I.
Lý thuyết.
1.vợ chồng có quyền lựa chọn việc sinh con theo điêu kiện của mình
SAI: Theo quy định khoản 3 và khoản 5 điều 2 luật HNGD thì vợ chồng có nghĩa vụ
thực hiện chính sách KHHGĐ tức chỉ được sinh từ 1 đến 2 con và không được phép
chọn giới tính khi sinh con
2. Trong quan hệ hôn nhân và gia đình những phong tục tập quán thể hiện bản sắc
của mỗi dân tộc được áp dụng triệt để
SAI: Đ.6 LHNGĐ quy định thì những phong tục tập quán thể hiện bản sắc mỗi dân tộc
chỉ được áp dụng trong quan hệ HNGĐ nộ dung trái nguyên tắc quy định tại LHNGĐ
3. Kết hôn là việc nam nữ chung sống như vợ chồng
SAI: Theo K.2 Đ.8 LHNGĐ. Kết hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo
quy định của pháp luật về ĐKKT và ĐKKH
4. Gia đình là những người gắn bó với nhau chỉ theo hôn nhân hoặc huyết thống
SAI: Dựa vào K.10 Đ.8 LHNGĐ thì gia đình không chỉ tồn tại quan hệ hôn nhân huyết
thống mà còn có quan hệ nuôi dưỡng.
5.Nam tròn 20 tuổi, nữ tròn 18 tuổi trở lên mới được đăng kí kết hôn.
SAI: Căn cứ Đ.9 LHNGĐ Chỉ cần Nam đang ở tuổi hai mươi (19 tuổi + 1 ngày), nữ
đang ở tuổi mười tám(17 tuổi + 1 ngày) là đã đủ điều kiện về tuổi kết hôn
6. Mọi trường hợp nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì
ko được pháp luật thừa nhận là vợ chồng. SAI: Quan hệ vợ chồng được xác lập trước
ngày 03/01/1987 nếu chưa đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì
vẫn được pháp luật công nhận là vợ chồng và chỉ khuyến khích chứ không bắt buộc
đăng ký kết hôn. NQ.35
7. Những giao dịch lien quan đến tài sản chung có giá trị lớn của vợ chồng do 1 bên vợ
hoặc chồng thực hiện luôn bị coi là vô hiệu.
SAI: Giao dịch đối với tài sản chung nhưng đã được chia để đầu tư kinh doanh riêng
theo qui định tại khỏan 1 Điều 29 vẫn có thể do 1 bên xác lập thực hiện.
8.Khi vợ hoặc chồng thực hiện những giao dịch phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của gia
đình mà không có sự đồng ý của bên kia thì người thực hiện giao dịch đó phải thanh
toán bằng tài sản riêng của mình.
SAI: Đối với những giao dịch phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của gia đình do 1 bên thực
hiện mà không có sự đồng ý của bên kia thì TS chung của vợ chồng sẽ được chi dùng
để thanh tóan. Đ.25
9.Quan hệ nuôi con nuôi chỉ chấm dứt khi có sự thoả thuận của cha mẹ nuôi và con
nuôi.
SAI: Quan hệ nuôi con nuôi còn được TA ra quyết định chấm dứt khi con nuôi bị kết
án theo qui định tại khỏan 2 Điều 76 hoặc trong trường hợp cha mẹ nuôi đã có các
hành vi qui định tại khỏan 3 Điều 67 hoặc khỏan 5 Điều 69.
10 Những trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng là kết hôn trái pháp luật.
SAI: Kết hôn trái pháp luật là việc xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn nhưng
vi phạm điều kiện kết hôn do PL qui định. Đ.9(a.2 k1 NQ02/2000)
11Người đang có vợ có chồng mà chung sống như cợ chồng với người khác là kết
hôn trái pháp luật.
SAI: Người đang có vợ (có chồng) mà chung sống như vợ chồng với người khác là
người có hành vi vi phạm PL hình sự về chế độ một vợ, một chồng.Đ.147 LHS
12. Sau khi bị huỷ kết hôn trái pháp luật thì những chủ thể đó không được quyền kết
hôn lại.
SAI: Sau khi bị huỷ kết hôn trái pháp luật thì nhứng chủ thể đó vẫn có quyền kết hôn
lại nếu không thuộc các trường hợp cấm kết hôn qui định tại Điều 10.
13. Cha mẹ nuôi có thể thay đổi họ tên, dân tộc của con nuôi theo họ tên,dân tộc của
mình.
SAI: Theo qui định tại Điều 28 BLDS thì cá nhân khi sinh ra được xác định dân tộc
theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ. PL không có qui định nào cho phép thay đổi hay xác
định lại dân tộc đối với con nuôi.
. Quyền sử dụng đất có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vọ chồng.
ĐÚNG : Theo qui định tại khoản 1 Điều 27. Trừ trường hợp được thừa kế , tặng cho
riêng.
14. Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân chỉ được coi là có
hiệu lực pháp lý khi được toà án công nhận.
SAI: Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân trong trường hợp vợ
chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ DS riêng hoặc có lý do chính đáng
khác thì chỉ cần vợ chồng có thỏa thuận phân chia TS chung bằng văn bản mà không
cần thông qua tòa án.
15. Con riêng và bố dượng, mẹ kế không phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý nào
hết.
SAI: Theo điều 38.
“Điều 38. Nghĩa vụ và quyền của bố dượng, mẹ kế và con riêng của vợ hoặc
của chồng
1. Bố dượng, mẹ kế có nghĩa vụ và quyền trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục con riêng cùng sống chung với mình theo quy định tại các điều 34, 36 và 37 của
Luật này.
2. Con riêng có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng bố dượng, mẹ kế cùng
sống chung với mình theo quy định tại Điều 35 và Điều 36 của Luật này.
3. Bố dượng, mẹ kế và con riêng của vợ hoặc của chồng không được ngược đãi,
hành hạ, xúc phạm nhau.”
16. Con riêng và bố dượng mẹ kế có tất cả các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và
con khi cùng chung sống với nhau.
ĐÚNG: Theo qui định tại các điều từ 34 đến 38.
17.Tài sản chung của vợ chồng nếu phải đăng kí quyền sở hữu thì phải đăng kí tên
của hai vợ chồng, do đó tài sản nào đứng tên 1 bên vợ hoặc chồng sẽ là tài sản riêng
của người đó.
SAI: Tài sản đứng tên 1 bên vợ hoặc chồng nhưng không có chứng cứ chứng minh tài
sản đó là tài sản riêng của bên đó thì tài sản đó vẫn là tài sản chung. K3 D. 5 NĐ 70/CP
18. Đơn xin ly hôn bắt buộc phải có chữ kí của cả vợ và chồng.
SAI: Trường hợp ly hôn theo yêu cầu của một bên thì đơn xin ly hôn chỉ cần có chữ ký
của một bên.
19.Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân chỉ được đặt ra khi
vợ chồng không thoả thuận được việc dùng tài sản chung để thực hiện nghĩa vụ riêng
về tài sản của một bên vợ hoặc chồng.
SAI: Việc thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân còn
được đặt ra trong trường hợp vợ chồng có nhu cầu đầu tư kinh doanh riêng.Đ.29
20. Khi vợ hoặc chồng bị toà án tuyên bố mất tích bằng 1 quyết định co hiệu lực
pháp luật thì quan hệ vợ chồng sẽ chấm dứt.
SAI: Quan hệ hôn nhân trong trường hợp này chỉ thực sự chấm dứt khi yêu cầu xin ly
hôn của người có vợ hoặc chồng đã bị tòa án tuyên bố mất tích trước đó được tòa án
công nhận bằng một quyết định độc lập. K2.Đ78 LDS2005
21. Sự thoả thuận giữa con nuôi từ 9 tuổi trở lên với cha mẹ nuôi là một trong những
căn cứ để quan hệ nuôi con nuôi chấm dứt.
SAI: Chỉ có thỏa thuận giữa cha mẹ nuôi và con nuôi đã thành niên mới là một trong
các căn cứ để yêu cầu TA chấm dứt việc nuôi con nuôi. Đ76,77
22. Cơ quan có thẩm quyền đăng kí kết hôn là UBND nơi thường trú của một trong
hai bên nam nữ.
SAI: Trong trường hợp đăng ký kết hôn giữa công dân VN với nhau nhưng ở nước
ngoài thì cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự VN ở nước ngoài sẽ là nơi các
bên đến đăng ký.
23. Con nuôi và con đẻ không được kết hôn với nhau.
SAI: Vì không thuộc các trường hợp cấm kết hôn được qui định tại Điều 10 Luật
HNGĐ.
24. Hoà giải cơ sở là thủ tục bắt buộc trước khi vợ chồng yêu cầu ly hôn tại toà án.
SAI: Luật HNGĐ chỉ khuyến khích hòa giải cơ cở chứ không bắt buộc Đ86
25. Tài sản riêng của vợ, chồng chỉ là những tài sản vợ hoặc chồng có trước thời kì
hôn nhân.
SAI: Còn là tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn
nhân. K1đ32
26. Sau khi chấm dứt hôn nhân, người vợ sinh con thì việc xác định cha cho con luôn
được toà án xác định.
SAI: Nếu đứa con được sinh ra trong vòng 300 ngày sau khi vợ chồng đã chấm dứt
quan hệ hôn nhân thì đứa con đó vẫn hiển nhiên là con chung.k2 đieu21 chuong
IV ,nđ70
27.Tài sản chung của vợ chồng mà phải đăng kí quyền sở hữu thì trong giấy chứng
nhận quyền sở hữu bắt buộc phải ghi tên của cả hai vợ chồng.
ĐÚNG: Theo qui định tại Điều 27.
28. Những người đã từng có mối quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi vấn được kết hôn
với nhau.
SAI: Pháp luật nghiêm cấm những người đã từng là cha mẹ nuôi kết hôn với con
nuôik4đ10 va nq02.
29.Khi đi làm con nuôi người khác, người con đó sẽ chấm dứt quyền và nghĩa vụ đối
với gia đình cha mẹ đẻ.
SAI: Khi được cho đi làm con nuôi người khác thì nguời con đó vẫn được PL đảm bảo
quyền thừa kế đối với cha mẹ đẻ.d74
30. Thuận tình ly hôn ko cần phải thông qua thủ tục hoà giải.
SAI: Hòa giải tại tòa án là thủ tục bắt buộc trong trường hợp có tranh chấp TS chung
hoặc con chung. d88
31.Tài sản chung của vợ chồng là tài sản có trong thời kì hôn nhân.
SAI: Còn có thể là các tài sản riêng có trước thời kỳ hôn nhân nhưng được nhập vào
khối tài sản chung.
Khoản 1.đều 27. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu
nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc
được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.
32. Mọi tài sản mà vợ hoặc chồng tạo dựng trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản
chung.
Sai/ Vì khi vợ chồng đã chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì tài sản tạo dựng
trong thời kỳ hôn nhân từ số tài sản đã chia sẽ thuộc sở hữu riêng của mỗi người
33. Trường hợp vợ chồng thực sự tự nguyện ly hôn, đã thoả thuận được về việc
chia tài sản và nuôi dưỡng con cái thì Toà án phải chấp nhận cho ly hôn.
Sai/ Trường hợp người vợ đang còn mang thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 12
tháng tuổi thì không được ly hôn. Trong trường hợp này người chồng bị hạn chế do
luật định (khoản 2, điều 85 Luật HNGĐ). Nếu có thể chỉ là người vợ đứng tên xin ly
hôn thì Tòa án mới thụ lý vụ việc
34. Tài sản thuộc sở hữu riêng của một bên vợ hoặc chồng thì người đó có toàn
quyền định đoạt không phụ thuộc ý chí của bên còn lại.
Sai/ Khoản,đ33. Luat HNGĐ:Trong trường hợp tài sản riêng của vợ hoặc chồng đã
được đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy
nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó phải được sự thoả thuận của cả vợ
chồng.
II. Phần bài tập
Bài 1
A và B là vợ chồng hợp pháp, có tài sản chung là 500 triệu đồng, đã thoả thuận
bằng văn bản chia tài sản chung để A kinh doanh riêng để tránh rủi ro cho gia đình.
Hai bên vẫn hạnh phúc và sống chung, mỗi người được 250 triệu đồng. Sau khi chia tài
sản thì A nói với B là lương của B sẽ chi tiêu cho gia đình còn A kinh doanh để tích
luỹ cho gia đình. Sau 3 năm A kinh doanh thu được khoản lợi tức là 200 triệu đồng,
hàng tháng B được hưởng lương là 5 triệu đồng và chi tiêu dùng hết cho đời sống gia
đình. Sau đó A đã có hành vi ngoại tình và dùng số tiền lợi tức đó cho người tình của
mình.B yêu cầu ly hôn và yêu cầu đòi lại số tài sản đó có được không?
Trả lời:
Theo qui định tại Điều 29 Luật HNGĐ về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
có qui định: “Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng,
thực hiện nghĩa vụ DS riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có thể thỏa
thuận chia tài sản chung”. Như vậy, sau khi 2 vợ chồng thỏa thuận chia đôi tài sản
chung để kinh doanh riêng thì tài sản riêng của mỗi người là 250 triệu. Điều 30 Luật
HNGĐ cũng qui định : “phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ
chồng”. Do đó lương của B không nằm trong thỏa thuận phân chia tài sản chung vì tại
thời điểm phân chia nó chưa hề tồn tại. Về nguyên tắc (nếu không có thỏa thuận phân
chia tài sản chung trong thời kỳ HN) thì “thu nhập do lao động, họat động SXKD” của
vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân (khoản 1 Điều 27) là tài sản chung vợ chồng. Tuy
nhiên, theo qui định tại khoản 2 Điều 8 NĐ70/2001 về hậu quả chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có qui định: “Thu nhập do lao động, họat động
SXKD và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân sẽ là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa
thuận khác”. Theo luật định thì “thỏa thuận khác” ở đây phải là “thỏa thuận bằng văn
bản”. Dẫn chứng: khoản 1 Điều 4 NĐ70/2001 qui định: “… sự thỏa thuận của vợ
chồng cũng phải tuân theo hình thức đó (lập thành văn bản có chữ ký của vợ, chồng
hoặc phải có công chứng, chứng thực)”. Ở đây đề bài chỉ nói là “A nói với B” nên coi
như thỏa thuận với nội dung “lương của B sẽ chi tiêu cho gia đình còn A kinh doanh để
tích lũy cho gia đình” không được xem là “thỏa thuận của vợ chồng”. Như vậy, đối
chiếu với qui định tại khoản 2 Điều 8 NĐ70/2001 thì số lương 5 triệu/tháng của B vẫn
là tài sản riêng của B. Cũng thế, theo khoản 1 Điều 8 NĐ70/2001 thì: “Hoa lợi, lợi tức
phát sinh từ tài sản đã được chia thì thuộc sở hữu riêng của mỗi người, trừ trường hợp
vợ chồng có thỏa thuận khác bằng văn bản”. Do vậy, số tiền thu được từ việc A kinh
doanh từ tài sản riêng của mình (sau 3 năm là 200 triệu) vẫn là tài sản riêng của A bởi
lẽ hai người không có thỏa thuận nào khác bằng văn bản. Số tiền này nếu A không
đồng ý nhập vào khối tài sản chung của 2 người thì mặc nhiên nó vẫn là tài sản riêng
của A và A có toàn quyền định đoạt, muốn làm gì thì làm, muốn cho ai thì cho (không
vi phạm khoản 5 Điều 33 do hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng không phải là nguồn sống
duy nhất của gia đình do đó A có quyền định đọat mà không cần hỏi ý kiến B). Việc B
phát hiện mối quan hệ bất chính của A và yêu cầu tòa cho ly hôn là có cơ sở và phù
hợp các qui định của PL. Tuy nhiên việc B yêu cầu “đòi lại số tài sản đã có” là không
có cơ sở. Ở đây B không thể “đòi lại số tài sản đã có” mà B chỉ có thể đòi lại những tài
sản nào là “tài sản riêng” của mình đồng thời yêu cầu tòa phân định “phần tài sản mà
mình được chia trong khối tài sản chung của vợ chồng” mà thôi. Theo Điều 95 về
nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn thì khi phân xử, tòa án phải bảo đảm 2 nguyên tắc :
(1) “Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó” (khoản 1 Điều 95);
(2) Tài sản chung được giải quyết theo nguyên tắc tôn trọng thỏa thuận của các bên,
nếu không thỏa thuận được thì trên nguyên tắc sẽ chia đôi nhưng có xem xét hoàn cảnh
của mỗi bên, công sức đóng góp của mỗi bên, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
vợ, con chưa thành niên (khoản 2 Điều 95). Như vậy, khi phân xử, tòa sẽ áp dụng
nguyên tắc (1) để công nhận những tài sản nào là tài sản riêng của B và chúng phải
thuộc về B. Dĩ nhiên là B có quyền yêu cầu tòa công nhận số lương 5 triệu/tháng (có
được sau thời điểm phân chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ HN) là tài sản riêng
của B (áp dụng khoản 2 Điều 8 NĐ70/2001) như đã phân tích ở trên. Đối với khối tài
sản chung của cả 2 vợ chồng thì sẽ phải áp dụng nguyên tắc (2) để phân xử. Tuy nhiên
do các bên đã thỏa thuận phân chia toàn bộ tài sản chung (có tổng gía trị là 500 triệu)
đang có tại thời điểm thỏa thuận phân chia nên coi như những tài sản chung nào có
được từ thời điểm thỏa thuận phân chia trở về trước bây giờ đã không còn. Nếu các bên
có thể chứng minh được là mình còn có những tài sản chung khác từ sau thời điểm
thỏa thuận phân chia tài sản chung (ví dụ: “tài sản do vợ chồng cùng tạo ra” hoặc
“những thu nhập hợp pháp khác” sau thời điểm thỏa thuận phân chia tài sản chung) thì
họ vẫn có quyền yêu cầu tòa phân xử để chia theo nguyên tắc thứ (2).
Bài 2.
Anh T và chị H được gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán từ ngày
1/10/1988 (không có đăng ký kết hôn). Trong lễ cưới, cha mẹ anh T tuyên bố cho chị
H một sợi dây chuyền (5 chỉ vàng). Hai năm sau, cha mẹ anh T cho vợ chồng anh
mảnh đất 150m2 để làm nhà và hai người đã cùng đứng tên chủ quyền mảnh đất này.
Cuộc sống gia đình hạnh phúc, hai anh chị đã có các con chung là cháu M (1990) và
cháu N (1994). Đến cuối năm 2007, giữa hai người phát sinh mâu thuẫn. Ngày
12/10/2008, anh T đã làm đơn xin ly hôn gửi đến Toà án (Toà đã thụ lý).
Trong thời gian chờ giải quyết vụ việc, ngày 15/10/2008, anh T đã kết hôn với chị
X (có đăng ký kết hôn).
- Toà án sẽ giải quyết vụ việc như thế nào (chia tài sản và con chung) ? Tại sao?
Về chia tài sản:
Trong lễ cưới, cha mẹ anh T đã tuyên bố cho chị H sợi dây chuyền nên đấy sẽ là tài
sản riêng của của chị H. Còn mảnh đất và ngôi nhà cùng với các tài sản có được trong
thời kỳ anh chị chung sống và con cái thì chia như khi anh chị ly hôn. Vì ngôi nhà anh
chị được cha mẹ anh T tặng cho chung nên là tài sản của cả hai người.
- Chị H có đơn yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật giữa anh T và chị X. Toà
án sẽ xử lý yêu cầu này ra sao?
Trả lời:
Trước tiên, ta xem xét quan hệ giữa anh T và chị H có phải là vợ chồng không.
Tại khoản 2.TT01: Đối với trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ
chồng từ ngày 03/01/1987 trở đi đến trước ngày 01/01/2001 (ngày Luật hôn nhân và
gia đình năm 2000 có hiệu lực) mà có đủ điều kiện kết hôn, nhưng chưa đăng ký kết
hôn và đang chung sống với nhau như vợ chồng, thì theo quy định tại điểm b khoản 3
Nghị quyết số 35 của Quốc hội họ có nghĩa vụ đăng ký kết hôn kể từ ngày 01/01/2001
cho đến ngày 01/01/2003; do đó, cần phân biệt như sau:
a. Kể từ ngày 01/01/2001 cho đến ngày 01/01/2003 nếu họ chưa đăng ký kết hôn
hoặc đã đăng ký kết hôn mà họ có yêu cầu ly hôn, thì Toà án thụ lý vụ án và áp dụng
quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết vụ án ly hôn
theo thủ tục chung. Cần chú ý trong trường hợp họ thực hiện việc đăng ký kết hôn theo
quy định tại điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35 của Quốc hội, thì quan hệ của họ vẫn
được công nhận là đã xác lập kể từ ngày họ bắt đầu chung sống với nhau như vợ
chồng, chứ không phải kể từ ngày đăng ký kết hôn.
Việc đăng ký kết hôn theo quy định tại điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35 của Quốc
hội do Bộ Tư pháp hướng dẫn.
b. Kể từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng ký kết hôn, thì theo quy định tại
điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35 của Quốc hội họ không được công nhận là vợ chồng;
nếu một bên hoặc cả hai bên có yêu cầu ly hôn, thì Toà án thụ lý vụ án để giải quyết và
áp dụng điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35 của Quốc hội, khoản 1 Điều 11 Luật hôn
nhân và gia đình năm 2000, bằng bản án tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng;
nếu họ có yêu cầu về nuôi con và chia tài sản, thì Toà án áp dụng khoản 2 và khoản 3
Điều 17 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết theo thủ tục chung.
Theo lý luận trên Tòa án giải quyết ly hôn giữa T & H (bằng bản án tuyên bố không
công nhận họ là vợ chồng) là đúng( theo điểm b, k1, TT01và theo c.1 NQ02/2000
HDTP), dù rằng T & H đáng lẽ ra phải có nghĩa vụ đăng ký kết hôn, vì như thế sẽ đảm
bảo quyền lợi chính đáng cho 2 con của họ ( NQ02/2000HĐTP).Tuy nhiên trong lúc
chờ giải quyết vụ việc thì T đăng ký kết hôn với X. Việc đăng ký kết hôn này đã vi
phạm khoản 1, điều 10 LHNGĐ. Tòa án sẽ tuyên bố hủy bỏ hôn nhân giữa T & M. Sau
khi giải quyết ly hôn xong giữa T và H ( có bản án của Tòa án giựa T & H có hiệu lực
pháp lý) thì T mới được đăng ký kết hôn với M.
Bài 3:
Ông Nguyễn Văn A và bà Trần Thị B xác lập quan hệ vợ chồng ngày 15.01.2000. Sau
khi nên nghĩa vợ chồng không lâu, do ông A sinh tật cờ bạc, rượu chè nên cuộc sống
của đôi bên mâu thuẫn trầm trọng. Ngày 03.03.2001, bà B gửi đơn yêu cầu Tòa án giải
quyết cho ly hôn ông A.
Qua hai lần hòa giải không thành, TAND quận Q quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tại
Bản án sơ thẩm số 274/HN - ST có hiệu lực ngày 10.06 2001, tòa phán quyết: i) Về
hôn nhân: Bà Trần Thị B. được ly hôn ông Nguyễn Văn A; ii) Về tài sản chung và con
chung: Cả hai bên khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Ngày 10.07.2001, bà B. kết hôn với ông Hồ Văn C. Ngày 20.10.2001, bà B. sinh con là
D.
Dựa vào quy định của pháp luật hiện hành, anh (chị ) hãy xác định D là con ai ? Tại
sao?
Trả lời:
1/ Xét về phap ly - nguyên tắc,: xác định D là con chung của Ph T hay con chung của T
và K cũng đều đúng. Vì :
* Quan hệ AB:
- KH: tháng 1/2000
- Xin ly hôn: tháng 3.01 và được giải quyết: tháng 6/2001
- Sinh con: ngày 20. 10/2001
D được thụ thai trong thời kỳ hôn nhân AB và sinh ra khi hôn nhân của họ chấm dứt
trong vòng 4 tháng 7 ngày: ( NĐ 70/2001: con do người vợ có thai trong TKHN và
sinh ra sau trong vòng 300 ngày từ khi bản án cho ly hôn có hiệu lực PL: là con chung
vợ chồng ) => D là con của AB
* Quan hệ BC:
- KH: tháng 7/2001
- Sinh con: 20./10/2001
=> D được thụ thai trước thời kỳ hôn nhân và sinh ra trong thời kỳ hôn nhân của BC
NĐ 70: con do người vợ có thai trước thời kỳ hôn nhân và sinh ra trong thời kỳ hôn
nhân là con chung. => D là con chung của BC theonguyen tac suy doan phap ly.
2/ Xét về thực tế, NN thường tôn trọng HN đang tồn tại tại thời điểm con được sinh ra
nên suy đoán người chồng sau là cha của đưa trẻ ( tên người chồng sau sẽ được ghi vào
phần họ tên người cha trong giấy khai sinh của trẻ – trừ trường hợp người chồng sau
không chấp nhận và chứng minh được anh ta không phải là cha mà là người chồng
trước thì có thể xác định lại theo thủ tục tố tụng .
Nếu có tranh chấp và có yêu cầu TAND giải quyết thì XD ai là cha của cháu D, phụ
thuộc vào bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án .Việc xác định gen ADN không
bắt buộc trong tố tụng mà phụ thuộc vào sự tự nguyên của A và C.
Bài 4:
Tháng 5/1995, anh A kết hôn cùng chị B. Tháng 9/1997, do mâu thuẫn, hai bên quyết
định ly thân và chia đôi TS chung là 8 chỉ vàng (Thỏa thuận được chính quyền địa
phương công nhận). Ngay sau đó, chị B bỏ về nhà mẹ đẻ sống. Tháng 6/2000, chị B
sinh một cháu trai nhưng không đăng ký khai sinh và cũng không nói rõ bố cháu là ai.
Cuối năm 2001, anh A nộp đơn xin ly hôn chị B.
Trong khi việc ly hôn chưa được giải quyết thì ngày 02. 06. 2002, anh A đột tử do tai
nạn giao thông. Sau khi A chết, gia đình A bất ngờ phát hiện 5 tờ vé số trúng độc đắc
trị giá 255 triệu do A mua trước đó mà chưa kịp lĩnh. Cùng lúc, chị B khi nghe tin liền
yêu cầu gia đình A chia cho mẹ con chị toàn bộ số tiền trúng thưởng mà anh để lại
(Cha, mẹ anh A đã mất và lúc này chị B cũng đã tiến hành đăng ký khai sinh cho cháu
bé với tên gọi là Nguyễn Văn C, tên cha là Nguyễn Văn A). Song, người thân thích của
anh A phản đối vì theo họ, A và B đã chia TS chung và trên thực tế, họ cũng đã ly
thân, không còn quan hệ vợ chồng. Trước tình thế đó, chị B khởi kiện ra Tòa yêu cầu
được bảo vệ quyền lợi.
Trên cơ sở PL, hãy xác định chủ sở hữu số tiền 255 triêu tranh chấp trên? Theo bạn,
chị B và con có được hưởng di sản thừa kế của anh A không , vì sao?
Trả lời:
a. 1// Đã chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Đ30 + Đ8 NĐ 70: về hậu quả TS
sau khi chia: thu nhập hợp pháp của mỗi bên sau khi chia TSC là TS rieng ( tiên tso la
ts rieng cua A )
b. 2// nhung do quan hệ HN vẫn tiếp tục tồn tại: => TS riêng của A. // A chết không để
lại di chúc => giá trị vé trúng thưởng được chia theo luật: cha mẹ, vợ và con anh kiểu.
Nếu cha, mẹ anh kiểu chết thì chị Bùi và con được hưởng thừa kế ở hang thu nhat
Bài 5:
Trước khi kết nghĩa vợ chồng hợp pháp cùng chị H vào đầu tháng 4 /1999, anh Ph sở
hữu một ngôi nhà trên phố trị giá 200 triệu đồng. Sau kết hôn, anh Ph và chị H về sống
tạm tại khu tập thể nhỏ nơi chị H công tác. Anh Ph cũng quyết định đưa ngôi nhà thuộc
sở hữu riêng của mình vào sử dụng chung - cho thuê - hầu lấy tiền trang trải cuộc sống
của chồng vợ. Vì chi H có thai và sinh con ngay sau khi kết hôn; anh Ph cũng chưa tìm
được việc làm mới do doanh nghiệp nơi anh làm việc vừa bị Tòa án tuyên bố phá sản
nên hoàn cảnh kinh tế của anh Ph, chị H rất chật vật. Thu nhập hàng tháng từ việc cho
thuê ngôi nhà là nguồn sống duy nhất của gia đình họ.
Tháng 3/2002, sau khi cùng một người bạn bàn bạc hùn vốn mở công ty kinh doanh,
anh Ph đã bán ngôi nhà của mình cho một thương gia với giá 450 triệu đồng. Khi chị H
tỏ ý bất bình về việc anh Ph tự định đoạt ngôi nhà mà không hề cho chị biết, anh Ph
cho rằng căn nhà trên là tài sản riêng của anh nên anh có toàn quyền quyết định.
Theo anh ( chị ), quan điểm của anh Ph đúng hay sai ? Tại sao? Nếu có tranh chấp xảy
ra, cơ quan có thẩm quyền sẽ giải quyết như thế nào ?
Bài 6:
Anh T và chị H sống chung với nhau không đăng kí kết hôn mà chỉ tổ chức lễ cưới
theo phong tục truyền thống bắt đầu từ ngày 1/4/1991, năm 1993 anh chị sinh được M,
năm 1999 sinh được N. năm 2000 chị H được bố mẹ cho 250 triệu, năm 2001 bố mẹ
anh T cho vợ chồng anh chị 200 triệu, năm 2005 anh chị dùng số tiền này mua được
căn nhà cấp bốn 90m2, năm 2008 anh chị phát sinh mẫu thuẫn, đồng nghiệp hàng xóm
và gia đình hòa giải không được. ngày / /2008 chị H viết đơn tời tòa án huyện X xin li
hôn và yêu cầu chia tài sản của vợ chồng.
1. Tòa sẽ giải quyết quan hệ hôn nhân của hai người như thế nào? Không cong nhan
quan he vc do khong dkkh theo nq 35 va tt 01
2. Tòa án sẽ giải quyết việc chia tài sản của hai người như thế nào? Giai quyet nhu huy
hon: cua ai nguoi do nhan ve , chung:chia theo cs dong gop
Bài 7:
Anh T và chị H được gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán từ ngày
1/10/1988 (không có đăng ký kết hôn). Trong lễ cưới, cha mẹ anh T tuyên bố cho chị
H một sợi dây chuyền (5 chỉ vàng). Hai năm sau, cha mẹ anh T cho vợ chồng anh
mảnh đất 150m2 để làm nhà và hai người đã cùng đứng tên chủ quyền mảnh đất này.
Cuộc sống gia đình hạnh phúc, hai anh chị đã có các con chung là cháu M (1990) và
cháu N (1994). Đến cuối năm 2007, giữa hai người phát sinh mâu thuẫn. Ngày
12/10/2008, anh T đã làm đơn xin ly hôn gửi đến Toà án (Toà đã thụ lý). Trong thời
gian chờ giải quyết vụ việc, ngày 15/10/2008, anh T đã kết hôn với chị X (có đăng ký
kết hôn).
- Toà án sẽ giải quyết vụ việc như thế nào (chia tài sản và con chung) ? Tại sao?
- Chị H có đơn yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật giữa anh T và chị X. Toà
án sẽ xử lý yêu cầu này ra sao?
Trả lời:
1. CHIA TS; KHÔNG CONG NHAN TH LA VC: CHIA NHU HUY HON D 17;
DAY CHUYEN: H; QUYEN SU DUNG DAT: CHIA DOI,
CON: N DUOC CAP DUONG, AI O TRUC TIEP NUOI PHAI CAP DUONG;
2. KHÔNG HUY VI KHÔNG VI PHAM – ANH T DUOC COI NHU NGUOI CHUA
CO VO ( Nếu như trong khoảng thời gian từ 01/01/2001 đến 01/01/2003 anh chị đi
đăng ký kết hôn thì toà án sẽ công nhận quan hệ vợ chông từ thời điểm anh chị chung
sống với nhau. Sau ngày 01/01/2003 thì đăng ký lúc nào công nhận từ thời điểm đang
ký. Ở đây, do anh T và chị H không đăng ký nên không được coi là vợ chồng nên anh
T và chị X kết hôn sẽ không bị huỷ kết hôn trái pháp luật do một bên đang có vợ có
chông ).
Bài 8:
.Anh A và chị B kết hôn năm 1995. Năm 5 sau kết hôn, hai vợ chồng đã tích góp mua
được một ngôi nhà diện tích 70 m2 và có một con chung là N ( sinh năm 2000 ). Năm
2002, anh A chết đột ngột do tai nạn giao thông.
Sau khi anh A chết, chị B và con vẫn tiếp tục ở tại ngôi nhà này. Vì không còn khả
năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và do không còn ai nuôi dưỡng, bà H (
mẹ ruột của anh A ) đã yêu cầu phân chia phần tài sản của anh A trong khối di sản thừa
kế. Tuy nhiên, hoàn cảnh gia đình chị B sau khi anh A chết cũng rất éo le: Chị B phải
nuôi con nhỏ ( 2 tuổi ); bản thân chị lại không có thu nhập gì đáng kể do không có việc
làm; trong lúc đó, ngôi nhà thuộc di sản thừa kế lại là nơi ngụ duy nhất, nếu đem phân
chia sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc của sống của hai mẹ con chị. Trước tình thế
đó, chị B đã làm đơn yêu cầu TA tạm hoãn việc phân chia di sản thừa kế là căn nhà nói
trên.
Theo anh ( chị ), TA sẽ giải quyết các yêu cầu trên như thế nào ? Vì sao phải giải quyết
như vậy ?
Trả lời:
- Xác định ngôi nhà là di sản thừa kế ; xác định người thừa kế theo luật của anh A ở
hàng thứ nhất: bà H, chị B và cháu N;
- Nhận định việc bà H - mẹ ruột anh A yêu cầu phân chia di sản do anh A để lại là có
căn cứ ( K2Đ12NĐ70: người thừa kế của bên chồng túng thiếu, không có khả năng lao
động, không có TS tự nuôi mình và không có người khác cấp dưỡng ) đồng thời nhận
định việc chị B yêu cầu hạn chế phân chia di sản thừa kế cũng có cơ sở ( K3Đ31
LHN&GĐ và KĐ12NĐ 70: do hoàn cảnh, chị B phải xin hạn chế quyền phân
chia… );
- Áp dụng K2Đ12NĐ70, giải quyết như sau: Quyết định cho chia di sản thừa kế nhưng
phải trên cơ sở cân nhắc, đảm bảo quyền lợi của chị B và con.
Bài 9:
Năm 2006, TAND quận H công nhận cho chị T. với anh S. được thuận tình ly hôn. Về
con chung, hai bên thỏa thuận giao cho chị T. nuôi, anh S. có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi
con một lần là 100 triệu đồng. Sau khi quyết định trên có hiệu lực, anh S. lại có đơn
yêu cầu tòa giải quyết cho anh trực tiếp nuôi con. Anh cho rằng chị T. không có khả
năng bằng anh, hơn nữa chị bỏ bê con tại nhà trẻ đến khuya mới đón về. Trong khi tòa
chưa giải quyết, anh S. đã tự đưa con về trực tiếp nuôi dưỡng.
Tháng 12-2007, TAND quận H đã bác yêu cầu của anh S. Anh kháng cáo lên TAND
tỉnh Q. Sau đó, TAND tỉnh xử chấp nhận yêu cầu được trực tiếp nuôi con của anh S.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng, bản án phúc thẩm tuyên chị T. không phải cấp dưỡng nuôi
con. Các quyết định còn lại của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị vẫn
được giữ nguyên. Do vậy, theo bản án này, cơ quan THA vẫn phải thi hành bản án sơ
thẩm năm 2006 tuyên anh S. cấp dưỡng 100 triệu đồng cho con.
Anh ( chị ) nhận xét như thế nào về phán quyết trên của Tòa phúc thẩm Tòa án thành
phố Q ?
Trả lời::
Khoản 4 Điều 61: người cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi người được cấp dưỡng thì nghĩa
vụ cấp dưỡng được chấm dứt. Trong vụ này, Tòa án chỉ cứng nhắc chỉ xem xét phần
kháng cáo của đương sự về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con mà không xác định
lại trách nhiệm cấp dưỡng ( bỏ sót phần cấp dưỡng do đương sự không yêu cầu ). L ẽ
ra khi thụ lý đơn, Tòa phải giải thích và hướng dẫn để đương sự bổ sung phần kháng
cáo để quyết định của tòa hợp lý, toàn diện hơn