Học viên: Lê Kim Hoàng
Lớp: QLKT 2015 Lớp 3
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường, thực hiện
chủ trương đa dạng hoá các hình thức sở hữu, theo đó, các thành phần kinh tế
được mở rộng và đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của đất
nước. Trong điều kiện nền kinh tế như vậy, thông tin tài chính của doanh nghiệp
không chỉ báo cáo cho các cơ quan quản lý nhà nước để kiểm tra và xét duyệt, mà
các thông tin này còn cần cho nhiều người, được nhiều đối tượng quan tâm, khai
thác sử dụng cho các quyết định kinh tế. Tuy ở nhiều góc độ khác nhau nhưng tất
cả các đối tượng này đều có cùng nguyện vọng là có được các thông tin với độ
chính xác cao, tin cậy và trung thực.
Để đáp ứng yêu cầu đó của nền kinh tế theo cơ chế thị trường, hoạt động
kiểm toán độc lập ra đời, trở thành bộ phận cần thiết và quan trọng không thể
thiếu trong đời sống các hoạt động kinh tế. Kiểm toán độc lập cung cấp cho
những người sử dụng kết quả kiểm toánsự hiểu biết về những thông tin tài chính
mà họ được cung cấp dựa trên cơ sở các nguyên tắc và chuẩn mực theo qui định.
Vì vậy, nhằm nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động kiểm
toán độc lập ở Việt Nam, tác giả đã chọn đề tài “Các kiểm toán viên bên ngoài có
thực sự độc lập không?” để nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận về kiểm
toán độc lập.Trên cơ sở đó, tác giả đi vào tìm hiểu thực trạng hoạt độnghiện nay,
đồng thời đưa ra những giải pháp, phương hướng khắc phục những bất cập, khó
khăn còn tồn tại, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế và nâng cao đời sống
người dân, đáp ứng công cuộc cải cáchđất nước.
2. Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy
vật của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật;
quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; đồng thời sử
Bài tập lớn môn: Quản trị công ty
Trang 1
Học viên: Lê Kim Hoàng
Lớp: QLKT 2015 Lớp 3
dụng phương pháp nghiên cứu truyền thống của Khoa học xã hội, phương pháp
kết hợp giữa lý luận và thực tiễn cùng phương pháp phân tích tổng hợp.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở làm sáng tỏ về mặt lý luận những nội dung cơ bản của kiểm
toán độc lập, xác định những bất cập, vướng mắc trong thực trạng hoạt động để
đề xuất những giải pháp, hướng hoàn thiện nhằm thúc đẩy sự phát triển ngành
kiểm toán nói chung và kiểm toán độc lập nói riêng.
Đối tượng nghiên cứu: tiểu luận tập trung nghiên cứu, phân tích những khái
niệm, yêu cầu của kiểm toán độc lập cùng các mô hình kiểm toán đang được áp
dụng tại nhiều quốc gia; đồng thời đánh giá thực trạng hoạt động của kiểm toán
độc lập và chất lượng báo cáo kiểm toán của kiểm toán viên tại Việt Nam hiện
nay.
Phạm vi nghiên cứu: các quy định của Hiến pháp, Luật Kiểm toán độc lập,
các tạp chí tài chính, các yếu tố kinh tế - xã hội tác động đến tính độc lập của
kiểm toán viên hành nghề.
4. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
tiểu luận bao gồm 03 chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận về kiểm toán độc lập
Chương II: Gian lận báo cáo tài chính của công ty niêm yết
Chương III: Các kiểm toán viên bên ngoài có thực sự độc lập?
Bài tập lớn môn: Quản trị công ty
Trang 2
Học viên: Lê Kim Hoàng
Lớp: QLKT 2015 Lớp 3
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN
ĐỘC LẬP
1.1. Khái niệm
1.1.1. Sơ lược lịch sử hình thành của kiểm toán thế giới
Kiểm toán bắt nguồn từ thuật ngữ “Audit” trong tiếng Latin, có nghĩa là
người nghe (one who hears). Vào khoảng thế kỷ thứ III trước Công nguyên, chính
quyền La Mã đã tuyển dụng các quan chức để kiểm tra độc lập về tình hình tài
chính và nghe thuyết trình của họ về kết quả kiểm tra. Ở thời kỳ đầu, kiểm toán
chỉ mới ở mức độ sơ khai, biểu hiện là những người làm công tác kiểm toán đọc
to những số liệu, tài liệu cho một bên độc lập nghe và sau đó chứng thực. Khi xã
hội phát triển xuất hiện của cải dư thừa, hoạt động kế toán ngày càng được mở
rộng và ngày một phức tạp thì việc kiểm tra, kiểm soát về kế toán và tài chính
càng được quan tâm hơn.
Đến thời kỳ cách mạng công nghiệp bùng nổ ở Châu Âu, xuất hiện nhiều
thành phần kinh tế kéo theo sự ra đời nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau.
Cùng với sự phát triển của thị trường, sự tích tụ và tập trung tư bản đã làm cho sự
phát triển của các doanh nghiệp và các tập đoàn ngày càng mở rộng. Sự tách rời
giữa quyền sở hữu của ông chủ và người quản lý, người làm công ngày càng xa
đã đặt ra cho các ông chủ một cách thức kiểm soát mới. Phải dựa vào sự kiểm tra
của những người chuyên nghiệp hay những kiểm toán viên bên ngoài. Việc kiểm
tra đi dần từ việc kiểm tra ghi chép kế toán đến tuân thủ quy định của pháp luật
và mãi đến thập niên 80, hoạt động kiểm toán bắt đầu được hình thành và phát
triển.
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, từ việc phá sản của hàng loạt tổ chức tài
chính và sự khủng hoảng kinh tế thế giới đã bộc lộ rõ những hạn chế của kiểm tra
kế toán. Chính từ đây, việc kiểm tra kế toán buộc phải được chuyển sang một giai
đoạn mới, yêu cầu kiểm tra kế toán một cách độc lập đã được đặt ra.
Bài tập lớn môn: Quản trị công ty
Trang 3
Học viên: Lê Kim Hoàng
Lớp: QLKT 2015 Lớp 3
Ở Hoa Kỳ, sau khủng hoảng tài chính vào những năm 1929, đến năm 1934
Ủy ban bảo vệ và trao đổi tiền tệ (SEC) đã xây dựng và ban hành quy chế về
kiểm toán viên bên ngoài. Đồng thời, trường đào tạo kế toán viên công chứng của
Hoa Kỳ (AICPA) đã in ra mẫu chuẩn đầu tiên về báo cáo kiểm toán tài khoản của
các công ty. Cũng trong giai đoạn này, ở các tổ chức kinh doanh, các doanh
nghiệp đã bắt đầu xuất hiện và phát triển chức năng kiểm tra một cách độc lập
trong nội bộ với tên gọi là kiểm toán nội bộ. Năm 1942, Viện kiểm toán nội bộ
Hoa Kỳ (IIA) được thành lập và đã đi vào hoạt động đào tạo các kiểm toán viên
nội bộ. Đồng thời, Viện đã xây dựng và ban hành Hệ thống chuẩn mực kiểm toán
nội bộ Hoa Kỳ vào năm 1978.
Tại Pháp, việc kiểm tra một cách độc lập những người chuyên nghiệp bên
ngoài đã được xác lập và thông qua bởi Đạo luật về các công ty thương mại ngày
24/7/1966. Đồng thời, kiểm toán nội bộ ở Pháp cũng được hình thành chính thức
vào những năm 60 của thế kỷ XX ở những công ty con thuộc tập đoàn ngoại
quốc. Đến 1965, Hội kiểm toán nội bộ của Pháp được thành lập và sau này phát
triển trở thành Viện kiểm toán viên nội bộ của Pháp vào năm 1973.
1.1.2. Khái quát sự ra đời các loại hình kiểm toán Việt Nam
Ở Việt Nam, từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của
Nhà nước, các hoạt động đa dạng của nền kinh tế đòi hỏi phải có dịch vụ kiểm
toán độc lập. Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế, ngày 13/5/1991
theo giấy phép số 957/PPLT của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính ký quyết
định thành lập hai công ty kiểm toán đầu tiên làCông ty kiểm toán Việt Nam với
tên giao dịch là VACO (Quyết định số 165-TC/QĐ/TCCB) và Công ty dịch vụ kế
toán Việt Nam với tên giao dịch là ASC (Quyết định số 164-TC/QĐ/TCCB) sau
này đổi tên thành Công ty dịch vụ tư vấn tài chính, kế toán, kiểm toán - AASC
(quyết định 639-TC/QĐ/TCCB ngày 14/9/1993). Sự ra đời của hai công ty nói
trên đã tạo tiền đề cho việc xuất hiện của các công ty tiếp theo bởi sự hoạt động
tích cực và có hiệu quả cũng như yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết của nền kinh tế nước
ta trong những năm đổi mới.
Bài tập lớn môn: Quản trị công ty
Trang 4
Học viên: Lê Kim Hoàng
Lớp: QLKT 2015 Lớp 3
Ngày 11/7/1994, Kiểm toán nhà nước Việt Nam được chính thức thành lập
theo Nghị định số 70/CP của Chính phủ với chức năng kiểm tra, đánh giá và xác
nhận tính đúng đắn, trung thực của báo cáo tài chính; việc tuân thủ pháp luật; tính
kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà
nước của các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, đơn vị kế toán nhà nước và
các đoàn thể quần chúng.
Đến năm 1997, Bộ Tài chính ban hành Quyết định số 832/TC-QĐ-CĐKT
quy định quy chế kiểm toán nội bộ để đáp ứng các yêu cầu về kiểm toán của các
doanh nghiệp nhà nước.
1.1.3. Kiểm toán - kiểm toán viên
Trên thế giới có vô vàn định nghĩa khác nhau về kiểm toán. Quan điểm khá
phổ biến về kiểm toán theo hiệp hội kế toán Mỹ (AAA) cho rằng: Kiểm toán là
một quá trình mang tính hệ thống, thu thập và đánh giá bằng chứng theo các cơ sở
dẫn liệu về những hoạt động kinh tế và những sự kiện nhằm xác nhận chắc chắn
về sự phù hợp giữa những cơ sở dẫn liệu, những đặc tính xác định và cung cấp
kết quả cho người sử dụng 1.
Ngoài ra, theo các chuyên gia giáo dục và đào tạo kiểm toán ở Cộng hoà
Pháp cho rằng: Kiểm toán là việc nghiên cứu và kiểm tra các tài khoản hàng năm
của một tổ chức do một người độc lập, đủ danh nghĩa gọi là kiểm toán viên tiến
hành để khẳng định những tài khoản đó phản ánh đúng đắn tình hình tài chính
thực tế, không che giấu sự gian lận và được trình bày theo mẫu chính thức của
luật định.
Trải qua một quá trình phát triển lâu dài, định nghĩa kiểm toán có thể hiểu
một cách đơn giản: Kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt
động tài chính của các doanh nghiệp, bằng hệ thống phương pháp kĩ thuật riêng
của kiểm toán, do các kiểm toán viên có trình độ nghiệp vụ tương xứng thực hiện
trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực.
1
Studies in Accounting Research no.6: A statement of basic auditing concepts. Sarasota, Fla, 1973, trang 2.
Bài tập lớn môn: Quản trị công ty
Trang 5
Học viên: Lê Kim Hoàng
Lớp: QLKT 2015 Lớp 3
Bên cạnh đó,tại Khoản 2 Điều 5 Luật Kiểm toán độc lập số 67/2011/QH12
của Quốc hội ngày 29/3/2011 quy định: “Kiểm toán viên là người được cấp
chứng chỉ kiểm toán viên theo quy định của pháp luật hoặc người có chứng chỉ
của nước ngoài được Bộ Tài chính công nhận và đạt kỳ thi sát hạch về pháp luật
Việt Nam.”
1.1.4. Kiểm toán độc lập
Căn cứ theo Khoản 1 Điều 5 Luật Kiểm toán độc lập số 67/2011/QH12 của
Quốc hội ngày 29/3/2011 quy định: “Kiểm toán độc lập là việc kiểm toán viên
hành nghề, doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước
ngoài tại Việt Nam kiểm tra, đưa ra ý kiến độc lập của mình về báo cáo tài chính
và công việc kiểm toán khác theo hợp đồng kiểm toán.”
Theo đó, kiểm toán độc lập là hoạt động hành nghề của các kiểm toán viên
độc lập, của các doanh nghiệp kiểm toán, thực hiện kiểm tra và xác nhận
về sự trung thực vàhợp lý của các bản báo cáo tài chính, làm cơ sở cho các
cổ đông, nhà đầu tư, các tổ chức, cá nhân có quyền lợi và nghĩa vụ với doanh
nghiệp có cơ sở thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình; cổ đông có cơ sở
nhận cổ tức, quyết định đầu tư thêm hay rút vốn về; ngân hàng có cơ sở tiếp tục
cho vay hoặc thu hồi nợ vay; người bán hàng chịu có thể tiếp tục cung ứng hàng
hóa hoặc ngừng; Nhà nước có cơ sở quyết toán thuế và các nghĩa vụ của doanh
nghiệp; người lao động tiếp tục làm việc ở doanh nghiệp hoặc chấm dứt hợp đồng
lao động…
Hoạt động kiểm toán độc lập trở thành nhu cầu cần thiết vì lợi ích của bản
thân doanh nghiệp, của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, cũng như lợi ích của
chủ sở hữu vốn, các chủ nợ, lợi ích và yêu cầu của Nhà nước. Người sử dụng kết
quả kiểm toán phải được đảm bảo rằng những thông tin họ được cung cấp là
trung thực, khách quan, có độ tin cậy cao để làm căn cứ cho các quyết định kinh
tế hoặc thực thi trách nhiệm quản lý, giám sát của mình.
1.2. Những yêu cầu để trở thành kiểm toán viên
Công việc kiểm toán độc lập do kiểm toán viên chuyên nghiệp thực hiện,
công việc này không tạo ra thêm các thông tin về báo cáo tài chính mà nó chỉ làm
Bài tập lớn môn: Quản trị công ty
Trang 6
Học viên: Lê Kim Hoàng
Lớp: QLKT 2015 Lớp 3
tăng mức độ tin cậy của các báo cáo tài chính. Những người sử dụng kết quả
kiểm toán tin tưởng và bổ nhiệm kiểm toán viên bởi tích chất hành nghề độc lập
của kiểm toán viên, khả năng về chuyên môn nghiệp vụ cùng với tư chất đạo đức
chính trực khách quan trong công việc của họ.Để hành nghề kiểm toán, các kiểm
toán viên cần đảm bảo các yêu cầu sau:
1.2.1. Yêu cầu về tính độc lập
Yêu cầu này được xem là điều kiện cần để đạt mục tiêu của hoạt động kiểm
toán, cũng như việc độc lập trở thành nguyên tắc hành nghề cơ bản của kiểm toán
viên. Kết quả kiểm toán sẽ không có giá trị khi những người sử dụng kết quả
kiểm toán tin rằng cuộc kiểm toán thiếu tính độc lập dù có được thực hiện bởi
người có trình độ cao. Yêu cầu về tính độc lập đòi hỏi sự trung thực và trách
nhiệm của kiểm toán viên đối với những người sử dụng kết quả kiểm toán, đồng
thời các kiểm toán viên không bị ràng buộc trong việc tiếp xúc với các tài liệu và
báo cáo của doanh nghiệp.
Trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên phải thực sự không bị chi phối
hoặc tác động bởi bất kỳ lợi ích vật chất, tinh thần nào làm ảnh hưởng đến sự
trung thực khách quan và độc lập nghề nghiệp của mình. Mọi câu hỏi về tình hình
kinh doanh hoặc các xử lý kế toán trong các giao dịch của doanh nghiệp cần được
trả lời đầy đủ, đảm bảo rằng kiểm toán viên không bị hạn chế trong việc thu thập
các bằng chứng kiểm toán.Để đảm bảo yêu cầu này, ngoài mặt chủ quan về tư
chất đạo đức của kiểm toán viên, còn cần phải duy trì và đảm bảo tính độc lập
trong quá trình kiểm toán. Pháp luật cũng yêu cầu các kiểm toán viên không được
thực hiện kiểm toán cho các khách hàng mà kiểm toán viên có quan hệ gia đình,
họ hàng hoặc quyền lợi về mặt kinh tế.
1.2.2. Yêu cầu về tư chất đạo đức
Con người luôn là nhân tố quan trọng và mang tính quyết định trong các
hoạt động kinh tế - xã hội. Đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ kiểm toán, khi mà sản
phẩm của hoạt động này không có khuôn mẫu định sẵn và phụ thuộc vào tính chủ
quan của kiểm toán viên. Điều quan trọng, kiểm toán viên phải luôn duy trì được
Bài tập lớn môn: Quản trị công ty
Trang 7
Học viên: Lê Kim Hoàng
Lớp: QLKT 2015 Lớp 3
tính độc lập, khách quan khi tiến hành công việc cũng như trong xem xét, đánh
giá các bằng chứng kiểm toán làm cơ sở để đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính.
Kiểm toán viên phải có lương tâm nghề nghiệp, luôn làm việc với sự thận trọng
cao nhất cùng tinh thần làm việc chuyên cần. Trong quá trình kiểm toán, kiểm
toán viên phải đảm bảo thẳng thắn trung thực và có chính kiến rõ ràng, phải công
bằng, tôn trọng sự thật và không được thành kiến thiên vị.
Mặt khác, kiểm toán viên phải thường xuyên rèn luyện tính cẩn thận với tất
cả các kỹ năng và sự siêng năng cần thiết khi thực hiện nhiệm vụ của mình. Mọi
sự bất cẩn đều có thể dẫn đến những rủi ro kiểm toán, gây ảnh hưởng đến các đối
tượng sử dụng báo cáo kiểm toán và trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên.
Kiểm toán viên phải tôn trọng bí mật của những thông tin thu thập được
trong quá trình kiểm toán, không được tiết lộ bất kỳ một thông tin kinh tế nào liên
quan đến khách hàng cho người thứ ba khi chưa được phép của người có thẩm
quyền, trừ khi có nghĩa vụ phải công khai theo yêu cầu của pháp luật hoặc trong
phạm vi quyền hạn nghề nghiệp của mình.
Kiểm toán viên phải tôn trọng pháp luật. Tính tôn trọng pháp luật thể hiện
trách nhiệm của kiểm toán viên đối với các đối tượng sử dụng báo cáo kiểm toán.
Kiểm toán viên phải chấp hành đúng các chế độ, thể lệ, nguyên tắc và luật pháp
của Nhà nước và những nguyên tắc, chuẩn mực kiểm toán được thừa nhận. Ý
kiến nhận xét của kiểm toán viên có giá trị pháp lý và các kiểm toán viên chịu
trách nhiệm trước pháp luật về nhận xét đánh giá của mình.
1.2.3. Yêu cầu về năng lực, nghiệp vụ
Đây là nguyên tắc cơ bản chi phối cuộc kiểm toán khi yêu cầu kiểm toán
viên phải thực hiện công việc với đầy đủ chuyên môn cần thiết. Để đảm bảo thu
thập các bằng chứng kiểm toán đầy đủ và thích hợp, kiểm toán viên phải có
chuyên môn nghiệp vụ vững vàng và hiểu biết về lĩnh vực kinh doanh của khách
hàng; có kỹ năng, kinh nghiệm về kiểm toán và hiểu biết về pháp luật.
Các kiểm toán viên phải đạt được trình độ chuyên môn vững vàng về kế
toán, luôn cập nhật các thông tinvề chế độ chính sách tài chính, kế toán và luật
Bài tập lớn môn: Quản trị công ty
Trang 8
Học viên: Lê Kim Hoàng
Lớp: QLKT 2015 Lớp 3
pháp để duy trì kỹ năng, trình độ nghiệp vụ trong suốt quá trình hành nghề. Về
mặt pháp lý, các kiểm toán viên chỉ được hành nghề khi đã đăng ký với cơ quan
có thẩm quyền và ở Việt Nam là Bộ Tài chính sau khi đã trúng tuyển kỳ thi cấp
quốc gia về cấp chứng chỉ kiểm toán viên.
1.3. Nghĩa vụ và trách nhiệm của kiểm toán viên
Nhu cầu kiểm toán xuất phát từ việc các chủ sở hữu doanh nghiệp không
thể và cũng không cần thiết tự kiểm tra mọi thông tin tài chính của doanh nghiệp
do giám đốc doanh nghiệp chịu trách nhiệm lập và báo cáo cho họ. Do vậy họ bổ
nhiệm các kiểm toán viên - những người có đủ năng lực chuyên môn nghiệp vụ,
độc lập, khách quan thay thế họ kiểm tra và báo cáo lại theo ý kiến của mình về
tính trung thực, hợp lý của các báo cáo tài chính.
Cùng với sự phát triển và đa dạng của nền kinh tế, các thông tin tài chính
được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau cho các đối tượng khác nhau. Tuy
nhiên tất cả người sử dụng kết quả kiểm toán đều cần sự đảm bảo tính trung thực
và hợp lý của những thông tin tài chính mà họ được cung cấp. Như vậy nghĩa vụ
của kiểm toán viên là dựa trên kết quả kiểm toán và báo cáo cho những người sử
dụng kết quả kiểm toán theo yêu cầu, mục đích của kiểm toán; các cơ quan chức
năng nếu thấy có những hành vi vi phạm pháp luật ở mức độ nhất định mà pháp
luật yêu cầu phải báo cáo.
Việc xác định nghĩa vụ báo cáo của kiểm toán viên có ý nghĩa quan trọng
bởi cuộc kiểm toán được tiến hành dựa trên hợp đồng kiểm toán ký kết giữa đơn
vị được kiểm toán và tổ chức kiểm toán, do vậy về hình thức các kiểm toán viên
phải báo cáo cho đơn vị được kiểm toán. Tuy nhiên những người sử dụng kết quả
kiểm toán mới là đối tượng chính mà kiểm toán viên có nghĩa vụ phải báo cáo các
chủ sở hữu, các cổ đông, những người cho vay,... hay những đối tượng khác theo
qui định của pháp luật.
Để thực hiện trách nhiệm của mình trước những đối tượng sử dụng kết quả
kiểm toán, kiểm toán viên phải tuân thủ các nguyên tắc và chuẩn mực kiểm toán,
trong đó phải luôn giữ được tính độc lập, chính trực và khách quan trong quá
Bài tập lớn môn: Quản trị công ty
Trang 9
Học viên: Lê Kim Hoàng
Lớp: QLKT 2015 Lớp 3
trình kiểm toán. Các kiểm toán viên phải có nghĩa vụ phát hiện các sai sót trọng
yếu, các hành vi phạm pháp (nếu có) của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp.
1.4. Mục đích và phạm vi của hoạt động kiểm toán độc lập
Mục đích của hoạt động kiểm toán độc lập được quy định tại Điều 4 của
Luật kiểm toán độc lập số 67/2011/QH12 của Quốc hội ngày 29/3/2011, theo đó:
“Hoạt động kiểm toán độc lập nhằm góp phần công khai, minh bạch thông tin
kinh tế, tài chính của đơn vị được kiểm toán và doanh nghiệp, tổ chức khác; làm
lành mạnh môi trường đầu tư; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phòng, chống
tham nhũng; phát hiện và ngăn chặn vi phạm pháp luật; nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý, điều hành kinh tế, tài chính của Nhà nước và hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp.”
Để hình thành ý kiến nhận xét về các báo cáo tài chính, kiểm toán viên phải
có được các căn cứ vững chắc, các thông tin cốt yếu trong công việc ghi chép kế
toán và các nguồn số liệu đáng tin cậy dùng làm cơ sở cho việc xây dựng các báo
cáo tài chính. Nói cách khác, kiểm toán viên phải có đủ các bằng chứng kiểm
toán thích hợp. Do vậy phạm vi kiểm toán sẽ là những công việc, thủ tục kiểm
toán cần thiết để kiểm toán viên xác định, thực hiện trong quá trình kiểm toán
nhằm thu thập đầy đủ các bằng chứng thích hợp cho mục tiêu kiểm toán.
1.5. Vai trò của hoạt động kiểm toán độc lập
Trên thế giới hầu hết các nước đi theo kinh tế thị trường đều có hoạt động
kiểm toán độc lập, đòi hỏi các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế quản lý
và điều hành sản xuất kinh doanh cần phải có thông tin chính xác kịp thời và tin
cậy. Ý nghĩa và tầm quan trọng của kiểm toán độc lập thể hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất, kiểm toán độc lập tạo niềm tin cho những người quan tâm.
Vì nhiều nguyên nhân khác nhau, các chủ doanh nghiệpđều muốn che dấu các
phần yếu kém hoặc khuyếch trương kết quả kinh doanh của mình trên bảnbáo cáo
tài chính. Trái lại, những người quan tâm đến kết quả kinh doanh và tình hình tài
chính của doanh nghiệp lại đòi hỏi sự trung thực chính xác của bản báo cáo tài
chính đó. Vì thế cần có sự kiểm tra xác nhận của kiểm toán viên độc lập hoạt
Bài tập lớn môn: Quản trị công ty
Trang 10
Học viên: Lê Kim Hoàng
Lớp: QLKT 2015 Lớp 3
động theo nguyên tắc bắt buộc và có đủ năng lực uy tín với cả chủ doanh nghiệp
và người quan tâm đến bản báo cáo tài chính.
Thứ hai, kiểm toán độc lập góp phần hướng dẫn nghiệp vụ và củng cố nề
nếp hoạt động tài chính kế toán. Mọi hoạt động, đặc biệt là hoạt động tài chính
đều bao gồm những mối quan hệ đa dạng, luôn biến đổi và được cấu thành bởi
hàng loạt nghiệp vụ cụ thể. Để hướng các nghiệp vụ này vào mục tiêu giải quyết
tốt các quan hệ trên không chỉ cần có định hướng đúng và thực hiện tốt, mà cần
thường xuyên rà soát việc thực hiện để hướng các nghiệp vụ vào quỹ đạo mong
muốn.
Thứ ba, kiểm toán góp phần nâng cao hiệu quả và năng lực quản lý. Kiểm
toán không chỉ có chức năng xác minh mà còn có chức năng tư vấn. Các chủ
doanh nghiệp không thể kiểm soát hết các nghiệp vụ tài chính kế toán đã xảy ra
trong doanh nghiệp. Để biết được một cách chính xác, trung thực tình hình tài
chính kế toán vào kì hạn nào đó, chủ doanh nghiệp thường mời các kiểm toán
viên độc lập chuyên nghiệp có uy tín thực hiện việc kiểm tra và nhận xét bản báo
cáo tài chính của doanh nghiệp mình do người phụ trách kế toán lập ra.
Những nhận xét của kiểm toán viên sẽ giúp cho các chủ doanh nghiệp kịp thời
phát hiện những sai sót, lãng phí hoặc vi phạm pháp luật do cố ý hay vô ý để xử
lý kịp thời, ngăn ngừa các tổn thất. Điều đó giúp cho doanh nghiệp hạn chế được
những rủi ro, phát hiện ra thế mạnh những tiềm năng tài chính nội tại có trong
doanh nghiệp.
1.6. Tổ chức kiểm toán độc lập
1.6.1. Mô hình tổ chức kiểm toán độc lập ở các nước trên thế giới
Hoạt động kiểm toán độc lập trên thế giới đã xuất hiện trên 100 năm và
ngày càng phát triển mạnh mẽ. Hình thức tổ chức của các tổ chức kiểm toán ở các
nước không hoàn toàn giống nhau. Số lượng nhân viên và các tổ chức kiểm toán
phụ thuộc vào mức độ phát triển của hoạt động kiểm toán và nền kinh tế.
Ở Hoa kỳ, hoạt động kiểm toán độc lập đã hình thành từ thế kỷ 19 cùng sự
phát triển của các công ty cổ phần. Đến năm 1933, với sự ra đời của Luật Chứng
Bài tập lớn môn: Quản trị công ty
Trang 11
Học viên: Lê Kim Hoàng
Lớp: QLKT 2015 Lớp 3
khoán Liên bang, Hoa Kỳ mới đưa ra yêu cầu bắt buộc báo cáo tài chính của các
công ty cổ phần đại chúng phải được kiểm toán. Đặc biệt, vào năm 1934, Luật
Giao dịch chứng khoán ra đời, trong đó có yêu cầu báo cáo tài chính phải được
kiểm toán bởi công ty kiểm toán độc lập. Từ khi ra đời đến năm 2002, nghề
nghiệp kiểm toán tại Hoa Kỳ phát triển theo mô hình tự kiểm soát với đặc điểm là
quá trình thiết lập chuẩn mực kiểm toán và kiểm soát chất lượng hoàn toàn do tổ
chức nghề nghiệp đảm nhận. Sự phát triển mạnh của hoạt động kiểm toán từ khi
chưa có các quy định của nhà nước đã đưa đến sự hình thành và phát triển mạnh
mẽ của tổ chức nghề nghiệp. Cho đến nay, Hoa Kỳ có hơn 45.000 tổ chức kiểm
toán chuyên nghiệp.
Ở Cộng hoà Pháp hiện có khoảng 24 văn phòng kiểm toán khu vực và
2.500 văn phòng con cơ sở trực tiếp là dịch vụ với hơn 10.000 kiểm toán viên.
Tại các nước nói trên và những nước khác, pháp luật qui định rõ quyền hạn, trách
nhiệm của các tổ chức kiểm toán, thừa nhận sự khách quan và độc lập của kiểm
toán, chấp nhận giá trị pháp lý của các tài liệu có chữ ký của kiểm toán.
Về hình thức tổ chức của các tổ chức kiểm toán, có thể là các công ty kiểm
toán, là cá nhân hành nghề kiểm toán, công ty hợp danh hoặc cổ phần. Trong
công ty hoặc cả những cá nhân hành nghề kiểm toán, trong quá trình hoạt động
của mình thường tuyển dụng đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp để giúp họ thực
hiện công việc kiểm toán.
Cơ cấu tổ chức trong các công ty kiểm toán ở các nước phát triển thường
theo hệ thống cấp bậc về chuyên môn bao gồm các chủ phần hùn (partner), trong
đó còn chiathành chủ phần hùn có cổ phần trong công ty và chủ phần hùn không
có cổ phần, là những người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao nhất, tiếp đến
là cấp điều hành viên cao cấp (senior manager, hoặc principal), tiếp theo là các
cấp quản lý, kiểm toán viên và trợ lý kiểm toán viên. Mức độ chi tiết trong các
cấp bậc trong công ty phụ thuộc vào qui mô và cách thức tổ chức quản lý của
từng công ty. Trong công ty kiểm toán thường có nhiều các hoạt động dịch vụ và
ở mỗi loại dịch vụ đều phân theo các cấp bậc tương ứng.
Bài tập lớn môn: Quản trị công ty
Trang 12
Học viên: Lê Kim Hoàng
Lớp: QLKT 2015 Lớp 3
Qui mô, cách thức tổ chức của các công ty kiểm toán ở các nước phát triển
rất đa dạng, bao gồm:
Các công ty đa quốc gia (các công ty kiểm toán quốc tế): văn phòng chính
đặt ở một thành phố lớn trên thế giới (thường ở Mỹ và Anh), tiếp đó là các văn
phòng chính cho các khu vực và các văn phòng ở các nước. Văn phòng ở các
nước được thành lập theo luật của nước sở tại. Các văn phòng này sẽ trực thuộc
sự quản lý của văn phòng chính ở khu vực.
Các công ty thuộc phạm vi trong một quốc gia: các công ty này có thể có
một hoặc nhiều văn phòng, chi nhánh trực thuộc và tổ chức hoạt động trong phạm
vi một quốc gia. Có những công ty qui mô nhỏ hơn ở cấp địa phương với số
lượng nhân viên là vài chục người.
Để quản lý và thống nhất sự hoạt động của các công ty kiểm toán, ở mỗi
nước hoặc các khu vực đều có Hiệp hội kế toán, là tổ chức độc lập của những
người làm công tác kế toán, kiểm toán hoặc quan tâm đến lĩnh vực này như: Viện
kế toán viên công chứng Hoa kỳ (AICPA), Hiệp hội kế toán chuyên nghiệp Anh
và xứ Wales (ICAEW), Hiệp hội kế toán Hồng Kông (HKSA)…
1.6.2. Mô hình tổ chức kiểm toán độc lập ở Việt Nam
Hình thức tổ chức của các công ty kiểm toán ở Việt nam bị chi phối bởi
hình thức sở hữu công ty.
Đối với các công ty kiểm toán là doanh nghiệp nhà nước, tổ chức phụ
thuộc vào cơ chế quản lý của nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước, trong
đó Giám đốc, người đứng đầu công ty do cơ quan thành lập bổ nhiệm (Bộ tài
chính, Uỷ ban nhân dân thành phố). Cách thức tổ chức tại các công ty này theo
chức danh và theo cơ cấu hành chính. Trách nhiệm công việc và tổ chức hoạt
động theo chức danh quản lý.
Đối với các công ty 100% vốn nước ngoài, các công ty này đều thuộc các
công ty kiểm toán quốc tế nên về cơ cấu tổ chức giống như các công ty quốc tế.
Về tổ chức hành chính, vì là công ty được thành lập theo luật đầu tư nước ngoài ở
Việt Nam, thuộc hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn nên ở các công ty này
Bài tập lớn môn: Quản trị công ty
Trang 13
Học viên: Lê Kim Hoàng
Lớp: QLKT 2015 Lớp 3
vẫn có chức danh Giám đốc - đại diện pháp lý của công ty về các vấn đề hành
chính trước các cơ quan chức năng cũng như trong các hoạt động kinh tế.
Đối với các công ty trách nhiệm hữu hạn trong nước, các công ty này đến
nay qui mô còn hạn chế và chưa hình thành hình thức tổ chức rõ nét. Do hình
thức sở hữu tư nhân nên giám đốc công ty là chủ sở hữu, người theo quy định
phải có chứng chỉ kiểm toán viên và chịu trách nhiệm trước pháp luật đối với mọi
hoạt động của công ty.
Nhìn chung, qui mô của các công ty kiểm toán ở Việt nam có sự khác biệt
khá rõ nét. Các công ty kiểm toán là doanh nghiệp nhà nước có qui mô lớn hơn,
có nhiều chi nhánh và văn phòng ở những thành phố lớn trong cả nước. Các công
ty trách nhiệm hữu hạn có qui mô hạn chế nhất, chỉ có một văn phòng chính nơi
thành lập. Các công ty kiểm toán có vốn đầu tư nước ngoài đều có văn phòng ở
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
CHƯƠNG II: GIAN LẬN BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA CÁC
CÔNG TY NIÊM YẾT
Bài tập lớn môn: Quản trị công ty
Trang 14
Học viên: Lê Kim Hoàng
Lớp: QLKT 2015 Lớp 3
2.1. Gian lận báo cáo tài chính
2.1.1. Khái niệm gian lận báo cáo tài chính
Theo từ điển tiếng Việt, gian lận là hành vi thiếu trung thực, dối trá, mánh khoé
nhằm lừa gạt người khác.
Theo nghĩa rộng gian lận là việc xuyên tạc sự thật, thực hiện các hành vi
không hợp pháp nhằm lừa gạt, dối trá để thu được một lợi ích nào đó. Ba biểu
hiện thường thấy của gian lận là: chiếm đoạt, lừa đảo và ăn cắp.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 240 (VSA 240) thì “gian lận là
những hành vi cố ý làm sai lệch thông tin kinh tế, tài chính do một hay nhiều
người trong Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc, các nhân viên hoặc bên thứ ba
thực hiện, làm ảnh hưởng đến Báo cáo tài chính”.
2.1.2. Các yếu tố làm phát sinh gian lận
Gian lận phát sinh khi hội đủ các yếu tố sau:
- Một cá nhân hay tổ chức cố ý trình bày sai một yếu tố hay sự kiện quan
trọng,
- Việc trình bày sai này sẽ làm cho người bị hại tin vào đó (người bị hại có
thể là cá nhân hay tổ chức),
- Người bị hại dựa vào và ra các quyết định trên cơ sở sự trình bày sai này,
- Người bị hại chịu các khoản lỗ về tiền, tài sản… do việc dựa trên sự trình
bày sai này.
Gian lận có thể mang lại lợi ích cho cá nhân hay cho tổ chức. Khi cá nhân
thực hiện gian lận, lợi ích có thể là trực tiếp (như nhận tiền hay tài sản), hay gián
tiếp (có ảnh hưởng nào đó, tăng quyền lực, sự đền ơn, tiền thưởng…). Khi tổ
chức (thường là nhân viên hành động trên tư cách tổ chức) thực hiện gian lận thì
lợi ích thu được thường là trực tiếp dưới hình thức thu nhập của công ty tăng lên.
Công trình nghiên cứu gian lận của Hiệp hội các nhà điều tra gian lận
Mỹ (The Association of Certified Fraud Examiners-ACFE), tập trung vào phân
tích cách thức tiến hành gian lận từ đó giúp các nghề nghiệp đưa ra biện pháp
ngăn ngừa và phát hiện gian lận trên Báo cáo tài chính. Một trong những con số
Bài tập lớn môn: Quản trị công ty
Trang 15
Học viên: Lê Kim Hoàng
Lớp: QLKT 2015 Lớp 3
thống kê đưa ra rất ấn tượng là: Gian lận gây ra thiệt hại cho nền kinh tế Mỹ là
khoảng 6% trên tổng thu nhập quốc nội vào năm 2004 (tương đương với 10,000
tỷ USD), tức là mỗi năm nền kinh tế bị thiệt hại trên 600 tỷ USD do gian lận. Đây
là con số rất lớn vì nó gần gấp đôi số ngân sách mà Chính phủ Mỹ dành cho các
hoạt động quân sự trong năm 2003. Và tất nhiên là nhiều hơn cả nguồn tiền
Chính phủ đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng và giáo dục, vượt quá 28 lần số
ngân sách Chính phủ ưu tiên dùng để phòng chống tội phạm năm 2003.
Dù công trình nghiên cứu về gian lận ACFE đã đưa ra những số liệu thống
kê về những thiệt hại của việc gian lận trên Báo cáo tài chính bị phát hiện, tuy
nhiên, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng khó mà xác định được thiệt hại thực sự bởi
lẽ không phải tất cả những gian lận đều bị phát hiện và không phải tất cả các gian
lận được phát hiện đều được báo cáo và không phải tất cả gian lận đã báo cáo đều
bị khởi tố theo đúng pháp luật. Bên cạnh đó, những công trình nghiên cứu trên
chỉ thống kê thiệt hại về kinh tế trực tiếp do gian lận trên Báo cáo tài chính, trong
khi còn rất nhiều thiệt hại vô hình không thể biểu hiện bằng con số cụ thể ví dụ
như chi phí kiện tụng, phí bảo hiểm, sự sụt giảm niềm tin và tác động xấu đến thị
trường chứng khoán.
2.1.3. Phân loại gian lận
Có ba loại gian lận như sau:
- Biển thủ tài sản: Xảy ra khi nhân viên biển thủ tài sản của tổ chức (ví dụ
điển hình là biển thủ tiền, đánh cắp hàng tồn kho, gian lận về tiền lương).
- Tham ô: Xảy ra khi người quản lý lợi dụng trách nhiệm và quyền hạn của
họ tham ô tài sản của công ty hay hành động trái ngược với các nghĩa vụ họ đã
cam kết với tổ chức để làm lợi cho bản thân hay một bên thứ ba.
- Gian lận trên Báo cáo tài chính: Là trường hợp các thông tin trên Báo cáo
tài chính bị bóp méo, phản ảnh không trung thực tình hình tài chính một cách cố ý
nhằm lừa gạt người sử dụng thông tin. (Ví dụ khai khống doanh thu, khai giảm nợ
phải trả hay chi phí).
Bảng kết quả cuộc nghiên cứu của ACFE
Bài tập lớn môn: Quản trị công ty
Trang 16
Học viên: Lê Kim Hoàng
Loại gian
lận
Lớp: QLKT 2015 Lớp 3
Năm 2004
%
Thiệt hại
(USD)
Biển thủ
92.7%
93.000
Tham ô
30,1%
250.000
Gian lận
7,9% 1.000.000
trên BCTC
Kết quả nghiên cứu của ACFE
Năm 2006
%
Thiệt hại
(USD)
91,5%
30,8%
150.000
538.000
10,6%
2.000.000
Năm 2008
Thiệt
hại
%
(USD)
88,7% 150.000
27,4% 375.000
10,3% 2.000.000
cho thấy, trong các trường hợp khảo sát,
gian lận liên quan đến tài sản tuy chiếm khoảng 90% trường hợp nhưng mức thiệt
hại cho nền kinh tế là thấp nhất. Trong khi đó, các gian lận trên Báo cáo tài chính,
tuy chiếm tỷ lệ thấp nhất nhưng hậu quả gây ra cho nền kinh tế là lớn nhất.
2.2. Những phương pháp phổ biến thực hiện gian lận trên BC tài chính
Theo số liệu thống kê, dù gian lận trên Báo cáo tài chính xảy ra ít thường
xuyên hơn nhưng tác động của chúng đối với báo cáo tài chính lớn hơn nhiều lần
so với hành vi tham ô, biển thủ. Dưới đây là thống kê các loại gian lận phổ biến
trên BCTC trong tổng số 120 mẫu báo cáo tài chính bị cáo buộc gian lận:
Loại gian lận
Che dấu công nợ
Ghi nhận doanh thu không có thật
Định giá sai tài sản
Ghi nhận sai niên độ
Không công bố đầy đủ thông tin
Trường hợp báo cáo
54
52
45
34
56
Tỷ lệ
(%)
45%
43.3%
37.5%
28,3%
48%
Cuối tháng 3, đầu tháng 4 hàng năm thường là mùa công bố Báo cáo tài chính của các
doanh nghiệp. Còn đối với cổ đông, đây là mùa để họ thi tài tìm gian lận trong các báo
cáo này. Một số phương pháp phổ biến để gian lận trong báo cáo tài chính của các công
ty như sau:
2.1.1. Che dấu công nợ và chi phí.
Che dấu công nợ đưa đến giảm chi phí là một trong những kỹ thuật gian lận
phổ biến trên BCTC nhằm mục đích khai khống lợi nhuận. Khi đó, lợi nhuận
Bài tập lớn môn: Quản trị công ty
Trang 17
Học viên: Lê Kim Hoàng
Lớp: QLKT 2015 Lớp 3
trước thuế sẽ tăng tương ứng với số chi phí hay công nợ bị che dấu. Đây là
phương pháp dễ thực hiện và khó bị phát hiện vì thường không để lại dấu vết.
Công ty cổ phần Tập đoàn Thép Tiến Lên (TLH) mở màn cho hoang mang
của nhiều nhà đầu tư với việc công bố lợi nhuận ròng sau kiểm toán giảm gần
30%. So với kết quả trước kiểm toán, chi phí tài chính của TLH tăng thêm 30,3 tỷ
đồng do phải trích thêm dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán dẫn đến lợi
nhuận trước thuế giảm một lượng tương ứng. Dự phòng giảm giá đầu tư chứng
khoán ban đầu là 27,74 tỷ đồng đã tăng lên thành hơn 58 tỷ đồng. Lợi nhuận sau
thuế của cổ đông công ty mẹ đạt 55,97 tỷ đồng, giảm 22,8 tỷ (-29%) so với kết
quả ban đầu là 78,8 tỷ đồng.
Công ty Cổ phần Vận tải Xăng dầu Đường thủy Petrolimex (PJT) thông
báo báo cáo tài chính năm 2010 đã kiểm toán với lợi nhuận sau thuế của công ty
mẹ PJT đạt 10,58 tỷ đồng, giảm 22,74% so với con số 13,7 tỷ đồng đã công bố
trước đó. Nguyên nhân điều chỉnh giảm lợi nhuận là do phải trích lập thêm 4,15
tỷ đồng dự phòng đầu tư bị lỗ ở công ty con năm 2010.
Báo cáo tài chính năm 2010 của Công ty cổ phần Basa có mã chứng khoán
BAS, công ty đã vốn hóa chi phí đi vay số tiền 1,04 tỷ đồng vào giá trị công trình
xây dựng cơ bản, trong khi công trình này đã ngừng xây dựng trong năm 2010.
Nếu áp dụng đúng như VSA 16, thì chi phí đi vay này phải tạm ngừng vốn hóa và
tính vào chi phí kinh doanh trong kỳ. Nếu thực hiện đúng như VSA 16, công ty sẽ
gia tăng thêm khoản lỗ với số tiền tương ứng 1,04 tỷ đồng.
2.2.2. Ghi nhận doanh thu không có thật hay khai cao doanh thu
Công ty Cổ phần Kinh doanh Khí hóa lỏng Miền Bắc (PVG) công bố Báo
cáo tài chính hợp nhất đã kiểm toán năm 2010. Lợi nhuận ròng trên báo cáo hợp
nhất sau kiểm toán của PVG đạt 35,83 tỷ đồng, giảm 1,2 tỷ đồng so với báo cáo
trước kiểm toán. Đáng chú ý là đơn vị kiểm toán có ý kiến ngoại trừ việc ghi
nhận cổ tức từ lợi nhuận năm 2010 của Công ty cổ phần Phân phối khí thấp áp
(PGD), PVG tạm ghi nhận khoản cổ tức 9,28 tỷ đồng của PGD vào doanh thu
Bài tập lớn môn: Quản trị công ty
Trang 18
Học viên: Lê Kim Hoàng
Lớp: QLKT 2015 Lớp 3
hoạt động tài chính năm 2010. Tại ngày 31/12/2010, việc phân phối cổ tức nói
trên chưa được đại hội cổ đông của PGD phê duyệt. Theo chuẩn mực kế toán Việt
Nam số 14 (VAS 14)-Doanh thu và thu nhập khác, cổ tức và lợi nhuận được chia
được ghi nhận khi cổ đông có quyền nhận cổ tức. Nếu công ty áp dụng VAS 14,
doanh thu từ hoạt động tài chính và lợi nhuận trước thuế cho năm 2010 sẽ giảm
một khoản tương ứng là 9,28 tỷ đồng.
2.2.3. Định giá sai tài sản
Công ty Cổ phần Thủy điện Nậm Mu (HJS) thông báo Báo cáo tài chính đã
kiểm toán năm 2010. Theo báo cáo sau kiểm toán, lợi nhuận sau thuế của HJS đạt
4,78 tỷ đồng trong đó lợi nhuận ròng thuộc cổ đông công ty mẹ đạt 4,54 tỷ đồng.
So với mức 6,48 tỷ đồng trước kiểm toán, lợi nhuận ròng sau kiểm toán giảm
30%.
Điều đáng lưu ý trong Báo cáo kiểm toán đó là nguyên giá tài sản cố định
và chi phí khấu hao của nhà máy Thủy điện Nậm Ngần có thể thay đổi khi quyết
toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản được duyệt. Trong bảng thuyết minh Báo cáo tài
chính hợp nhất: Dự án công trình Thủy điện Nậm Ngần được đầu tư theo Quyết
định số 28ACT/HĐQT ngày 01/12/2004 của Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần
Thủy điện Nậm Mu đã hoàn thành, bàn giao đưa vào sử dụng nhưng chưa được
duyệt quyết toán vốn đầu tư. Công ty căn cứ vào chi phí đầu tư xây dựng cơ bản
thực tế, tạm tính nguyên giá để hạch toán tăng tài sản cố định.
2.2.4. Ghi nhận sai niên độ
Trong mùa kiểm toán năm 2010, Đơn vị kiểm toán có ý kiến ngoại trừ việc
Công ty Cổ phần Địa ốc Đà Lạt (DLR) ghi nhận 31,15 tỷ đồng doanh thu với giá
vốn 27,98 tỷ đồng từ Dự án xây dựng Cụm dân cư - Khu chung cư Yersin thành
phố Đà Lạt. Theo ký kết, công ty sẽ bàn giao từng phần hạng mục công ty của dự
án sau khi hoàn thành và đủ điều kiện để bố trí tái định cư. UBND sẽ thanh toán
cho công ty khi quyết toán dự án và đã được cơ quan độc lập kiểm toán. Tuy
nhiên, tại Báo cáo tài chính năm 2010, công ty đã ước tính và ghi nhận doanh thu,
Bài tập lớn môn: Quản trị công ty
Trang 19
Học viên: Lê Kim Hoàng
Lớp: QLKT 2015 Lớp 3
giá vốn như trên theo số liệu hoàn thành giữa công ty và đội thi công của công ty
trong khi UBND tỉnh Lâm Đồng chưa có văn bản chỉ định UBND thành phố Đà
Lạt nghiệm thu. Đơn vị kiểm toán cho biết, ngày 22/2/2011, UBND tỉnh Lâm
Đồng đã có công văn thống nhất giao cho UBND thành phố Đà Lạt là đơn vị tiếp
nhận từng hạng mục công trình theo từng giai đoạn giá trị công trình hoàn thành
để DLR ghi nhận doanh thu.
Qua đây cho thấy DRL đã ghi nhận doanh thu và giá vốn Dự án xây dựng
Cụm dân cư - Khu chung cư Yersin thành phố Đà Lạt sai niên độ, doanh thu và giá
vốn này phải được ghi nhận ở niên độ năm 2011, nhưng đã được doanh nghiệp ghi
nhận vào năm 2010.
2.2.5. Không khai báo đầy đủ thông tin
Trong báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính năm 2010 của Công ty Cổ
phần Container Phía Nam (VSG), kiểm toán viên lưu ý người sử dụng đến khoản
lỗ chênh lệch tỷ giá chưa thực hiện do đánh giá lại số dư có gốc ngoại tệ cuối năm
của khoản vay dài hạn với số tiền 33,16 tỷ đồng đang được ghi nhận trên chỉ tiêu
“chênh lệch tỷ giá hối đoái”. Điều này giúp cho người sử dụng hiểu được, việc áp
dụng TT 201/2009 giúp cho công ty giảm lỗ 33,16 tỷ đồng. Nếu áp dụng VSA 10
thì chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế trên báo cáo tài chính của công ty năm 2010 không
phải con số lỗ 40,66 tỷ đồng mà là con số lỗ 73,82 tỷ đồng. Qua đó cho người sử
dụng thấy một phần lợi nhuận được tạo ra (hoặc một phần giảm lỗ) là do sự thay
đổi cách hạch toán mà có chứ không phải do bản thân hoạt động sản xuất kinh
doanh của công ty tạo ra.
Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính năm 2010 của Công ty cổ phần
nhựa tân Hoá có mã chứng khoán VKP, kiểm toán viên phát hành ý kiến kiểm
toán ngoại trừ, đồng thời kiểm toán viên chỉ ra rằng một khoản hàng tồn kho thiếu
với giá trị 5,36 tỷ đồng xảy ra ở năm 2009, công ty trình bày số tiền này trên
khoản mục phải thu khác của báo cáo tài chính năm 2010 và đang nhờ cơ quan
pháp luật làm rõ. Nếu công ty không thể tìm ra nguyên nhân cho số hàng mất này
Bài tập lớn môn: Quản trị công ty
Trang 20
Học viên: Lê Kim Hoàng
Lớp: QLKT 2015 Lớp 3
(vì hơn 1 năm), thì điều này sẽ làm cho khoản lỗ trên khoản mục lợi nhuận chưa
phân phối cột đầu năm và cuối năm sẽ gia tăng tương ứng.
Trước thực trạng sự gian lận tinh vi trong các báo cáo tài chính của các
công ty đại chúng, các kiểm toán viên độc lập là một trong những nhân tố quan
trọng nhất để phát hiện những gian lận, không chỉ mang lại sự công khai, minh
bạch cho môi trường kinh doanh giữa các doanh nghiệp mà còn tạo niềm tin cho
các nhà đầu tư trên thị trường vốn, thị trường chứng khoán và các các đối tác làm
ăn của các doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra là các kiểm toán viên độc lập đã thực sự
“độc lập” với các doanh nghiệp hay chưa? Chúng ta sẽ tìm hiểu thực trạng vấn đề
trên tại Chương 3 của tiểu luận này.
CHƯƠNG III: CÁC KIỂM TOÁN VIÊN BÊN NGOÀI CÓ THỰC
SỰ ĐỘC LẬP?
Thực tế hiện nay, theo em vẫn chưa có một câu trả lời hoàn toàn chính xác.
Sự độc lập của các kiểm toán viên bên ngoài chủ yếu phụ thuộc vào tinh thần
trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp của mỗi một kiểm toán viên cũng như của
từng công ty, doanh nghiệp kiểm toán. Trong vô vàn những đơn vị kiểm toán độc
lập có uy tín cao trong lĩnh vực kiểm toán thì vẫn còn tồn tại một số “con sâu làm
Bài tập lớn môn: Quản trị công ty
Trang 21
Học viên: Lê Kim Hoàng
Lớp: QLKT 2015 Lớp 3
rầu nồi canh”, có thể lấy một số dẫn chứng cụ thể trên thế giới cũng như tại Việt
Nam như sau:
3.1. Trên thế giới
Vụ việc Enron và sự sụp đổ của đại gia Arthur Andersen
1. Vài nét về Enron:
Tiền thân của Enron là công ty Khí tự nhiên miền Bắc, thành lập năm 1932
tại Omaha, Nebraska. Năm 1979, công ty đã tổ chức cơ cấu lại trở thành
Internorth of Omaha. Năm 1985, trên cơ sở sáp nhập hai công ty Houston Natural
Gas và Internorth of Omaha, đổi tên công ty thành Enteron (ruột), với ý tưởng là
bộ phận không thể thiếu trong quá trình tiêu hóa. Nhưng cái tên này nhanh chóng
được rút gon lại chỉ còn Enron khoảng năm 1990.
Nhờ những quy định mới về tự do hóa thị trường năng lượng Mỹ trong thập
niên 90, họ đã lột xác từ một hãng làm ăn mờ nhạt thành tập đoàn có thể thay đổi
sự cân bằng trong lĩnh vực kinh doanh năng lượng. Luật chính sách năng lượng
năm 1992 buộc các công ty nhỏ phải mở cửa đường truyền tải điện cho hệ thống
phân phối của Enron. Ngoài ra, Enron kiếm rất nhiều tiền từ việc mua bán trên thị
trường năng lượng. Trên thực tế, họ chỉ là những nhà buôn sắp xếp hợp đồng giữa
người mua và bán rồi lấy tiền hoa hồng. Trong tay Enron, thị trường năng lượng
ngang hàng với một sự đầu cơ tài chính. Hãng này đã xây dựng những nhà máy
trị giá hàng triệu USD khắp thế giới nhưng chỉ sở hữu chúng khi giá năng lượng
lên ngôi, khi gặp khó khăn thì bán ngay lập tức. Nhờ hoạt động tài chính thuận
lợi, Enron đã vươn sang các mặt hàng như giấy, nước, nhựa, kim loại và phương
tiện viễn thông.
Năm 2000, Enron là một trong 7 công ty Mỹ có doanh số hơn 100 tỷ USD,
lợi nhuận lên tới 10 tỷ USD. Hệ thống thông tin đại chúng, điển hình là tạp chí
Fortune luôn đánh bóng Enron là công ty có nhiều tiềm năng nhất với số vốn kinh
doanh 63 tỷ USD. Tại thời điểm xảy ra vụ bê bối năm 2001, Enron nắm trong tay
cơ sở vật chất kỹ thuật cực kỳ giá trị, hoạt động tại trên 30 quốc gia trên thế giới
(trong đó có Việt Nam), giao dich với hơn 30 sản phẩm khác nhau, sở hữu 38 nhà
Bài tập lớn môn: Quản trị công ty
Trang 22
Học viên: Lê Kim Hoàng
Lớp: QLKT 2015 Lớp 3
máy điện, gần 60 vạn km đường ống dẫn dầu và khí đốt, hàng loạt các công ty
con về các ngành kinh doanh khác như giấy, thép, hóa dầu, nhựa…
2. Dấu hiệu và diễn biến của vụ bê bối
Năm 2000
- Tháng 3: CEO Enron, Kenneth Lay bị cáo buộc gian lận báo cáo hàng
năm năm 1999. Jeffrey Skilling, giám đốc điều hành (COO) của Enron bị cáo
buộc có dấu hiệu gian lận cho Arthur Andersen LLP về dữ liệu tài chính năm
1999.
- Tháng 8, giá cổ phiếu Enron leo cao mức kỷ lục: 90$/cổ phiếu
- Tháng 8 và tháng 11, K. Lay tiếp tục bị cáo buộc gian lận báo cáo tài
chính hàng quý cho quý II và III năm 2000.
Năm 2001
- Từ ngày 22 - 25 tháng 1, COO Enron, J. Skilling liên tục đưa ra các yêu
cầu gian lận các báo cáo tài chính nhằm dối gạt các nhà đầu tư.
- Ngày 06/02, Enron được tạp chí Fortune bình chọn là một trong những
công ty sáng tạo nhất tại Mỹ lần thứ 6 liên tiếp.
- Ngày 05/5, giá cổ phiếu Enron đóng cửa là 59,78$
- Ngày 23/7, giá cổ phiếu Enron tiếp tục sụt giảm còn 47$, gây mất lòng tin
nghiêm trọng cho các nhà đầu tư.
- Ngày 14/8, vì lý do cá nhân, Skilling từ chức. K. Lay tuyên bố “ Tuyệt
đối không có vấn đề kế toán, không có vấn đề kinh doanh, không có vấn đề dự
trữ, không có vấn đề che dấu sự thật”
- Ngày 15/8, Sherron Watkins, một phó chủ tịch phát triển của Enron, đã
phát hiện ra các sai phạm kế toán của công ty và gửi thư đến cho K. Lay.
- Ngày 16/10: Enron công bố lỗ quý thứ ba là $ 618,000,000.
- Ngày 31/10, Ủy ban chứng khoán và hối đoái Mỹ (SEC) bắt đầu mở cuộc
điều tra chính thức về kế toán của Enron và các đối tác.
- Arthur Andersen, công ty kiểm toán của Enron, đã tiếp tay cho nó bằng
cách tiêu hủy các tài liệu liên quan đến sai phạm.
Bài tập lớn môn: Quản trị công ty
Trang 23
Học viên: Lê Kim Hoàng
Lớp: QLKT 2015 Lớp 3
- Giá cổ phiếu Enron tụt dốc không phanh, chỉ còn khoảng 0,6$/ cổ phiếu.
- Ngày 08/11, Enron công bố nó phóng đại lợi nhuận bằng cách $
586,000,000 trong năm năm.
- SEC yêu cầu các nhân viên Arthur Andersen có liên quan đến Enron hầu
tòa.
- Ngày 02/12, Enron thông báo phá sản.
Năm 2002
- Ngày 09/01, Bộ Tư pháp Mỹ xác nhận bắt đầu một cuộc điều tra hình sự
vụ phá sản Enron.
- Ngày 10/01, Arthur Andersen thừa nhận đã hủy tài liệu của Enron, từ
tháng 9 đến tháng 11.
- Ngày 03/5, Enron đề xuất thành lập một công ty mới tạm gọi là Công ty
Năng lượng OpCo . Nếu được chấp thuận, OpCo sẽ có tài sản cốt lõi của Enron,
bao gồm 15.000 dặm đường ống tài sản, 75.000 dặm tài sản phân phối, 6.700
mega watt, và 12.000 nhân viên.
Năm 2003
- Ngày 11/7, Enron đề xuất kế hoạch cơ cấu lại công ty.
Năm 2004
- Ngày 06/01, Tòa án New York phê duyệt đề xuất cơ cấu lại của Enron.
Theo kế hoạch này, chủ nợ sẽ nhận được $ 11000000000 bằng tiền mặt và chứng
khoán.
- Ngày 11/02, J. Skilling bị bắt với 35 tội danh gian lận, giao dịch nội gián,
…
- Ngày 07/7, cựu CEO Kenneth Lay bị truy tố bởi Tòa án Hoa Kỳ.
Năm 2005
Các Tòa án tối cao phán quyết về mặt lý thuyết Andersen miễn tội để tiếp
tục hoạt động. Tuy nhiên thiệt hại mà vụ Enron mang đến đã khiến cho nó không
còn có thể hoạt động được nữa kể cả với quy mô hạn chế.
3. Hậu quả
Bài tập lớn môn: Quản trị công ty
Trang 24
Học viên: Lê Kim Hoàng
Lớp: QLKT 2015 Lớp 3
3.1. Enron
Những người chịu thiệt hại nặng nề nhất chính là các cổ đông và nhân
viên của công ty.
- Giá cổ phiếu của Enron lên đến đỉnh cao 90 đô la vào tháng 8/2000. Một
năm sau đó, vào tháng 10/2001 công ty thông báo lỗ 638 triệu USD trong quý
3/2001 và giá trị vốn cổ đông giảm 1,2 tỉ USD. Dự kiến các chủ nợ sẽ thu hồi
được 1/5 số tiền 74 tỉ USD của họ.
- 17.000 nhân viên của Enron sẽ mất tiền hưu trí của họ. Tuy Enron tuyên
bố dành riêng 200 triệuUSD để chuyển trách nhiệm lương hưu sang các công
ty bảo hiểm, chính phủ cho biết số tiền này chắc chắn không đủ.
- Các cổ đông sẽ mất toàn bộ giá trị cổ phiếu.
- Tài sản của Enron được đem bán đấu giá để trả nợ, thu được khoảng 11
tỉ.
3.2. Arthur Andersen
Ngay sau khi bị kết tội, Andersen lập tức phải đối mặt với hàng loạt vụ kiện
khác, với tổng số thiệt hại của khách hàng lên tới 300 tỉ USD.
Andersen phá sản, hàng loạt các cuộc thương lượng mua bán diễn ra.
KPMG đồng ý thu nạp 23 chi nhánh "ở ngoài nước Mỹ" của Andersen với cái giá
rẻ mạt là 284 triệu USD năm 2002. Andersen Việt Nam được KPMG mua lại với
hợp đồng trong đó có điều khoản đảm bảo việc làm cho toàn bộ nhân viên hiện có
của Andersen Việt Nam.
Một trong ngũ đại gia là Ernst & Young đã chiếm được phần lớn những
khách hàng và chuyên gia của Andersen ở Mỹ.
Các công ty nhỏ hơn cũng kiếm được phần chia. Công ty tư vấn Hitachi
Consulting của Nhật thuê lại 400 chuyên gia của Andersen, một trong số đó đến
nay đã trở thành Tổng Giám đốc của Hitachi Consulting.
Đó là kết cục của Arthur Andersen, một công ty kiểm toán hàng đầu thế
giới, với 85.000 chuyên gia và 89 năm lịch sử, đến nay chỉ còn không đầy 200
Bài tập lớn môn: Quản trị công ty
Trang 25