Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

tác chiến điện tử trong chiến tranh công nghệ cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.47 KB, 13 trang )

tác chiến điện tử
trong chiến tranh công nghệ cao

Chiến tranh tơng lai (nếu xẩy ra) chắc chắn sẽ là chiến tranh công
nghệ cao và sẽ không xảy ra tuần tự thành nhiều giai đoạn nh trớc kia. Mở
đầu sẽ là chiến tranh thông tin và tác chiến điện tử, có khả năng đẩy đối phơng vào thế bị mù, bị câm, bị điếc vì rađa không phát hiện đợc gì,
thông tin bị chế áp và gây nhiễu đến mức không tiếp nhận nổi báo cáo,
không truyền đạt nổi mệnh lệnh nếu chỉ dựa vào các trang bị và ph ơng
tiện kỹ thuật lạc hậu hoặc không có biện pháp phòng chống thích hợp. Thực
tiễn ở chiến tranh vùng Vịnh (1991) và Cô-Xô-Vô (1999) đã cho thấy: hoạt
động tác chiến điện tử của Mỹ và Liên quân đã diễn ra ngay từ giờ phút đầu
tiên và kéo dài cho đến kết thúc chiến tranh. Ngay từ đầu cuộc chiến, các sở
chỉ huy, trung tâm thông tin,các trạm rađa, các đờng thông tin liên lạc cho
lãnh đạo chỉ huy của I-rắc về các lĩnh vực: kinh tế, chính trị-xã hội, quân sự,
an ninh đã trở thành mục tiêu tiến công, gây nhiễu, chế áp điện tử Hậu
quả là 90% hệ thống thông tin chỉ huy, rađa phòng không-không quân của Irắc đã bị vô hiệu hoá.
Tầm quan trọng của tác chiến điện tử.
Khi nghiên cứu lịch sử chiến tranh thế giới, ta nhận thấy rằng, các bên
tham chiến luôn luôn cải tiến, chế tạo mới các loại phơng tiện tiến hành


chiến tranh để chống lại, vô hiệu hoá hoặc giảm hiệu quả các loại phơng tiện
của đối phơng. Đó là một quá trình phát triển đối kháng tất yếu. Ví dụ, khi
có kiếm thì có áo giáp, khi có mâu thì có thuẫn, khi có xe tăng, xe bọc thép
thì có các phơng tiện chống tăng, khi có máy bay thì có pháo phòng không,
tên lửa, ra-đa. Tơng tự nh vậy, khi kỹ thuật, công nghệ điện tử đợc áp dụng
vào các hệ thống chỉ huy, thông tin, trinh sát tình báo, điều khiển hoả lực,
thì tác chiến điện tử cũng hiển nhiên ra đời để đối kháng lại. Ngày nay, khoa
học kỹ thuật nói chung và kỹ thuật điện tử nói riêng phát triển rất nhanh và
mạnh mẽ. Tất cả các lĩnh vực mũi nhọn của của khoa học công nghệ đều đợc
ứng dụng trong lĩnh vực quân sự. Chính vì vậy tác chiến điện tử đã trở thành


biện pháp không thể thiếu trong tác chiến hiện đại.
Nhận biết mối đe doạ của tác chiến điện tử là hết sức quan trọng: Bao
gồm thu thập tình báo, các hệ thống cảnh giới điện tử (Ra-đa, hồng ngoại, âm,
từ, quang học), vũ khí tác chiến điện tử chủ động và thụ động, và các biện pháp
gây nhiễu của đối phơng. Tác chiến điện tử xác định vị trí đối phơng, cho phép
thực hiện những đòn tiến công phối hợp và làm giảm hiệu quả của các hệ thống
phòng chống của đối phơng. Mặt khác, nó ngăn chặn hoạt động thu thập thông
tin liên quan đến các đơn vị của quân nhà và làm chậm quá trình ra quyết định
của đối phơng. Tác chiến điện tử cũng cho phép báo trớc đòn tiến công của đối
phơng, từ đó thực hiện các biện pháp phòng chống chủ động và thụ động.

Ngay từ những năm 70, Đô đốc Moore, nguyên Chủ tịch Hội đồng
Tham mu trởng liên quân Mỹ đã cho rằng: "Trong chiến tranh, ai khống chế
đợc việc sử dụng phổ điện từ sẽ là ngời chiến thắng". Và gần đây nhất, tháng
10.2001, Nghị sĩ Joseph Pitts trởng nhóm nghiên cứu về tác chiến điện tử
của Quốc hội Mỹ đã phát biểu "Lịch sử đã chứng minh rằng chiếm u thế
trong tác chiến điện tử tất dẫn đến thắng lợi trong các hoạt động quân sự. Từ


nhận thức của giới quân sự đến nhận thức của giới chính trị, xuyên suốt hàng
chục năm với biết bao cuộc chiến tranh cục bộ đều đã khẳng định vai trò, vị
trí của tác chiến điện tử. Điều này càng đúng hơn trong chiến tranh công
nghệ cao, khi mức độ ứng dụng của công nghệ điện tử-tin học, công nghệ vật
liệu... với các vũ khí trang bị công nghệ cao là phổ cập và có vai trò quyết
định trong hoạt động quân sự.
Đặc trng của tác chiến điện tử
Ngày nay, đối kháng điện tử đợc gọi bằng các tên khác nhau: chiến
tranh điện tử, đấu tranh điện tử, nhng về cơ bản, đối kháng điện tử đợc
hiểu là một phơng thức tác chiến bằng phơng tiện kỹ thuật nhằm vô hiệu hoá
hoặc giảm hiệu quả hoạt động của các phơng tiện điện tử đối phơng và bảo

vệ các phơng tiện điện tử quân nhà hoạt động ổn định trong mọi tình huống;
có thể xem các phơng thức đối kháng điện tử là tác chiến điện tử .
Nh mọi hoạt động tác chiến khác, tác chiến điện tử có nội dung tiến
công, phòng vệ và trinh sát. Để vô hiệu hoá hoạt động điện tử của đối phơng,
trong thành phần tác chiến điện tử có chế áp điện tử; để bảo vệ quân nhà, có
bảo vệ điện tử và để bảo đảm cho ché áp điện tử, muốn bảo vệ điện tử hoạt
động có hiệu quả một thành phần đóng vai trò hết sức quan trọng là trinh sát
điện tử.


Chế áp điện tử
Ché áp điện tử chính là thực hiện đòn tiến công của tác chiến điện tử.
Chế áp điện tử có thể đợc thực hiện bằng hai cách: chế áp cứng và chế áp
mềm.
+ Chế áp cứng
Là huỷ diệt các phơng tiện điện tử của đối phơng bằng xung lực hoặc
hoả lực (có thể dùng đặc công, không quân, tên lửa, pháo binh,) các biện
pháp này đợc gọi là chế áp cứng;
Trong chiến tranh vùng Vịnh năm 1991, ngay từ loạt đạn đầu tiên Mỹ
và Liên quân đã dùng máy bay tàng hình, tên lửa hành trình để bắn vào các
sở chỉ huy, trạm rađa, các nhà máy điện ... nhằm tiêu diệt lực lợng và phơng
tiện tác chiến điện tử của I-rắc.
Trong hành động không kích Nam T, Mỹ và NATO đã phát huy u thế
của tác chiến điện tử, giành u thế về thông tin và chuyển u thế thông tin này
thành u thế trên không. ở tầng không gian vũ trụ, Mỹ và NATO sử dụng hơn 50
vệ tinh để tiến hành theo dõi giám sát toàn diện các mục tiêu quân sự bao gồm
cả các mục tiêu thông tin, ra-đa và các mục tiêu điện tử. Trên không họ sử dụng
máy bay trinh sát điện tử, máy bay không ngời lái và máy bay cảnh giới để theo
dõi liên tục tình hình hoạt động của các mục tiêu điện tử của Nam T. Trên mặt
đất, họ đặt một số trạm trinh sát và thả các thiết bị định vị vô tuyến điện để chỉ

thị mục tiêu cho máy bay và bom điều khiển chính xác. Về mặt chiến thuật, Mỹ
và NATO dùng máy bay không ngời lái làm mồi nhử để dụ Nam T mở ra-đa,


qua đó xác định chính xác, vị trị và các tham số tính năng của ra-đa Nam T, tạo
điều kiện thuận lợi để gây nhiễu điện tử và công kích bằng tên lửa chống ra-đa.
Lần dầu tiên trong không tập, Mỹ và NATO sử dụng bom xung điện từ,
loại này khi nổ sẽ biến năng lợng hoá học thành năng lợng điện từ, sinh ra xung
điện rất lớn phá huỷ các linh kiện điện tử nhạy cảm nhất trong các thiết bị điện
tử trong phạm vi cách tâm nổ 1 cự ly nhất định, từ đó làm tê liệt thiết bị điện tử
và hệ thống điện tử. Đây sẽ là vũ khí tác chiến điện tử mạnh.

+ Chế áp mềm
Là vô hiệu hoá hoạt động điện tử của đối phơng bằng gây nhiễu đợc
gọi là chế áp mềm. Muốn thực hiện chế áp mềm chúng ta phải biết phạm vi
hoạt động của tác chiến điện tử
Phạm vi tần số
Các phơng tiện điện tử đợc ứng dụng trong quân sự có thể hoạt động
trong suốt dải tần số từ tần số âm thanh đến dải tần tia tử ngoại. Trong đó,
càng ngày càng có xu thế sử dụng rộng rãi dải tần siêu cao tần từ ra-đa, hồng
ngoại, la-de, quang học, tia tử ngoại, trinh sát, thông tin liên lạc. Dải tần âm
thanh đợc dùng chủ yếu cho chỉ huy, hiệp đồng của các lực lợng và cho hệ
thống thu nghe tiếng động của ngời và các loại động cơ trên mặt đất bằng
các loại xen-xơ phóng thả vào hậu phơng địch. Trong lĩnh vực quân sự cũng
nh dân sự, kỹ thuật và công nghệ điện tử đợc sử dụng rộng rãi nhất trong dải
tần thông tin vô tuyến điện (VTĐ). Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, các phơng tiện điện tử trinh sát và
điều khiển vũ khí đợc ứng dụng phổ biến ở các dải tần ra-đa, hồng ngoại, la-



de, ánh sáng, tia tử ngoại. ở các dải tần này, khả năng hoạt động của các phơng tiện điện tử ít phụ thuộc vào điều kiện thời tiết, có độ chính xác cao hơn
và có kích thức gọn nhẹ hơn nhiều khi hoạt động ở tần số thấp. Để đối phó
lại các phơng tiện tác chiến điện tử cũng phải phát triển ở tất cả các dải tần
số từ âm thanh đến tia tử ngoại. Ngày nay, vũ khí công nghệ cao đợc ứng
dụng rộng rãi ở tất cả các dải tần số. Các biện pháp phòng tránh đánh trả ở
các dải tần có sự khác nhau, vì vậy cần nghiên cứu kỹ nguyên lý, bản chất
hoạt động của từng loại ở từng dải tần số để có các biện pháp đối phó cụ thể
mới có thể giảm thiểu đợc thơng vong và tổn thất cho lực lợng, phơng tiện
quân nhà, sau nữa là có biện pháp đánh trả có hiệu quả, nhất là ở các dải tần
hồng ngoại, la-de.
Phạm vi môi trờng tác chiến
Nhờ sự phát triển nhanh chóng của kỹ thuật và công nghệ, các phơng
tiện điện tử quân sự có thể hoạt động ở tất cả các môi trờng: trên đất liền,
trên không, trên biển, dới mặt nớc biển, trên vũ trụ; từ tiền tuyến đến hậu phơng và trong tung thâm của quân địch; đợc thực hiện liên tục suốt từ thời
bình đến thời chiến, suốt ngày đêm trong mọi điều kiện thời tiết. Để đối phó,
tác chiến điện tử cũng đợc triển khai trong một không gian và thời gian
không hạn chế mới có hiệu quả tổng hợp thực sự.
Tác chiến điện tử là một phơng thức tác chiến, vì vậy các biện pháp
tiến hành luôn có sự kết hợp giữa kỹ thuật và chiến thuật. Hiệu quả hoạt
động của tác chiến điện tử phụ thuộc rất lớn bởi các biện pháp chiến thuật
công nghệ cao đòi hỏi trí tuệ con ngời cũng phải cao. Khi chỉ có phơng tiện


công nghệ kém hiện đại, càng đòi hỏi trí tuệ cao, tăng cờng đầu t cho các
biện pháp chiến thuật.
Ta có thể đợc thực tiễn đó qua các cuộc chiến tranh ở I-rắc và Nam T.
Để giành đợc u thế điện từ tuyệt đối, Mỹ và NATO đã sử dụng nhiều máy
bay tác chiến điện tử chuyên dụng tiên tiến nhất, bao gồm 31 máy bay tác
chiến điện tử EA-6B, 3 máy bay gây nhiễu thông tin EC-130H để chế áp, gây
nhiễu các loại ra-đa của Nam T khiến ra-đa Nam T mù tịt, thông tin bị gián

đoạn, chi viện cho máy bay tác chiến đột phòng thuận lợi.
Đế quốc Mỹ kết hợp chặt chẽ tác chiến "mềm" và "cứng". Đồng thời
với việc sử dụng máy bay tác chiến điện tử chuyên dụng để gây nhiễu điện tử
mạnh vào hệ thống thông tin và hệ thống phòng không của I-rắc và Nam T,
Mỹ còn sử dụng bom sợi các-bon mà Nam T gọi là "bom mềm" để phá hoại
có hiệu quả hệ thống cung cấp điện của Nam T. Đồng thời họ còn sử dụng
bom chống bức xạ tốc độ cao để phá huỷ hệ thống phòng không quan trọng
và hệ thống ra-đa của Nam T.
Một vài suy nghĩ
Các phơng tiện tác chiến điện tử thuộc loại vũ khí công nghệ cao, nhng ở các nớc đang phát triển, với quan điểm chiến tranh nhân dân, vẫn có thể
sử dụng mọi biện pháp, mọi phơng tiện từ thô sơ đến hiện đại để phát huy
sức mạnh tổng hợp phòng tránh đánh trả có hiệu quả trong tổ chức thực hành
tác chiến điện tử trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Bố trí phân tán, di chuyển
hợp lý, ngụy trang, nghi binh, đánh lừa bằng các phơng tiện sẵn có và thực
hành các đòn đánh linh hoạt của chiến tranh nhân dân ta cũng có thể đạt đợc
kết quả tốt trong phòng chống chiến tranh công nghệ cao của địch.


Chiến tranh công nghệ đòi hỏi tính hệ thống và mạng hoá rất cao. Tuy
nhiên , vì là hệ thống nên chỉ một vài mắt xích bị tác động , phá huỷ thì hệ
thống đó có thể bị gián đoạn tê liệt .Do vậy ta cần tác động vào hệ thống
đó và tập trung gây nhiễu vào đờng liên lạc chủ yếu . Hơn nữa, dù phơng tiện
hiện đại đến mấy vẫn ảnh hởng bởi địa hình , khí hậu và thời tiết Việt Nam
nên các phơng tiện đó không thể thực hiện đợc hết tính năngvà khả năng
theo thiết kế .Chúng ta lại tiến hành trong thế chiến tranh nhân dân cùng xen
kẽ với địch nên dễ bị ta tập kích vào các trạm trinh sát và gây nhiễu, các hệ
thống chỉ huy , điều khiển hoả lực của địch. Nếu chúng ta vận dụng hợp lý
,tổng hợp, sáng tạo các loại hình các phơng tiện thông tin liên lạc (dù là đơn
giản) thì chúng ta vẫn có khả năng bảo đảm đợc thông tin thông suốt cho chỉ
huy trong quá trình chiến đấu . Tuy nhiên chúng ta cũng phải thấy đợc thực

trạng trang thiết bị thông tin quân sự hiện nay của ta vẫn còn rất thiếu về số
lợng và kém về chất lợng, hệ số kỹ thuật thấp. Do vậy chúng ta cân phải đổi
mới cả về biên chế lực lợng và trang bị thông tin sao cho phù hợp , từng bớc
hiện đại hoá , đồng thời hoàn thiện về tổ chức về hệ thống thông. Để tác
chiến điện tử của ta đạt hiệu quả tốt , theo tôi, chúng ta cần phải tiến hành
tổng hợp các biện pháp phòng chống nh sau :
Phòng chống trinh sát điện tử : Đây là biện pháp chủ yếu nhất trong hệ
thống các biện pháp phòng chống tác chiến điện tử. Biện pháp chống tác
chiến điện tử bao gồm những biện pháp chủ động và thụ động.
+ Những biện pháp chủ động nh: Sử dụng xung lực , hoả lực. Đây là
biện pháp chủ động và triệt để nhất nhằm hạn chế khả năng tác chiến điện tử
của các phơng tiện trinh sát của địch. Nhờ chiến tranh nhân dân hoạt động
tác chiến xen kẽ địch, ta do đó ta có điều kiện sử dụng các đơn vị trinh sát,


đặc công hoặc dân quân tự vệ tập kích tiêu diệt một bộ phận phơng tiên tác
chiến điện tử địch,gây khó khăn , làm giảm hiệu quả hoạt động của chúng.
+ Biện pháp thụ động bao gồm các biện pháp (tuy không tác động trực
tiếp đến các phơng tiện ,trang bị TSĐT địch) nhằm hạn chế đến mức tối đa
những dấu hiệu bộc lộ khi tiến hành khai thác các phơng tiện trang bị thông
tin VTĐ, các trạm vi ba của ta.Có thể sủ dụng các biện pháp : Nghi binh ,
ngụy trangVTĐ và kiểm soát VTĐ làm giảm khả năng định vị thu tin của
VTĐ của địch , cụ thể : Hạn chế thời gian làm việc của các thiết bị VTĐ,
đến mức tối đa. Hạn chế năng lợng bức xạ điện từ về hớng Anten thu trinh
sát của địch bằng cách sử dụng công suất phát hợp lý , chọn vị trí đặt Anten
sao cho có địa hình che chắn, phân bố liên lạc hợp lý, đảm bảo mật độ vận
chuyển nhận điện không tạo ra dấu hiệu bất thờng.
+ Ngụy trang chống tác chiến điện tử sử dụng chủ yếu là màn khói, mặt
phản xạ, sơn hấp thụ sáng điện từ , đốt lửa , lò than hay củi, tấm QRH2000. để chống lại các trinh sát Rađa, quang học , lade, hồng ngoại của
địch . NgoàI ra, còn dùng các biện pháp nghi binh, tạo giả mà quân đội Nam

T đã sử dụng là kinh nghiệm tốt cho chúng ta học tập.
+ Chống chế áp điện tử bằng các biện pháp : Khi địch dùng hoả lực chế
áp , lợi dụng địa hình xây dựng công sự trận địa để bảo vệ lực lợng phơng
tiện điện tử, bố trí phân tán .Sử dụng các mồi bẫy điện tử để thu hút hoả lực
địch. Thông báo báo động kịp thời để lực lợng , phơng tiện điện tử sơ tán, ẩn
nấp kịp thời.Dùng lực lợng chuyên trách , lực lợng đặc biệt đánh phá lại các
trận địa hoả lực, trung tâm tác chiến điện tử để làm mất khả năng trinh sát
và chế áp của địch


+ Chế áp điện tử lại địch : Đây cũng là nhiệm vụ quan trọng trong tác
chiến điện tử. Chế áp cứng bằng hoả lực, xung lực là chủ yếu còn chế áp
mềm chỉ sử dụng tập trung vào hớng chủ yếu, trận then chốt thời cơ quyết
định và nhằm vào hệ thống thông tin liên lạc ,điều khiển chỉ huy hoả lực địch
bằng gây nhiễu điện tử lại địch.
Chiến tranh bảo vệ tổ quốc tơng lai sẽ là một cuộc chiến tranh diễn ra
trong những điều kiện hết sức khẩn trơng phức tạp và ác liệt. Các phơng tiện
điện tử, đặc biệt là hệ thống thông tin liên lạc đảm bảo cho chỉ huy sẽ bị tác
động mạnh bởi vũ khí công nghệ cao và tác chiến điện tử với quy mô và cờng độ khó lờng. Do vậy chúng ta cần phải hiều và nắm chắc địch (những
phát triển mới về tác chiến điện tử và phơng tiện) để tổ chức phòng chống
cho phù hợp và có hiệu quả nhất.
Là sinh viên trờng đại học Bách khoa-Hà Nội nhiệm vụ chính của em trớc
tiên phải học tập tốt. Ngoài ra, phải học tập thêm để nâng cao trình độ hiểu
biết chung. Đặc biệt phải tu dỡng đạo đức lối sống lành mạnh, tìm hiểu
truyền thống đất nớc, truyền thống của cha, ông ta trong chống giặc ngoại
xâm và xây dựng đất nớc. Để trở thành ngời có ích cho gia đình, cho đất nớc.
Sẵn sàng nhạn nhiệm vụ khi Tổ quốc trao cho.

Kết luận
Tác chiến điện tử trong chiến tranh công nghệ cao có thể có một số đặc

điểm thể hiện quan điểm và xu hớng phát triển nh sau:


Thứ nhất, về nội dung, tác chiến điện tử bao gồm mọi hành động
quân sự liên quan đến phổ điện từ và năng lợng định hớng để kiểm soát phổ
điện từ hoặc tiến công đối phơng. ở đây có hai nét đặc biệt, đó là mở rộng
phạm vi phổ điện từ bao gồm dải sóng vô tuyến, ra-đa, hồng ngoại, ánh sáng,
tử ngoại và những dải tần ít sử dụng khác của phổ điện từ, nói ngắn gọn là
"từ không đến vô cùng; tiếp theo, đó là sử dụng năng lợng định hớng để tiến
công đối phơng. Hơn thế nữa, trong chiến tranh CNC, tính chất tiến công của
tác chiến điện tử còn đợc nhấn mạnh hơn, thể hiện rõ nét hơn bằng việc sử
dụng thuật ngữ "tiến công điện tử" thay cho thuật ngữ "các biện pháp chống
phá điện tử" và thực chất chế áp cứng không chỉ là phá hủy vật lý các phơng
tiện điện tử bằng tên lửa chống bức xạ ra-đa hoặc các vũ khí điều khiển
chính xác mà còn là phá hủy chức năng làm việc của các linh kiện và hệ
thống điện tử bằng vũ khí năng lợng định hớng - vũ khí chùm tia, vũ khí lade, vũ khí xung điện từ. Đây là nét đặc trng trong xu hớng phát triển của tác
chiến điện tử.
Thứ hai, tác chiến trong chiến tranh CNC là tác chiến liên hợp, do
vậy tác chiến điện tử trong chiến tranh CNC cũng là tác chiến điện tử liên
hợp. Tính liên hợp phải đợc thể hiện ở việc xây dựng các kế hoạch tác chiến
liên quân chủng (hoặc đa quốc gia) phải bảo đảm sự liên kết các hoạt động
tác chiến điện tử và sự phối hợp hiệp đồng giữa các quân binh chủng, các
phơng tiện kiểm soát không lu, các hoạt động phòng thủ dân sự và những cơ
sở dân sự có liên quan đến chiến tranh sao cho tác chiến điện tử hoạt động
hiệu quả, không can nhiễu lẫn nhau. Tính liên hợp của tác chiến điện tử
trong chiến tranh CNC là yếu tố tất yếu do những tiến bộ KH-CN, càng làm
tăng sự phức tạp và sự lệ thuộc lẫn nhau của các hoạt động tác chiến. Đây
cũng là xu hớng phát triển tác chiến điện tử trong những năm tới.



Thứ ba, tác chiến điện tử và tác chiến thông tin quan hệ chặt chẽ,
thậm chí đan xen, khó tách biệt rạch ròi - từ thủ đoạn hoạt động, mục đích
tác động, phơng thức sử dụng lực lợng, phơng tiện cho đến nguyên lý thiết
kế, chế tạo các phơng tiện vũ khí trang bị kỹ thuật.
Về mặt lý luận, nhiều chuyên gia quân sự cố gắng tách biệt các khái
niệm "Hoạt động thông tin (Information Operations), "Tác chiến thông tin"
(Information Warfare), "Tác chiến không gian điều khiển" (Cyberspace
Warfare)... Tuy nhiên, xu hớng ứng dụng công nghệ thông tin trong thiết kế,
chế tạo và điều khiển, sử dụng các vũ khí trang bị kỹ thuật khiến cho sự tách
biệt giữa tác chiến điện tử với tác chiến thông tin rất khó rạch ròi. Ví dụ, sử
dụng vũ khí xung điện từ phá hủy khả năng làm việc của các linh kiện IC,
bán dẫn sẽ gây tổn thất không chỉ cho các thiết bị ra-đa, vô tuyến viễn
thông... mà còn làm tê liệt mạng máy tính chỉ huy điều khiển trong quân sự
cũng nh dân sự. Theo quan điểm tác chiến điện tử đó là vũ khí thông tin, còn
theo quan điểm tác chiến điện tử, đó lại là chế áp cứng. Cũng nh vậy, khi sử
dụng các phơng tiện điều khiển vô tuyến kích hoạt các vi-rút ém sẵn trong
các chíp, CPU của hệ thống VKTBKT, khiến hệ thống không hoạt động. Sự
kết hợp chặt chẽ của tác chiến điện tử với tác chiến điện tử và xu thế giành u
thế điện tử và thông tin là một trong những nền tảng cơ bản của học thuyết
quân sự Mỹ thế kỷ 21.
Tuy địch có tác chiến điện tử rất mạnh song dù hiện đại đến đâu và càng
hiện đại càng dễ bị phá huỷ( mất một mắt xích nào đó), chúng ta có biện
pháp tốt, tích cực, chủ động và tính tổng hợp cao thì sẽ đạt đợc hiệu quả tác
chiến điện tử tốt và cũng sẽ chống lại đợc tác chiến điện tử của địch. Khả
năng, thủ đoạntác chiến điện tử của địch luôn luôn thay đổi, vì vậy nghệ
thuật quân sự của ta nói chung và nghệ thuật tác chiến điện tử nói riêng cũng


lu«n lu«n ®æi míi cho phï hîp th× míi chèng l¹i ®îc t¸c chiÕn ®iÖn tö cña
®Þch trong chiÕn tranh


NguyÔn Hoµng Anh



×