Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

Đánh giá hiệu quả chuyền một của các đội tuyển bóng chuyền nam tham dự giải bóng chuyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (710.78 KB, 43 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
BỘ MÔN: GIÁO DỤC THỂ CHẤT
-----------------

NGUYỄN HOÀNG KHUYẾN

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CHUYỀN MỘT CỦA CÁC
ĐỘI TUYỂN BÓNG CHUYỀN NAM THAM DỰ GIẢI
BÓNG CHUYỀN CHÀO MỪNG NĂM HỌC MỚI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ NĂM HỌC 2014-2015

Luận văn tốt nghiệp
Chuyên nghành: SƢ PHẠM GIÁO DỤC THỂ CHẤT

CẦN THƠ 2015


TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
BỘ MÔN: GIÁO DỤC THỂ CHẤT
-----------------

NGUYỄN HOÀNG KHUYẾN

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CHUYỀN MỘT CỦA CÁC
ĐỘI TUYỂN BÓNG CHUYỀN NAM THAM DỰ GIẢI
BÓNG CHUYỀN CHÀO MỪNG NĂM HỌC MỚI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ NĂM HỌC 2014-2015

Cán bộ hướng dẫn:
THS: Nguyễn Hoàng Khoa


Sinh viên thực hiện
Nguyễn Hoàng Khuyến
Mã số SV: 9117045
Lớp: TD11X6A2

CẦN THƠ 2015


ĐẶT VẤN ĐỀ
Thể dục thể thao là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế - văn hóa, xã
hội của mỗi quốc gia. Phát triển TDTT là góp phần chăm lo sức khỏe toàn dân, là
một việc làm cần thiết và quan trọng gắn liền với việc xây dựng và bảo vệ tổ
Quốc.
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của TDTT trong công cuộc xây
dựng và đổi mới đất nước sự nghiệp, TDTT được Đảng và Nhà nước ta đặt biệt
quan tâm. Bên cạnh đầu tư những môn thể thao mũi nhọn đạt thành tích cao trong
các cuộc thi khu vực và quốc tế, hiện nay nước ta có chủ trương khôi phục và
phát triển các môn thể thao nhằm hướng tới TDTT đại chúng toàn diện. Trong số
đó bóng chuyền là một trong những môn được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Việt Nam quan tâm và phát triển cùng với các môn khác. Ở nước ta nói chung và
Trường ĐHCT nói riêng bóng chuyền được phát triển rộng rãi nó là một môn thể
thao hấp dẫn, phù hợp với mọi lứa tuổi, cũng như các môn thể thao khác nó đòi
hỏi trình độ kỹ thuật- chiến thuật không chỉ dừng lại ở kỹ năng vận động mà phải
đạt tới kỹ xảo vận động.
Trong số những kỹ thuật cơ bản của bóng chuyền phải kể đến kỹ thuật
chuyền một đây là một trong những kỹ thuật quan trọng góp phần tạo nên thành
tích thi đấu của vận động viên.Nhận thấy được tầm quan trọng của nó trong tập
luyện cũng như trong thi đấu đối với các đội tuyển bóng chuyền nam tham gia
“Giải bóng chuyền Chào mừng năm học mới 2014-2015” và cũng mong muốn
được góp phần đánh giá thực trạng kỹ thuật chuyền một của các đội nên tôi mạnh

dạn chọn đề tài: “ Đánh giá hiệu quả chuyền một của các đội tuyển bóng
chuyền nam tham dự giải Bóng chuyền Chào mừng năm học mới Bộ môn
GDTC, trƣờng ĐHCT năm học 2014-2015”.

1


CHƢƠNG 1:TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Đảng và Nhà nƣớc với sự phát triển thể chất.
Thể dục thể thao (hay gọi là văn hóa thể chất) có ý nghĩa to lớn trong việc
bảo vệ, tăng cường sức khỏe, phát triển và hoàn thiện thể chất cho con người,
góp phần tích cực vào quá trình bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực, xây
dựng đời sống văn hóa tinh thần phong phú, lối sống lành mạnh nhằm thực hiện
mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đường lối, quan điểm của Đảng về công tác TDTT, được hình thành ngay
từ những năm đầu của cách mạng nước ta, đã từng bước được bổ sung, hoàn
chỉnh phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng và luôn luôn
là kim chỉ nam cho sự phát triển của nền TDTT nước nhà.
Ngay từ năm 1941, Chương trình Việt Minh đã chỉ rõ: “Cần khuyến khích
nền thể dục quốc dân, làm cho nòi giống ngày càng thêm mạnh”.
Cách mạng Tháng Tám thành công, sau khi giành được chính quyền, ngày 30
tháng 01 năm 1946, Chủ tịch Chính phủ Liên hiệp lâm thời Việt Nam dân chủ
cộng hòa đã ký sắc lệnh số 14 thành lập Nha Thể dục, trực thuộc Bộ Thanh Niên,
cơ quan TDTT đầu tiên của nước ta.
Tháng 3 năm 1946, trong lúc chính quyền cách mạng còn non trẻ đang gặp
vô vàn khó khăn, đất nước trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Chủ tịch Hồ
Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ký ban hành sắc lệnh số
33 thành lập trong Bộ quốc gia Giáo dục Nha Thanh niên, Thể dục. Trong ngày
này, Người đã viết bài báo Sức khoẻ và Thể dục, động viên toàn dân tập thể dục
để nâng cao sức khoẻ:

Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng có sức
khoẻ mới làm thành công. Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi
một người dân mạnh khoẻ tức là cả nước mạnh khoẻ. Vậy nên luyện tập thể dục,
bồi bổ sức khoẻ là bổn phận của mỗi một người yêu nước. Việt đó không tốn
kém, khó khăn gì. Gái trai, già trẻ ai cũng nên làm và ai cũng làm được. Mỗi
2


ngày lúc ngủ dậy, tập một ít thể dục. Ngày nào cũng tập thì khí huyết lưu thông,
tinh thần đầy đủ, như vậy là sức khoẻ.
Đảng ta luôn khẳng định rõ vị trí quan trọng của TDTT trong chính sách
kinh tế - xã hội nhằm bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, tạo ra sức mạnh
và động lực phát triển đất nước.
Các quan điểm của Đảng về phát triển TDTT là những định hướng cơ bản
để xác định vị trí và mối quan hệ của toàn bộ sự nghiệp TDTT đối với các lĩnh
vực kinh tế, văn hóa, xã hội … các mối quan hệ nội tại của TDTT. Vì vậy đó
chính là các cơ sở để lựa chọn, xác định các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp để xây
dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển sự nghiệp TDTT trong một thời kỳ tương
đối dài.
Các Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, thứ VII và thứ VIII,
IX, X và XI của Đảng đã xác định những quan điểm cơ bản và chủ trương lớn để
chỉ đạo công tác TDTT trong sự nghiệp đổi mới.
- Quan điểm 1: Phát triển TDTT là một yêu cầu khách quan, một mặt quan
trọng của chính sách xã hội, một biện pháp tích cực để giữ gìn và nâng cao sức
khỏe, làm phong phú đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, góp phần mở rộng
giao lưu quốc tế, phục vụ tích cực các nhiệm vụ kinh tế- xã hội, an ninh và quốc
phòng của đất nước.
- Quan điểm 2: Phát triển TDTT phải đảm bảo tính dân tộc, tính khoa học và
nhân dân.
- Quan điểm 3: Kết hợp Phát triển phong trào TDTT quần chúng với xây

dựng lực lượng vận động viên, nâng cao thành tích các môn thể thao là phương
châm quan trọng đảm bảo cho TDTT phát triển nhanh và đúng hướng.
- Quan điểm 4: Thực hiện xã hội hóa tổ chức, quản lý TDTT, kết hợp chặt
chẽ sự quản lý của nhà nước, của các tổ chức xã hội.
- Quan điểm 5: Kết hợp phát triển TDTT trong nước với mở rộng các quan hệ
quốc tế về TDTT.
Từ đó cho thấy, giáo dục thể chất ngày là một khía cạnh được Đảng và Nhà
nước ta quan tâm hàng đầu trong việc nâng cao sức khỏe cho người dân cũng như
3


toàn xã hội, góp một phần vào công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước ngày
càng giàu đẹp.
1.2. Vài nét về lịch sử phát triển môn bóng chuyền.
1.2.1. Sự hình thành và phát triển môn bóng chuyền trên thế giới.
Các nhà sử học cho rằng: Bóng chuyển ra đời ở Mỹ khoảng năm 1895 do
giáo viên thể thao tên là WILIAM MORGAM nghĩ ra. Lúc đầu, luật chơi đơn
giản và được xem như trò chơi vận động cho học sinh. Ông dùng luới cao khoảng
1,95 m và ruột quả bóng rổ để người ta chuyền qua lưới. Lần đầu tiên tổ chức thi
đấu bóng chuyền vào tháng 6 năm 1896 tại Springfield.
Năm 1897 ở Mỹ, Luật bóng chuyền ra đời gồm có 10 điều:
1. Đánh dấu sân.
2. Trang phục.
3. Kích thước sân : 7,5 m x 15,1 m.
4. Kích thước lưới : 0,61 m x 8,2 m ; chiều cao lưới : 198 cm.
5. Bóng : Ruột bóng bằng cao su, vỏ bóng bằng da hay chất tổng hợp tương tự.
Chu vi bóng: 63,5 cm - 68,5 cm. Trọng lượng bóng : 340 gam.
6. Phát bóng : Cầu thủ phát bóng đứng một chân trên vạch biên ngang và đánh
bóng bằng bàn tay mở. Nếu lần đầu phát bóng phạm lỗi thì được phát lại.
7. Tính điểm : Mỗi lần đối phương không đỡ được phát bóng thì bên phát bóng

được một điểm (chỉ có bên phát bóng mới được điểm).
8. Trong thời gian thi đấu (trừ phát bóng) bóng chạm lưới coi như phạm luật.
9. Bóng rơi vào vạch giới hạn là phạm luật.
10. Không hạn chế số người chơi.
Từ năm 1895 đến năm 1920, bóng chuyền được du nhập vào các nước khác
và phát triển rộng rãi ở các châu. Trong giai đoạn này luật bóng chuyền cũng
thay đổi và hoàn thiện dần.
Năm 1912 các vận động viên nghiệp dư thành lập hiệp hội và năm 1913 tổ
chức giải bóng chuyền tại Paradiát.
4


Bóng chuyền vào châu Âu đầu tiên ở Pháp. Vào Anh năm 1914. Vào Nga,
Tiệp Khắc, Ba Lan khoảng năm 1920 - 1921 và phát triển nhanh ở các nước
châu Âu. Năm 1928 tại Mátxcơva trong chương trình đại hội thể dục thể thao đã
có bóng chuyền.
Năm 1922 tại Brooklyn ( Mỹ) chính thức tổ chức giải bóng chuyền và
quyết định đưa môn bóng chuyền vào chương trình Thế vận hội lần thứ VIII sẽ tổ
chức vào năm 1924 tại Pari( Pháp).
Cùng với sự phát triển của phong trào bóng chuyền, luật thi đấu cũng được
thay đổi:
- Năm 1900 mỗi điểm kết thúc ở điểm 21. Chiều cao lưới là 2,13 m và các đường
biên được tính là trong sân.
- Năm 1912 diện tích sân là 10,6 m x 18,2 m ; chều cao lưới là 2,28 m ; chiều
rộng lưới là 0,91m. Sau khi phát bóng hỏng thì thay cầu thủ.
- Năm 1917 : Chiều cao lưới là 2,43 m.
- Năm 1918 : Đội hình mỗi đội có 6 người, điểm mỗi hiệp là 15.
- Năm 19 21: Có thêm đường kẻ giữa sân.
- Năm 19 22: Mỗi đội chỉ được chạm bóng 3 lần.
- Năm 1923 : Diện tích sân bóng chuyền là 9,1 m x 18,2 m

- Năm 1925 : Khi ở tỉ số 14 - 14, đội nào hơn 2 điểm trước thì thắng hiệp ấy.
Luật lệ thay đổi có tác dụng thúc đẩy các mặt kỹ thuật và chiến thuật phát
triển. Từ một trò chơi được hình thành từ các động tác tự nhiên với mục đích
nghỉ ngơi tích cực, bóng chuyền trở thành một môn thể thao.
Từ năm 1929 đến năm 1939, kỹ thuật và chiến thuật bóng chuyền có những
bước tiến nhảy vọt. Chắn bóng tập thể xuất hiện đã thúc đẩy sự phát triển các
hình thức tấn công mới. Bóng chuyền trở thành môn thể thao mang tính tập thể
nhiều hơn. Điều đó được thể hiện rất rõ trong cách sắp xếp các đấu thủ trên sân,
trong việc tổ chức tấn công và phòng thủ, trong việc yểm hộ người đập bóng và
người chắn bóng.

5


Năm 1934 Tại Thụy Điển, thành lập ủy ban kỹ thuật bóng chuyền, quyết
định lấy luật bóng chuyền Mỹ làm cơ sở cho luật thi đấu bóng chuyền (có thay
đổi vài điều) và đưa môn bóng chuyền vào chương trình thi đấu Thế vận hội năm
1940.
+ Lấy đơn vị mét làm đơn vị đo lường thống nhất.
+ Phần thân thể chạm bóng chỉ được tính từ thắt lưng trở lên.
+ Đấu thủ chắn bóng không được chạm bóng lần thứ 2 khi chưa có người
khác chạm bóng.
+ Chiều cao của lưới nữ là 2,24 m.
+ Vị trí phát bóng được thu hẹp lại.
Tháng 4/1947 tại Pari (Pháp), Hội nghị bóng chuyền Quốc tế đầu tiên quyết
định thành lập hiệp hội bóng chuyền quốc tế (FIVB). Sự kện này chứng tỏ bóng
chuyền là môn thể thao có tầm thế giới.
+
Năm 1948: Lần đầu tiên FIVB tổ chức giải vô địch bóng chuyền nam Châu
Âu tại ý với 6 đội tham gia. Đội Tiệp Khắc đoạt chức vô địch.

Tháng 9/1949 tại Praha (Tiệp Khắc) tổ chức giải bóng chuyền Thế giới lần
thứ nhất cho các đội nam và vô địch châu Âu cho các đội nữ. Hai đội bóng
chuyền nam, nữ của Liên Xô đều giành chức vô địch.
Từ 1948-1968: Bóng chuyền phát triển mạnh trên thế giới. Các giải vô địch
Thế giới, vô địch châu Âu... được tiến hành thường xuyên và có nhiều nước tham
gia. Giải vô địch thế giới năm 1956 tại Pháp có 17 đội bóng chuyền nữ và 24 đội
bóng chuyền nam tham gia. Trong đó châu á có 3 đội tham gia là ấn Độ, Cộng
hoà nhân dân Trung Hoa, Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên. Châu Mỹ có 3
đội tham gia là Mỹ, Brazin và Cu Ba.
Năm 1964: Bóng chuyền chính thức được đưa vào chương trình thế vận
hội Tokyo (Nhật Bản) , đội bóng chuyền nam Liên Xô và đội nữ Nhật Bản giang
chức vô địch. Luật bóng chuyền vẫn không ngừng được hoàn thiện:

6


+ Năm 1949 : Mỗi hiệp đấu được tạm ngừng 3 lần để hội ý và cho phép chắn
bóng tập thể.
+ Năm 1951 : Có đường hạn chế tấn công (vạch 3m) và cho phép đổi vị trí
trên sân sau khi phát bóng.
+ Năm 1952 : Mỗi hiệp chỉ được hội ý 2 lần.
+ Năm 1957 : Giảm số lần thay người từ 12 lần xuống 4 lần. Giảm thời gian
thay người từ 1 phút xuống 30 giây. Cấm làm động tác che khuất đấu thủ phát
bóng. Ngoài ra, FIVB còn qui định Luật bóng chuyền sẽ được thay đổi 4 năm 1
lần.
+ Năm 1961 : Tăng số lần thay người trong một hiệp lên 6 lần.
+ Năm 1965 : Cho phép tay qua lưới chắn bóng và người tham gia chắn bóng
được đánh bóng lần thứ 2 ngay sau khi chắn chạm bóng nhằm nâng cao khả năng
phòng thủ và sự liên tục của trận đấu.
Trong thời gian 1948 - 1968, kỹ chiến thuật bóng chuyền cũng được phát triển

cao :
+ Kỹ thuật đập bóng giãn biên, đập nhanh, đập lao, đập trên tay chắn đã xuất
hiện nhiều ở các giải đấu quốc tế.
+ Chiến thuật tấn công cũng phát triển như: Tấn công 2 chuyền phối hợp với
động tác giả; tấn công 3 người do hàng sau đan lên tổ chức (chuyền 2); tấn công "
đan chéo", "đập chồng", đập với động tác giả...
+ Chiến thuật phát bóng cũng xuất hiện, đặc biệt là kỹ thuật phát bóng cao
tay nghiêng mình bay của đội bóng chuyền nữ Nhật Bản.
+ Đi đôi với sự cải tiến kỹ - chiến thuật phát bóng, kỹ thuật đệm bóng cũng
xuất hiện và được sử dụng chủ yếu trong chuyền bước một. Các kỹ thuật lăn ngã
cứu bóng trong phòng thủ cũng ra đời.
Tháng7/ 1966 tại Hunggari lần đầu tiên tổ chức Giải bóng chuyền trẻ châu
Âu (đến 20 tuổi) có 12 đội nữ và 16 đội nam tham gia. Đội bóng chuyền nam, nữ
trẻ của Liên Xô doạt chức vô địch.

7


Bắt đầu từ năm 1965 đã xác định thứ tự tổ chức các giải bóng chuyền quốc
tế lớn: Cúp thế giới tổ chức vào năm sau giải vô địch, sau đó là giải vô địch châu
Âu và cuối cùng là Thế vận hội Olympic. Như vậy mỗi năm đều có một giải thi
đấu chính thức. Từ năm 1975 giải vô địch Bóng chuyền châu Âu 2 năm tổ chức 1
lần.
FIVB tổ chức các giải chính thức sau :
+ Giải trong chương trình của Thế vận hội Olympic tổ chức 4 năm 1 lần
(1980...
2000, 2004)
+ Giải Vô địch Thế giới 4 năm một lần (1978, 1982....1998, 2002).
+ Cúp Thế giới 4 năm một lần ( 1981, 1985....2001, 2005).
+ Vô địch châu Âu 2 năm một lần (1981, 1983....2003, 2005).

+ Vô địch trẻ châu Âu (đến 19 tuổi) 2 năm một lần (1982, 1984.....).
+ Cúp vô địch các đội đoạt cúp châu Âu hằng năm dành cho các đội câu lạc
bộ.
Do yêu cầu phát triển toàn cầu đã có nhiều thay đổi về luật lệ, kỹ chiến
thuật cũng không ngừng được nâng cao nhằm làm cho bóng chuyền trở thành
một môn thể thao thêm phần hấp dẫn.
Năm 1983 Liên đoàn bóng chuyền Thế giới có 146 nước thành viên. Bóng
chuyền trở thành một trong những môn thể thao hàng đầu của thế giới.
1.2.2. Lịch sử phát sinh và phát triển môn bóng chuyền ở Việt Nam qua
các thời kỳ:
Môn bóng chuyền xuất hiện ở Việt Nam khoảng năm 1920 - 1922 ở các
thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng ...
Sau tháng 8/1945, cùng với sự phát triển của phong trào thể dục thể thao
nói chung, môn bóng chuyền cũng từng bước mở rộng tới các vùng và mọi miền
trong cả nước với số lượng người tham gia đông đảo hơn. Vì vậy, môn bóng
chuyền là môn thể thao có tính quần chúng rộng rãi.
8


Từ khi xuất hiện cho đến nay, bóng chuyền Việt Nam đã tồn tại và phát
triển qua các thời kỳ:
Sự hình thành và phát triển của bóng chuyền Việt Nam trước Cách mạng
tháng Tám năm 1945:
Vào khoảng năm 1920 - 1922 bóng chuyền xuất hiện và phổ biến trong học
sinh người Hoa ở Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác với luật chơi gần
giống như bóng chuyền hiện đại:
- Kích thước sân là 9 m x 18 m.
- Khu phát bóng là 1,2 m.
- Lưới nam cao 2,40 m; lưới nữ cao 2,20 m.
- Số điểm thi đấu mỗi hiệp là 21.

- Các cầu thủ trong đội được đánh 4 chuyền.
- Nếu phát bóng rơi vào khu phát bóng của đối phương thì được 2 điểm
Năm 1927 trận thi đấu bóng chuyền đầu tiên được tổ chức giữa người Hoa
ở Hải Phòng và Hà Nội.
Năm 1928 Giải bóng chuyền đầu tiên được tổ chức ở Bắc kỳ giữa 2 đội:
Một đội người Việt Nam và một đội người Pháp.
Dưới ách thống trị của thực dân phong kiến, phong trào bóng chuyền nước
ta không được phát triển
Từ Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến năm 1954:
Sau Cách mạng tháng 8 thành công, chính quyền nhân dân ra đời. Bác Hồ
ra "Lời kêu gọi tập thể dục" và được toàn dân nhiệt liệt hưởng ứng. Một số môn
thể thao được hình thành. Bóng chuyền đã phát triển ở các vùng nông thôn và
được nhân dân tham gia tập luyện đông đảo. Trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp, bóng chuyên trở thành môn thể thao chủ yếu trong các cơ quan kháng
chiến ở Việt Bắc, ở Khu 5 và trong các đơn vị bộ đội...
Trong thời kỳ này đã tổ chức 2 giải bóng chuyền:
+ Giải vô địch Liên khu 3 cho 3 tỉnh: Thái Bình - Hải Dương - Hưng Yên
9


+ Giải vô địch Liên khu 5 cho 2 tỉnh : Quảng Nam - Quảng Ngải.
Tuy phong trào phát triển rộng nhưng kỹ chiến thuật bóng chuyền còn rất
đơn giản, vẫn áp dụng luật cũ. Mối liên hệ giữa phong trào trong nước và thế giới
chưa có, do đó những kỹ thuật tiên tiến trên thế giới không có điều kiện du nhập
vào nước ta.
Từ năm 1954 đến năm 1975:
Sau khi hoà bình lập lại ở nước ta (1954), bóng chuyền có điều kiện thuận
lợi để phát triển. Phong trào bóng chuyền phát triển mạnh mẽ trong các lực lượng
vũ trang. Đoàn Thể Công - một tổ chức thể dục thể thao của quân đội được thành
lập bao gồm nhiều môn trong đố có bóng chuyền. Đội bóng chuyền Thể Công đã

trở thành một đội thể thao tiêu biểu cho nền thể dục thể thao mới, góp phần thúc
đẩy phong trào phát triển và làm nòng cốt cho đội tuyển quốc gia sau này. Thời
kỳ này có nhiều đội nữ xuất hiện như: Quân y viện 108; Trường cấp 3
Trưng Vương (Hà Nội) ... Tuy nhiên, phong trào chỉ ở giai đoạn tự phát và thiếu
sự chỉ đạo chung.
Năm 1955 Uỷ ban Thể dục thể thao Trung ương được thành lập. Tháng 3
năm 1957
Hội bóng chuyền Việt Nam ra đời. Năm 1956 - 1957 tổ chức các giải Hoà
bình - Thống nhất, giải Mùa Xuân 1957 để động viên cổ vũ phong trào.
Tháng 10 năm 1957 Đội tuyển bóng chuyền Việt Nam được thành lập dự
giải 4 nước: Việt Nam - Trung Quốc - Triều Tiên - Mông Cổ tại Bình Nhưỡng
(Triều Tiên). Tuy thành tích không cao nhưng qua thi đấu và tham quan phong
trào các nước bạn, các cán bộ và vận động viên nước ta đã tiếp thu được một số
kỹ thuật mới, phương pháp huấn luyện mới cũng như những kinh nghiệm về xây
dựng lực lượng, xây dựng và phát triển phong trào bóng chuyền.
1.3. Đặc điểm tính chất và tác dụng trong tập luyện bóng chuyền.
1.3.1. Đặc điểm môn bóng chuyền.
Sân thi đấu:

10


- Diện tích sân thi đấu bao gồm sân đấu và khu tự do. Sân thi đấu phải là
hình chữ nhật và đối xứng.
- Sân dài 18m, rộng 9m ( tính từ mép ngoài của các đường biên).
- Các đường trên sân: Rộng 5cm có màu sáng khác với màu sân
+ Đường giữa sân
+ Đường tấn công: Cách đường giữa sân về mỗi bên 3m và kéo dài thêm mỗi bên
5 vạch ngắt quảng dài 15cm, cách nhau 20cm và độ dài tổng cộng 1,75m


.

+ Đường biên ngang (đường cuối sân).
+ Đường biên dọc và phần kéo dài biên dọc dài 15cm, cách biên ngang 20cm.
- Các khu vực trên sân:
+ Khu tấn công (khu trước) ở mỗi bên sân được giới hạn bởi đường tấn công và
đường giữa sân.
+ Khu phòng thủ (khu sau) ở mỗi bên sân được giới hạn bởi đường tấn công và
biên ngang.
+ Khu phát bóng: Giới hạn bởi biên ngang và hai vạch kéo dài của biên dọc.
+ Khu thay người: Giới hạn bởi hai đường kéo dài của đường tấn công đến bàn
thư ký.
+ Khu tự do: Tính từ các đường biên trở ra ít nhất 3m. Khu tự do của các cuộc thi
đấu thế giới của FIVB rộng tối thiểu 5m từ đường biên dọc và 8m từ đường biên
ngang.
+ Khu khởi động : Mỗi góc sân của khu tự do có một khu khởi động 3 x 3m.
+ Khu phạt : Mỗi bên sân của khu tự do, trên đường kéo dài của đường biên
ngang, ở sau ghế ngồi của mỗi đội có một khu phạt 1 x 1m
+ Khoảng không tự do: Khoảng không gian trên khu sân đấu không có vật cản
nào tính từ mặt sân trở lên ít nhất 7m.
- Mặt sân được làm bằng gỗ hoặc chất liệu tổng hợp.

11


- Mặt sân thi đấu trong nhà phải là màu sáng. Sân đấu và khu tự do phải có màu
sắc khác biệt nhau.
Lưới :
Được căng ngang phía trên đường giữa sân. Lưới màu đen dài 9,5 - 10m, rộng
1m. Mắt lưới hình vuông cạnh 10cm. Mép trên của lưới có dải băng trắng rộng

7cm. Mép dưới lưới có giải băng trắng rộng 5cm
- Chiều cao mép trên lưới nam là 2,43m, lưới nữ là 2,24m. Chiều cao lưới được
đo ở giữa sân, hai đầu lưới ở trên đường biên dọc phải cao bằng nhau và không
cao hơn chiều cao quy định 2 cm (Hình 36).
Ăngten:
Dài 1,8m, đường kính 1cm được sơn màu đỏ và trắng xen kẻ mỗi đoạn 10cm.
Cọc được buộc thẳng đứng trên lưới (cao hơn lưới 0,8m) sao cho hình chiếu của
cọc lên mặt sân là giao điểm của biên dọc và đường giữa sân
Băng giới hạn :
Là hai băng trắng dài 1m, rộng 5cm đặt ở hai bên đầu lưới thẳng góc với giao
điểm của
đường biên dọc và đường giữa sân
Băng giới hạn là một phần của lưới
Cột lưới :
- Cột lưới cao 2.55m để căng giữ lưới được đặt ở ngoài sân cách đường biên dọc
1m
- Cột lưới tròn và nhẵn, được cố định chắc xuống đất, không dùng dây cáp giữ.
Bóng :
- Bóng hình cầu tròn làm bằng da mềm hoặc da tổng hợp, bên trong có ruột bằng
cao su hoặc chất liệu tương tự.
- Màu sắc phải đồng màu hoặc phối hợp các màu .
- Chu vi của bóng : 65 - 67cm, trọng lượng của bóng : 260cm - 280cm .
12


- Áp lực trong của bóng : 0,30 - 0,325 kg/cm2
- Mọi quả bóng dùng trong một trận đấu phải có cùng chu vi, trọng lượng, áp lực,
chủng loại, màu sắc ...
- Mỗi đội được phép đăng ký thi đấu tối đa 12 cầu thủ (trong đó có 1 cầu
thủ tự do Libero). Chỉ có cầu thủ đã đăng ký mới được vào sân thi đấu.

Mỗi trận thi đấu 5 hiệp, đội nào thắng 3 hiệp (3-0; 3-1; 3-2) là thắng trận.
- Trong 1 pha đánh bóng, điểm được tính trực tiếp:
+ Đội phát bóng thắng được tiếp tục phát và cộng 1 điểm.
+ Đội đở phát bóng thắng thì giành quyền phát bóng và cộng 1 điểm.
- Từ hiệp 1 đến hiệp 4
+ Đội nào đến 25 điểm trước và hơn đội kia ít nhất 2 điểm (25 - 23; 25 - 17; ....)
+ Trường hợp hòa 24 - 24, phải đấu tiếp cho đến khi hơn nhau 2 điểm
(26 - 24; 29 - 27; .....) không có điểm giới hạn cuối cùng.
- Hiệp 5 (hiệp quyết thắng)
+ Đội nào đến 15 điểm trước và hơn đội kia ít nhất 2 điểm (15 - 13; 15 - 7; ....)
+ Trường hợp hòa 14 - 14, phải đấu tiếp cho đến khi hơn nhau 2 điểm (16 - 14;
20 - 18; .....) không có điểm giới hạn cuối cùng.

1.3.2. Tính chất thi đấu.
Bóng chuyền là một môn thể thao tập thể được ngăn cách giữa sân, cột và
lưới. Chính vì có cột và lưới ngăn cách giữa hai đội cho nên nó là môn thể thao
đối kháng không trực tiếp.
Bóng vào cuộc bằng phát bóng do cầu thủ phát bóng đánh bóng qua trên
lưới sang sân của đối phương. Một pha bóng chỉ kết thúc khi bóng chạm sân đấu,
ra ngoài hoặc một đội bị phạm lỗi.

13


Trong bóng chuyền, thắng trong mỗi pha bóng được tính một điểm (tính
điểm trực tiếp). Khi đội đỡ phát bóng thắng một pha bóng, đội đó ghi được một
điểm đồng thời giành được quyền phát bóng và các cầu thủ của đội đó thực hiện
di chuyển xoay vòng theo chiều kim đồng hồ một vị trí .
Bóng chuyền khác với các môn thể thao khác là bóng không dừng lâu trên
cơ thể. Sự tiếp xúc với bóng khác với các môn bóng đá, bóng rỗ, bóng ném là khi

bóng chạm vào tay phải nhanh chóng bật bóng đi (ngoại trừ khi phát bóng)
Phần lớn sự tiếp xúc với Bóng trong Bóng chuyền là sự tiếp xúc trong
không gian.
Bóng chuyền cần sự tập trung cao độ của người chơi, sự sắp xếp cầu thủ,
khả năng di chuyển hợp lý trên sân là nền tảng cho sự thắng lợi. Thực hiện tốt
các chức năng nhiệm vụ của từng cầu thủ là mấu chốt chiến thuật .
1.3.3. Tác dụng của tập luyện và thi đấu bóng chuyền.
Từ những đặc điểm của bóng chuyền cho thấy: Giảng dạy và huấn luyện
bóng chuyền có ảnh hưởng và tác dụng tốt đến người tập.
Mỗi kỹ thuật bóng chuyền dù đơn giản nhất như : Chuyền bóng thấp tay,
chuyền bóng cao tay, phát bóng ... đòi hỏi người tập vận động tay chân, toàn thân
một cách hợp lý và kịp thời. Khi thực hiện độngtác yêu cầu phải tập trung chú ý
cao và lặp lại nhiều lần giúp người tập tăng cường sức mạnh tay, chân, toàn thân,
hình thành khả năng xử lý nhanh nhẹn, khéo léo, tạo điều kiện thích ứng với
những hoạt động phức tạp trong lao động sản xuất, trong chiến đấu cũng như
trong cuộc sống hàng ngày.
Tập luyện và thi đấu bóng chuyền là quá trình rèn luyện, bồi dưỡng con
người phát triển toàn diện về phẩm chất tâm lý - ý chí, tinh thần tập thể, tính kiên
trì, dũng cảm.
Sự đa dạng của các kỹ năng - kỹ xảo vận động và hành động thi đấu khác
nhau không chỉ về cường độ dùng sức mà cả về cấu trúc phối hợp sẽ tạo điều
kiện phát triển các tố chất thể lực cảu con người như : Sức nhanh, sức mạnh, sức
bền, mềm dẻo và tính khéo léo trong những động tác phối hợp hài hoà.

14


Tập luyện, thi đấu bóng chuyền có tác động tích cực tới sự phát triển, hoàn
thiện khả năng thích ứng và định hướng nhanh cho người tập, xử lý nhanh những
tình huống thường xuyên thay đổi, biết lựa chọn kỹ thuật hợp lý nhất trong vốn

dự trữ phong phú về kỹ thuật của mình, biết nhanh chóng chuyển từ hành động
này sang hành động khác giúp họ đạt được tính linh hoạt cao của các quá trình
thần kinh.
Sự đa dạng các kỹ năng- kỹ xảo vận động, hành động thi đấu khác nhau sẽ
tạo điều kiện phát triển các tố chất thể lực: nhanh, mạnh, bền, mềm dẻo và khéo
léo
Tập luyện và thi đấu bóng chuyền ảnh hưởng tích cực tới sự phát triển cho
người tập lòng dũng cảm, tính kiên định, tính quyết đoán, tính sáng tạo và kỷ
luật. Người tập biết hành động tập thể, thường xuyên hợp tác và giúp đỡ lẫn
nhau, điều đó sẽ góp phần giáo dục ý thức trách nhiệm tập thể, tình cảm bạn bè,
tính tập thể ... cho người tập.
Tập luyện bóng chuyền giúp cơ thể phát triển hài hòa. Sự phối hợp hành
động khi thực hiện các chiến thuật tạo vẻ đẹp và sức lôi cuốn người xem. Điều
đó chứng tỏ bóng chuyền là môn thể thao có sức hấp dẫn với quần chúng ở các
lứa tuổi, đối tượng, ngành nghề khác nhau và đội ngũ người tập bóng chuyền
ngày càng phát triển và lớn mạnh.
1.4. Đặc điểm tâm sinh lí cơ bản của thanh niên.
1.4.1. Những đặc điểm phát triển tâm lí cơ bản của thanh niên.
Trong tiếng Việt thuật ngữ tâm lý đã có từ lâu Từ điển tiếng Việt 1988
định nghĩa một cách tổng quát: “ tâm lý là ý nghĩa, tình cảm, làm thành thế giới
nội tâm, thế giới bên trong của con người” Như vậy tâm lý được dùng để chỉ
những hiện tượng tinh thần của con người.
Khái niệm tâm lý trong tâm lý học bao gồm tất cả những hiện tượng tinh
thần như cảm giác, tư duy, tình cảm hình thành trong đầu óc con người điều
chỉnh, điều khiển mọi hoạt động của con người. Nói một cách chung nhất: tâm lý
là tất cả những hiện tượng tinh thần nảy sinh trong đầu óc con người, gắn liền và
điều hành mọi hành động, hoạt động của con nguời.
15



Việc phân đoạn quá trình phát triển tâm lý người phác họa cho chúng ta
thấy rõ những nét tâm lý đặc trưng cho từng lứa tuổi. Trong mỗi giai đoạn
phát triển các nét tâm lý đặc trưng nảy sinh trên cơ sở kết hợp các điều kiện
khách quan và chủ quan.Trong số các điều kiện khách quan, vị thế xã hội của chủ
thể có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Những thay đổi vị thế xã hội sẽ làm nảy sinh
nhu cầu phát triển mới. Trình độ phát triển của các chức năng tâm lý trong giai
đoạn trước cũng như trong giai đoạn hiện thời sẽ là điều kiện chủ quan đảm bảo
cho những nhu cầu phát triển mới nảy sinh trở thành hiện thực.
Như vậy quá trình phát triển tâm lý con người là một quá trình liên tục. Nói
cách khác mỗi giai đoạn phát triển vừa mang tính kế thừa vừa mang tính phát
triển.
Điều đó cũng có nghĩa là việc phân đoạn quá trình phát triển tâm lý người
chỉ có ý nghĩa tương đối. Hiện nay tồn tại nhiều cách phân đoạn quá trình phát
triển của con người tùy thuộc vào góc độ nghiên cứu. Có thể xuất phát từ đặc
điểm phát triển sinh lý, cũng có thể đi từ góc độ xã hội học dựa vào sự thay đổi
các dạng hoạt động xã hội... Nếu so sánh ngôn ngữ thông thường và ngôn ngữ
khoa học thì nội dung các khái niệm thể hiện giai đoạn phát triển lại càng khác xa
nhau. Riêng trong tâm lý học nếu loại trừ sự khác biệt trong quan điểm phân
đoạn do tính liên tục của các quá trình phát triển tạo ra, nhìn chung có thể chấp
nhận xác định lứa tuổi thanh niên là giai đoạn lừ 14 – 18 tuổi. Việc xác các định
lứa tuổi thanh niên như vậy tương đối tương đồng với việc phân đoạn từ góc độ
sinh lý học hay xã hội học. Tuy nhiên, các ngưỡng tuổi trên và ngưỡng tuổi dưới
có thể dịch chuyển chút ít (độ 1,2 tuổi) tùy thuộc vào đặc điểm phát triển lịch sử xã hội, đặc điểm giới và cả đặc điểm phát triển cá nhân.
Tóm lại, quá trình phát triển tâm lí ở thanh niên chia làm 3 giai đoạn.
* Hình thành biểu tượng "cái tôi” có tính hệ thống
Bước sang tuổi thanh niên, các chức năng tâm lý của con người cũng có
nhiều thay đổi, đặc biệt là trong lĩnh vực phát triển trí tuệ, khả năng tư duy. Các
nghiên cứu tâm lý học cho thấy rằng hoạt động tư duy của thanh niên rất tích cực
và có tính độc lập tư duy lý luận phát triển mạnh. Thanh niên có khả năng và rất
16



ưa thích khái quát các vấn đề. Sự phát triển mạnh của tư duy lý luận liên quan
chặt chẽ với khả năng sáng tạo. Nhờ khả năng khái quát thanh niên có thể tự
mình phát hiện ra những cái mới. Với họ điều quan trọng là cách thức giải quyết
các vấn đề được đặt ra chứ khống phải là loại vấn đề nào được giải quyết. Học
sinh cấp III đánh giá các bạn thông minh trong lớp không dựa vào điểm số mà
dựa vào cách thức giải bài tập. Họ có xu hướng đánh giá cao các bạn thông minh
và những thầy cô có phương pháp giảng dạy tích cực, tôn trọng những suy nghĩ
độc lập của học sinh, phê phán sự gò ép, máy móc trong phương pháp sư phạm.
Biểu tượng về "cái tôi" trong giai đoạn đầu của lứa tuổi thanh niên thường
chưa thật rõ nét. Do đó tự đánh giá về bản thân không ổn định và có tính mâu
thuẫn. Tôi trong biểu tượng của tôi rất tuyệt vời song thanh niên cũng dễ rơi vào
trạng thái nghi ngờ điều đó. Nhu cầu giao tiếp, đặc biệt là giao tiếp với bạn bè
đồng lứa phát triển mạnh ở lứa tuổi này đã thực hiện một chức năng quan trọng
là giúp thanh niên dần hiểu mình rõ hơn, đánh giá bản thân chính xác hơn thông
qua những cuộc trao đổi thông tin, trao đổi các đánh giá về các hiện tượng mà họ
quan tâm.
Thông thường biểu tượng về cái tôi được hình thành theo hướng các thuộc
tính tâm lý của con người như một cá thể được nhận biết sớm hơn các thuộc tính
nhân cách. ở giai đoạn đầu thanh niên rất nhạy cảm với những đặc điểm của hình
thức thân thể. Họ so sánh mình với người khác qua các đặc điểm bên ngoài. Một
hiện tượng rất thường gặp là học sinh cấp III bắt chước thầy cô giáo mà họ yêu
quý hay một người mẫu lý tưởng nào đó mà họ chọn cho mình, từ cách ăn mặc,
cử chỉ, dáng đi. Trong giai đoạn phát triển tiếp theo các đặc điểm nhân cách như
ý chí, tình cảm, trí tuệ, năng lực, mục đích sống... ngày càng có ý nghĩa, tạo nên
một hình ảnh "cái tôi” có chiều sâu, có hệ thống, chính xác và sống động hơn.
Ý thức về cái tôi rõ ràng và đầy đủ hơn đã làm cho thanh niên có khả năng
lựa chọn ,con đường tiếp theo, đặt ra vấn đề tự khẳng định và tìm kiếm vị trí cho
riêng mình trong cuộc sống chung.


* Nảy sinh cảm nhận về "tính chất người lớn" của bản thân.
17


Cảm nhận về "tính người lớn" của chính 'bản thân mình là một trong những
nét tâm lý đặc trưng xuất hiện trong giai đoạn chuyển từ lứa tuổi thiếu niên sang
tuổi thanh niên.
Bước sang tuổi thanh niên các em có cảm nhận rõ rệt rằng mình đã lớn hay
mình cũng gần giống người lớn, sắp trở thành người lớn. Ranh giới giữa tuổi
thanh niên và tuổi người lớn trong con mắt của thanh niên không phải bao giờ
cũng hiện lên một cách rõ ràng. Trong quan hệ với trẻ nhỏ tuổi hơn hay trong
quan hệ với các bạn đồng lứa thanh niên có xu hướng cố gắng thể hiện mình như
những người đã lớn. Họ hướng tới các giá trị của người lớn, so sánh mình với
người lớn, mong muốn được tự lập, tự chủ trong giải quyết các vấn đề của riêng
họ. Tuy nhiên thực tiễn cuộc sống đã đưa thanh niên vào một hoàn cảnh đầy mâu
thuẫn. So sánh mình với người lớn, học sinh cấp III hiểu rằng mình vẫn còn nhỏ,
còn phụ thuộc. Nếu như lứa tuổi trước đó sẵn sàng chấp nhận quan hệ người lớn
- trẻ con, thì đối với thanh niên tính chất như vậy trong quan hệ giữa họ với
người lớn được họ coi như là không bình thường.. Những nghiên cứu về tính
cách thanh niên bằng các trắc nghiệm TAT và Rorschach cho thấy rằng tính hay
lo lắng đã tăng từ độ tuổi 12 đến độ tuổi 16. So với các lứa tuổi trước đó mức độ
lo lắng trong giao tiếp với mọi người (với bạn bè, thầy cô giáo, người lớn…) ở
lứa tuổi thanh niên cao hơn hẳn và đặc biệt cao trong giao tiếp với bố mẹ hay với
những người lớn mà thanh niên cảm thấy bị phụ thuộc. Theo thói quen thông
thường trong quan hệ với con cái đã bước vào tuổi thanh niên, các bậc cha mẹ
vẫn thường xem họ như những đứa trẻ mà ít chú ý đến nhu cầu nội tâm của họ.
Kiểu quan hệ mang tính sai khiến, áp đặt cứng nhắc hoặc những biểu hiện tình
cảm mẹ - con thái quá đối với lứa tuổi này thường gây ra những hậu quả không
mong đợi.

* Hình thành thế giới quan

.

Để chuẩn bị bước vào đời, thanh niên thường trăn trở với các câu hỏi về ý
nghĩa và mục đích cuộc sống, về cách xây dựng một kế hoạch sống có hiệu quả,
về việc lựa chọn nghề nghiệp cho phù hợp và có ý nghĩa... Để giải đáp các câu
hỏi này, khả năng nhận thức, đánh giá cũng như khả năng thực tiễn của mỗi cá

18


nhân rất khác nhau, thể hiện đặc biệt rõ khoảng cách giữa sự phát triển tự phát và
sự phát triển có hướng dẫn của giáo dục với nghĩa rộng của khái niệm này.
Một trong các khía cạnh quan trọng của quá trình hình thành thế giới quan
ở lứa tuổi thanh niên là trình độ phát triển ý thức đạo đức. Các nghiến cứu tâm lý
học cho thấy rằng thế giới quan về lĩnh vực đạo đức bắt đầu hình thành ở con
người' từ tuổi thiếu niên. Các em thiếu niên biết đánh giá phân loại hành vi của
bản thân và của người khác theo các phạm trù đạo đức khác nhau, có khả năng
đưa ra những chính kiến tương đối khái quát của riêng mình về các vấn đề đạo
đức... Song sang tuổi thanh niên ý thức đạo đức đã phát triển lên một bậc cao hơn
cả về mặt nhận thức tình cảm và hành vi. Về mặt nhận thức thanh thiên không
chỉ có khả nặng giải thích một cách rõ ràng các khái niệm đạo đức, quy chúng
vào một hệ thống nhất định thể hiện một trình độ khát quát cao hơn mà ở họ còn
xuất hiện một cách có ý thức nhu cầu xây dựng các chính kiến đạo đức của riêng
mình về các vấn đề mà cuộc sống đặt ra. Ở khía cạnh tình cảm các chuẩn mực
đạo đức đã có được những ý nghĩa riêng tư đối với thanh niên, nhờ đó các hành
vi tương ứng với các chuẩn mực đạo đức nhất định có thể khơi dậy ở họ những
xúc cảm đặc biệt. Nói cách khác ở lứa tuổi thanh niên niềm tin, đạo đức đã bắt
đầu hình thành. Sự hình thành niềm tin đạo đức biến thanh niên từ chỗ là người

chấp nhận, phục tùng các chuẩn mực đạo đức trở thành chủ thể tích cực của
chúng. Điều này thể hiện đặc biệt rõ trong việc tìm kiếm hình mẫu lý tưởng.
Tuy nhiên từ lâu các nhà tâm lý học đã nhận thấy mâu thuẫn bên trong ý
thức đạo đức ở lứa tuổi thanh niên. Trong các đánh giá của mình thanh niên có
thể rất cứng nhắc tuân theo các chuẩn mực đạo đức mà các em đã tiếp nhận song
đồng thời lại cũng nghi ngờ về tính đúng đắn của chúng. Để lý giải điều này có
thể cho rằng lứa tuổi thanh niên vẫn là lứa tuổi mà ý thức đạo đức đang ở trong
giai đoạn đầu của quá trình hình thành. Mặt khác về phương diện trí tuệ thanh
niên đã hiểu được tính tương đối của các chuẩn mực. Sự nghi ngờ lật lại các
chuẩn mực đạo đức của xã hội có thể hiện như một thao tác tìm kiếm, nghiên
cứu, học hỏi để tiếp thu.
1.4.2. Sự ảnh hƣởng của tâm lí trong thi đấu.
1.4.2.1. Đặc điểm.
19


Nếu trong quá trình học tập rèn luyện, vận động viên tiếp thu được một lượng
tri thức, kỹ năng cần thiết về hoạt động vận động của mình, thì trong thi đấu họ
thể hiện đầy đủ nhất tri thức chuyên môn, kỹ năng, kỹ xảo, vận động và phẩm
chất thể thao của mình.Có thể khăng định rằng ở đâu có thi đấu thì ở đó có thể
thao. Hoạt động thể thao không thể tồn tại nếu không có thi đấu thể thao. Thi đấu
thể thao không những là hình thức cơ bản của hoạt động thể thao, mà còn là
phương tiện để đạt được thành tích thể thao cao. Chỉ trong điều kiện thi đấu thể
thao, vận động viên mới thể hiện đầy đủ trình độ phát triển về các mặt thể chất và
tinh thần của mình. Thành tích đạt được trong thi đấu là do nổ lực chí khắc phục
những khó khăn trong cuộc đọ sức với đối thủ, những trở lực do căn thẳng về thể
chất và tâm lí của mình. Trong quá trình thi đấu thể thao, vận động viên có thể
huy động đầy đủ nhất nguồn dự trữ cảm xúc, tình cảm của mình.
1.4.2.2. Những nguyên nhân ảnh hƣởng đến tâm lí thi đấu thể thao.
- Tính chất cuộc thi đấu.

- Quy mô cuộc thi đấu.
- Thành phần của đối thủ dự thi sẽ ảnh hưởng đến cường độ xúc động của vận
động viên. Xúc động đến mức độ cao nhất khi các đối thủ tham gia thi đấu có
trình độ ngang nhau.
- Điều kiện tổ chức và toàn bộ tình huống của cuộc thi đấu ảnh hương lớn đến
tâm lí thi đấu của vận động viên.
- Hành động của những người xung quanh.
- Đặc điểm tâm lí cá nhân của vận động viên.
- Đặc điểm môn thể thao.
- Tính đoàn kết của đội.
1.4.3. Đặc điểm các trạng thái thi đấu.
* Trạng thái trước thi đấu
Trạng thái tâm lí trước thi đấu là một hiện tượng tâm lí luôn thay đổi. Nó
biểu hiện tổng hợp của những chức năng tâm lí quan trọng trong một thời điểm
20


nhất định và cần thiết cho hoạt động thể thao. Đó là biểu hiện tính tích cực và
trạng thái tâm lí căng thẳng trước thời điểm trước thi đấu.
Thông thường càng gần đến thời điểm thi đấu mức độ căng thẳng tâm lí
càng tăng lên.
Các dạng tâm lí trước thi đấu thường gặp:
Trạng thái sốt xuất phát: Đỉnh trạng thái sốt xuất phát nằm ngoài khả năng
duy trì một sự hưng phấn tập trung của hệ thần kinh trong một thời gian dài. Đây
là trạng thái bất lợi. Trong đa số các trường hợp nó cản trở vận động viên huy
động tới mức tối đa khả năng của mình trong thi đấu, rất dễ mắt lỗi kỹ thuật xuất
phát.
Trạng thái thờ ơ: Vận động viên vừa có biểu hiện nóng nảy, vội vàng khi
chờ xuất phát, mặt nóng, các động tác thừa, không thể ngồi yên một chổ, bổng
chuyển sang thụ động, phản ứng trước các kích thích trì trệ, buồn bã thậm chí

không muốn thi đấu. Trạng thái thờ ơ là kết quả của sư căn thẳng quá mức trước
tình huống trước thi đấu.
Trạng thí sẵn sàn thi đấu:
+ Tin tưởng vào khả năng thi đấu của bản thân
+ Khả năng huy huy động năng lực dự trữ tới mức tối đa để dành thắng lợi
+ Hưng phấn, cảm xúc tới mức tối ưu.
+ Độ ổn định cảm xúc cao.
+ Năng lực điều khiển có y thức hành động của bản thân cao.
* Trạng thái tâm lí trong thi đấu
- Trạng thái cực điểm: Là trạng thái tâm lí thể thao phản ánh sự huy động
đến mức tối đa tất cả các chức năng của cơ thể phục vụ cho hoạt động. Nên đã
gây nên sự rối loạn tạm thời trong sự phối hợp hoạt động của hệ thần kinh trung
ương, hệ dinh dưỡng và hệ vận động.

21


- Trạng thái hô hấp lần hai: nhờ sự nổ lực điều chỉnh nhịp thở và nhịp độ
động tác sau thời gian ngắn, vận động viên cảm thấy dễ chịu và nhẹ nhõm hơn.
Trạng thái này biểu hiện sự thích nghi của cơ thể đối với hoạt động thi đấu.
* Trạng thái sau thi đấu
Sau khi thi đấu các vận động viên xuất hiện những trạng thái tâm lí khác
nhau: Sung sướng, tự hào, đau khổ…
Khi thắng lợi: Trạng thái thắng lợi tích cực và trạng thái thắng lợi tiêu cực.
Trạng thái thua: Trạng thái tích cực và trạng thái tiêu cực.
1.5. Các đặc điểm về phát triển thể chất của thanh niên.
Quá trình phát triển của cơ thể theo lứa tuổi có 2 đặc điểm sinh lí cơ bản.
Một là phát triển không đồng đều xen kẻ với các thời kì phát triển nhanh và các
thời kì tương đối chậm và ổn định. Hai là phát triển không đồng bộ, các cơ quan
và hệ cơ quan phát triển không đồng thời với nhau, có cơ quan phát triển nhanh,

có cơ quan phát triển chậm. Nhìn chung là quá trình phát triển đi lên.
Đặc biệt ở lứa tuổi này về cơ bản các hệ thống cơ quan chức năng quan
trọng của cơ thể đã hoàn thiện. Chiều cao đã ngưng phát triển vì phần sụn nằm ở
đầu xương đã được cốt hóa. Nhưng cơ thể lại phát triển mạnh theo bề ngang và
tăng trọng lượng. Cơ bắp phát triển mạnh tạo điều kiện thuận lợi cho việc tập
luyện thể dục thể thao nhất là sức mạnh, sức bền. Cơ thể con người là một bộ
máy có năng lực hoạt động rất cao, nếu được tập luyện thường xuyên có khoa
học và có hệ thống sẽ góp phần hoàng thiện các khả năng của cơ thể, nâng cao
sức khỏe, nâng cao năng lực lao động cho con người. Ở lứa tuổi này con người
đã tự lập, chí hướng nghề nghiệp đã được hình thành.

22


1.6. Chuyền một
1.6.1. Khái niệm
Chuyền một là kĩ thuật để khống chế bóng của đối phương đánh sang. Việc
khống chế bóng không những ngăn không cho bóng chạm phần sân đội mình mà
còn để thực hiện việc chuyền bóng cho chuyền 2 kiến tạo đợt tấn công.
1.6.2. Đặc điểm
Kĩ thuật bắt bước 1 gồm 2 kĩ thuật cơ bản: đỡ bước 1 bằng cánh tay, hoặc
búng bóng, vị trí chạm bóng là ở trên 2 cánh tay, gần với mặt phẳng thắt lưng;
đối với búng bóng thì kĩ thuật đó, giống như chuyền 2, dùng để khống chế bóng
trên đầu bằng ngón tay. Cả hai phương pháp đều được chấp nhận trong bóng
chuyền chuyên nghiệp, tuy nhiên đối với bóng chuyền bãi biển lại có một chút
thay đổi.
Đỡ chuyền một bằng cánh tay( đệm bóng)
Đỡ chuyền một bằng cánh tay bóng đến ở tầm ngang hoặc thấp hơn trong
tâm cơ thể.
Tư thế chuẩn bị

Đấu thủ di chuyển thật nhanh và sâu vào tầm bóng, chân bước dài, khuỵu
thấp, vai hạ thấp, hai cánh tay thẳng tự nhiên, bàn tay chấp lại và khi chạm bóng
thì gần như song song với mặt sân (như vậy khi đỡ bóng thì đường bóng sẽ bổng
lên). Dùng cổ tay để đệm bóng và chủ yếu là dùng sức bả vai nâng cánh tay lên
chuyền bóng theo ý định (sức gập cổ tay và khuỷu tay phối hợp rất ít). Bóng rơi
càng mạnh thì dùng sức càng ít, có khi gần như để bóng chạm tay nảy lên. Bóng
rơi nhẹ thì dùng sức nhiều hơn, phối hợp sức cổ tay và khuỷu tay cũng nhiều
hơn.
Đệm và chuyền bóng về hướng trước mặt . Điểm chạm bóng tốt nhất là
khoảng giữa cổ tay và cánh tay, hai ngón tay cái cong lên có tác dụng hỗ trợ. Khi
đệm bóng chỉ dùng lực của cẳng tay, vì vậy khuỷu tay bị gập nên khi đệm bóng
đi không chính xác, dễ phạm lỗi hai tiếng. Điểm chạm bóng không thấp quá
hoặc cao quá.
23


×