
2.
Quảng cáo sắp đặt trong các gameshow truyền hình thực tế
tại Việt Nam.
2.1. Truyền hình thực tế “đắt” quảng cáo.
Nhờ có sự mới lạ và hấp dẫn của format nên các gameshow truyền
hình thực tế có lượng khán giả rất lớn, ở mọi lứa tuổi và trên phạm vi cả
nước. Những vấn đề, những tình huống xảy ra liên quan đến các tập được
phát trên truyền hình thậm chí còn trở thành chủ đề tranh luận trên báo chí,
các mạng xã hội. Và gần như bất kì gameshow nào cũng xuất hiện ít nhất
một vụ lùm xùm tốn không ít giấy mực của báo giới, nhưng nhờ đó mà mức
độ được quan tâm chú ý của chương trình lại càng tăng cao. Vì vậy, không
có gì lạ khi các gameshow thực tế dù có giá quảng cáo rất đắt nhưng vẫn
được các thương hiệu, nhãn hàng đặt quảng cáo. Thậm chí, Giọng hát Việt
2012 còn phải tổ chức đấu giá quảng cáo.
14
Cũng dễ nhận thấy rằng các thương hiệu quảng cáo trong các chương
trình truyền hình thực tế thường là những thương hiệu lớn, hoặc rất mạnh về
tài chính, hoặc thường xuyên thực hiện các chiến dịch quảng cáo. Chẳng hạn
như Samsung, Nokia, Vinamilk, PS, Rejoice, Hảo Hảo,…
Thống kê cho thấy, trong thời lượng khoảng hai giờ phát sóng của các
chương trình truyền hình thực tế, có ít nhất 50 mẩu quảng cáo được xen vào.
Cặp đôi hoàn hảo 2013 dù đã gây nhàm chán, không còn hấp dẫn như mùa
đầu tiên nhưng trong đêm phát sóng 17/3 vẫn thu về 60 mẩu quảng cáo. Cứ
sau hai phần biểu diễn là bắt đầu xuất hiện hàng loạt quảng cáo xen vào.
Đáng nói hơn là chỉ hơn hai tiếng phát sóng trực tiếp chương trình
Gương mặt thân quen, không tính những quảng cáo chạy dưới chân màn
hình, đếm qua thì chương trình thu về 77 quảng cáo. Và mặc dù Trung tâm
quảng cáo và Dịch vụ truyền hình – Đài Truyền hình Việt Nam đã tăng mức
giá quảng cáo hai lần trong ba tháng phát sóng nhưng số lượng đặt quảng
15
cáo vẫn không ngừng tăng lên. Cụ thể, cho tới đêm chung kết, giá quảng cáo
trong Gương mặt thân quen đã tăng 50% so với tập phát sóng đầu tiên. Giá
cho một quảng cáo 10 giây là 90 triệu đồng, 15 giây là 108 triệu đồng, 180
triệu đồng cho một quảng cáo 30 giây. Và tính ra, trong một số phát sóng,
chương trình có thể thu về khoảng 10 tỷ đồng từ quảng cáo.
2.2. Tài trợ và quảng cáo sắp đặt trong các gameshow truyền hình
thực tế.
Các nhãn hàng đưa hình ảnh sản phẩm, thương hiệu của mình tiếp cận
khán giả thông qua truyền hình thực tế dưới hai hình thức chính là tài trợ và
quảng cáo sắp đặt trong chương trình.
Cùng với danh nghĩa là nhà tài trợ, toàn bộ những yếu tố gắn với hình
ảnh sản phẩm, thương hiệu sẽ xuất hiện tại các hoạt động truyền thông của
chương trình. Logo, hình ảnh sản phẩm, tên thương hiệu cũng được đặt tại
banner, vé, backdrop sân khấu, standee,… ở những địa điểm quay chương
trình. Ngoài ra, thông thường nhà tài trợ sẽ được MC nhắc tên trong chương
trình, đại diện nhà tại trợ được lên sân khấu tặng hoa người chơi, phát biểu
và trao giải. Tài trợ chương trình đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải
chịu trách nhiệm như một thành viên sản xuất chương trình truyền hình đó,
tổ chức thực hiện, mua và phát song chương trình trên truyền hình. Nhà tài
trợ cũng được quyền phát những đoạn quảng cáo của mình trong thời gian
phát sóng chương trình.
Hoạt động tài trợ mang lại cho thương hiệu khá nhiều lợi ích về mặt
truyền thông quảng bá hình ảnh sản phẩm, quảng bá thương hiệu. Thế
nhưng, các chương trình truyền hình thực tế ở Việt Nam hiện nay còn thực
hiện sắp đặt quảng cáo trong nội dung chương trình.
Quảng cáo sắp đặt có thể hiểu là một hình thức quảng cáo khéo léo,
sắp đặt sự xuất hiện của sản phẩm được quảng cáo một cách tự nhiên trong
các cảnh quay của chương trình. Điều này có thể thấy rõ trong các bộ phim
16
truyền hình. Trước đây, phim truyền hình ít được tài trợ nhưng ngày nay,
việc sắp đặt sự xuất hiện của thương hiệu tài trợ đã trở nên phổ biến. Trong
các bộ phim, nhân vật trong phim sử dụng cùng một loại điện thoại di động
(sản phẩm của nhà tài trợ). Trong các cảnh quay liên quan đến điện thoại di
động, máy quay sẽ thực hiện góc quay sao cho điện thoại “lên hình” trọn
vẹn, đẹp và thấy được tên thương hiệu trên điện thoại. Thậm chí, một số
nhân vật trong phim còn được xây dựng tính cách nhằm phục vụ mục đích
quảng cáo (thích uống cà phê – của nhà tài trợ, thích ăn gà rán, có thói quen
uống nước có gas,…)
Không chỉ trên phim truyền hình mà hiện nay quảng cáo sắp đặt còn
xuất hiện cả trong các chương trình truyền hình khác, điển hình là
gameshow thực tế. Nhà sản xuất đã tạo điều kiện tối đa để sản phẩm của nhà
tài trợ xuất hiện trong chương trình. Bản chất của quảng cáo sắp đặt là sắp
xếp một cách khéo léo và không làm cho khán giả nhận ra đó là quảng cáo.
Nhưng hiện nay, không khó để khán giả xem truyền hình thấy rõ ý đồ của
quảng cáo, thậm chí việc sắp đặt quá lộ liễu còn khiến khán giả khó chịu.
Chương trình Giọng hát Việt 2012 được tài trợ bởi dòng điện thoại
thông minh Samsung Galaxy. Trong suốt các cảnh quay của chương trình,
khán giả liên tục bị hình ảnh của Samsung đập vào mắt. Khi thí sinh chuẩn
bị bước ra sân khấu, họ nhẩm lại bài hát một lần nữa bằng điện thoại
Samsung Galaxy S3; Khi huấn luyện viên hướng dẫn thí sinh tập luyện cũng
sử dụng Samsung Galaxy Note, thậm chí logo Samsung xuất hiện cả trên
chiếc đàn piano. Cũng lặp lại hoàn toàn giống như vậy, Giọng hát Việt 2013
cũng tràn ngập hình ảnh của Nokia Lumia.
17
Chương trình Tìm kiếm tài năng Việt Nam – Vietnam’s Got Talent
thậm chí còn thực hiện cả những đoạn phim về thí sinh trước khi tham gia
vòng thi chỉ để lồng ghép quảng cáo. Nội dung đoạn phim nói về cuộc sống
hằng ngày của một thí sinh khuyết tật nhưng rất có tài hát opera, tuy nhiên,
trong đoạn phim có cảnh thí sinh Hương Thảo được mẹ dặn dò ở… trong
nhà tắm và nói câu thoại: “Mỗi ngày, tôi thức dậy và gội đầu bằng Rejoice”
cùng với sự xuất hiện của chai dầu gội đầu Rejoice trên kệ. Tương tự như
vậy, Giọng hát Việt nhí 2013 cũng thực hiện đoạn phim tư liệu với hình ảnh
mẹ thí sinh và thí sinh cùng nhau đánh răng bằng bàn chải và kem đánh răng
PS. Những cách sắp đặt quảng cáo quá lộ liễu như vậy không những không
mang lại hiệu quả mà còn khiến cho khán giả cảm thấy khó chịu và mất
thiện cảm với chương trình, nhiều khi là với cả sản phẩm được quảng cáo.
18
Có những trường hợp, việc quảng cáo được lạm dụng khiến cho
chương trình trở nên “lố” trong con mắt người xem. Có thể kể đến việc cặp
đôi Mỹ Lệ và Khương Ngọc trong chương trình Cặp đôi hoàn hảo 2013.
Không hiểu do yêu cầu từ Ban tổ chức, nhà tài trợ - nhãn hàng mì Hảo Hảo
hay bản thân cặp đôi này muốn gây thiện cảm với nhà tài trợ mà họ đã thực
hiện quảng cáo cho Hảo Hảo ngay trong tiết mục dự thi của mình. Mỹ Lệ và
Khương Ngọc đã dùng những chiếc vỏ gói mì Hảo Hảo cắt thành hoa và gắn
chi chít lên trang phục biểu diễn. Những “phụ kiện” đó không những không
khiến cho bộ trang phục trở nên đẹp hơn mà chúng thực sự làm cho người
xem “tức mắt”. Có thể khẳng định rằng việc làm này không hề tạo được hiệu
quả tốt đẹp đối với Hảo Hảo mà chỉ khiến cho bản thân cặp thí sinh này, nhà
tài trợ và chương trình trở thành một sân khấu diễn trò rất lố bịch.
19
Sau 2 mùa đầu tiên thành công, Vietnam’s Next Top Model mùa thứ 3
không mất nhiều công sức để ký được thêm nhiều hợp đồng tài trợ. Nhưng
lỡ ký nhiều, cũng đồng nghĩa với việc ban biên tập phải xoay sở như thế nào
để tên tuổi của những nhãn hàng này xuất hiện đầy đủ nhất. Cũng từ đây mà
tình trạng từng tập của chương trình vô tình bị biến thành những đoạn quảng
cáo dài hơi cho các đơn vị tài trợ bắt đầu diễn ra.
Trong những tập đầu, các thí sinh liên tục được tham gia các bữa tiệc
xa xỉ. Theo lời giải thích từ chương trình, đây là phần thưởng cho các cô gái
sau những ngày casting căng thẳng, giúp họ làm quen với môi trường của
làng thời trang, tuy nhiên, khán giả không quá khó tính vẫn có thể nhận ra
mục đích cho việc làm này là quảng cáo cho những địa điểm, dịch vụ tại
club, nhà hàng, khách sạn, du thuyền…
Màn giới thiệu về căn nhà chung tại Vietnam's Next Top Model khiến khán
giả ngán ngẩm.
Khi bước vào ngôi nhà chung, chương trình cũng dành hẳn vài phút
để người đại diện tòa nhà thao thao bất tuyệt về những tính năng và ưu điểm
của căn hộ. Đến phần thi trang điểm, khán giả cũng phải chấp nhận “chịu
20
trận” nghe những lời giới thiệu sản phẩm không khác gì các mẫu quảng cáo.
Chưa hết, các thí sinh hễ bước vào những phần thi thể lực thì nhất định phải
dưới sự hướng dẫn của huấn luyện viên của một trung tâm thể hình, sử dụng
hàng công nghệ cũng phải nhãn hiệu đó…
Ngoài ra, những doanh nghiệp tài trợ cho các chương trình truyền
hình còn được MC chương trình đó đọc một đoạn thông điệp ngắn trước
hoặc sau chương trình. Tuy nhiên, trong chương trình Vietnam’s next top
Model, có thể thấy giám khảo Xuân Lan liên tục nhắc đi nhắc lại phần nội
dung giải thưởng một cách chi tiết, nhấn mạnh tên nhà tài trợ. Khán giả xem
chương trình sau khoảng 2 đến 3 tập hoàn toàn có thể thuộc lòng đoạn nội
dung đó. Điều này có thể có lợi cho nhãn hàng tài trợ nhưng nó lại gây sự
nhàm chán và cảm giác không thoải mái cho người xem chương trình.
Với mức lợi nhuận khổng lồ - thu về hàng chục tỉ đồng từ quảng cáo
sau mỗi số phát sóng, không khó hiểu khi cả Đài truyền hình và Nhà sản
xuất chương trình truyền hình thực tế đẩy mạnh tối đa khả năng trả quyền lợi
quảng cáo cho nhà tài trợ. Tình trạng bội thực quảng cáo trên truyền hình nói
chung và trong các chương trình truyền hình thực tế nói riêng sẽ còn tiếp tục
diễn ra trong một thời gian dài.
Nhìn chung, việc mua quảng cáo trong các chương trình truyền hình
thực tế hiện nay rất phổ biến. Vì những ưu điểm của gameshow thực tế mà
bất kì doanh nghiệp nào cũng mong muốn có thể quảng cáo qua những
chương trình đó để thông điệp và hình ảnh sản phẩm tiếp cận được với số
đông công chúng trong thời gian ngắn. Tuy vậy, cách thức quảng cáo chưa
hợp lý lại chưa mang lại hiệu quả tích cực tối đa cho doanh nghiệp.
3. Giải pháp tích cực cho quảng cáo trong các chương trình truyền
hình thực tế.
21
Ông Steve Allen, chuyên viên mua quảng cáo trên đài truyền hình của
tập đoàn Fushion khi nói về vấn đề quảng cáo các thương hiệu trên truyền
hình thực tế, đã nhấn mạnh: “Chìa khóa để có thể quảng bá thương hiệu
thành công trên truyền hình, là phải thực hiện một cách liền mạch và tinh tế.
Quan trọng hơn cả, nó phải là sự kết hợp của nhiều yếu tố chứ không phải
ép buộc người xem phải thừa nhận về giá trị thương hiệu, chất lượng sản
phẩm bằng cách cho họ xem, hoặc nghe những lời tiếp thị dài dòng. Do đó,
bạn sẽ không bao giờ thấy các thí sinh của MasterChef luyên thuyên về việc
họ yêu thích một sản phẩm đến mức nào”.
Nhưng đó là ở nước ngoài. Khái niệm quảng cáo “liền mạch và tinh
tế” vẫn còn quá xa xỉ ở Việt Nam. Có một thực tế là khả năng tiếp nhận
thông tin của đại đa số khán giả xem truyền hình ở nước ta còn rất thấp, vì
vậy các nhãn hàng chi một khoản phí khổng lồ tài trợ các chương trình
truyền hình thực tế tận đang tận dụng tối đa quyền tài trợ, đẩy mạnh tần suất
xuất hiện. Đúng là với tần suất dày đặc như vậy, khán giả sẽ cảm thấy quen
dần, tuy nhiên, họ chỉ cảm thấy nhàm chán và bức bối chứ không hẳn là ghi
nhớ và yêu thích nhãn hiệu được quảng cáo.
Ông Đỗ Gia Phan - Nguyên Phó chủ tịch, Tổng Thư ký Hội Tiêu
chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam cho biết, việc kiểm soát chặt chẽ
hơn các “chiêu trò quảng cáo” của nhà đài, theo quan điểm là rất khó. Quan
trọng vẫn là ý thức của các nhãn hàng mà thôi. Nhưng như đã nói ở trên,
nhãn hàng lại rất khó hạn chế sự xuất hiện của mình khi khán giả Việt lại
chưa có được sự nhận thức tinh tế. Tóm lại, cái vòng luẩn quẩn này có vẻ sẽ
còn đeo bám truyền hình thực tế Việt một thời gian dài.
Để hạn chế việc quảng cáo dày đặc, kém chất lượng trên truyền hình
và truyền hình thực tế, bản thân các đối tượng liên quan đều phải thay đối:
Nhà sản xuất chương trình truyền hình thực tế cần phải tổ chức
sản xuất, biên tập có sự chuyên nghiệp hơn. Khi mua bản quyền chương
22
trình nước ngoài, bên cạnh việc tôn trọng format chương trình, nhà sản xuất
cũng nên tôn trọng giá trị của chương trình đó, không nên biến nó thành một
công cụ rẻ tiền chỉ để thu lợi nhuận trước mắt.
Đài truyền hình cần có những chính sách kiểm soát quảng cáo
chặt chẽ và “có lương tâm” hơn đối với khán giả của mình. Cải thiện chất
lượng các chương trình và chất lượng các quảng cáo để nâng cao chất lượng
truyền hình hơn nữa.
Các nhãn hiệu, thương hiệu tài trợ cho các chương trình truyền
hình thực tế cần phải tỉnh táo hơn khi thực hiện quyền lợi tài trợ. Bản thân
nhãn hàng phải quan tâm đến chất lượng và sự sắp xếp quảng cáo một cách
tinh tế thay vì tận dụng tối đa các cơ hội xuất hiện, thậm chí là quảng cáo
một cách thô thiển. Mức độ xuất hiệnq quá dày đặc và thiếu khéo léo chỉ
khiến cho hình ảnh sản phẩm bị hạ thấp cùng với chương trình truyền hình
thực tế.
-
Khán giả xem truyền hình cũng cần nâng cao khả năng tiếp
nhận thông tin của mình. Việc khán giả tiếp nhận thông tin một cách thụ
động, không có chọn lọc và sự phản hồi về các thông tin quảng cáo trên
truyền hình cũng là một lý do dẫn đến việc chính họ đang phải chịu đựng
quảng cáo tràn lan trên sóng truyền hình.
7.
KẾT LUẬN.
Trong thời đại mở cửa hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay, hoạt
động kinh doanh đang diễn ra sôi nổi với những cạnh tranh khốc liệt. Để
nâng cao vị thế thương hiệu của doanh nghiệp, mở rộng thị trường và có một
lượng khách hàng trung thành, rất nhiều doanh nghiệp đã sử dụng quảng cáo
truyền hình là sức mạnh.
Quảng cáo quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Quảng cáo có
hiêu quả sẽ giúp khách hàng biết đến, tin tưởng và sử dụng sản phẩm, dịch
vụ, đồng thời giúp thương hiệu có được danh tiếng và sức mạnh bền vững.
Tuy nhiên, hoạt động quảng cáo trên truyền hình vẫn đang là bài toán khó
23
cho các doanh nghiệp. Đặc biệt trong điều kiện ngành quảng cáo vẫn trong
giai đoạn đang phát triển ở Việt Nam và sự bùng nổ các chương trình truyền
hình thực tế như một món ăn mới lạ với khán giả xem truyền hình, doanh
nghiệp đứng trước nhiều cơ hội nhưng cũng phải đương đầu với không ít
thách thức khi tổ chức quảng cáo. Bên cạnh việc cải thiện chất lượng các
chương trình truyền hình thực tế của phía công ty sản xuất chương trình
truyền hình, các nhãn hàng cũng phải có những tính toán nhất định khi quyết
định quảng cáo trên truyền hình thực tế.
24
MỤC LỤC
25