Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Vùng đất bến tre trong các thế kỷ XVII XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.84 KB, 20 trang )

Vuứng ủaỏt Beỏn Tre
trong caực theỏ kyỷ XVII
XIX
o th nhan


DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài:
Bến Tre là vùng đất gắn liền với quá trình lòch sử khai phá vùng đất Nam Bộ.
Nơi đây, mỗi tên đất, tên người, mỗi xóm làng, hàng cây, bến nước ngày nay đều có một
sự nối tiếp gắn liền với quá khứ xa xưa.
Bến Tre ở trong lòng Nam Bộ, giữa đồng bằng sông Cửu Long, là vùng đất máu
thòt của Việt Nam, cũng chính là nơi tôi đã được sinh ra và lớn lên.
Từ khi Bến Tre được hình thành, trên vùng đất này đã diễn ra nhiều thay đổi,
người dân nơi đây đã làm nên nhiều kỳ tích bảo vệ và xây dựng quê hương.Vùng đất
Bến Tre đã có một chiều dài lòch sử gắn với quá trình dựng nước và giữ nước của dân
tộc.
Đồng bằng sông Cửu Long có tầm quan trọng đặc biệt đối với công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước ta trong quá khứ, hiện tại và tương lai, là đối tượng nghiên
cứu có sức hấp dẫn lớn đối với nhiều ngành khoa học. Đây là một vùng đất mới giàu
tiềm năng về mọi mặt, có lòch sử hình thành gắn liền với những giai đoạn lòch sử quan
trọng của dân tộc, một vùng đất còn được mệnh danh “vùng đất vàng” chứa đựng nhiều
bí ẩn cần khám phá và khai thác, chứa đựng nhiều bài học quá khứ giúp chúng ta nhận
thức được hiện tại và đònh hướng phát triển cho tương lai.
Ở góc độ lòch sử, khoa học, việc nghiên cứu tổng thể về đồng bằng sông Cửu
Long cần phải dựa trên nhận thức cụ thể về lòch sử của từng vùng. Mỗi vùng đất tạo nên
một diện mạo, một sắc màu, làm nên một bức tranh lòch sử của cả đồng bằng sông Cửu
Long. Có thể nói một cách hình ảnh rằng, với những nét riêng của mỗi vùng đất, làm nên
vẻ đẹp toàn cảnh của đồng bằng sông Cửu Long, như dáng lá, màu hoa là vẻ đẹp của các
nhánh cây trên cùng một cội. Bến Tre có mối quan hệ khăng khít lâu đời với nội vùng và
ngoại vùng đồng bằng sông Cửu Long,vì vậy chúng tôi chọn Bến Tre làm đòa bàn nghiên


cứu cụ thể để có thêm những nhận thức mới về Nam Bộ nói chung và đồng bằng sông
Cửu Long nói riêng.
Việc tìm hiểu, nghiên cứu lòch sử của vùng đất cũng là một nhòp cầu gửi gắm tình
cảm đối với quê hương. Qua luận văn này, chúng tôi hy vọng giúp thế hệ trẻ Bến Tre
hiểu biết thêm về lòch sử hình thành của quê hương mình, về công cuộc khai phá xây
dựng và bảo vệ vùng đất này của ông cha từ đời xưa. Hiểu biết để trân trọng và đền đáp
công ơn của lớp người đi trước, những người đã đổ mồ hôi và cả xương máu để biến nơi
này vốn hoang vu, bạt ngàn rừng rậm thành ruộng vườn trù phú xanh tươi, thành xóm
làng đông vui no ấm… Chúng tôi cũng mong lớp trẻ hiểu biết để thêm yêu quê hương,
yêu xóm làng, gắn bó và có trách nhiệm với quê hương. Tìm về quá khứ, cội nguồn
chính là thêm động lực tinh thần để củng cố bản lónh đấu tranh và sáng tạo, có thái độ
đúng đắn và việc làm hữu ích để góp phần vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ quê hương
mình.


Với luận văn này, tôi cũng muốn khám phá kỹ hơn về một vùng đất vốn là xứ sở
sông nước cù lao, để khẳng đònh sự đóng góp của cư dân nơi này vào lòch sử dân tộc và
lòch sử Nam bộ.
Tôi muốn tìm hiểu vùng đất này để góp phần dựng lại bức tranh của Bến Tre như
một sắc màu của bức tranh về đất nước, dựa vào những nhận thức lòch sử, những tìm tòi
khám phá và coi đây là món quà trân trọng dâng tặng quê hương yêu dấu của tôi.
Với những lý do đó, tôi chọn đề tài luận văn là “Vùng đất Bến Tre trong các thế
kỷ XVII - XIX”.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Với đối tượng nghiên cứu được nêu rõ trong tên đề tài, luận văn này sẽ tìm hiểu
mọi lónh vực chính trò, kinh tế, văn hóa, xã hội của Bến Tre, góp phần dựng lại bức tranh
toàn cảnh về đất và người Bến Tre trong suốt một chiều dài lòch sử, từ thế kỷ XVII khi
bắt đầu có những bước chân khai phá của lưu dân người Việt ở vùng đất này, cho đến thế
kỷ XIX, trước cuộc khai thác thuộc đòa lần thứ nhất của thực dân Pháp.
Vùng đất ngày nay được gọi là Bến Tre vào thời chúa Nguyễn, đến khi thực dân

Pháp xâm lược thuộc đòa giới tỉnh Vónh Long. Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu bức
tranh toàn diện thuộc phạm vi không gian đòa giới tỉnh Bến Tre ngày nay.
3. Lòch sử nghiên cứu vấn đề và nguồn sử liệu:
3.1. Lòch sử nghiên cứu vấn đề:
Bến Tre được hình thành trong tiến trình lòch sử khai phá vùng đất Nam bộ.
Nguồn sử liệu và công trình nghiên cứu vùng đất Nam bộ rất phong phú, nhưng hầu như
chưa có công trình chuyên khảo nào dựng lại bức tranh toàn cảnh của vùng đất Bến Tre
từ thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX. Có thể điểm lại vài nét về nguồn tư liệu đã đề cặp
tới Bến Tre như sau:
Nguồn thư tòch cổ:
Bộ sách Phủ biên tạp lục được Lê Quý Đôn (1726 – 1783) viết vào khoảng năm
1776, khi ông được vua Lê phái đi trấn nhiệm Thuận Hoá và Quảng Nam. Lòch sử về
vùng đất Bến Tre thời kỳ này được đề cập đến với tên gọi chung là vùng sông Tiền sông
Hậu. Đây là nguồn thư tòch được viết vào thời điểm diễn ra công cuộc mở đất về phương
Nam, có những dòng sử liệu rất quý về cảnh quan đòa lý, tài nguyên, dân cư của Nam Bộ
khi chưa khai phá, những biến động về kinh tế, chính trò và thành quả bước đầu của chính
quyền chúa Nguyễn trong quá trình mở đất.
Tác phẩm Gia Đònh thành thông chí do Trònh Hoài Đức (1765 – 1825) được viết
dưới triều vua Gia Long (1802 – 1820). Tác giả mô tả kỹ về núi sông Nam Bộ, nên có
thể xem đây là cuốn sách đòa lý, lòch sử đầu tiên về Nam Bộ. Vùng đất Bến Tre được đề
cập đầu tiên trong mục “Trấn Vónh Thanh”. Bộ sách này có những tư liệu liên quan đến
vùng đất Bến Tre về nhiều mặt: Vò trí, giới hạn, tên các phủ, huyện, tổng, xã, thôn,
phong tục, tín ngưỡng, quần áo, nhà cửa, hội hè, tình hình làm ruộng lúa, tài nguyên sản


vật, các đền chùa, các cầu chợ, đồn lũy… Ngoài ra tác phẩm còn đề cập quá trình mở đất
về phía Nam, việc bang giao với hai nước láng giềng Cao Miên, Xiêm La, cuộc khởi
nghóa Tây Sơn và việc Nguyễn Ánh khôi phục quyền thống trò của các chúa Nguyễn
Bộ sách Đại Nam liệt truyện: gồm hai phần là Tiền biên và Chính biên, là công
trình biên soạn của triều Nguyễn, cơ quan chòu trách nhiệm là Quốc sử quán triều

Nguyễn. Bộ sách này ghi lại những sự kiện chủ yếu trong các triều vua, cung cấp những
tư liệu quan trọng giúp chúng ta hiểu những nét đại cương nhất về mục đích, nội dung,
chủ trương chính sách khẩn hoang dưới triều Nguyễn, cũng như những thành quả đạt
được trong công cuộc khẩn hoang vùng đất Nam bộ trong đó có Bến Tre.
Bộ sách Minh Mệnh chính yếu , được Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn vào
năm 1837 gồm 26 quyển, nội dung ghi chép những việc làm thiết yếu dưới triều Minh
Mệnh: Những chỉ vụ của vua, sinh hoạt cung đình, hình luật, lễ nhạc, ngoại giao, trò an,
tiến trình và những chính sách khẩn hoang. Qua bộ sách này, tài liệu gốc về chính sách
khẩn hoang, thuế, tổ chức cai trò… Ở Nam bộ trong đó có Bến Tre được ghi chép kỹ càng,
là nguồn tư liệu lòch sử cần thiết để tác giả luận văn tham khảo.
Bộ Đại Nam nhất thống chí là bộ sách đòa lý lòch sử, được biên soạn vào năm Tự
Đức 29 (1875) hoàn thành khoảng năm 1881. Vùng đất Bến Tre được nói đến ở phần
Tỉnh Vónh Long, Tỉnh Đònh Tường với các mục như: Hình thể, ranh giới các huyện, phủ,
sông, biển, khí hậu, thành trì, phong tục, hộ khẩu, thuế khoá, chợ quán, dòch trạm, cầu
đường, chùa miếu, thổ sản, đê đập, cổ tích, nhân vật lòch sử. Nguồn thư tòch này là tài
liệu có ích cho việc nghiên cứu về vùng đất Bến Tre.
Thư tòch cổ đề cập tới vùng đất Bến Tre một cách tổng quan là nguồn sử liệu
quan trọng giúp tôi hiểu một số đặc trưng của vùng đất này trong mối quan hệ tổng thể
với cả Nam bộ. Loại sách này đề cập, ghi chép về Bến Tre nằm giữa đồng bằng sông
Cửu Long, cung cấp thông tin tổng quát về các mặt đòa lý, lòch sử, tài nguyên, con
người… Nhưng chưa có những chi tiết về một đòa bàn cụ thể và còn thiếu những tư liệu
điền dã.
Trong thời cận đại và hiện đại, nhiều công trình nghiên cứu về lòch sử Bến Tre
hoặc đề cập đến Bến Tre đã được công bố.
Năm 1930, người Pháp công bố cuốn Monographie De La Province De Bến Tre
(Đòa phương chí tỉnh Bến Tre). Chúng tôi sử dụng bản dòch của Nguyễn Văn Bá, Dương
Xuân Đính, tài liệu ronéo của Ban nghiên cứu lòch sử Đảng Bến Tre năm 1980. Tài liệu
này trình bày có hệ thống về vò trí đòa lý, tự nhiên, sông ngòi , khí hậu, thủy lợi, tình hình
kinh tế, cây trồng, nhưng nhìn chung còn sơ lược, chưa dựng lại bức tranh toàn cảnh của
vùng đất Bến Tre, ở một mức độ nào đó cũng là nguồn tài liệu tham khảo.

Trong những năm 60, hàng loạt “sách khảo cứu các tỉnh, thành năm xưa” ở Nam
của tác giả Huỳnh Minh. Ba cuốn sách: Kiến Hoà (Bến Tre) xưa, Vónh Long xưa, Đònh
Tường xưa, xuất bản năm 1965, đã đề cập đến Bến Tre, trong đó tác giả Huỳnh Minh
trình bày diện mạo vùng đất Bến Tre qua các mặt lòch sử, đòa lý, nhân vật, giai thoại,


huyền thoại, di tích, thắng cảnh, cây dừa, đòa danh năm xưa. Phần dành cho các thế kỷ
XVII còn ít và sơ lược, nhưng cũng giúp người đọc có những hiểu biết và tình cảm sâu
sắc đối với vùng đất cù lao sông nước này.
Ngoài ra, cần phải nhắc đến cuốn sách viết về Bến Tre khá hay: Tỉnh Bến Tre
trong lòch sử Việt Nam từ năm 1757 đến 1945 của tác giả Nguyễn Duy Oanh, Phủ Quốc
Vụ Khanh Sài Gòn xuất bản năm 1971. Tác giả đã có những đóng góp nhất đònh, khắc
hoạ được bức tranh toàn cảnh Bến Tre. Tuy nội dung còn sơ lược, nhưng có thể tìm được
những tư liệu về vùng đất Bến Tre trên các lónh vực đòa lý, lòch sử, kinh tế, giáo dục, y tế,
tổ chức hành chánh của chính quyền họ Nguyễn và thực dân Pháp, một số phong trào
đấu tranh chống thực dân Pháp, một số nhân vật lòch sử.
Đề cập về đất và người Bến Tre còn có Ba Tri đất và người, do Ban chấp hành
Đảng Bộ huyện Ba Tri xuất bản năm 1984, trong đó có một số thông tin về những nhân
vật lòch sử tiêu biểu gắn bó với Ba Tri, những đòa danh từng có những chiến công oanh
liệt của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp, một số ngành nghề truyền thống
và một ít di tích văn hóa của Ba Tri, về hát sắc bùa Phú Lễ.
Năm 1987, sau hai năm điều tra khảo sát và nghiên cứu công trình Đòa chí Bình
Đại do Ủy Ban nhân dân huyện Bình Đại tỉnh Bến Tre xuất bản. Đây là loại sách đòa
phương chí viết về vùng đất Bình Đại (cù lao An Hoá), trong đó có thể tìm thấy một số tư
liệu về đòa lý, lòch sử, dân cư, kinh tế, văn hóa, giáo dục, truyền thống đấu tranh của
nhân dân Bình Đại trong các thế kỷ XVII - XIX.
Đáng chú ý là tác phẩm Đòa chí Bến Tre, do các tác giả Thạch Phương, Đoàn Tứ
chủ biên, cùng nhiều cộng tác viên trong các ngành khoa học khác nhau, do nhà xuất bản
KHXH.HN, năm 2001. Đây là một cuốn sách có giá trò về Bến Tre, một công trình
nghiên cứu tỉ mỉ, công phu là thành quả kết tinh của trí tuệ tập thể nhiều người thuộc

nhiều ngành nghề khác nhau, miêu tả nhiều mặt diện mạo Bến Tre, là nguồn tư liệu quý
mà chúng tôi có thể kế thừa, trên cơ sở hình thành một cách tiếp cận mới từ góc độ sử
học.
Ngoài ra còn có những công trình sưu tầm nghiên cứu chuyên sâu đề cập đến một
số lónh vực nào đó như: Dân ca Bến Tre (Lư Nhất Vũ, Lê Giang, Ty văn hóa thông tin
Bến Tre xuất bản 1981); Văn học dân gian Bến Tre (Nguyễn Phương Thảo, Nhà xuất bản
KHXH HN 1988); Ba Tri đất và người (Ban chấp hành Đảng Bộ huyện Ba Tri xuất bản
1984); hát sắc bùa Phú Lễ Ba Tri – Bến Tre (Huỳnh Ngọc Trảng, Nhà xuất bản TP. HCM
1992); Lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng (Nguyễn Văn Châu, Sở Văn hóa thông tin thể thao
Bến Tre 1994); Tuyển tập văn học chữ viết Bến Tre (Nguyễn Chí Bền, Nhà xuất bản
KHXH.HN 1996); Tìm hiểu một số hiện tượng văn hóa dân gian Bến Tre (Nguyễn Chí
Bền, Nhà xuất bản KHXH.HN 1997);Lòch sử những ngôi chùa Phật huyện Châu Thành
tỉnh Bến Tre (Nhà xuất bản Tôn Giáo 2001); Tang lễ người già (Lư Văn Hội sưu tầm,
chuyên khảo trên đòa bàn tỉnh Bến Tre, Sở Văn hóa thông tin Bến Tre xuất bản 2002);
Đất cù lao (Huy Khanh, Hội Văn học nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu Bến Tre 2003);
Lòch sử Đảng Bộ tỉnh Bến Tre 1930 – 2000 (Nhà xuất bản chính trò Quốc Gia 2003). Đây


là nguồn tài liệu tham khảo rất quý, dựa vào nguồn tài liệu này ta tìm hiểu phần nào về
tình hình kinh tế, chính trò, xã hội, đời sống văn hóa vùng đất Bến Tre trong các thế kỷ
XVII - XIX.
Cuốn sử học số 2 - Những vấn đề khoa học lòch sử ngày nay (Nhà xuất bản Đại
học và Trung học chuyên nghiệp 1982) tập hợp những bài viết về các vấn đề lòch sử của
Nam Bộ, trong đó có Bến Tre như bài viết: Khẩn hoang khu vực Mỹ Tho thuộc trấn Đònh
Tường và Bến Tre thuộc dinh Long Hồ trong thế kỷ XVII, XVIII và đầu thế kỷ XIX tác giả
Lê Quang Minh, cho biết rõ về đặc điểm đất đai, công cuộc khẩn hoang, hình thành thôn
xóm, một số thành tựu khẩn hoang vùng đất Bến Tre trong các thế kỷ XVII, XVIII, XIX.
Đây là nguồn tư liệu quan trọng đề cập đến Bến Tre trong giai đoạn lòch sử này.
Đòa bạ triều Nguyễn phần Vónh Long (Vónh Long, Bến Tre, Trà Vinh), được xác
lập vào năm 1836 dưới triều Minh Mạng thứ 17, khi ấy vùng đất Bến Tre còn thuộc Vónh

Long. Nhà sử học Nguyễn Đình Đầu đã có nhiều công sức nghiên cứu sưu tập Đòa bạ vó
đại này. Sách do nhà xuất bản TP.HCM xuất bản năm 1994. Đòa bạ Vónh Long có 111
tập gồm 360 quyển Đòa bạ (bao gồm Vónh Long, Bến Tre, Trà Vinh). Đây là nguồn tư
liệu quý để tác giả luận văn có thể so sánh, đối chiếu về vò trí, ranh giới, trên các thôn,
tổng, phủ, huyện, về cơ cấu sử dụng đất đai, tỷ lệ giữa diện tích canh tác với diện tích cư
trú, tổng số ruộng đất thực canh cũng như ruộng hoang hoá, vấn đề thuế, cây trồng và
những vấn đề kinh tế – xã hội khác.
Văn hóa dân gian Nam Bộ những phác thảo, là tập hợp công trình nghiên cứu của
tác giả Nguyễn Phương Thảo (Nhà xuất bản giáo dục 1994), là nguồn tư liệu khá phong
phú. Dựa vào nguồn tài liệu này tôi khai thác được phần nào sự hình thành và phát triển
nghề làm vườn, văn hóa miệt vườn, một số mảng văn học dân gian, lễ hội ở Bến Tre,
một số đặc điểm cấu thành đòa danh ở Bến Tre.
Lòch sử tỉnh Vónh Long 1732 – 2000, Ban Tuyên Giáo tỉnh ủy Vónh Long biên
soạn (Nhà xuất bản chính trò quốc gia Hà Nội, năm 2002). Đây là nguồn tư liệu quan
trọng đề cập đến vùng đất Bến Tre, vì trong các thế kỷ XVII, XVIII, XIX Bến Tre thuộc
Vónh Long. Dựa vào nguồn tài liệu này tôi tìm hiểu về cội nguồn lòch sử vùng đất Bến
Tre, tổ chức cai trò của các chúa Nguyễn - vua Nguyễn, đồng thời có cái nhìn tổng thể về
tình hình kinh tế, chính trò, xã hội, văn hóa, giáo dục, các phong trào đấu tranh của nhân
dân chống áp bức cường quyền và chống ngoại xâm.
Các công trình nghiên cứu đã được công bố như: Kết quả khai quật đòa điểm khảo
cổ học Ba Vát (huyện Mỏ Cày – Bến Tre năm 2003); Kết quả khai quật di chỉ Giồng Nổi
(xã Bình Phú, thò xã Bến Tre năm 2003) do Viện khảo cổ học kết hợp với Viện bảo tàng
tỉnh Bến Tre thực hiện năm 2003, là nguồn tư liệu khảo cổ học vô cùng quý giá về giai
đoạn Sơ sử đã từng tồn tại trên vùng đất Bến Tre.
Các ấn phẩm như: Tập san sử đòa số 19/20/1969; Tạp chí Xưa và Nay (nhà xuất
bản TP.HCM năm 1998), đăng các công trình nghiên cứu về các cuộc di dân của người
Việt từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX, “quá trình mở đất về phương Nam” của dân
tộc Việt Nam, việc khẩn hoang ở Nam Kỳ dưới triều Nguyễn và những thành quả của



công cuộc khẩn hoang, lòch sử vùng đất Nam Bộ trong đó có Bến Tre…Đây là một nguồn
thông tin tham khảo hết sức phong phú.
Công trình nghiên cứu của một số tác giả có đề cập đến “quá trình Nam tiến”
của dân tộc: Tác giả Đào Văn Hội Lòch trình hành chánh Nam phần (1961); Phan Khoang
với Việt sử xứ Đàng Trong (1966); Nguyễn Đình Đầu với giới Việt Nam quốc hiệu và
cương vực qua các thời đại (1997); Nguyễn Quang Ân trong Việt Nam những thay đổi đòa
danh và đòa giới (2003); Vũ Huy Phúc trong Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu
thế kỷ XIX (1979). Nguồn tư liệu tham khảo này giúp tôi có thêm thông tin về những bước
đi của dân tộc Việt Nam về phương Nam thời các chúa Nguyễn – Vua Nguyễn, tiến trình
xác lập chủ quyền và tổ chức hành chánh trên đất Nam Bộ, một số chính sách khẩn
hoang đất Nam Bộ trong đó có Bến Tre.
Sau năm 1975, Nam Bộ trở thành đối tượng quan tâm, sưu tầm, nghiên cứu của
các cơ quan nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Một loạt sách về Nam Bộ,
đồng bằng sông Cửu Long được ra mắt bạn đọc. Sau một thời gian nghiên cứu, qua thập
kỷ 80, 90, các nhà khoa học liên tiếp công bố những công trình đi sâu tìm hiểu về một số
lãnh vực của Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Năm 1982, Lê Anh Trà và Trường
Lưu công bố công trình Mấy đặc điểm văn hóa đồng bằng sông Cửu Long. Năm 1987,
Huỳnh Lứa chủ biên và công bố công trình Lòch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, đến năm
2000, tác giả Huỳnh Lứa với Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỷ XVII, XVIII,
XIX. Năm 1990, Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường công bố công trình Văn
hóa dân gian và cư dân đồng bằng sông Cửu Long. Năm 1991, Mạc Đường viết Vấn đề
dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long. Năm 1992, Thạch Phương, Hồ Lê, Huỳnh Lứa,
Nguyễn Quang Vinh đã cho ra mắt bạn đọc công trình Văn hóa dân gian người Việt ở
Nam Bộ. Năm 1993, Huỳnh Ngọc Trảng, Hồ Tường, Trương Ngọc Tường công bố công
trình Đình Nam Bộ, tín ngưỡng và nghi lễ. Trong những năm 90, tác giả Sơn Nam cho ra
mắt bạn đọc một số tác phẩm Đồng bằng sông Cửu Long nét sinh hoạt xưa (1993), Lòch sử
khẩn hoang miền Nam (1994), Đất Gia Đònh xưa (1997), Cá tính miền Nam (1997), Ấn
tượng 300 năm (1998). Năm 1993 Phan Thò Yến Tuyết với Nhà ở trang phục ăn uống của
các dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long. Năm 1997, Nguyễn Đăng Duy cho ra mắt cuốn
Văn hóa tâm linh Nam Bộ. Năm 1998, Huỳnh Ngọc Trảng tiếp tục công bố công trình Ca

dao dân ca Nam Kỳ lục tỉnh. Năm 1997, cần phải kể đến công trình sưu tầm và biên soạn
của khoa Ngữ văn trường Đại học sư phạm Cần Thơ, đó là tác phẩm Văn học dân gian
đồng bằng sông Cửu Long. Gần đây, cần phải nhắc tới công trình nghiên cứu văn hóa
Nam Bộ được công bố năm 2003: Hồ Bá Thâm với Văn hóa Nam Bộ vấn đề và phát triển.
Năm 2003, Huỳnh Quốc Thắng có tác phẩm Lễ hội dân gian Nam Bộ. Ngoài ra, còn phải
nhắc đến những công trình về tình hình ruộng đất ở Nam Bộ như: Trần Thu Lương trong
Chế độ sở hữu canh tác ruộng đất ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XIX (1994). Nguyễn Đình
Đầu với Chế độ công điền công thổ trong lòch sử khẩn hoang lập ấp ở Nam kỳ lục tỉnh
(1999).
Thời gian trong vài năm gần đây, chúng tôi được tiếp cận một số công trình khoa
học cung cấp những thông tin về Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long trong đó có Bến


Tre như: Kỷ yếu hội thảo Nam Bộ và Nam Trung Bộ những vấn đề lòch sử thế kỷ XVII –
XIX, trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh năm 2002 với các bài viết như:
“Nhìn lại việc khai phá của người Việt trên đất Gia Đònh thế kỷ XVII, XVIII” của tác giả
Trần Thò Thanh Thanh; “Bối cảnh của quá trình mở đất về phía Nam của người Việt thế kỷ
XVII, XVIII” tác giả Ngô Minh Oanh; “Đồng bằng sông Cửu Long thế kỷ XVII – XIX với
sự ra đời các tôn giáo đòa phương vào thế kỷ XIX” tác giả Bùi Thò Thu Hà. Một tập sách
có giá trò vừa được xuất bản “Theo dòng lòch sử dân tộc”, tập hợp những bài nghiên cứu
lòch sử của phó giáo sư sử học Nguyễn Phan Quang, chúng tôi cũng khai thác nhiều thông
tin từ nguồn tư liệu này bổ sung việc nghiên cứu các phong trào đấu tranh của nông dân
thế kỷ XVII – XIX, vấn đề thương nhân người Hoa trên thò trường lúa gạo Nam Kỳ, tìm
hiểu về những bậc danh nhân có học vấn uyên thâm của Bến Tre đó là Phan Thanh Giản
và Trương Vónh Ký.
Nhìn chung, các tác giả đã viết về quá trình khai phá vùng đất Nam Bộ và đồng
bằng sông Cửu Long, về cội nguồn lòch sử vùng đất, đã phản ánh diện mạo phong phú đa
dạng, đời sống của cư dân Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long, giúp chúng tôi nhận ra
cái chung trong cái riêng, cái riêng trong cái chung, nhận rõ tính thống nhất của Nam Bộ
và đồng bằng sông Cửu Long. Tuy mức độ đề cập có khác nhau tuỳ theo từng tác giả,

nhưng vùng đất Bến Tre được nhắc tới như một cứ liệu, một ví dụ, để kiến giải những
vấn đề lớn hơn về kinh tế – văn hóa – xã hội. Các tác giả không chọn Bến Tre làm đối
tượng nghiên cứu của mình, nhưng Bến Tre có mặt trong những trình bày, kiến giải về
toàn bộ Nam Bộ hoặc đồng bằng sông Cửu Long. Đây là nguồn tư liệu rất phong phú mà
tác giả luận văn có thể kế thừa.
Như vậy, từ thời xưa đến nay vùng đất Bến Tre đã được đề cập đến trong nhiều
loại sách vỡ với nhiều hình thức nghiên cứu từ đòa lý lòch sử, đòa phương chí đến các công
trình chuyên khảo tổng quát. Tuy nhiên, vẫn cần có một công trình chuyên sâu về Bến
Tre trong các thế kỷ XVII – XIX, để vẽ lên được một diện mạo cụ thể, một bức tranh
toàn cảnh làm cơ sở cho những hoạch đònh về văn hóa – xã hội của tỉnh.
3.2. Nguồn sử liệu:
Tài liệu sử dụng để hoàn thành luận văn có thể chia làm nhiều nguồn khác
nhau
* Nguồn sử liệu thành văn: Bao gồm các thư tòch cổ, gia phả, các tác phẩm,
công trình nghiên cứu, các sách chuyên khảo, những tư liệu trên các tạp chí, các kỷ yếu
hội thảo khoa học.
* Nguồn sử liệu vật chất: Bao gồm các di tích lòch sử và công trình kiến trúc
còn lại ở đòa phương như đình, chùa, đền miếu, lăng thờ cá Ông, mộ, những ngôi nhà xưa
được xây dựng trong các thế kỷ XVII - XIX, các di vật đồ gốm, đồ sứ, đồ đá, đồ xương ở
viện Bảo Tàng tỉnh. Tất cả là nguồn tư liệu hiện vật sinh động và cụ thể giúp tôi hình
dung những nét sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng và đời sống cư dân vùng đất Bến
Tre.


* Nguồn sử liệu truyền miệng: Là những câu chuyện, kết quả phỏng vấn qua
quá trình nghiên cứu điền dã của tác giả luận văn từ các vò cao niên ở đòa phương cùng
các cán bộ ở phòng văn hóa thông tin, ban Tuyên giáo các huyện thò kể lại những câu
chuyện có nội dung rất lý thú và phong phú về: ăn, mặc, ở, đi lại, đánh bắt tôm cá, phong
tục tạp quán…. Bên cạnh còn được nghe các hòa thượng ở chùa Hội Tôn Cổ Tự huyện
Châu Thành, chùa Huệ Quang ở Giồng Trôm, các cha sở ở nhà thờ Cái Mơn (Chợ Lách),

Cái Bông (Ba Tri), đã cung cấp cho tôi nhiều nguồn tư liệu về sự ra đời và quá trình phát
triển của Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo trên vùng đất Bến Tre. Tất cả những nguồn tư liệu
này đều được sử dụng.
* Nguồn sử liệu từ những lễ hội: lễ hội thể hiện sinh hoạt văn hóa tinh thần
của cư dân vùng đất Bến Tre. Tác giả luận văn tham dự những lễ hội, qua đó nghiên cứu
tìm hiểu về phong tục tập quán ở hai khu vực ngành nghề của cư dân: “Miệt ven biển”
chủ yếu là đánh bắt hải sản ngoài biển, ven cửa sông và “Miệt vườn”, “Miệt giồng”
sống bằng nghề trồng lúa nước, làm vườn và trồng giồng.
Nguồn tư liệu nói trên rất phong phú, có thể làm cơ sở nghiên cứu, triển khai
vấn đề sâu sắc hơn. Trên tinh thần kế thừa, tiếp thu học tập những người đi trước, tác giả
luận văn đã tập hợp những tài liệu có liên quan, từ tài liệu thư tòch cổ đến những tài liệu
thời cận, hiện đại, tìm hiểu, so sánh, phân tích, bổ sung một cách kỹ lưỡng, có hệ thống
nhằm dựng lại bức tranh toàn cảnh vùng đất Bến Tre trong các thế kỷ XVII – XIX.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu
sau:
4.1 Phương pháp tiếp cận hệ thống:
Bến Tre được đặt trong bối cảnh chung của khu vực Nam bộ và lòch sử dân tộc để
nghiên cứu. Vùng đất Bến Tre vừa tham gia vừa chòu sự tác động của những biến chuyển
trong lòch sử phát triển đất Nam bộ. Vì thế khi tìm hiểu các vấn đề lòch sử nói chung cũng
như vấn đề phục dựng bức tranh toàn cảnh vùng đất Bến Tre nói riêng, chúng tôi cố gắng
xem xét nó trong hoàn cảnh, điều kiện và các mối quan hệ cụ thể. Phương pháp tiếp cận
hệ thống là cơ sở nghiên cứu các vấn đề trình bày trong luận văn.

4.2 Phương pháp so sánh
Ở một chừng mực nhất đònh, chúng tôi có sự đối chiếu, so sánh Bến Tre với
những vùng đất khác, để thấy tiến trình lòch sử của đất và người Bến Tre vừa có những
nét chung, vừa có những nét đặc thù.
4.3. Phương pháp khảo sát điền dã:
Trực tiếp khảo sát, tiếp xúc với các di tích hiện vật lòch sử (đình, chùa, lăng,

miếu…), sưu tầm gia phả, phỏng vấn một số người dân đòa phương, các cụ già, sưu tầm


những chuyện kể, sưu tầm tài liệu trong các thư viện, một số cơ quan ban ngành tỉnh
huyện, trong các chùa Phật, các nhà thờ Thiên Chúa giáo.
4.4. Phương pháp lòch sử, phương pháp lôgic:
Là một đề tài lòch sử, luận văn chú trọng kết hợp phương pháp lòch sử và phương
pháp lôgic. Ngoài việc phân tích, so sánh mối liên hệ giữa các sự kiện lòch sử. Việc trình
bày các luận điểm trên cơ sở sự phát triển của những sự kiện lòch sử theo trình tự thời
gian được kết hợp với việc nắm bắt quan hệ biện chứng nhân quả của sự vật, hiện tượng
để khái quát, nêu nhận đònh, kết luận rút ra từ các sự kiện.
5. Đóng góp của luận văn:
Thực hiện đề tài “Vùng đất Bến Tre trong các thế kỷ XVII - XIX”, chúng tôi hy
vọng có thể đóng góp một số nội dung sau:
- Phác họa một bức tranh toàn cảnh về vùng đất này dựa trên những kết quả
nghiên cứu khoa học.
- Góp phần cung cấp thêm những thông tin lòch sử đòa phương nhằm bổ sung nhận
thức về vùng đất này.
- Những kiến giải, phân tích, lập luận của luận văn thể hiện sự nghiên cứu
nghiêm túc, khoa học có ý nghóa nhất đònh về khoa học và thực tiễn.
- Từ đó góp phần giáo dục thế hệ trẻ tình yêu quê hương, gắn bó với quê hương,
có ý thức và hành động xây dựng bảo vệ quê hương.
6. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần dẫn luận, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn gồm bốn
chương:
- Chương I: Lòch sử hình thành vùng đất Bến Tre trong các thế kỷ XVII - XIX
- Chương II: Diện mạo kinh tế–xã hội vùng đất Bến Tre trong các thế kỷ XVII –
XIX
- Chương III: Diện mạo văn hoá vùng đất Bến Tre trong các thế kỷ XVII – XIX
- Chương IV: Tổng quan về đất và người Bến Tre



CHƯƠNG I
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÙNG ĐẤT BẾN TRE
TRONG CÁC THẾ KỶ XVII - XIX
1. Vò trí đòa lý:
Bến Tre là một tỉnh thuộc vùng hạ lưu của đồng bằng sông Cửu Long, Bến Tre
nằm giữa các nhánh sông được bồi đắp bởi phù sa của 4 con sông: sông Tiền, sông Ba
Lai, sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên. Các sông này đã chia vùng đất Bến Tre thành 3
cù lao lớn: cù lao Minh, cù lao Bảo, cù lao An Hoá. Nhìn trên bản đồ, toàn tỉnh Bến Tre
có dạng của một hình tam giác (hay hình rẻ quạt), mà đỉnh nhọn nằm ở phía thượng
nguồn, đường đáy là bờ biển dài 65km, đường cao của tam giác theo hướng Tây Bắc –
Đông Nam dài khoảng 75km.
Bến Tre có toạ độ đòa lý 9048’ đến 11020’ Bắc, 105057’ đến 106048’độ Đông. Vò
trí này đã tạo cho tự nhiên Bến Tre tính chất nhiệt đới ẩm điển hình.
Đòa thế của Bến Tre nằm giữa hai vùng đất là Tiền Giang và Hậu Giang. Phía
Bắc giáp tỉnh Tiền Giang (sông Tiền là ranh giới tự nhiên), phía Nam giáp tỉnh Vónh
Long. Phía Tây giáp tỉnh Trà Vinh có sông Cổ Chiên làm ranh giới. Phía đông giáp biển
Đông với bờ biển dài 65km. Bến Tre cách thành phố Hồ Chí Minh 86km về phía Bắc.
Bến Tre là một tỉnh đồng bằng ven biển có diện tích 2322km2, đòa hình toàn
vùng bằng phẳng, thấp, rải rác có các giồng cát xen lẫn. Bến Tre không có núi đồi cũng
không có rừng lớn, hầu hết chỉ có các dãy rừng ngập mặn ven biển hoặc ven các cửa
sông.
2. Vài nét lòch sử kiến tạo và phát triển đòa chất:
Theo nguồn tài liệu từ sở Tài nguyên môi trường của Bến Tre, lòch sử phát triển
đòa chất của tỉnh Bến Tre gắn liền với quá trình hình thành và kiến tạo đòa chất của vùng
hạ lưu đồng bằng sông Cửu Long.
Các công trình nghiên cứu lòch sử trầm tích đồng bằng sông Cửu Long cho thấy từ
Paleogene (cận sinh), cách đây 70 triệu năm, trên nền đá Mosozic (trung sinh) một cuộc
biển tràn nhỏ làm cho một phần cực Nam của Bến Tre chìm xuống dưới nước mặn. Sau

đó vào Paleogene muộn (cách đây 40 triệu năm), biển rút ra, còn chừa lại trầm tích đất
liền thô hạt (trầm tích chứa nước ngọt đầu tiên ở độ sâu trên 1000m). Thời Neogene (Tân
sinh), cách đây 30 triệu năm, vào tuổi Miocene sớm, biển tiến lớn tràn ngập toàn bộ đồng
bằng sông Cửu Long, lan đến tận Phompênh. Đến Miocene giữa, trừ An Giang có móng
đá Bảy Núi cao, biển có lùi ra chút ít nhưng vẫn chiếm toàn bộ các tỉnh đồng bằng sông
Cửu Long. Đến Miocene muộn, biển lùi thật nhanh để lại trầm tích đất liền chứa nước
ngọt lần thứ hai. Tuy nhiên, đến thời Pliocene (cách đây 8 triệu năm), biển lại tiến phủ
lấp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, đưa nước mặn vào đột nhập phù sa nước ngọt
trước đó làm phá vóa nước ngầm kinh tế của khu vực sông Tiền. Cuộc biển tràn ấy chỉ


chấm dứt vào cuối Pliocene (cách đây 9-3 triệu năm), ở độ sâu 205m. Vào đầu
Plestocene (mực 205-185m), là giai đoạn biển lùi, thời Plestocene giữa ở Ba Tri có giai
đoạn biển tiến nhỏ, đến Plestocene muộn nằm sát bên dưới phù sa Holocene là giai đoạn
biển lùi khá rõ (105-90m), bắt đầu từ cách đây 33.000 năm đến cách đây 11.000 năm,
mực biển rút xuống mực 68m so với biển ngày nay.
Sự thành lập lãnh thổ Bến Tre hiện tại ở vào giai đoạn sau cùng của sự bồi tụ
đồng bằng sông Cửu Long, gắn liền với quá trình phân nhánh của sông Cửu Long. Đất
Bến Tre chỉ mới xuất hiện bên trên mặt biển từ khoảng 4.500 năm trở lại đây [64,183].
Trước tiên là một cồn cửa sông to lớn xuất hiện bên dưới Chợ Lách, rồi một số giồng
phát sinh tại nơi đầu cù lao mà dấu vết ngày nay còn nằm ở Nam Chợ Lách (Bến Tre) và
Vũng Liêm (Trà Vinh). Sau đó xuất hiện một cù lao lớn thứ hai ở Châu Thành, với các
lòng sông rộng tạo nên cửa sông Mỹ Tho với giồng cát biển phát sinh tại Thò xã Bến Tre.
Sông Ba Lai sinh ra từ đó và góp phần bồi tích cho đến ngày nay, cùng lúc với sông Hàm
Luông ở phía Tây và sông Tiền ở phía Đông. Ba con sông này lấn biển và bồi đất rất
nhanh chóng nên các giồng cát nằm san sát nhau. Trong hiện tại, các giồng cát là dấu vết
của bờ biển cổ. Dạng bờ biển trước kia cũng gần giống dạng bờ biển ngày nay. Do kiến
tạo động nên giồng biển mọc ra trước ở ngoài biển, bên trong là đầm mặn mới bồi nên
sau. Bồi tích nhanh của sông Mỹ Tho làm cho sông Ba Lai bò nghẽn ở phía đầu trên,
lượng nước yếu đi không tống nổi phù sa của sông Cửa Đại đang bít nghẽn phần đổ ra

biển, do vậy nó sẽ bò xoá.
Lòch sử kiến tạo đòa chất ở Bến Tre thû xa xưa tính từ đầu nguồn trở xuống là
đất phù sa trầm thuỷ cặp ven sông rừng rậm, giồng cát, rừng ngập mặn và bờ biển trên là
bãi cát dưới cửa sông là cát lẫn với phù sa.
Bến Tre thừa hưởng ưu đãi của sông Cửu Long, đất này là do sự cấu tạo mới từ
khối lượng phù sa của những con sông lớn bồi tụ hàng ngày – hàng năm, trải qua nhiều
thế kỷ, làm cho đất đai nơi nầy có một sự tổng hợp rất đặc biệt. Phù sa sông Cửu Long
cấu tạo hai cù lao Bảo và Minh thành một vùng phì nhiêu và đang ở trong chiều hướng
phát triển không ngừng.
Bảng tóm tắt lòch sử kiến tạo và phát triển đòa chất của Bến Tre.

Thời kỳ

Tình trạng biển
tiến, lùi

Hậu quả kiến tạo

Paleogene (Cận sinh)

Biển tiến nhỏ

một phần cực nam của Bến Tre chìm
xuống dưới nước mặn.

Paleogene (Muộn)

Biển rút ra

còn chừa lại trầm tích đất liền thô hạt.


Neogenne (tân sinh)

Biển tiến lớn

tràn ngập toàn bộ đồng bằng sông Cửu
Long

Miocene (giữa)

Biển có lùi ra chút ít nhưng vẫn chiếm toàn bộ các tỉnh


đồng bằng sông Cửu Long
Miocene (muộn)

Biển lùi thật nhanh

Để lại trầm tích đất liền chứa nước
ngọt lần thừ hai.

Pliocene

Biển lại tiến

Đưa nước mặn vào làm phá vóa nước
ngầm của khu vực sông Tiền

(cách đây 8 triệu năm)
Vào đầu Plestocene


giai đoạn biển lùi

Thời Plestocene (giữa)

ở Ba Tri có giai
đoạn biển tiến nhỏ

đến Plestocene (muộn)

giai đoạn biển lùi Bắt đầu từ cách đây 33.000 năm đến
khá rõ
cách đây 11.000 năm, mực nước biển
rút xuống mực 68 mét so với biển
ngày nay.

Từ khoảng 4.500 năm gắn liền với quá Đất Bến Tre mới xuất hiện bên trên
trở lại đây
trình phân nhánh mặt biển.
của sông Cửu Long

3. Cội nguồn lòch sử của vùng đất Bến Tre:
Vùng đất cù lao Bến Tre được hình thành khoảng 4500 năm trước đây, do quá
trình bồi đắp phù sa của các nhánh sông lớn thuộc hệ thống sông Cửu Long, sau khi đã có
đất Cai Lậy và Tân Hiệp có tuổi tuyệt đối vào khoảng 5000 năm.
Theo kết quả phát hiện về di chỉ khảo cổ học ở Giồng Nổi (Thò xã Bến Tre),
Giồng Ớt (xã An Thuận huyện Thạnh Phú, Bến Tre), kết quả khai quật đã tìm thấy các di
vật đều là công cụ sản xuất gồm: Đục đá, rìu bôn đá, răng trâu, bàn mài phẳng. Ngoài ra
còn có: đồ gốm, đồ xương… Các nhà khảo cổ học và sử học đã dựa trên nhiều tư liệu về
môi trường sinh thái, những di vật phát hiện được trong tầng văn hóa cùng so sánh đối

chiếu đa chiều, xác đònh đây là phát hiện đầu tiên di chỉ khảo cổ học cuối thời đại đồng
thau đầu thời đại đồ sắt ở Bến Tre. Có thể nói lòch sử vùng đất con người Bến Tre được
ghi thêm một chặng mới vốn trước đây trống vắng, đó là giai đoạn Sơ Sử, giai đoạn đầu
tiên hình thành lòch sử và là cơ sở tạo dựng những nét đặc trưng riêng của vùng đất cù lao
sông nước nầy.
Cùng với nhiều di tích thời Sơ sử ở Giồng Nổi, Giồng Ớt góp phần khẳng đònh cội
nguồn dân tộc, tổ tiên của người Bến Tre hôm nay đã có từ hơn 2000 năm trước. Cách
đây hơn 2000 năm đã có dấu vết cư trú và sinh hoạt của con người trên đất cù lao Bến
Tre. Lớp cư dân cổ xưa được sử sách gọi là người Phù Nam và Chân Lạp còn để lại trên
đất cù lao một số vết tích về đòa danh học và khảo cổ học.
Qua một số di vật đã khai quật được ở các di chỉ khảo cổ, đặc biệt là đồ gốm,
loại gốm thô mềm, màu trắng phớt hồng trang trí văn khắc vạch, gốm xốp và một số hiện
vật gốm như chân gốm… từ các di vật này, các nhà khảo cổ học đã có kết luận ban đầu


“chúng ta có thể nhìn thấy, mặc dù rất mờ nhạt yếu tố văn hóa Óc Eo” [nguồn tư liệu từ
Viện bảo tàng Bến Tre năm 2003]. Đây là một bằng chứng về một nền văn hóa cổ hưng
thònh đã từng tồn tại trên vùng đất cù lao này vào những thế kỷ đầu công nguyên. Tuy
nhiên, trải qua thời gian nền văn hóa ấy rơi vào cảnh suy tàn do tác động của những đột
biến về đòa lý – sinh thái và kinh tế – xã hội, đặc biệt là từ khi vùng đất này bò chìm
ngập trong nước sau một lần “biển tiến” vào khoảng đầu thế kỷ thứ VII. Đồng thời với sự
suy tàn của nền văn hóa cổ, vùng đất này cũng trở nên hoang vu.
Đến cuối thế kỷ thứ VII, đồng bằng sông Cửu Long trở thành đất Thủy Chân
Lạp, trên vùng đất đồng bằng Nam Bộ này không để lại dấu tích về sự tiếp tục hiện diện
của nền văn hóa cổ.
Các nhà khảo cổ học và sử học cho biết, vì những nguyên nhân thiên nhiên và xã
hội, số cư dân xưa chưa khai phá vùng đất này được bao nhiêu và ngày càng thưa vắng
dần. Theo họ cho biết thì số cư dân ấy đã có một sự chuyển dòch nào đó về vùng đất cao
hơn. Đất cù lao hầu hết vẫn là vùng đất hoang vu, xứ sở của vùng rừng sâu, sình lầy và
thú dữ.

Tình trạng ấy kéo dài nhiều thế kỷ, trước khi người Việt đến khai khẩn, rồi đònh
cư lập nghiệp, lập thành thôn ấp, Bến Tre cũng như cả vùng Nam Bộ vẫn còn là vùng
sình lầy, hoang vu, hiểm trở, dường như còn ngủ yên trong vẻ hoang sơ u tòch – về căn
bản vẫn là vùng đất chưa được khai phá nhiều. Châu Đạt Quan, sứ thần nhà Nguyên của
Trung Hoa mà chúng ta có thể coi là một nhân chứng đương thời, vào thế kỷ XIII khi đi
ngang qua vùng này để thực hiện chuyến bang giao với vương quốc Khơme đã ghi chép
về vùng đất này như sau: “Chúng tôi đi ngang qua biển Côn Lôn và vào cửa sông. Sông
này có hàng chục ngả nhưng ta chỉ vào được cửa thứ tư (cửa Tiền Giang vào Mỹ Tho
ngày nay), vì các cửa khác có nhiều cồn đất ngầm, thuyền lớn không đi được. Nhìn lên bờ
chúng tôi chỉ thấy toàn là cây mây cao vút, cổ thụ, cát vàng, lau sậy trắng, thoáng qua
không dễ gì biết được lối vào, thế nên các thuỷ thủ cho rằng khó mà tìm được đúng cửa
sông”. “Bắt đầu vào Chân Bồ (Tchenp’ou, Vũng Tàu hay Bà Ròa) hầu hết cả vùng đều là
bụi rậm của khu rừng thấp, những cửa sông của con sông lớn chạy dài hàng trăm lý, bóng
mát um tùm của những gốc cây cổ thụ và cây mây dài tạo thành nhiều chỗ trú sum xuê,
tiếng chim hót và tiếng thú kêu vang dội khắp nơi. Vào nửa đường trong cửa sông, người ta
thấy những cánh đồng hoang không có một gốc cây nào. Xa hơn tầm mắt chỉ toàn là cỏ
cây đầy dẫy, hàng trăm, hàng ngàn trâu rừng tụ họp từng bầy trong vùng này. Tiếp đó,
nhiều con đường dốc đầy tre chạy dài hàng trăm lý” [67,22,23,80].
Bấy giờ từ biển Đông, đường thuỷ đưa dẫn sứ thần nhà Nguyên Châu Đạt Quan
đến kinh đô ngco vẫn chưa là một thương lộ trong thời thònh đạt của Chân Lạp. Trong
tầm mắt của Châu Đạt Quan vẫn là một quang cảnh hoang vu, không một bóng người,
chỉ thấy khắp nơi là tiếng chim hót, thú kêu, từng bầy trâu rừng hàng trăm, hàng ngàn
con, lau sậy um tùm không dễ gì tìm được lối đi. Như vậy, chúng ta có thể biết một điều
rằng cả miền đồng bằng sông Cửu Long bao la còn hoang vu sình lầy hơn thế nữa. Từ


cuối thế kỷ XIII trở về sau, khi Chân Lạp bước sang thời kỳ suy tàn thì miền đất này gần
như không được nhắc đến.
Khi dòch cuốn sách “Chân Lạp phong thổ ký” từ chữ Hán sang chữ quốc ngữ, dòch
giả Lê Hương đã đoán đònh rằng cửa sông thứ tư mà Châu Đạt Quan cho rằng thuyền lớn

có thể vào được để ngược lên Campuchia vì các cửa khác có nhiều cồn đất ngầm, thuyền
lớn không thể đi được đó là sông Cửa Đại ngày nay. Bắt đầu từ Chân Bồ tức núi Vũng
Tàu hay Bà Ròa tới mũi Cà Mau, bờ biển rất thấp và có tới mười cửa sông. Châu Đạt
Quan đã chọn Chân Bồ tức núi Vũng Tàu hay Bà Ròa để làm điểm tựa tính đường đi là
rất đúng, bởi vì từ Chân Bồ đến cửa thứ tư có các cửa sông sau:
1. Cửa Cần Giờ đi vào sông Lòng Tàu
2. Cửa Soài Rạp đi lên sông Đồng Nai hoặc vào sông Vàm Cỏ
3. Cửa Tiểu là cửa đầu tiên của sông Cửu Long, có nhiều bãi cát
4. Cửa Đại là cửa thuận lợi đi Mỹ Tho rồi lên Biển Hồ
Như vậy, cảnh quan hai bên bờ sông Cửa Đại mà Châu Đạt Quan mô tả chính là
phần khu vực cù lao An Hoá (huyện Bình Đại của Bến Tre sau này), phía bên này của
sông Cửa Đại và khu vực Hoà Đồng – Chợ Gạo – Gò Công – phía bên kia của sông Cửa
Đại, lúc bấy giờ còn hoang vu, rừng rậm, thú dữ, sình lầy…
Ngay đến nửa cuối thế kỷ XVIII, trong sách Phủ biên tạp lục phần viết về tình
hình đất Gia Đònh, nhà bác học Lê Quý Đôn còn viết: “Đất Đồng Nai thuộc phủ Gia
Đònh, từ các cửa Cần Giờ, cửa Sài Lạp (Soài Rạp), Cửa Đại, Cửa Tiểu đi vào toàn là
những đám rừng hoang vu đầy cỏ rậm, mỗi đám rừng có thể rộng hơn nghìn dặm”
[19,439].
Đến đầu thế kỷ XVII, khi lưu dân người Việt bắt đầu tìm đến khai hoang mở đất,
thì vùng châu thổ sông Cửu Long trong đó có Bến Tre vẫn là một vùng đầm lầy của rừng
hoang và dã thú. Điều này còn được Trònh Hoài Đức miêu tả trong thư tòch cổ: “Từ phía
Nam sông Tiền sang bờ sông Hậu là vùng đầm lầy với lùng lác, cỏ mọc um tùm, đầy muỗi
mòng, cá sấu và cọp dữ” [20,27].
Vào thời điểm đó, do còn rừng rậm lan tràn âm u bí hiểm, ở vùng đất Bến Tre
nói riêng, đồng bằng sông Cửu Long nói chung có nhiều loại thú dữ, chúng xuất hiện ở
khắp mọi nơi làm cho cuộc sống của người dân đi khai hoang bò đe doạ, trong rừng thì
hùm beo trên sông thì cá sấu, như câu ca dao cổ của vùng Nam Bộ xưa:
Chèo ghe sợ sấu cắn chưn
Xuống bưng sợ đỉa, lên rừng sợ ma
Không chỉ có vô số hùm beo, cá sấu mà còn đầy dẫy muỗi mòng, rắn rết:

Muỗi kêu như sáo thổi,
Đỉa lội tợ bánh canh
Cỏ mọc thành tinh


Rắn đồng biết gáy
Miền đất hoang vu này không chỉ có rừng rậm, lau sậy bao phủ, đầy rẫy thú dữ,
muỗi mòng mà còn bởi “ao chằm dăng ngang”, “sông suối dọc ngang la liệt” [20,27].
Đất cù lao Bến Tre xưa thuộc vùng ngập nước, mặc dù đã có nhiều lớp cư dân
đến sinh sống, nhưng sức khai phá của con người chưa nhiều. Đất đai còn sình lầy, nhiều
vùng rộng lớn là đất trầm thuỷ, rừng rậm âm u, sông rạch chằng chòt, nhiều thú dữ như
cọp, trăn, rắn, sấu, heo rừng. Nhiều đòa danh ở Bến Tre ngày nay gắn liền với loài vật
gây nguy hiểm và đe doạ cuộc sống của con người thû ông bà mới đặt chân đến khai
phá đất cù lao như: sấu Ba Kè, cọp Ba Châu, đỉa Lạc Đòa, muỗi Cồn Rừng, rạch Cái Sấu,
giồng Hổ, giồng Heo, giồng Rọ, rạch Mây, rạch Cái Cấm, Cái Trăn, Chẹt Sậy, Tắt Hang
chuột, ngã Ba Lạc, Bàu Sấu, Bàu Dơi, Bàu Sen. Những đòa danh ấy gợi lại cho ta thấy
được diện mạo của đất cù lao thû xưa. Giai thoại về ông già ở Tân Hưng đánh cọp, ông
Thanh Vệ thuần hoá được cọp, cưỡi cọp đi ăn giỗ, cho chúng ta biết phần nào về vùng
đất này, khi người Việt tới khai phá vẫn còn là một nơi hoang vu, nhiều thú dữ.
Từ thế kỷ XVII, người dân ở miền Trung, vùng Quảng Nam, Quy Nhơn, Phú
Yên… bò mất mùa, đói khổ, không chòu nổi chế độ quân dòch, tạp dòch, thuế khoá do hậu
quả của cuộc chiến tranh Trònh – Nguyễn, họ đã phải rời bỏ quê hương dìu dắt nhau trốn
chạy tìm nơi an toàn xa xôi hẻo lánh để làm ăn sinh sống. Đoàn người di dân hướng về
phía Nam, từ đó bắt đầu có dòng di cư của người Việt vào Nam Bộ ngày càng đông.
Bước vào thế kỷ XVII, vùng đất hoang dã này đã có sự thay đổi bởi sự xuất hiện một lớp
cư dân, thành phần chiếm đa số là người Việt.
Năm 1679 (năm Kỷ Mùi), chúa Nguyễn Phúc Tần cho phép 3.000 người Hoa từ
Quảng Đông, Quảng Tây (Trung Quốc) được vào lập nghiệp. Họ là những người “phản
Thanh phục Minh”, do hai tướng Dương Ngạn Đòch và Trần Thượng Xuyên cầm đầu.
Chúa Nguyễn cho họ vào đònh cư ở Mỹ Tho và Biên Hòa, ở hai đòa bàn cư trú trên đoàn

người Hoa di dân ấy vỡ đất, phá rừng, lập chợ, lập nên nhà cửa phố xá. Người Việt đã
chấp nhận nâng đỡ người Hoa di cư này để rồi họ cùng chung sống, xây dựng vùng đất
mới.
Những lưu dân người Việt đã vào Nam Bộ trong đó có Bến Tre khai hoang, trên
một trăm năm thì chính quyền người Việt mới tới lập Dinh, Trấn, Phủ, Huyện và đặt
quan cai trò.
Năm 1698, khi chúa Nguyễn Phúc Chu cử thống suất chưởng cơ Lễ Thành Hầu
Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh dinh đất Đồng Nai lập ra phủ Gia Đònh thì ở đó dân cư đã có
4 vạn hộ: “Đất đai mở rộng ngàn dặm, dân số hơn 40.000 hộ, chiêu mộ những lưu dân từ
châu Bố Chính trở vô Nam đến ở khắp nơi, đặt ra phường ấp xã thôn, chia cắt đòa phận,
mọi người phân chiếm ruộng đất, chuẩn đònh thuế đinh điền và lập bộ tòch đinh điền. Từ
đó, con cháu người Tàu ở nơi Trấn Biên (Biên Hoà) thì lập thành xã Thanh Hà, ở nơi
Phiên Trấn (Sài Gòn) thì lập thành xã Minh Hương rồi ghép vào sổ hộ tòch” [20,12].


Theo sự ghi chép của Gia Đònh thành thông chí, chúng ta có thể phỏng đoán khi
chúa Nguyễn đến thành lập chính quyền, khi ấy đất “Nông Nại” hay “phủ Gia Đònh” gọi
chung là cả Nam bộ, những lưu dân người Việt đã mở rộng đất đai hàng ngàn dặm, từ
Mỗi Xuy (Bà Ròa- Biên Hòa) đến tận bờ Bắc sông Tiền (Mỹ Tho), người ta đã lập ra ở
đó những trạm thu thuế ở Prei Nokor và Kas Krobey (là vùng Sài Gòn – Chợ Lớn hiện
nay).
Khi chúa Nguyễn lấy xứ Sài Gòn đặt huyện Tân Bình (từ sông Sài Gòn về Tây
Nam đến sông Cửu Long) lập dinh Phiên Trấn (Gia Đònh). Khi ấy, vùng Bình Đại của
Bến Tre ngày nay và các vùng Gò Công, Tiền Giang, thuộc sự cai quản của phủ Gia
Đònh, huyện Tân Bình.
Năm 1732, chúa Nguyễn bắt đầu đặt sự cai trò của mình ở Đònh Tường, Vónh
Long, tức là vùng Long Hồ cũ: “Mùa xuân năm Nhâm Tý (1732) đời vua Túc Tôn, Hiếu
minh hoàng đế năm thứ 8 sai Khổn Suý Gia Đònh chia đất ấy lập làm châu Đònh Viễn,
dựng dinh Long Hồ (Lỵ sở ở đòa phận thôn An Bình Đông, huyện Kiến Đăng, tục gọi là
dinh Cái Bè” [20,13].

Như vậy năm 1732, chúa Nguyễn cho đặt châu Đònh Viễn và lập dinh Long Hồ
(tại Cái Bè), cho châu Đònh Viễn thuộc vào, còn Mỹ Tho vẫn thuộc về Gia Đònh như cũ.
Năm 1744 chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) lập: Trấn Biên
Dinh, Phiên Trấn Dinh, Long Hồ Dinh, còn đất Hà Tiên thì đặt làm Trấn (Hà Tiên Trấn)
Năm 1757 chúa Nguyễn Phúc Khoát mở rộng châu Đònh Viễn ra đến các cù lao
sông Tiền, sông Hậu, dinh Long Hồ ở Cái Bè được chuyển sang cù lao Tân Dinh gọi là
dinh Hoằng Trấn, rồi lại dời về thôn Long Hồ (thò xã Vónh Long ngày nay) châu Đònh
Viễn dinh Long Hồ được chia làm 3 tổng: Tổng Bình Dương (vùng Vónh Long, tổng Bình
An (vùng Sa Đéc, tổng Tân An (trên 2 cù lao nay là đất Bến Tre). Tổng Tân An là tiền
thân của đất Bến Tre sau này.
Như vậy, từ năm 1757 đời Thế Tông Hiếu Võ, tức Võ Vương Nguyễn Phúc
Khoát, vùng đất Bến Tre không còn thuộc Thuỷ Chân Lạp nữa, Bến Tre đã được sáp
nhập vào bản đồ nước Nam, thuộc châu Đònh Viễn, dinh Long Hồ phủ Gia Đònh.
Trong thời gian trên nửa thế kỷ (1698-1757), các chúa Nguyễn đã đặt xong cơ sở
hành chính trên khắp đòa bàn Nam Bộ. Bến Tre dó nhiên nằm trong sự sắp đặt đó, thuộc
châu Đònh Viễn dinh Long Hồ phủ Gia Đònh.
4. Quá trình khai phá vùng đất Bến Tre của cư dân người Việt trong các thế
kỷ XVII - XIX:
4.1- Nguồn gốc và quá trình hình thành dân cư trên vùng đất Bến Tre:
Như trên đã nói, lớp cư dân cổ xưa trên vùng đất Bến Tre thưa vắng dần. Tình
trạng hoang vu sình lầy chưa được khai phá của vùng đất Bến Tre vẫn kéo dài. Chỉ đến
thế kỷ XVII, khi lưu dân người Việt từ các tỉnh ở miền Bắc, miền Trung di cư xuống thì
việc khai hoang mở đất mới bắt đầu.


Vậy những lưu dân người Việt đến đất cù lao này thuộc thành phần xã hội nào?
Nguyên nhân nào họ di cư đến vùng đất cù lao xa xôi này? Với tất cả những điều này
cùng với quá trình đấu tranh chinh phục cải tạo thiên nhiên và xã hội ở vùng đất mới đã
để lại dấu ấn gì, suy nghó gì và cách ứng xử trong nếp sống của họ?
Theo các tài liệu lòch sử, từ thế kỷ XVI chế độ phong kiến Việt Nam lâm vào

tình trạng khủng hoảng sâu sắc, xảy ra cuộc phân tranh giữa hai tập đoàn phong kiến họ
Trònh ở Đàng Ngoài và họ Nguyễn ở Đàng Trong. Cuộc giao tranh giữa hai tập đoàn
phong kiến này kéo dài suốt 175 năm, trong đó có 45 năm (1627 – 1672) với 7 trận đánh
lớn diễn ra liên tiếp. Do đó họ Trònh và Nguyễn đã thi nhau vơ vét sức người sức của
phục vụ cho chiến tranh, dân chúng rơi vào tình cảnh đói khổ cơ cực ở khắp nơi, nhất là
những nông dân và thợ thủ công nghèo khổ bò bắt lính để phục vụ cho cuộc chiến tranh
này.
Chính quyền phong kiến còn đặt ra chế độ thuế khóa nặng nề để vơ vét của cải
nhân dân, một phần cung phụng cho cuộc chiến tranh mặt khác để thỏa mãn lối sống xa
hoa của bọn đòa chủ, quan lại, quý tộc… Sự vơ vét, bóc lột, ức hiếp và sự nhũng nhiễu của
chính quyền phong kiến đã đẩy nhân dân vào con đường điêu đứng khổ sở… Người dân
đã phải rời bỏ quê hương đi tìm đất sống vì đó là lối thoát duy nhất. Lúc bấy giờ vùng đất
xa xôi và còn hoang vu ở phương Nam, trong đó có Bến Tre là nơi duy nhất họ hướng tới
để tìm chỗ dung thân mong tìm cuộc sống yên ả hơn ở quê nhà.
Như vậy lớp người tiên phong đầu tiên vào mở đất phương Nam, trong đó có Bến
Tre, chính là những lưu dân – nông dân gian khổ chòu trăm cay ngàn đắng, băng rừng
vượt biển, để rồi chinh phục hoang vu lập nên thôn ấp trên khắp vùng đất phương Nam,
trước khi chính quyền thời các chúa Nguyễn đến xác lập chủ quyền trên vùng đất mới.
Từ cuối thế kỷ XVII, sau khi chính quyền họ Nguyễn lần lượt xác lập quyền lực
cai trò của mình trên vùng đất mới, các chúa Nguyễn thực hiện chính sách khuyến khích
và chiêu mộ người từ các xứ Ngũ Quảng vào mở rộng sự nghiệp khai hoang, với mục
đích vừa lập đồn điền, vừa bảo vệ biên cương, giữ gìn an ninh, kết hợp hoạt động quân
sự, quốc phòng với công cuộc khẩn hoang. Việc này tiếp tục diễn ra trong thế kỷ XVIII
và cả nửa đầu thế kỷ XIX. Ngoài sự di dân theo tổ chức của nhà Nguyễn, còn có sự di
dân tự phát vì họ không chòu nổi đời sống cơ cực.
Cư dân Việt trên đòa bàn Bến Tre buổi ban đầu được tạo ra bởi ba nguồn chính:
Thứ nhất là những người nông dân và thợ thủ công nghèo ở miền Bắc, miền Trung bò giai
cấp phong kiến áp bức bóc lột, chán ngán chiến tranh Trònh Nguyễn phải lưu tán, phiêu
bạt rời bỏ quê hương để tìm một chân trời mới dễ thở và yên ả hơn nơi mà họ đã từng
sinh sống. Thứ hai là những người vốn đã giàu có, Lê Quý Đôn gọi họ là “dân có vật

lực”, họ hưởng ứng lời kêu gọi của các chính quyền phong kiến (chúa Nguyễn, vua
Nguyễn), bỏ tiền ra thuê mướn nhân công tìm đến vùng đất mới, tổ chức việc khai hoang
với quy mô lớn. Thứ ba là những lính thú, tội đồ của nhà Nguyễn bò xô đẩy vào phương
Nam vừa làm nhiệm vụ khai phá đất đai vừa trấn giữ biên ải. Ngoài người Việt, còn có
một số ít ỏi người Khơme sống lác đác ở một số nơi như Mỏ Cày, Bình Đại, Giồng Trôm.


Vào nửa cuối thế kỷ XVIII, một bộ phận cư dân nguồn gốc là người Hoa mà ta gọi là
người Minh Hương, sau một thời gian đònh cư ở Mỹ Tho, do sự biến chia rẽ nội bộ có một
số vượt sông sang sinh sống cùng với người Việt ở một số vùng trên cù lao An Hoá (Bình
Đại), một số ấp cạnh bờ Nam sông Ba Lai (nay thuộc xã Phước Thạnh, huyện Châu
Thành), lớp người cao tuổi còn biết về nguồn gốc của lớp cư dân này. Ngoài vùng Phước
Thạnh, cư dân Minh Hương còn sống rải rác ở một số thôn, ấp khác quanh vùng, họ sống
cùng người Việt không lập thành làng xóm riêng rẽ. Như vậy, từ buổi ban đầu khai phá,
chủ yếu người Việt sinh sống và cư trú trên đòa bàn ba cù lao.
Theo các tác giả cuốn Đòa chí Bến Tre, khi khảo sát 112 gia phả thu được thì: “38
gia đình quê gốc Quảng Ngãi, 17 gia đình quê gốc ở Thừa Thiên, Quảng Trò, 19 gia đình
quê gốc Quảng Nam, 9 gia đình quê gốc Quảng Bình, 11 gia đình quê gốc Bình Đònh, 5
gia đình quê gốc Nghệ An, 3 gia đình quê gốc Hà Đông, 2 gia đình quê gốc Nam Đònh, 4
gia đình quê gốc miền Trung (không rõ tỉnh), 4 gia đình quê gốc miền Bắc (không rõ
tỉnh) [64,247].
Khi ấy, người Việt đi từ miền Trung vào đất Đồng Nai – Gia Đònh (trong đó có
vùng đất Bến Tre) chủ yếu bằng đường biển với phương tiện thuyền buồm, cũng có khi
họ đi trên những chiếc ghe bầu và cũng có một số ít người đi theo đường bộ phải vượt núi
trèo đèo rất vất vả, gian lao và nguy hiểm. Ở vùng đất Bến Tre có một số lưu dân trước
khi đến đònh cư tại Bến Tre, đã đi từng chặng, nghóa là họ đã dừng lại ở một số đòa
phương, ở đó một thời gian, nếu thấy trụ lại được thì ở, thấy không được lại đi tiếp về
vùng đất Phương Nam. Các sách sử gọi đó là chuyển cư theo lối “nhảy cóc” từng chặng
một. Như “trường hợp gia đình ông Hồ Văn Ưa, là ông tổ của ông Hồ Văn Ngật, 74 tuổi
ở xã Phú Lễ, huyện Ba Tri. Ông Hồ Văn Ưa gốc người Quảng Bình, theo cuộc di dân của

chúa Nguyễn. Đời Cảnh Hưng, gia đình ông vào Quảng Nam sinh sống một thời gian, sau
đó lại đi tiếp vào trấn Biên Hoà. Từ Biên Hoà, gia đình ông đã di chuyển đến Phú Lễ,
huyện Ba Tri và sinh sống ở đó đến nay đã 5 đời [64,246]. Có những nhóm người, hoặc
gia đình di chuyển một mạch từ miền Trung đến Bến Tre, như trường hợp gia đình ông
Thái Hữu Xưa sử sách triều Nguyễn của Nguyễn nh – ghi năm 1742, cư dân ở Ba Tri
còn thưa thớt. Thái Hữu Xưa người phủ Tư Nghóa (tức Quảng Ngãi) đem gia đình đi bằng
ghe bầu vào thẳng Ba Tri làm ăn, được cử làm cai trại của Ba Tri cá trại.
Trước khi lưu dân người Việt đến đònh cư, ở nơi đây đã có mặt một số ít người
Khơme sinh sống ở Mỹ Thạnh (Mỹ Lồng) ta vẫn còn nghe nói chuyện chùa Giồng Me,
đấy là ngôi chùa xưa kia được cư dân Khơme xây dựng ở Sóc Me. Như vậy với sự có mặt
của ngôi chùa cho phép ta phỏng đònh trước khi người Việt đến, chứng tỏ đã có người
Khơme đến sinh sống khá đông. Họ sống tập trung và có cuộc sống tương đối ổn đònh vì
nếu không thì họ không nghó đến chuyện lập chùa (tư liệu điền dã ở xã Mỹ Thạnh –
Giồng Trôm).
Về thời điểm lưu dân người Việt đến đònh cư ở vùng đất Bến Tre trong hai năm
1983 – 1984, Viện Khoa học xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh phối hợp cùng Sở Văn


hoá thông tin Bến Tre đã tiến hành khảo sát được 281 gia phả thành văn (bao gồm cả chữ
Hán, chữ Nôm, chữ Quốc Ngữ) và một số câu chuyện kể cho kết quả như sau:
- Số người đònh cư trước thế kỷ XVIII chiếm 3,6%
- Số người đònh cư thế kỷ XVIII chiếm 32,3%
- Số người đònh cư thế kỷ XIX chiếm 63,9%
[64,247]
Qua kết quả cho ta thấy sự di cư của người Việt vào vùng Đồng Nai – Gia Đònh
nói chung, Bến Tre nói riêng diễn ra liên tục với mức độ ngày càng gia tăng theo sự diễn
biến khốc liệt của cuộc chiến tranh Trònh – Nguyễn cùng mâu thuẫn giữa giai cấp đòa
chủ phong kiến và giai cấp nông dân ngày càng gay gắt, đời sống nông dân rơi vào cảnh
cùng cực. Làn sống lưu dân chuyển vào đất Phương Nam và Bến Tre có lúc diễn ra ồ ạt,
nhất là ở nửa đầu thế kỷ XIX khi triều Nguyễn chủ trương chiêu mộ khuyến khích lưu

dân vào phương Nam khai khẩn.
Như vậy, từ thế kỷ XVII cư dân người Việt đã bắt đầu đến khai phá các cù lao
Bến Tre. Đến giữa thế kỷ XVIII thì đã có ấp, trại, xóm làng tương đối đông đúc. Những
người Việt vào vùng đất Gia Đònh trong đó có Bến Tre, chủ yếu là những nông dân
nghèo khổ lâm vào bước đường cùng buộc phải rời bỏ quê cha đất tổ. Họ là những người
“tứ chiếng”, họ cũng là những con người có đầu óc phiêu lưu mạo hiểm, dám chấp nhận
nguy hiểm vượt suối băng rừng, đương đầu với bao thử thách… để rồi trong quá trình mở
mang vùng đất mới này đã hình thành nên những đức tính đáng quý ở người Nam Bộ.
4.2- Quá trình khai phá vùng đất Bến Tre:
4.2.1- Những bước đi khai hoang mở đất đầy gian khổ:
Trên những chiếc thuyền độc mộc hoặc chiếc ghe bầu từ biển khơi tấp vào mảnh
đất xa xôi, những người lưu dân với mớ hành trang rất ít ỏi, vật dụng trong nhà hầu như
chưa có gì đáng kể, ngay cả chiếc mùng để tránh muỗi cho giấc ngủ trong đêm khuya
cho người tha hương cũng không có. Bữa ăn có khi được dọn trên những chiếc lá vuốt
sạch cát bụi, giấc ngủ luôn phập phồng lo âu trong không gian thăm thẳm giữa rừng sâu
vì lúc nào cọp cũng có thể vồ mất xác.
Những lưu dân xa xứ, muốn bám trụ hầu đứng vững trên mảnh đất hoang vu xa lạ
này để khai thác, các vò “tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai cơ” phải đối mặt và chiến
thắng các loài dã thú, thiên nhiên khắc nghiệt để bảo vệ mình và bảo vệ công cuộc sản
xuất. Họ sống giữa thiên nhiên, dựa hẳn vào thiên nhiên đồng thời vật lộn với nó để tồn
tại và phát triển.
Ngoài kia là biển cả mênh mông, trong này thì hai bên sông lớn, thân phận “tha
phương cầu thực”, họ cũng không thể trở về quê cha đất tổ, nơi mà họ phải chạy trốn
khỏi chế độ áp bức bóc lột nặng nề và tàn bạo của chính quyền phong kiến. Không còn
con đường nào khác phải trụ lại trên ba cù lao này. Để bám được vào mảnh đất cù lao



×