LỜI NÓI ĐẦU
Ấn Độ là một trong những cái nôi của nền triết học phương đông, và cũng
chính nơi đây, đã khai sinh ra nhiều trường phái triết học và tôn giáo lớn trên thế
giới “một tiểu vũ trụ của các tôn giáo và các nền triết học”. Nói đến Ấn Độ người
ta liền nghĩ ngay đến triết học Ấn Độ và Phật giáo. Đây là hai trường phái triết học
- tôn giáo lớn của Ấn độ nói riêng và của nhân loại nói chung.
Mặc dù ra đời cách đây hơn mấy nghìn năm, trải qua biết bao thăng trầm
lịch sử, sự nghiệt ngã của dòng thời gian…nhưng nó vẫn mang giá trị tri thức của
nhân loại và có thể đương đầu với mọi vấn đề của xã hội hiện đại; Như nhà vật lý
học nổi tiếng người Đức Albert Einstein (1879-1955) đã nói về Phật giáo: “Nếu có
một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật
Giáo hay tôn giáo của tương lai sẽ là tôn giáo toàn cầu vượt lên mọi thần linh giáo
điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên
đặt trên căn bản của ý thức đạo lý phát sinh từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi
phương diện trên. Trong cái nhất thể đầy ý nghĩa đó chỉ có Đạo Phật đáp ứng đủ
các điều kiện đó”.
Tuy các trường phái triết học Ấn Độ và Phật giáo đều ra đời tại Ấn độ
nhưng có nhiều điểm khác nhau. Với tiểu luận học phần lịch sử triết học Cao học,
học viên mạnh dạn tự nghiên cứu, tìm hiểu cho chính bản thân mình và có thể chia
sẻ một phần kiến thức cho những học viên, đồng nghiệp muốn tìm hiểu hai tôn
giáo ấy với hướng tiếp cận nhỏ là chỉ giới thiệu đôi nét về sự khác nhau cơ bản
giữa hai trường phái triết học - tôn giáo ấy đó là các quan niệm về giá trị con
người, quan niệm về linh hồn, tư tưởng về nghiệp và quan niệm về giải thoát.
1
NỘI DUNG
I- KHÁI LƯỢC VỀ LỊCH SỬ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CHÍNH THỐNG VÀ
ĐẠO PHẬT (PHẬT GIÁO)
1- BỐI CẢNH XÃ HỘI ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
1.1- Vài nét về điều kiện tự nhiên
Ấn độ cổ đại là một bán đảo có diện tích lớn nằm ở miền Nam châu Á.
Đông nam và tây nam giáp với Ấn độ dương; Phía bắc là dãy núi Hymalaya hùng
vĩ với vòng cung dài 2.600 km. Có 5 con sông trong đó có hai con sông lớn nổi
tiếng là sông Indu (sông Ấn) và sông Hằng. Từ hai con sông này đã hình thành
nên đồng bằng phù sa thuận lợi cho việc trồng trọt, đồng thời cũng là nơi sản sinh
ra nền văn hóa cổ xưa và rực rỡ nhất châu Á. Phía nam Ấn độ là vùng đất nghèo
nàn, cằn cõi, khô hạn, quanh năm nắng nóng. Do vậy, khí hậu giữa các miền của
Ấn Độ không đồng nhất với nhau, có nơi quanh năm tuyết phủ, có nơi lại khô hạn,
nắng nóng. yếu tố địa lý như vậy đã ảnh hưởng mạnh đến sự hình thành văn hoá,
tôn giáo và tư tưởng triết học của người Ấn Độ cổ đại.
1.2- Về kinh tế - chính trị và lịch sử xã hội
Kinh tế chủ yếu của người Ấn độ cổ đại là nông nghiệp lúa nước, ngoài ra
ngành chăn nuôi cũng phát triển mạnh.Vì nhu cầu cuộc sống nên nghề làm đồ gốm,
đồ đồng cũng phát triển; từ đây quan hệ buôn bán, trao đổi xuất hiện ở hình thức sơ
khai. Theo đà phát triển của xã hội, nghề thủ công nghiệp đã xuất hiện và gặt hái
những thành tựu đáng kể.
Vào khoảng thế kỷ XV đến thế kỷ X trước công nguyên (TrCN), các bộ lạc
du mục người Aryan đã di cư vào Ấn độ. Họ đã học tập được kỹ thuật canh tác của
người dân bản xứ và thay đổi lối sống từ chăn nuôi du mục sang định cư làm
ruộng. Về sau người Aryan tổ chức ra các công xã nông thôn và phân chia ruộng
đất cho các thành viên trong công xã. Khoảng thế kỷ X đến thế kỷ VI trCN, thế lực
người Aryan bành trướng dẫn đến kinh tế phát triển nhanh chóng, từ đây sự phân
hóa giai cấp gay gắt tạo điều kiện hình thành các quốc gia. Như ở miền bắc Ấn độ,
thế kỷ thứ VI trước CN có đến mười sáu quốc gia, hùng mạnh nhất là quốc gia
2
Magadha ở hạ lưu sông Hằng. Về sau, vương triều Magadha bị lật đổ, thành lập
nên triều đại Maurya (312 trCN), Asoka đã thống nhất và kiểm soát toàn bộ Ấn độ.
Sau khi Asoka mất vương triều này suy sụp và dẫn đến diệt vong vào năm 28
trCN. Ấn độ lại bị ngoại bang xâm lược, mãi đến thế kỷ IV thì mới mới được
thống nhất dưới triều Gupta và triều đại Harsa. Vào thế kỷ XVIII, Ấn Độ bị đế
quốc Anh đô hộ, từ đó Ấn Độ bước sang thời kỳ thống nhất về chính trị, thúc đẩy
sự kết hợp giữa văn hoá cổ truyền với văn hoá phương Tây.
1.3- Về văn hóa và các thành tựu khoa học: Ngôn ngữ và chữ viết có
trước khi người Aryan xâm nhập vào Ấn độ, họ đã dùng tiếng nói của mình để
sáng tác ra bộ Kinh Veda (ngôn ngữ Veda). Thiên văn học xuất hiện từ thời Veda,
họ sáng tạo ra lịch pháp, giải thích được hiện tượng nhật thực, nguyệt thực….Toán
học xuất hiện rất sớm, phát minh ra chữ số thập phân và hình tượng các chữ số.
Đặc biệt là họ đã tính được số Pi khá chính xác, biết về đại số và lượng giác, biết
giải phương trình bậc hai, bậc ba. Trong lĩnh vực y học đã xuất hiện những danh y
nổi tiếng, chữa bệnh bằng thuật châm cứu và bằng thuốc thảo mộc. Về sau y học
ngày càng phát triển, họ đã biết điều trị bệnh lâm sàng một cách thuần thục và
chính xác… Kiến trúc nổi bật nhất là lối kiến trúc xây dựng chùa chiền, đền tháp.
Văn học Ấn độ đã sáng tác ra các áng văn chương bất hủ như bộ Veda và các bộ sử
thi: Mahabharata, Ramayana…..đây là niềm tự hào của nền văn hóa Ấn độ. Nét nổi
bật của văn hoá Ấn Độ cổ, trung đại là mang dấu ấn sâu đậm về tín ngưỡng, tôn
giáo và tâm linh.
2. CÁC TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CHÍNH THỐNG (VỚI TƯ
CÁCH LÀ CÁC TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC - TÔN GIÁO)
2.1- Trường phái triết học Samkhya, trường phái này do nhà thông thái
Kapila sáng lập vào khoảng thế kỷ thứ VI TrCN. Samkhya có nghĩa là “số”, "đếm"
nghĩa gốc của từ Samkhya là “liệt kê”. Thời kỳ đầu Samkhya có tinh thần duy vật,
sau đó chuyển sang nhị nguyên luận, tức là thừa nhận sự tồn tại của vật chất lẫn sự
tồn tại của linh hồn. Samkhya cho rằng thế giới không do Thượng Đế sáng tạo, vạn
vật có được là do nguyên thể vật chất đầu tiên Prakriti sinh ra. Nếu Prakriti được
xem là bản nguyên của vạn vật, thì Purusha được xem là bản nguyên của tinh thần.
Hai bản nguyên Prakriti và Purusha tuy tồn tại độc lập nhưng lại có mối quan hệ
3
chặt chẽ với nhau. Purusha không phải là Thượng Đế mà là nguyên lý tinh thần,
tồn tại độc lập phổ biến, nhiều vô tận và vĩnh cửu. Tự nó không hoạt động nhưng
lại là yếu tố cần thiết, làm chất xúc tác cho Prakriti. Còn tự thân Prakriti hàm chứa
nguyên nhân cho cơ năng để tạo nên vật chất, cơ năng đó chính là sự liên kết,
tương tác giữa ba tính chất - Guna: Sattva, Rajas và tamas. Nếu chưa có sự quan
chiếu của Purusha thì ba tính chất - Guna vẫn còn trong trạng thái tĩnh và prakriti
chưa tạo ra vạn vật. Nhưng khi có sự quan chiếu của Purusha thì trước tiên phần
rajas tự phá vỡ ra ngoài trạng thái tĩnh, tiếp theo là yếu tố sattva và cuối cùng là
tamas, lúc ấy vạn vật mới được hình thành, trong đó có con người. Phái Samkhya
cho rằng, tính đa linh hồn là một sự kiện do thể nghiệm đem lại và chính vì thế
trong mỗi thân xác mỗi người có một linh hồn riêng biệt - một phần của Purusha.
Chính sự khác biệt về linh hồn trong mỗi cá thể nên dẫn đến mỗi người có ý nghĩ
và hành động cũng như lời nói khác nhau dẫn đến nghiệp - Karman khác nhau.
2.2- Trường phái triết học Mimansa, là một trong những trường phái
chính thống của triết học Ấn Độ cổ đại do triết gia Jaimini sáng lập vào khoảng thế
kỷ thứ II TrCN. Xuất phát điểm của Mimansa là dựa vào bộ kinh Veda và
Upanishad. Từ Mimansa theo nghĩa đen là “tư tưởng được kính trọng” vì nó được
áp dụng vào việc diễn giải lễ nghi trong Veda và đòi hỏi sự kính trọng cao nhất. Về
mặt triết học, đây là trường phái nhị nguyên luận, vì nó thừa nhận sự tồn tại của
bản nguyên tinh thần tức Brahman và bản nguyên vật chất trong thế giới "tinh thần
thế giới vô ngã". Họ cho rằng linh hồn trong mỗi cá nhân chỉ là hiện thân của
Brahman-tinh thần vũ trụ vĩnh cửu, tuyệt đối và bất diệt. Vì vậy, xét về bản chất thì
linh hồn cá thể đồng nhất với linh hồn vũ trụ - Brahman. Trường phái này quan
niệm linh hồn cá thể bị trói buộc bởi thể xác, nhục dục, mất đi bản lai thanh tịnh.
Và một khi linh hồn không còn sáng suốt thanh tịnh thì không thể đạt đến sự giải
thoát bằng con đường tri thức hay tư duy trừu tượng, mà chỉ có thể giải thoát bằng
việc thực hiện đúng mọi luật lệ, quy tắc, nghi thức được quy định trong kinh Veda.
Mimansa thừa nhận sự tồn tại của thế giới vật chất. Thế giới này tồn tại vĩnh viễn,
do những nguyên tử tạo nên. Những nguyên tử này bị các quy luật của Karma điều
khiển. Đến đây Mimansa lại nghiêng sang chủ nghĩa duy tâm, biểu hiện rõ tinh
thần nhị nguyên luận. Mimansa không thừa nhận sự tồn tại của thần, vì không có
4
đầy đủ bằng chứng về sự tồn tại của thần, vì cảm giác không nhận ra thần, nguồn
gốc của tri thức suy cùng là dựa trên cảm giác.
2.3- Trường phái triết học Vedanta, theo nghĩa đen Vedanta tức là sự hoàn
thiện kinh Veda. Kinh điển đầu tiên là Vedanta - sutra được coi do Badarayna viết,
nhằm hệ thống, thống nhất hoá ccác quan điểm triết học của Upanisad. Vì vậy
Vedanta còn có nghĩa là "kết thúc Veda". Vedanta thể hiện thế giới quan duy tâm
tôn giáo. Trường phái này chỉ thừa nhận có linh hồn con người (Atman) và linh
hồn vũ trụ, hay tồn tại tuyệt đối (Brahman) là tồn tại thật. Còn thế giới vật chất chỉ
là ảo ảnh (Maya) sinh ra do vô minh (Avidya). Vì linh hồn Atman bị che lấy bởi
thế giới vật dục, thế giới hiện tượng biến ảo, vô thường nên mới bị trầm luân sinh
tử. Con người chỉ có thể tìm đến sự giải thoát bằng con đường nhận thức trực giác,
phép nội tỉnh và “thực nghiệm tâm linh”. Một khi nhận thức được bản chất của
Atman và Brahman thì con người sẽ trút bỏ được mọi sự ràng buộc, mê hoặc của
thế giới vật chất hữu hình, hữu hạn này. Con người sẽ không còn lòng tham vị kỷ
tư lợi, chấm dứt mọi ham muốn nhục dục, vật chất; vượt lên mọi quan niệm thiện
và ác, sống và chết, sống hòa hợp, thanh thản, vô dục, an lạc và tự tại. Đó chính là
sự giải thoát. Theo môn phái này, để đạt đến sự đồng nhất giữa linh hồn cá thể và
linh hồn tối cao - giải thoát chỉ có thể thực hiện được bằng sự tu luyện, chiêm
nghiệm nội tâm, bằng tính năng động của tinh thần cộng với sự hiểu biết và lòng
kính yêu Thượng đế Brahman, ngoài cách này ra không còn cách nào khác.
2.4- Trường phái triết học Yoga, do đạo sĩ Patanjali sáng lập. Ông là người
hệ thống hóa các cách tu luyện Yoga đã có từ trước của Ấn Độ thành bộ Yoga
sutra - tài liệu căn bản của Yoga, được viết vào khoảng năm 150 Tr CN. Yoga theo
nghĩa đen là “sự liên kết” có nghĩa là sự đoàn kết tinh thần của linh hồn riêng biệt
với linh hồn vũ trụ, hay “”hợp nhất tâm thể về một mối”. Yoga chấp nhận ba
Pramana là nhận thức, suy luận và chứng thực cùng với hai mươi lăm nguyên lý
của phái Sankhya. Vì vậy triết học Yoga rất gần gũi với tư tưởng triết học của
trường phái Sankhya trong quan điểm nhận thức luận và phần siêu hình. Nhưng sự
thừa nhận Thượng đế của phái Yoga không có ý nghĩa nhiều lắm về phương diện
triết học. Thượng đế hay thần chỉ là một loại linh hồn không khác gì mấy với linh
hồn cá thể. Vì vậy, bằng phương pháp luyện tập và tu luyện nhất định, con người
5
có thể điều khiển và tự làm chủ được bản thân mình, tiến đến làm chủ được vạn vật
và cao hơn nữa là đạt tới sự "giải thoát", "tự do tuyệt đối". Yoga còn là phương
pháp dưỡng sinh được xây dựng trên cơ sở nhận thức về thế giới và con người. Nó
cho rằng cuộc đời con người chỉ là ảo ảnh, không có thực và luôn thay đổi. Hình
thể con người được coi là cái vỏ và không tồn tại vĩnh hằng. Nó sẽ bị mất đi và chỉ
còn lại linh hồn (Atman) là tồn tại. Linh hồn con người là một bộ phận của
Brahman nên nó phải thoát ra khỏi cái vỏ của mình (tức hình thể) để nhập với
Brahman, làm cho con người siêu thoát. Yoga đưa ra 8 phương pháp để thoát ra
khỏi thể xác là: Cấm chế (Yama): Giữ các điều răn (giới), bao gồm ngũ giới: Sát
sinh, đạo, vọng ngữ tà dâm, của riêng; Khuyến chế (Niyama): Thanh tịnh trong học
tập kinh điển; Tọa pháp (Anasa): Giữ vị trí thân thể đúng đắn; Điều tức
(Pranayama): Giữ hơi thở đều, sâu, nhịp nhàng; Chế cảm (Pratyahara): Điều khiển
cảm giác sao cho lúc ngồi thiền, giác quan được thoải mái; Chấp trì (Dharana): Tập
trung tư tưởng; Thiền định (Dhyana): Giữ tâm thống nhất; Đẳng trì hay Tam muội
(Samadhi): Đưa tâm đến hư không, chứng được cảnh giới sán lạn. Phương pháp tu
luyện này sẽ sản sinh ra những năng lượng lớn mà những người bình thường
không đạt được. Nhiều phái cho rằng, nếu thực hiện các phương pháp Yoga thì sẽ
có sức mạnh siêu nhiên.
2.5- Trường phái triết học Nyaya - Vaisesika
Đây là hai trường phái khác nhau nhưng có những quan điểm triết học tương
đồng, nhất là vào giai đoạn hậu kỳ. Đại biểu cho phái Nyaya là Gantana, tác giả
của "Nyaya - Sutra". Đại biểu cho phái Vaisesika là Kananda, tác giả của
"Vaisesika - Sutra". Tư tưởng triết học cơ bản của hai phái này là học thuyết
nguyên tử, lý luận nhận thức và logic học.
a- Thuyết nguyên tử
Bên cạnh việc thừa nhận sự tồn tại của nguyên tử, phái này còn cho rằng có
sự tồn tại của những linh hồn ở những trạng thái phụ thuộc hoặc ở ngoài những
nguyên tử vật chất, gọi là Ya mà đặc tính của nó được thể hiện ra như ước vọng, ý
chí, vui, buồn, giận hờn...Để thấu triệt nguyên lý thống nhất của những cái hiện
hữu, hai phái này đã tìm đến lực lượng thứ ba mang tính chất siêu nhiên, giữ vai
6
trò phối hợp, điều phối sự tác động của các linh hồn giải thoát ra khỏi các nguyên
tử.
b- Nhận thức luận và lôgic học
Hai phái này đã có những tư tưởng duy vật và đã có những đóng góp vào lý
luận nhận thức như: thừa nhận sự tồn tại khách quan của đối tượng nhận thức; đề
cao vai trò của kinh nghiệm trong nhận thức v.v.. Theo họ nhận thức có thể tin cậy,
và cũng có thể không đáng tin cậy. Nhận thức tin cậy là sự phản ánh không nghi
ngờ và trung thành với hình ảnh của đối tượng. Có bốn hình thức nhận thức không
đáp ứng được yêu cầu đó và được coi là không đáng tin cậy, là ký ức, nghi ngờ, sai
lầm và mới là giả thiết, chưa có chứng cứ chắc chắn. Vì vậy, cần phải kiểm tra tính
đúng sai của nhận thức một cách thực tế. Nhận thức là đúng đắn khi nó phù hợp
với bản chất của đối tượng và ngược lại. Họ cho rằng thực tiễn là thước đo duy
nhất để kiểm tra nhận thức. Thí dụ: Nước do ảo ảnh là giả vì không giải khát được,
còn nước trong hồ là thật vì có thể giải khát được. Thuyết biện luận của phái
Nyaya có đóng góp quan trọng về lôgic hình thức. Họ đưa ra hình thức biện luận
gọi là "Ngũ đoạn luận" gồm năm mệnh đề:
1. Luận đề: Đồi có lửa cháy
2. Nguyên nhân: Vì đồi bốc khói
3. Thí dụ: Có khói thì có lửa, giống như ở trong bếp lò.
4. Suy đoán: Đồi bốc khói thì không thể không có lửa cháy
5. Kết luận: Do đó đồi có lửa cháy.
Các phái này ban đầu có tư tưởng vô thần và đấu tranh chống chủ nghĩa duy
tâm triết học. Song ở giai đoạn cuối, họ lại thừa nhận có thần và cho rằng thần đã
dùng nguyên tử để tạo nên thế giới. hai phái này là quy toàn bộ tính đa dạng của
tồn tại vào bốn yếu tố vật chất: đất, nước, lửa, gió (hay không khí). Những yếu tố
này lại được quy vào bản nguyên duy nhất, đầu tiên là những hạt nhỏ vật chất
không đồng nhất, bất biến và vĩnh hằng, được phân biệt ở chất lượng, khối lượng
và hình dạng, tồn tại trong một môi trường đặc biệt, trong không gian và thời gian,
được gọi là nguyên tử (Anu).
3. PHẬT GIÁO
7
Phật giáo là một trường phái triết học - tôn giáo xuất hiện vào khoảng cuối
thế kỷ VI tr.CN ở miền Bắc ấn Độ, phía Nam dãy Hymalaya, vùng biên giới giữa
ấn Độ với Nêpan hiện nay. Đạo Phật ra đời trong làn sóng phản đối sự ngự trị của
đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp, lý giải căn nguyên nỗi khổ và tìm con đườn giải
thoát con người khỏi nỗi khổ đó. Người sáng lập Đạo Phật là Thích Ca Mâu Ni có
tên thật là Siddharha Tất Đạt Đa) họ là Gautama (Cù Đàm), con trai đầu của vua
Suddhodana (Tịnh Phạn) dòng họ Sakya, có kinh đô là thành Kapilavatthu (Ca- tỳ
- la - vệ). Phật Thích Ca sinh ngày 8 tháng 4 năm 563 trCN và mất năm 483 trCN.
Năm 29 tuổi, ông từ bỏ cuộc sống vương giả đi tu luyện tìm con đường diệt trừ nỗi
đau khổ của chúng sinh. Sau 6 năm khổ luyện, ông đã "ngộ đạo", tìm ra chân lý
"Tứ diệu đế" và "Thập nhị nhân duyên". Tư tưởng triết lý Phật giáo ban đầu chỉ
truyền miệng, sau đó viết thành văn thể hiện trong kinh "Tam tạng"(Tripitaka) gồm
ba bộ phận: 1) Tạng kinh (Sutra - pitaka) ghi lời Phật dạy; 2) Tạng luật ( Vinaya pitaka) gồm các giới luật của đạo Phật; 3) Tạng luận ( Abhidarma - pitaka) gồm
các bài kinh, các tác phẩm luận giải, bình chú về giáo pháp của các cao tăng, học
giả về sau.
a- Thế giới quan: Thế giới quan Phật giáo nguyên thủy chứa đựng những
yếu tố duy vật và biện chứng chất phác, phủ nhận tư tưởng về đấng sáng tạo
Brahman, cũng như phủ nhận "Cái tôi" (Atman) và dưa ra quan niệm "Vô ngã"
(Anatman) và "Vô thường"; Phạm trù "Vô ngã" bao hàm tư tưởng cho rằng, vạn
vật trong vũ trụ chỉ là sự "giả hợp" do hội đủ nhân duyên nên thành ra "có" (tồn
tại). Ngay bản thân sự tồn tại của thực thể con người cũng do nhân duyên kết hợp
và được tạo thành bởi hai thành phần là thể xác (Rupa - sắc) và tinh thần (Nâma danh), do sự hợp tan của ngũ uẩn (sắc - thụ - tưởng - hành - thức). Duyên hợp ngũ
uẩn thì là ta, duyên tan ngũ uẩn ra thì không còn là ta, là diệt, nhưng không phải là
mất đi mà là trở lại với ngũ uẩn. Ngay các yếu tố của ngũ uẩn cũng luôn biến hóa
theo luật nhân quả không ngừng nên vạn vật, con người cứ biến hóa vụt mất, vụt
còn, không có sự vật riêng biệt tồn tại mãi mãi, không có cái tôi thường định (An Atman).
Phạm trù "Vô thường" gắn liền với phạm trù "vô ngã". "Vô thường" nghĩa là
vạn vật trong thế giới chỉ là dòng biến hóa, vận động, vô định không có người sáng
8
tạo nên cả (Vô tạo giả); tất cả đều biến đổi theo luật nhân quả, theo quá trình sinh,
trụ, dị, diệt (hay thành, trụ, hoại, không) và chỉ có sự biến hóa ấy là thường hữu.
Tất cả mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong vũ trụ đều bị chi phối bởi luật nhân
duyên. Cái nhân (Hetu) nhờ có cái duyên (pratitya) mới sinh ra được mà thành quả
(phla). Quả lại do cái duyên mà thành ra nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên
mà thành quả mới...và cứ biến đổi mãi mãi. Vì không nhận thức được sự biến ảo
vô thường đó nên người ta nhầm tưởng là cái tôi tồn tại mãi, cái gì cũng là của ta
nên con người cứ khát ái, tham dục, hành động chiếm đoạt nhằm thỏa mãn những
ham muốn, dục vọng đó tạo ra những kết quả, gây nên nghiệp báo (karma), mắc
vào bể khổ triền miên (sam - sara) tức là mắc vào kiếp luân hồi.
b- Nhân sinh quan: Thừa nhận quan niệm "Luân hồi" và "Nghiệp" trong
Upanishad, Phật giáo đặc biệt chú trọng triết lý nhân sinh, đặt mục tiêu tìm kiếm
sự giải thoát cho chúng sinh khỏi vòng luân hồi, nghiệp báo để đạt tới trạng thái
tồn tại Niết bàn (Nirvana). Từ sự lý giải về căn nguyên nỗi khổ của con người,
Thích Ca Mâu Ni đã đưa ra thuyết "Tứ diệu đế" và " Thập nhị nhân duyên" để giải
thoát chúng sinh ra khỏi mọi nỗi khổ và kiếp nghiệp báo, luân hồi. Đây là triết lý
nhân sinh chủ yếu của đạo Phật. "Tứ diệu đế" là bốn chân lý chắc chắn, hiển nhiên,
hoàn toàn cao hơn hết, gồm:
- Khổ đế: Phật giáo coi " đời là bể khổ". Có trăm ngàn nỗi khổ, nhưng có 8
nỗi khổ trầm luân, bất tận mà bất cứ ai cũng phải gánh chịu là: Sinh, lão, bệnh, tử,
thụ biệt ly (Yêu thương mà phải chia lìa), Oán tăng hội (Oán ghét nhau mà phải
sống với nhau), sở cầu bất đắc (Cầu mong mà không được), ngũ thụ uẩn (năm yếu
tố vô thường nung nấu làm nên sự đau khổ).
- Nhân đế (hay Tập đế): Giải thích những nguyên nhân gây nên đau khổ cho
chúng sinh. Đó là 12 nguyên nhân ( Thập nhị nhân duyên): 1. Vô minh; 2. Hành; 3.
Thức; 4. Danh sắc; 5. Lục nhập; 6. Xúc; 7. Thụ; 8. ái; 9. Thủ; 10. Hữu; 11. Sinh và
12. Lão, tử. Trong 12 nhân duyên ấy thì Vô minh tức là ngu tối, không sáng suốt là
nguyên nhân đầu tiên.
- Diệt đế: Là lần theo Thập nhị nhân duyên, tìm ra cội nguồn của nỗi khổ,
tiêu diệt nó và đưa chúng sinh thoát khỏi nghiệp chướng, luân hồi, đạt tới cảnh trí
Niết bàn.
9
- Đạo đế: Chỉ ra con đường diệt khổ đạt tới giải thoát. Đó là con đường "tu
đạo", hoàn thiện đạo đức cá nhân gồm 8 nguyên tắc (bát chính đạo):
1. Chính kiến: Hiểu biết đúng đắn
2. Chính tư duy: Suy nghĩ đúng đắn
3. Chính ngữ: Giữ lời nói phải
4. Chính nghiệp: Giữ đúng trung nghiệp
5. Chính mệnh: Giữ ngăn dục vọng
6. Chính tinh tiến: Rèn luyện không mệt mỏi
7. Chính niệm: Có niềm tin vững chắc vào sự giải thoát
8. Chính định: An định, không bị ngoại cảnh chi phối.
Tám nguyên tắc này có thể thâu tóm vào 3 điều phải học tập, rèn luyện là:
Giới - Định - Tuệ ( tức là: giữ giới luật, thực hành thiền định và khai thông trí tuệ
bát nhã).
Trong giai đoạn đầu, thế giới quan nhân duyên của Phật giáo đã có những
yếu tố duy vật và biện chứng tự phát. Về lĩnh vực chính trị - xã hội, đạo Phật là
tiếng nói phản kháng chế độ đẳng cấp khắc nghiệt, tố cáo chế độ xã hội bất công,
đòi tự do tư tưởng và bình đẳng xã hội, nêu lên ước nguyện giải thoát con người
khỏi nỗi bi kịch cuộc đời, khuyên người ta sống đạo đức, từ bi bác ái. Đó là những
ưu điểm của triết lý Phật giáo. Tuy nhiên trong luận thuyết về nhân sinh và con
đường giải thoát, tư tưởng Phật giáo vẫn còn hạn chế, mang nặng tính bi quan, yếm
thế về cuộc sống, chủ trương "xuất thế", "siêu thoát" có tính duy tâm, không tưởng
về những vấn đề xã hội.
II- SO SÁNH SỰ KHÁC NHAU GIỮA TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CHÍNH
THỐNG (GỌI CHUNG LÀ ẤN ĐỘ GIÁO) VÀ ĐẠO PHẬT (PHẬT GIÁO)
1. QUAN NIỆM VỀ GIÁ TRỊ CON NGƯỜI
1.1. Quan niệm về giá trị con người của Ấn độ giáo
Là con người thì ai cũng muốn có được một cuộc sống hạnh phúc trên hai
phương diện vật chất và tinh thần. Trong xã hội Ấn độ cổ đại, không phải người
nào cũng có quyền được mong cầu như thế, chỉ có những tầng lớp thượng lưu,
những người của đẳng cấp trên, cụ thể là Bà la môn và Sát đế lợi. Thời kỳ này đạo
Bà La Môn phát triển rất mạnh, chiếm địa vị độc tôn trên vũ đài tư tưởng, chi phối
10
gần như toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội. Vì để củng cố thế lực cũng như địa
vị ấy nên Bà La Môn đã phân chia xã hội ra làm bốn giai cấp lớn như sau:
- Giai cấp Brahmin (Bà la Môn): đây là giai cấp cao nhất gồm toàn bộ giới
tăng lữ, là những người có khả năng đảm trách tín ngưỡng, lo việc cúng tế, lễ nghi
và có quyền thay mặt xã hội giao tiếp với các đấng thần linh.
- Giai cấp Kshatriya (Sát đế lợi): là giai cấp của những người nắm quyền xã
hội, thống trị lãnh thổ.
- Giai cấp Vaisya (Vệ xá): gồm các thành phần thương gia, địa chủ…
- Giai cấp Sudra (Thủ đà la): là giai cấp của những người tiện dân, cùng
khổ, tôi tớ….
Ngoài các giai cấp trên còn có một giai cấp nữa gọi là Paria, là những
người nô lệ, cùng khổ. Họ không được phép sống trong cộng đồng của bốn giai
cấp trên, họ chỉ được sống ở những nơi bìa rừng hay ở xa làng xóm. Họ cũng
không được phép nói chuyện hoặc quan hệ hôn nhân với các người thuộc giai cấp
trên. Hằng ngày những người thuộc giai cấp này làm những việc khó nhọc như
thiêu xác người, đổ phân, quét đường….
Nói về sự phân chia giai cấp trong Rig Veda cũng đã khẳng định: giai cấp
Bà la môn được sinh ra từ miệng của Brahma, hai tay của Ngài tạo thành đẳng cấp
sát đế lợi. Hai bắp đùi của ngài là đẳng cấp Phệ xá. Từ hai bàn chân của Ngài là
giai cấp thủ đà la. Qua đây cho chúng ta thấy được rằng, tư tưởng của các trường
phái triết học Ấn độ quan niệm về giá trị con người hết sức bất công và không có
sự bình đẳng. Đây là sự phân biệt chủng tộc, màu da, cũng như về nguồn gốc xuất
thân. Những người thuộc giai cấp dưới phải tuân thủ nghiêm ngặt và phải tin tưởng
tuyệt đối vào sự an bài này, cụ thể là của những giáo sĩ Bà là môn. Bà là môn sở dĩ
được coi là giai cấp tối cao, bởi vì họ là người độc quyền về tri thức. Họ không
những giải thích, chú giải các bộ kinh về Veda, dạy dỗ mọi người mà còn có quyền
thay mặt mọi người tiếp xúc với các đấng thần linh. Thời bấy giờ không phải ai
cũng được học, đọc, hay nghe kinh thánh. Nếu người sudra mà nghe thánh kinh thì
tai sẽ bị điếc, bị đổ chì vào. Nếu họ tụng thánh kinh thì sẽ bị cắt lưỡi. Còn người
nào học thuộc lòng thánh kinh thì thân thể sẽ bị chặt làm hai. Đạo Bà la môn lúc ấy
11
chỉ là đạo riêng của những người Bà la môn mà thôi, họ không cho bất cứ tầng lớp
nào len lỏi vào.
Không những thế, trong quan hệ giao tiếp, hôn nhân cũng được quy định
rất chặt chẽ. Những người thuộc giai cấp thấp, nhất là giai cấp Puria không được
quyền giao tiếp, sinh hoạt với những người thuộc giai cấp trên. Họ còn cho rằng,
nếu người nào thuộc giai cấp Bà la môn không may bị người Paria giẫm lên cái
bóng của mình thì người ấy phải làm lễ tẩy trần bằng cách nhịn ăn, và tắm nước
thánh cả ngày hôm đó hay những người thuộc giai cấp thấp muốn đi qua một khu
phố hay một khu chợ thì phải báo hiệu cho mọi người biết để tránh xa họ…. Về
hôn nhân họ cấm không cho các giai cấp khác nhau kết hôn với nhau. Thậm chí
các vương tôn công tử thuộc giai cấp Sát đế lợi không được phép kết hôn với con
gái của Bà la môn. Còn nếu người Bà la môn cưới một người vợ thuộc giai cấp
sudra thì con cái của họ sinh ra bị giáng xuống đẳng cấp hèn hạ nhất. Sự phân chia
giai cấp này hết sức nghiệt ngã và quá bất công. Nếu ai không may sinh ra trong
giai cấp hèn hạ, họ phải chấp nhận số phận đó cho đến khi nhắm mắt lìa đời mà
không có cơ hội vươn lên địa vị cao hơn. Sự an bài các giai cấp trên đã làm ảnh
hưởng đến quyền lợi của các giai cấp dưới nên gây ra một cuộc phản kháng hết sức
dữ dội nhằm đòi lại quyền tự do bình đẳng từ tay của những người thuộc giai cấp
trên đã chèn ép, áp đặt cho họ.
Như vậy, theo Bà la môn giáo thì thân phận con người không được tôn
trọng như nhau, những người thuộc giai cấp trên thì được tôn trọng tuyệt đối, còn
những người thuộc giai cấp dưới được coi là những kẻ nô lệ. Đời sống vật chất của
những người thuộc giai cấp thấp còn chưa đầy đủ, thì làm gì có cơ hội thăng hoa
trong đời sống tinh thần. Đây là quan điểm của Ấn giáo về giá trị con người.
1.2. Quan điểm của Phật giáo về giá trị con người
Vì nhận ra được cuộc đời là chuỗi dài của khổ đau, luôn bị sinh, lão, bệnh,
tử chi phối nên Đạo Phật đã mang đến cho xã hội Ấn độ một luồng gió mới, một tư
tưởng cách mạng mới. Như chúng ta biết, thời bấy giờ đạo Bà la môn chiếm địa vị
độc tôn và họ đã thiết lập ra các giai cấp nhằm tước đoạt mọi quyền sống khiến cho
con người rơi vào cảnh lầm than, khổ sở...Vì lòng từ bi vô hạn cũng như với tuệ
giác siêu việt Đức Phật từng bước thiết lập lại xã hội và đưa ra nhiều quan điểm
12
đặc sắc để “chống lại” những tư tưởng tiêu cực và khắt khe của xã hội lúc bấy giờ.
Về thân phận con người cũng như nói về các giai cấp, Phật khẳng định: “Không có
đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ, không có đẳng cấp trong giọt nước mắt cùng
mặn. Một người được coi là quý tộc hay hạ tiện là ở nơi hành vi của họ mà không
phải ở đẳng cấp sinh ra”. Như vậy, Phật đã xác định sự bình đẳng giữa người với
người, không có ai là quý tộc và cũng không có ai là hạ tiện. Quý tộc hay hạ tiện
không phải do nơi giai cấp quy định. Đây là một tư tưởng hết sức mới mẻ, độc đáo
và nó được thể hiện rất rõ trong suốt quá trình thánh giáo của Phật Thích Ca. Đức
Phật mở rộng cánh cửa giải thoát nhằm tiếp nhận tất cả mọi người bất kể sang
giàu, cao thượng hay hèn hạ…. Do vậy, trong tăng đoàn của Phật Thích Ca có đủ
mọi tầng lớp của xã hội, như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên thuộc tầng lớp Bà la
môn, A Nan thuộc tầng lớp Sát đế lợi, Ưu Ba Li thuộc tầng lớp Thủ đà la…..Đức
Phật nói rõ rằng: “Này các tỳ kheo, các con sông lớn đổ về đại dương thì mất tên
trước kia của chúng và chỉ được gọi là đại dương. Cũng vậy, bốn giai cấp Bà la
môn, Sát đế lợi, Vệ xá và Thủ đà la xuất gia, từ bỏ gia đình vào Pháp luật này
được Như Lai tuyên bố, đều mất danh tánh và dòng dõi trước kia và chỉ còn được
xem là Sa môn Thích tử”.
Hơn thế nữa, đạo Phật luôn đề cao giá trị của con người, bất luận là nam
hay nữ. Ai cũng có thể tu tập và đạt được quả vị giác ngộ giải thoát. Nghĩa là một
người cho dù xuất thân từ giai cấp Bà la môn cao quý hay ở những giai cấp thấp,
nếu thực hành theo giáo pháp của Phật thì đều được thưởng thức hương vị thánh
đạo, đó là vị giải thoát.
Điểm đặc biệt nhất là đạo Phật tiếp nhận nữ giới vào trong giáo đoàn. Vì
“người nữ có khả năng thành tựu các đạo và các quả”. Có thể nói đây là một cuộc
cách mạng về giới tính đầy tính nhân văn của Phật. Bởi người nữ xưa kia không
được trọng đãi, tôn trọng. Đạo Bà la môn xem phụ nữ như là vật sở hữu của nam
giới, sinh ra để phục tùng cho nam giới mà thôi. Còn đạo Jain thì cho rằng “Phụ
nữ là ngọn đèn chiếu sáng con đường dẫn đến cánh cửa địa ngục”. Trước khi Phật
ra đời, người phụ nữ không được hưởng quyền tự do, bình đẳng nên họ không có
cơ hội thăng hoa về đời sống tâm linh của mình. Sau khi Ni đoàn được thành lập,
hầu hết các vương phi, công chúa cho đến hàng thứ dân, gái giang hồ…bất luận ở
13
đẳng cấp nào cũng hưởng được “mùi vị” tự do, bình đẳng ấy. Cũng có rất nhiều cô
gái, đáng lẽ mãi mãi bị lãng quên trong bóng tối khổ đau đã tỏ ra xuất sắc và đã
thành tựu được giác ngộ giải thoát sau khi nương tựa vào giáo pháp của Như Lai.
Nói chung, Phật giáo nhìn nhận giá trị thật của con người, không phải do sinh ra
hay nguồn gốc xuất thân mà quyết định sự cao thượng. Sự cao thượng hay hèn hạ
đều phụ thuộc vào hành động, nhân cách của con người. Và Đức Phật cũng khẳng
định: Tất cả chúng sinh đều có tính Phật, có khả năng thành Phật. Đây là điểm
khác biệt chủ yếu về giá trị con người giữa Phật giáo và Ấn Độ giáo.
2. QUAN ĐIỂM VỀ LINH HỒN
2.1- Quan điểm về linh hồn của Ấn độ giáo
Hầu hết các tôn giáo ở Ấn độ đều chấp nhận có một linh hồn bất biến tồn
tại trong mỗi con người. Ấn độ giáo cho rằng linh hồn bất biến ấy chính là Atman
hay Purusa, Jiva, chính là cái Ta, cái Ngã hay là cái thực thể tuyệt đối trường cửu
trong con người. Trong kinh Upanishad đề cập nhiều ví dụ nói về linh hồn. Như
vậy, bản chất linh hồn là vĩnh cửu, vô tận; dù thân xác có bị tiêu hủy nhưng linh
hồn vẫn tồn tại từ kiếp này đến kiếp khác. Sau cái chết của thân xác, linh hồn đi về
một trạng thái siêu việt khác mà phẩm chất của trạng thái đó được xác định tùy vào
hành nghiệp (karma) quá khứ, trong đó bản chất nguyên thủy của tự ngã có thể
được khám phá. Nhưng từ tình trạng siêu việt này, Atman có thể quay về thế giới
vật chất nếu chưa thành tựu được thực tại tối hậu. Như vậy, Ấn độ giáo chủ trương
có một linh hồn (Atman) bất biến, tồn tại sau khi chết. Atman không sinh ra và
cũng không mất đi...khi con người chết nó không chết. Chính linh hồn này tái sinh
vào các cảnh giới khác nhau và chịu sự chi phối của luân hồi.
2.2. Quan điểm của Phật giáo về linh hồn
Phật giáo không chấp nhận quan điểm của Ấn độ giáo về Atman (linh hồn).
Theo Phật ý tưởng về linh hồn, về Ngã là một sự tin tưởng sai lạc, không có thực
trong thực tại và nếu tin tưởng như thế sẽ phát sinh những tư tưởng bất thiện về
“tôi”, và “của tôi”, dục vọng ích kỷ, kiêu căng ngã mạn, gây ra xung đột giữa cá
nhân với cá nhân và giữa dân tộc này với dân tộc khác. Do đó, Phật đã tuyên
thuyết rằng tất cả vũ trụ vạn hữu trên thế gian này dù là vật chất hay phi vật chất
đều vô ngã do duyên sinh, theo nguyên tắc sau: Do cái này có mặt nên cái kia có
14
mặt - Do cái này không có mặt nên cái kia không có mặt - Do cái này sinh nên cái
kia sinh - Do cái này diệt nên cái kia diệt. Cho dù linh hồn được hiểu đơn giản là
phần phi vật chất trong con người cũng phải do duyên sinh. Đạo Phật phân tích
một người là tập hợp của năm yếu tố: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Trong đó sắc
(thuộc vật chất), bốn cái còn lại (thuộc phi vật chất). Nói cách khác, ngũ uẩn là một
hợp thể duyên sinh vô ngã, không có cái nào tồn tại vĩnh cữu. Muốn tồn tại được
phải nhờ nhân duyên, chẳng hạn như khi thức tồn tại phải nhờ sắc làm điều kiện,
làm đối tượng, sắc làm nơi nương tựa….Thức phát triển, hưng thịnh nhờ sắc. Thức
tồn tại nhờ….thọ….tưởng….hành…. Nếu có ai nói tôi sẽ chỉ ra sự ra đi, sự đến, sự
sinh, sự diệt của thức biệt lập với sắc, thọ, tưởng, hành thì người ấy đã nói lên một
điều không thực.
Hay có một cách phân tích khác nữa, chia sắc uẩn ra làm bốn yếu tố: địa,
thủy, hỏa, phong; tập hợp các yếu tố phi vật chất lại thành một nhóm, gọi là thức.
Qua đây cho chúng thấy được linh hồn mà Ấn độ giáo cho là trường cửu, khi nhìn
dưới lăng kính Duyên sinh và qua phân tích về Ngũ Uẩn, Ngũ Đại của Phật thì
không còn thấy gì là Ngã, là Tôi…chỉ là một thực thể vô ngã do nhân duyên nhóm
lại mà thành, không có bất cứ cái gì tồn tại độc lập và vĩnh cửu. Mặt khác, đạo
Phật bác bỏ về linh hồn nhằm không muốn cho các đệ tử, người tu hành mất thời
gian tư biện về những vấn đề siêu hình...
3. TƯ TƯỞNG VỀ NGHIỆP
Nghiệp tiếng Phạn là Karma, tiếng Pali là Kamma, có nghĩa là hành động
hay tạo tác. Nghiệp là giáo lý quan trọng đối với hầu hết các tôn giáo ở Ấn độ.
Thuyết Karma bắt nguồn từ đâu ? Điều này không rõ. Nhưng vào thời Phật thuyết
Nghiệp đã được chấp nhận rộng rãi, hầu như tất cả mọi tôn giáo, như là đáp án
logic nhất, có sức thuyết phục nhất đối với mọi “bất công”, “sai biệt” trong đời
sống con người.
3.1- Tư tưởng của Ấn độ giáo về Nghiệp: Là hành động cá nhân, đóng vai
trò chủ chốt trong mọi việc, duy trì sự hài hòa vũ trụ, nhưng nó cũng ảnh hưởng
quan trọng đến sự liên hệ của một người trong thế giới vật chất và quần thể. Mặt
khác, Nghiệp còn đóng vai trò quan trọng quyết định số phận của con người và nó
là động cơ chính tạo ra vòng luân hồi tái sinh. Trong Chàndogya Upanishad có nói:
15
Những người khi ở trần gian này biết cư xử tốt, thì rồi cũng nhanh chóng sẽ được
sinh ra ở những đẳng cấp cao như giới Brahman, như Kshatriga, hay là như
Vaisya. Nhưng những kẻ ở trần gian này hành động, làm việc tồi tệ, độc ác… thì
kiếp sau họ sẽ được sinh ra như sự độc ác mà họ đã cư xử, sinh ra làm con chó, con
heo, hoặc làm giới Chandala (hạng người thấp kém nhất của xã hội, dạng thối tha,
bị xã hội ruồng rẫy).
3.2- Tư tưởng của Phật giáo về Nghiệp: Đối với Phật giáo cũng đã sử
dụng thuyết Nghiệp ấy. Bởi vì trong giáo lý của Phật nói đến Nghiệp rất nhiều.
Nghiệp còn có một ý nghĩa trọng yếu đối với nhân sinh quan Phật giáo, nếu không
có nó thì không thể nào thuyết minh được những hình tướng nhân sinh, thậm chí
không thể nói rõ chỗ quy hướng của lý tưởng nhân sinh.
Điểm sáng tạo và khác biệt thứ nhất là: đạo Phật đã trình bày Nghiệp hết
sức rõ ràng và nhấn mạnh tầm quan trọng của Tác ý, hay tâm, trong khi đó Ấn độ
giáo chỉ nói chung chung và không rõ ràng. Theo đạo Phật: Nếu một hành động
đều phải góp phần tạo nên sự hiện hữu trong một kiếp tương lai sau bao giờ cũng
đầy đau khổ, thì sẽ không thể nào thoát khỏi hiện hữu và khổ sầu. Vì không ai
tránh khỏi hành động. Do đó yếu tố quyết định cuộc đời tương lai của cá nhân
cùng đặc tính của nó không thể tìm được trong hành vi ấy mà phải nằm trong động
lực thúc đẩy hành vi ấy. Qua đây cho chúng ta thấy rằng thuyết Nghiệp của Phật,
chú trọng đến động lực thúc đẩy, điều khiển hành vi bên trong, đó chính là tác ý.
Theo Phật thì có ba nghiệp căn bản là: Thân nghiệp, khẩu nghiệp ý nghiệp và cận
tử nghiệp, trong ấy ý nghiệp là quan trọng nhất. Có thể nói: nó là đầu mối của mọi
tội lỗi và nó cũng có công nhất trong tiến trình giác ngộ, giải thoát của con người
(công vi thủ, tội vi khôi). Như vậy, Nghiệp theo quan điểm của Phật giáo là hành
động có dụng tâm, có tác ý. Bất cứ một hành động nào có dụng tâm, tác ý đều gọi
là Nghiệp cả. Mặt khác, Phật giáo còn nói rõ và chia ra Nghiệp ra thành nhiều loại
như sau: Thiện nghiệp; Ác nghiệp; Sinh nghiệp; Trì nghiệp; Chướng nghiệp; Đoạn
nghiệp; Hiện nghiệp; Hậu nghiệp; Vô hạn định nghiệp. Nghiệp là tác động nhân
quả của đời sống con người, là một tiến trình phức tạp, không máy móc; như gieo
nhân nào gặt quả nấy.
16
Điểm khác biệt thứ hai: Ấn Độ Giáo cho rằng Nghiệp như là một định
mệnh còn Phật giáo chủ trương Nghiệp là bất định nghiệp, tức Nghiệp có thể thay
đổi được. Nghiệp là động cơ chính yếu dẫn con người đi vào các cõi luân hồi, sinh
tử triền miên. Đạo Phật không dừng lại ở việc phân tích sức mạnh và tác dụng của
Nghiệp mà còn chỉ ra cách thức chuyển Nghiệp hay Nghiệp là Bất định, tức là con
người có thể chuyển đổi Nghiệp của mình bằng hình thức tu tập, sống và thực hành
theo những lời Phật đã dạy. Và đạo Phật nhấn mạnh tùy theo sự tu tập mà ta có thể
hoá giải được Nghiệp, không nhất thiết phải gặt hái hết tất cả những Nghiệp xấu đã
gieo. Như vậy, Nghiệp không phải là định nghiệp. Nếu ai hiểu tường tận về quy
luật vận hành của nghiệp, và với tâm được tu tập, thì người ấy hoàn toàn có thể hạn
chế tiến tới triệt tiêu được Nghiệp quá khứ.
Trong Ấn Độ giáo hình như không có đề cập đến vấn đề này, cụ thể là khi
con người sinh ra phải theo Nghiệp mà an phận trên sự phân chia giai cấp, sinh ra
ở giai cấp nào thì hãy sống trong giai cấp ấy, chẳng hạn như người sinh trong giai
cấp hạ tiện thì mãi mãi không thể nào vươn lên giai cấp cao hơn. Đây chính là
điểm khác biệt giữa Phật giáo và Ấn độ giáo.
Điểm khác biệt thứ ba là đạo Phật chú trọng đến thực tiễn hơn là mặt lý
luận, tức là Phật chú trọng về phương diện thực hành để chuyển đổi những nghiệp
ác, bất thiện. Đạo Phật được tồn tại và phát triển trong trào lưu của Ấn độ cũng
chính ở phương diện này. Về thuyết Nghiệp Phật khuyên con người nên làm lành,
lánh dữ. Và cũng từ đây Phật đã xây dựng nên một nền đạo đức Phật giáo đầy tính
nhân bản, nhân văn và hết sức trí tuệ. Mọi hạnh phúc hay khổ đau đều tùy thuộc
vào chúng ta cả. Không có thần linh nào quyết định số phận của con người. Đạo
Phật chỉ cho chúng ta thấy tầm quan trọng của từng cá nhân, cũng nhằm khích lệ
con người bỏ ác làm thiện. Bởi từ thiện nghiệp con người dễ đi vào giải thoát hơn.
Trên đây là một số điểm đặc sắc và khác biệt giữa Nghiệp của Phật giáo và Ấn độ
giáo.
4. TƯ TƯỞNG VỀ GIẢI THOÁT: Giải thoát bắt nguồn từ tiếng Phạn là
Mosha, Mukti, có nghĩa: “Giải” tức là cởi ra, mở ra, tháo ra….”; “Thoát” là vượt ra
khỏi sự ràng buộc của thế giới giả tưởng, sinh tử luân hồi. Mỗi tôn giáo đều có
quan niệm giải thoát khác nhau.
17
4.1- Tư tưởng giải thoát trong Ấn độ giáo
Nguyên nhân do thời kỳ đó đời sống còn lạc hậu, và luôn phải chịu sự tác
động, chi phối của tự nhiên nên tư tưởng giải thoát của con người thời bấy giờ chủ
yếu là phải cầu nguyện, cúng bái và đặt trọn lòng tin của mình vào các đấng thần
linh. Đây được coi là đại biểu tối cổ cho tư tưởng giải thoát trong triết học - tôn
giáo Ấn độ cổ đại. Tư tưởng giải thoát trong Upanishad chủ yếu là làm sao cho tiểu
ngã Atman hòa nhập vào đại ngã Brahman. Brahman là thực thể của vũ trụ, là tinh
thần vũ trụ tối cao. Như vậy, Brahman là đối tượng mà con người hướng tới, giống
như sự trở về với thượng đế của các tôn giáo khác hay giống như câu “Đạo khả
đạo phi thường đạo“ của Đạo Giáo. Tuy nhiên, Brahman giống như đại dương
mênh mông, còn linh hồn Atman của hết thảy mọi người như những đợt sóng của
đại dương. Như vậy, muốn giải thoát thì con người phải quay về bên trong, phải
kinh qua quá trình tu luyện đạo đức, thực nghiệm tâm linh, diệt trừ mọi dục vọng,
ham muốn…để hòa nhập linh hồn Atman vào bản thể tuyệt đối Brahman. Tư
tưởng giải thoát trong thời kỳ Bà la môn, tiêu biểu nhất là tư tưởng giải thoát của
sáu trường phái triết học: Sankhya, Yoga, Vaisesika, Nyaya, Mimansa và Vedanta.
Đây được xem là sáu phái triết học thuộc hệ thống của Bà la môn, công nhận uy
thế mặc khải của Veda và dựa trên tư tưởng giải thoát của Upanishad. Tư tưởng
giải thoát thời kỳ này phát triển phong phú, đa dạng và sâu sắc hơn, nhất là bàn kỹ
hơn về phương pháp đưa đến giải thoát.
- Phái Samkhya cho rằng: mục đích tối hậu của con người là diệt đau khổ.
Nhưng muốn diệt trừ đau khổ phải hiểu được hai mươi lăm thực thể (Năm duy:
sắc, thanh, hương, vị xúc; Năm tri căn: tai, da, mắt, mũi lưỡi; Năm tác căn: lưỡi,
tay, chân, nam nữ căn, căn quan bài tiết; Một ý; Năm đại: địa, thủy, hỏa, phong,
không) Thì mới được giải thoát, giải thoát ở đây tức là biết được cái tri thức duy
nhất chân chính (không có gì là “ta”, không có gì là của “ta”)
- Phái Yoga thì cho rằng giải thoát là làm cho tinh thần trở nên thanh tịnh,
thuần khiết, hòa nhập linh hồn vào đại ngã Brahman. Để thực hiện được điều này,
con người cần phải kiên trì tu tập tám giai đoạn sau: yama, Niyama, asana,
Pranyama, Pratyahara, Dharana, Dhyana, sammadhi.
18
- Giải thoát theo phái Mimansa là làm con người thoát khỏi vòng vây hãm
của nhục thể bằng cách tuân thủ triệt để các quy định, nghi thức, những giới luật
trong Veda…
- Phái Nyaya chủ trương: giải thoát là một trạng thái đạt được sau khi vứt
bỏ hết mọi dục vọng và làm cho linh hồn con người trở nên thanh thoát, tự tại. Để
thành tựu được mục tiêu giải thoát, phái này cho rằng con người cần phải tuân thủ
các giới luật, tu tập thiền định và diệt trừ dục vọng bằng phương pháp tư duy đúng
đắn để đạt đến chân lý.
- Phái Veisesika: chủ trương giải thoát cũng giống như phái Nyaya. Muốn
được giải thoát thì con người phải thấu triệt sáu nguyên lý tạo thành vũ trụ (thực
thể, tính chất hay đức, vận động hay nghiệp, phổ biến hay đồng, đặc thù hay dị, nội
thuộc, hòa hợp), thực tập thiền định và diệt trừ dục thì mới hòa nhập vào đại ngã.
- Phái Vedanta: giải thoát “chính là vứt bỏ mọi sự ràng buộc của thể xác,
nhục dục đối với linh hồn, đưa linh hồn bất tử trở về đồng nhất với linh hồn vũ trụ
tối cao”. Để thành tựu được mục tiêu ấy, con người cần phải trải qua quá trình thực
nghiệm tâm linh, phát triển trí tuệ.
Nói chung, các trường phái triết học trên đều coi con đường giải thoát là
con đường nối liền tiểu ngã tương đối với đại ngã tuyệt đối thông qua các quá trình
tu tập thiền định, và thực nghiệm tâm linh. Họ đều tập trung vào tinh thần, đạo
đức, tâm lý con người, phủ nhận cuộc sống, tiền tài, danh vọng...để hướng con
người đến nơi thánh thiện, hạnh phúc.
4.2. Tư tưởng giải thoát trong Phật giáo
Có thể nói tư tưởng giải thoát của phật giáo bắt nguồn từ nỗi khổ của nhân
sinh. Khổ là một sự thật, một thực trạng trong kiếp sống nhân sinh. Mục đích của
Phật là giúp cho chúng ta thấy rõ sự thật khổ đau để từ đó thoát ly, xa lìa khổ đau.
Khổ thường biểu hiện qua hai phương diện: khổ đau về thể xác cũng như khổ đau
về tinh thần: Sinh là khổ, già, bệnh, chết là khổ, sầu bi là khổ, ưu não là khổ, cầu
không được là khổ. Đây là những khổ đau mà con người phải gánh chịu. Nguyên
nhân của khổ chính là tham ái hay khát ái. Do tham ái mà bám víu và chấp thủ vào
các đối tượng của tham ái, chính ái này đưa đến tái sinh, câu hữu với hỷ và tham,
tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia, tức là dục ái, hữu ái, vô hữu ái. Nói cách khác, gốc
19
của mọi khổ đau chính là tham ái. Tuy nhiên, tham ái không có nghĩa là nguyên
nhân đầu tiên của khổ đau. Bởi vì chính ái do thọ sinh, thọ do xúc sinh… thức do
hành sinh, hành do vô minh sinh. Ái chính là cái nhân chính yếu và gần nhất của
khổ đau. Nói nguyên nhân của khổ đau là khát ái, có nghĩa là nhân của khổ đau là
do 12 nhân duyên tập khởi hay năm thủ uẩn tập khởi. Nói đến khát ái tức là đến
sân và si. Sân chỉ là bề trái của khát ái và si tức là bản chất của khát ái (si tức là
không thấy rõ bản chất của sự vật hiện tượng đều nương vào nhau mà sinh khởi
đều vô thường và chuyển biến, không có cái chủ thể, cái bền vững trong chúng. Do
không thấy rõ nên sinh tâm ham muốn, ôm giữ lấy các đối tượng lạc thú).
Và đạo Phật đã đưa biện pháp giải thoát là Khổ Diệt Thánh Đế. Diệt là
chấm dứt, là dập tắt. Diệt đế là sự chấm dứt hay dập tắt phiền não, những nguyên
nhân đưa đến khổ đau và sự chấm dứt đau khổ cũng có nghĩa là hạnh phúc, an lạc.
Diệt đế cũng đồng nghĩa với niết bàn và giải thoát. Khi biết được khổ, nguyên
nhân của khổ nên khởi tâm ly dục, xa lìa mọi tham ái, chấp thủ thì sẽ được an lạc,
hạnh phúc (Niết bàn). Đạo là con đường, là phương pháp thực hiện để đạt được an
lạc, niết bàn. Bát thánh đạo được coi là tiêu biểu và căn bản nhất của Đạo đế: khổ
diệt đạo thánh đế chính là Bát thánh đạo; tức chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định. Như vậy,
giải thoát trong Phật giáo là quá trình tu tập, thực nghiệm để xóa bỏ mọi tham ái,
chấp trước…. hướng con người đến một trạng thái thanh tịnh, vắng lặng, an lạc
vĩnh cửu (Niết bàn).
Chủ trương giải thoát của Phật giáo có điểm khác với Ấn độ giáo là có thể
tu tập ở bất cứ độ tuổi nào, thời điểm nào trong cuộc sống cũng có thể hưởng được
hương vị giải thoát mà không cần thông qua bốn giai đoạn của đời người. Như
trong Kinh Tứ Niệm Xứ - Trung Bộ I, Đức Phật có dạy người nào trú tâm vào
pháp tu mình đã chọn thì nhanh nhất là bảy ngày chứng giải thoát, giác ngộ, chậm
nhất là bảy năm. Tư tưởng giải thoát của Phật giáo còn vượt xa hơn nữa, khi đã
thành tựu được mục tiêu giác ngộ giải thoát rồi, hành giả cần phải vứt bỏ luôn các
phương pháp tức là phá luôn pháp chấp...để đạt được sự giải thoát tuyệt đối.
Nếu đứng trên lập trường hoạt động, thì tư tưởng giải thoát của Ấn độ giáo
mang nặng tính chất tiêu cực. Như ở trên ta đã đề cập giải thoát là sự từ bỏ tất cả
20
gia đình, xã hội, rút vào rừng sâu để chuyên tâm tu tập, thể nghiệm tâm linh mà
không chú trọng đến số đông, không vì lợi ích chung cho con người. Mặt khác, Ấn
độ giáo cho rằng giải thoát là quá trình đưa tiểu ngã Atman hay linh hồn cá biệt
hòa nhập vào đại ngã Brahman hay “tinh thần vũ trụ tối cao”. Ngược lại, Phật giáo
phủ nhận vai trò sáng tạo muôn loài của Brahman. Bản thân Phạm thiên, chính vì
thiếu trí tuệ, cho nên tự cho mình là thượng đế, là đấng tạo thế. Còn những người
tu đạo Bà là môn, tuy tự đặt cho mình cái đích cao nhất là hòa mình vào Phạm
thiên, nhưng từ trước tới nay, chưa từng có một tu sĩ Bà la môn nào dám mạo nhận
mình đã hòa hợp được với Phạm thiên cả. Chính vì thế, Phật giáo cho rằng giải
thoát chính là Niết bàn, là trạng thái như thật, vắng mặt khổ và khát ái.
Qua so sánh trên cho chúng ta thấy rõ những sự khác nhau về tư tưởng triết
học nói chung, cũng như các quan niệm về giá trị con người, quan niệm về linh
hồn, tư tưởng về nghiệp và quan niệm về giải thoát của Ấn độ giáo và đạo phật.
KẾT LUẬN
Ấn độ giáo và đạo phật ra đời trong bối cảnh xã hội Ấn độ cổ đại nhưng có
nhiều quan điểm, tư tưởng…khác nhau. Cụ thể là quan niệm về giá trị con người,
linh hồn, tư tưởng nghiệp báo và tư tưởng giải thoát. Qua việc trình bày, so sánh,
phân biệt ở phần nội dung tiểu luận (Phần II) cho chúng ta thấy, tất cả giáo lý của
đạo Phật luôn đề cao giá trị của con người, bất luận là nam hay nữ, xây dựng con
người vị tha là lý tưởng cao quý nhất của đời mình, tiến tới con người từ, bi, hỷ,
xả, mang "Phật tính". Vấn đề nhân vị trong đạo Phật là một nội dung quan trọng vì
đạo Phật cho rằng con người là tất cả, con người quyết định số phận của mình,
quyết định hình thái xã hội. Trong mọi hoạt động của thân, khẩu, ý nghiệp đều
phải gắn liền với Đạo, thể hiện Đạo. Với cách sống như thế, người tu hành luôn là
người dũng cảm có đủ nghị lực chiến thắng ngũ dục, chiến thắng những bất công
áp bức.
21
Và một đặc điểm lớn nhất của đạo Phật là sự giải thoát không chỉ nhằm đấu
tranh chống những áp bức về xã hội về kinh tế như lịch sử Phật giáo đã chứng
minh, mà sự giải thoát nhằm tiêu diệt tận gốc mọi đau khổ là tham lam và dục
vọng. Việc giải phóng này do con người phải tự lực đảm nhiệm, không ai có thể
làm thay được và mỗi người đều coi sự giải thoát là cứu cánh cuối cùng của cuộc
đời. Như vậy, đạo Phật đã đặt con người lên một vị trí hết sức quan trọng và cao
quý. Hạnh phúc của con người là do con người xây đắp nên. Con người thấm
nhuần giáo lý Phật, con người vị tha, từ, bi, hỉ, xả sẽ kiến lập một xã hội hoà bình,
an lạc, công bằng, mọi người sống vì lợi ích của nhau, còn tập thể. Trái lại. con
người ích kỷ chỉ biết mình, hại người, con người sống tàn bạo, độc ác thì cái gì
trong tay con người cũng sẽ trở thành khí cụ sát hại và xã hội của những con người
ấy sẽ là xã hội địa ngục, xã hội áp bức bóc
Hiện nay chúng ta đang phải đối mặt với nhiều hiểm họa mang tính toàn
cầu, khủng hoảng kinh tế - xã hội, xung đột vũ trang và chiến tranh, tệ nạn ma túy,
HIV/AIDS, cũng như sự xuống cấp về đạo đức của xã hội…đây là những vấn đề
liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của con người, thậm chí cả chế độ xã hội. Nếu
con người biết sử dụng những mặt ưu điểm của tư tưởng Phật giáo, để răn dạy,
giáo dục con người thì những vấn đề trên sẽ được giải quyết một cách có hiệu
quả./.
22