HỘI LỒNG TỒNG
Cái tên hội Lồng Tồng gợi trong suy nghĩ của các bạn về đặc trưng văn hóa của vùng nào nước ta?
1
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI DƯƠNG
Đề Tài:
“Văn hóa Đông Bắc”
Giảng viên hướng dẫn
:
Ths. Nguyễn Thúy Hạnh
Nhóm
:
II
Nguyễn Thị Ngọc Lan
Cam Thị Mạ
Nguyễn Thị Huyền
Vũ Thị Làn
Vũ Thị Linh
Nguyễn Thùy Linh
Hải Dương, 2016
2
3
SƠ ĐỒ VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÙNG ĐÔNG BẮC
1. Tự
nhiên
và xã
hội
4
1.1. Điều kiện tự nhiên
» Nằm ở tả ngạn Sông Hồng với 4 cánh cung lớn (Sông Gâm, Ngân Sơn, Bắc
Sơn, Đông Triều) chụm đầu ở Tam Đảo, mở rộng về phía Bắc và phí Đông;
» Núi thấp là chủ yếu, theo hướng vòng cung cùng với sông Cầu, sông
Thương, sông Lục Nam;
» Hướng nghiêng chung Tây Bắc Đông Nam, cao ở Tây Bắc như Hà Giang,
Cao Bằng. Trung tâm là đồi núi thấp, cao trung bình 500 – 600m; giáp với
vùng đồng bằng là đồi trung du thấp dưới 100m;
5
1.2 LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
» Cơ sở lục địa của miền đông bắc được hình thành từ liên đại Nguyên
sinh cách đây gần 600 triệu năm.
» Biển tiến và thoái liên tục cho đến chu kỳ tạo núi Indochina thì miền
đông bắc thoát hẳn khỏi chế độ biển và bắt đầu chế độ lục địa.
» Vận động tạo núi Himalaya sau đó lan tới đây làm cho toàn miền
được nâng lên và cũng đồng thời tạo ra những đứt gãy.
» Đất bị phơi trần và chịu tác động của nắng, mưa và gió nên không
ngừng bị phân hủy trong khi các đỉnh núi bị san mòn bớt.
6
1.3 Văn hóa vùng Đông Bắc
Cư dân chủ yếu của vùng là người Tày – Nùng. Ngoài ra, có một số
dân tộc ít người như Dao, H’mông, Lô Lô, Sán Chay…, sống hòa
thuận với nhau.
7
1.3.1 Nghệ thuật văn hóa Dân gian
» Hát Then-đàn tính là hình thức nghệ thuật tín ngưỡng được các
dân tộc Tày-Nùng trong tình yêu yêu thích. Hát Then-đàn tính
ngoài nghệ thuật diễn xướng đặc sắc còn là loại hìn dân ca tín
ngưỡng gắn với tâm linh của đồng bào dân tộc Tày- Nùng.
» ngoài yếu tố tâm linh, hát Then còn có ý nghĩa vui chơi khi tết đến
xuân về, giãi bày nỗi lòng, thể hiện tình yêu trai gái, gợi ca quê
hương bản làng...
8
1.3.2 Văn học dân gian
Khá đa dạng về thể loại, phong phú về số lượng tác phẩm thành
như: thành ngữ, tục ngữ, truyện cổ tích, nói ví, câu đố và đồng
dao...Riêng dân ca là loại khá riêng biệt được viết trên giấy vải khá
công phu. Đặc biệt, lời ca dao duyên: lượn cọi và lượn slương là
những thể loại tiêu biểu được các thế hệ trẻ Tày- Nùng ưa chuộng.
2. Đặc
điểm
vùng
văn
hóa
Đông
Bắc
10
2.1 Nhà ở
1
2
Nhà đất
Về kỹ thuật xây cất và
cách bố trí giống như nhà
sàn, trình tường, mái lợp
ngói hoặc lợp tranh, có
nhà vách nứa. Nhà
thường có 3 gian, 2 chái,
một bên chái làm kho, …
Nhà sàn
Nhà
Nhà sàn
sàn của
của người
người Tày
Tày thường
thường lợp
lợp
bằng
bằng cỏ
cỏ gianh,
gianh, nứa,
nứa, lá
lá cọ
cọ hoặc
hoặc ngói
ngói tùy
tùy
vào
vào điều
điều kiện
kiện của
của mỗi
mỗi gia
gia đình.
đình. Trong
Trong
khuôn
khuôn viên
viên chỉ
chỉ có
có một
một cổng
cổng duy
duy nhất
nhất ởở
phía
phía chái
chái chính.
chính. Xét
Xét về
về cấu
cấu trúc
trúc chung,
chung,
nhà
nhà thường
thường chia
chia làm
làm từ
từ 33 gian,
gian, 55 gian,
gian, 77
gian.
gian. Xung
Xung quanh
quanh được
được ghép
ghép các
các ván
ván
gỗ
gỗ mỏng
mỏng hay
hay phiến
phiến nứa
nứa và
và có
có các
các cửa
cửa
sổ
sổ mở
mở thông
thông thoáng
thoáng nhìn
nhìn ra
ra phía
phía trước
trước
và
và sau
sau nhà,
nhà, nhìn
nhìn ra
ra cánh
cánh đồng.Nhà
đồng.Nhà sàn
sàn
của
của người
người Tày
Tày là
là loại
loại nhà
nhà tổng
tổng hợp,
hợp, có
có
ba
ba mặt
mặt chồng
chồng lên
lên nhau:
nhau:
12
Nhà sàn
Mặt trên cùng là gác xép hay còn gọi là
tối. Đó là nơi để cất giữ các hạt giống
lúa cum, các đồ làm vải và một số đồ
dùng của gia đình.
Mặt bằng thứ hai là mặt bằng sinh hoạt
của các thành viên trong gia đình.
Mặt dưới cùng là nền đất, nơi để nhốt
trâu, bò, lợn, gà; là nơi để nông cụ và
cối xay giã gạo, ngô... Ngày nay chuồng
trâu, chuồng lợn... được làm xa nhà để
đảm bảo vệ sinh hơn.
13
Nhà đất
Mặt trước nhà chính có một cửa lớn ra
vào và cửa sổ. Gian hồi phải cạnh vách
có một cửa phụ thông xuống bếp. Là loại
nhà tổng hợp, cách bố trí của nhà đất
cũng giống kiểu nhà sàn ở một số vùng,
dọc theo chiều ngang nhà có vách ngăn
chia nhà thành 2 phần gồm các gian
buồng và phòng ngoài, giữa các gian có
các vách ngăn, bàn thờ được làm tại
vách ngăn gian giữa, buồng sau bàn thờ
giành cho người già, buồng 2 gian bên
giành cho các con gái, phần phía ngoài
giành cho các con trai và khách. Bếp
được bố trí bên cạnh hoặc sau nhà.
14
2.2. Trang phục
Áo chàm là một loại
trang phục truyền thống
của dân tộc Tày, Nùng
và nhiều dân tộc khác
trên vùng núi cao phía
Bắc Việt Nam. Chàm
chính là tên loại thực vật
dùng nhuộm màu chàm
rất đặc trưng cho loại áo
này.
15
Trang phục cổ truyền của người Tày
Trang phục cổ truyền của người Tày được làm từ vải sợi
bông tự dệt, nhuộm chàm đồng nhất trên trang phục nam và
nữ, hầu như không có hoa văn trang trí. Nguyên liệu chính để
dệt thổ cẩm là sợi bông nhuộm chàm và tơ tằm nhuộm màu..
Quy trình dệt thổ cẩm hoàn toàn thủ công và chính đôi tay
khéo léo và sự nhẫn nại của người phụ nữ Tày mà những tấm
thổ cẩm nên hình nên dạng vô cùng đặc sắc. Từ những tấm
thổ cẩm tự tạo ấy người phụ nữ Tày may thành mặt chăn, mặt
địu, khăn trải giường và nhất là những bộ trang phục đặc sắc
của dân tộc.
16
Trang phục nam giới
Trang phục nam giới người Tày có
quần chân què, đũng rộng, cạp lá
tọa, áo ngắn cũng may năm thân,
cổ đứng. Nam cũng có áo dài như
cái áo ngắn kéo dài vạt xuống quá
đầu gối. Ngoài ra, họ còn có thêm
áo 4 thân, đây là loại áo xẻ ngực, cổ
tròn cao, không cầu vai, xẻ tà, cài
cúc vải và có hai túi nhỏ ở phía
trước.
17
Ngoài ra, đàn ông Tày còn mặc
thêm loại áo dài 5 thân xẻ nách
phải, đơm cúc vải hay cúc đồng.
Quần (khóa) cũng làm bằng vải sợi
bông nhuộm chàm như áo, cắt
theo kiễu quần đũng chéo, độ
choãng vừa phải dài tới mắt cá
chân. Quần có cạp rộng không
luồn rút, khi mặc có dây buộc
ngoài.
18
Trang phục nữ giới
Trang phục nữ giới gồm áo cánh,
áo dài năm thân, quần váy, thắt
lưng, khăn đội đầu, hài vải.
Phụ nữ Tày còn thắt lưng bằng
những tấm vải chàm hay đũi dài
khoảng hai sải tay làm tăng thêm
vẻ duyên dáng nhất là với thanh
nữ. Phụ nữ Tày thường mặc thêm
chiếc áo trắng ở bên trong vào
những ngày lễ tết.
19
Yếm ngực của phụ nữ Tày được may bằng mảnh vải
trắng hoặc vải xanh tươi màu tùy theo độ tuổi. Yếm được
may theo hình quả trám có đỉnh nhọn nhô lên ở giữa ngực
chạm đến cổ để tạo nên sự kín đáo cho cơ thể người phụ
nữ. Yếm có 4 dây, hai dây trên buộc vào sau cổ, hai dây
dưới buộc vòng sau lưng tạo sự cân đối, chắc chắn.
Trước đây phụ nữ Tày mặc váy, nhưng gần đây phổ biến
mặc quần; nguyên tắc cắt may giống nam giới nhưng kích
thước có phần hẹp hơn. Khăn phụ nữ Tày cũng là loại
khăn vuông màu chàm khi đội gập chéo giống kiểu mỏ
quạ của người Kinh.
20
Trang phục trình diễn
Trang phục trong đời
sống sinh hoạt
3. Trang phục trong
lễ hội
21
Video giới thiệu về trang phục truyền thống của dân tộc Tày
22
Trang phục cổ truyền của người Nùng
Người Nùng đã tự làm cho mình
những bộ trang phục bằng vải
nhuộm chàm, có màu tím than. Nét
độc đáo trên trang phục của dân tộc
này là hoa văn không cầu kỳ mà
thiên về tạo dáng. Nhìn tổng thể, bộ
trang phục rất hài hòa. Gam nền có
màu tím than, cài thêm những
đường nét hoa văn được cách điệu
bằng kim loại bạc.
23
Trang phục nữ giới
Phụ nữ Nùng mặc áo năm thân màu
chàm, áo ngắn đủ che mông, áo
được may rất rộng cả phần thân và
tay, giúp cho cử động được thoải
mái. Chiếc áo của phụ nữ Nùng
được trang trí bằng cách thêm
miếng vải khác màu vào cổ tay áo
và phía trước ngực, thông thường
là vải đen đắp lên áo chàm.
24
Ngày nay, họ mặc cả loại áo 5 thân và
4 thân. Áo ngắn 4 thân có cổ áo tròn,
xẻ ngực, nẹp và gấu áo rộng, hai túi
nhỏ ở vạt trước, cài 9 hàng cúc vải ở
nẹp áo.
Loại áo này phần lớn dùng mặc trong
nhà, đi lao động hay mặc trong áo dài
năm thân. Chỉ riêng nhóm Nùng Dín
thì áo ngắn 4 thân lại là loại áo mặc
chính, còn loại áo 5 thân may ngắn, chỉ
vừa che kín bụng, dùng mặc trong
nhà, khi đi ngủ, mặc lót trong loại áo 4
thân khi đi ra khỏi nhà.
25