Bộ giáo dục và đào tạo
Tr-ờng đại học s- phạm hà nội 2
HOàNG ThúY AN
Thể LOạI KịCH TRONG SáCH GIáO KHOA
TIếNG VIệT Và ý NGHĩA GIáO DụC
Đối với học sinh tiểu học
luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục
Hà NộI, 2015
Bộ giáo dục và đào tạo
Tr-ờng đại học s- phạm hà nội 2
HOàNG ThúY AN
Thể LOạI KịCH TRONG SáCH GIáO KHOA
TIếNG VIệT Và ý NGHĩA GIáO DụC
Đối với học sinh tiểu học
CHUYÊN NGàNH: GIáO DụC HọC ( BậC TIểU HọC)
Mã Số: 60 14 01 01
luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục
Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Kiều Anh
Hà NộI, 2015
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn, tôi đã nhận được sự
hướng dẫn, giúp đỡ quý báu từ phía nhà trường, các thầy cô, gia đình và bạn bè,
đồng nghiệp.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng sau đại học trường Đại
học sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện thuận lợi, quan tâm và giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Xin được bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc nhất tới Tiến sĩ Nguyễn Thị Kiều Anh
– Bộ môn Lí Luận văn học trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 đã tận tình hướng
dẫn tôi hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu và Hội đồng sư phạm Trường Tiểu
học Kim Đồng – Quận Ba Đình – Thành phố Hà Nội, các bạn bè đồng nghiệp đã
giúp đỡ tôi trong thời gian thực hiện đề tài.
Hà Nội ngày 2 tháng 1 năm 2015
Ngƣời viết
Hoàng Thúy An
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn này được thực hiện dưới sự hướng dẫn trực tiếp của cô giáo, tiến
sĩ Nguyễn Thị Kiều Anh. Tôi xin cam đoan luận văn là kết quả nghiên cứu, tìm
tòi của riêng tôi. Những gì được triển khai trong luận văn này không trùng khớp
với bất cứ công trình nghiên cứu của tác giả nào đã công bố trước đó. Nếu sai tôi
xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội ngày 2 tháng 1 năm 2015
Học viên
Hoàng Thúy An
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu
1
Chƣơng 1: Khái quát chung về Kịch
5
1.1. Khái niệm về Kịch
5
1.2. Đặc trưng cơ bản của Kịch
8
1.2.1. Xung đột kịch
8
1.2.2. Hành động và cốt truyện
12
1.2.3. Ngôn ngữ kịch
14
1.2.4. Nhân vật kịch
17
Chƣơng 2: Thể loại kịch trong sách giáo khoa Tiếng Việt Tiểu học
23
và ý nghĩa giáo dục đối với học sinh Tiểu học
2.1. Thống kê các trích đoạn kịch được trích trong SGK Tiếng Việt
23
Tiểu học
2.2. Đặc điểm các trích đoạn kịch trong Sách giáo khoa Tiếng Việt
23
Tiểu học
2.2.1. Xung đột
23
2.2.2. Hành động và cốt truyện
26
2.2.3. Ngôn ngữ kịch
32
2.2.4. Nhân vật kịch
44
2.3. Ý nghĩa giáo dục của việc dạy học các trích đoạn kịch trong sách
giáo khoa Tiếng Việt tiểu học
Chƣơng 3: Thực trạng và một số đề xuất trong việc giảng dạy các
52
trích đoạn kịch trong chƣơng trình Tiểu học
3.1. Việc giảng dạy các trích đoạn kịch trong chương trình Tiểu học
52
3.2. Một số đề xuất
66
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
88
1
MỞ ĐẦU
1.
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Hiện nay việc giáo dục theo định hướng đổi mới là một đề tài thu hút sự
quan tâm của không chỉ những người trong ngành mà của toàn xã hội. Về việc
đổi mới chương trình và sách giáo khoa, thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
Nguyễn Vinh Hiển cho biết: “Chương trình mới sẽ tiếp cận theo hướng hình
thành và phát triển năng lực cho người học, chú ý khả năng vận dụng tổng hợp
các kiến thức, kĩ năng, thái độ, tình cảm, động cơ… vào giải quyết các tình
huống trong cuộc sống hàng ngày. Tiếp cận theo hướng năng lực đòi hỏi học
sinh làm, vận dụng được gì hơn là học sinh biết những gì.”
Trong chương trình Tiếng Việt tiểu học, đặc biệt trong chương trình lớp 4
và lớp 5, kịch chiếm thời lượng không nhiều, lại nằm rải rác ở 2 phân môn Tập
đọc và Tập làm văn nhưng có một vai trò quan trọng. Các bài học về kịch không
chỉ giới thiệu với các em một thể loại văn học mà còn giúp các em luyện tập xây
dựng đoạn văn đối thoại, một kĩ năng rất cần thiết trong đời sống hàng ngày, góp
phần rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh, đúng với tinh thần và định hướng đổi
mới vừa nêu trên.
Tuy nhiên, qua khảo sát, chúng tôi thấy cho đến nay chưa có công trình
nào đề cập một cách toàn diện tới mảng kịch trong chương trình Tiểu học. Xuất
phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài: Thể loại kịch trong sách giáo
khoa Tiếng Việt và ý nghĩa giáo dục đối với học sinh tiểu học với mong muốn
được đóng góp một phần rất nhỏ trong việc nghiên cứu thể loại kịch cũng như
việc giảng dạy các tác phẩm thuộc thể loại này trong chương trình trình Tiểu học
2
2.
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Chọn đề tài Thể loại kịch trong sách giáo khoa Tiếng Việt và ý nghĩa
giáo dục đối với học sinh tiểu học chúng tôi mong muốn làm rõ những đặc điểm
các vở kịch được trích trong Sách giáo khoa Tiếng Việt Tiểu học. Từ đó chỉ ra ý
nghĩa giáo dục đối với học sinh tiểu học : giáo dục nhân cách, bồi dưỡng năng
lục cảm thụ văn học và hướng đến giáo dục toàn diện con người. Đồng thời, bản
thân tác giả luận văn là một giáo viên trực tiếp giảng dạy ở Tiểu học nên thông
qua công trình nghiên cứu này muốn góp phần vào việc nâng cao chất lượng
giảng dạy Tiếng Việt ở Tiểu học.
3.
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
-
Đối tượng nghiên cứu:
Những đặc điểm cơ bản của các trích đoạn kịch trong Sách giáo khoa Tiếng
Việt Tiểu học.
-
Phạm vi nghiên cứu:
Các trích đoạn kịch trong chương trình Sách giáo khoa Tiếng Việt Tiểu học.
4.
NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
-
Nghiên cứu những tài liệu về lí luận kịch.
-
Nghiên cứu những trích đoạn kịch trong Sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu
học
-
Ứng dụng thiết thực đối với việc dạy những trích đoạn kịch trong sách
giáo khoa Tiếng Việt tiểu học.
3
5.
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
-
Phương pháp loại hình
-
Phương pháp thống kê, phân loại.
-
Phương pháp so sánh, đối chiếu.
-
Phương pháp phân tích, tổng hợp
6.
NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
-
Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu đặc điểm những
trích đoạn kịch trong Sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học.
-
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ ứng dụng thiết thực đối với việc day
học nói chung và dạy thể loại kịch nói riêng cho học sinh tiểu học.
7.
BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về lí luận kịch
Chương 2: Thể loại kịch trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học
Chương 3: Thực trạng và một số đề xuất trong việc giảng dạy các trích đoạn kịch
trong chương trình tiểu học.
4
NỘI DUNG
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KỊCH
1.1. Khái niệm về Kịch
Kịch là gì? Xung quanh câu hỏi này có rất nhiều kiến giải khác nhau. Theo
Giáo sư Đỗ Đức Hiểu “Kịch không những là một nghệ thuật tổng hợp mà đúng
hơn, một giao hưởng những nghệ thuật” [8]. Trong kịch có sự đan xen hòa trộn
của nhiều lĩnh vực nghệ thuật, nó là một cung đàn nhiều âm sắc.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, thuật ngữ kịch được dùng theo hai cấp
độ:
*Ở cấp độ loại hình
Kịch là một trong ba phương thức cơ bản của văn học (kịch, tự sự, trữ
tình). Kịch vừa thuộc sân khấu, vừa thuộc văn học. Nghĩa là kịch bản văn học
vừa thuộc nghệ thuật sân khấu lại vừa thuộc nghệ thuật ngôn từ. Nó giống như
có hai cuộc sống. Là vở diễn sân khấu, nó sống với công chúng khán giả. Là tác
phẩm văn học, nó sống với công chúng độc giả. Nó vừa để diễn lại vừa để đọc
(vì kịch bản chính là phương diện văn học của kịch). Tuy nhiên không phải kịch
bản nào cũng được đạo diễn, diễn viên, nhạc công chuyển thể. Từ kịch bản đến
trình diễn là một quá trình không hề đơn giản, đạo diễn, diễn viên phải có những
cách tân để phù hợp với công chúng.
Không phải từ đầu kịch đã có đời sống văn học riêng. Tất cả các vở kịch ra
đời từ thế kỉ XVII trở về trước mà ngày nay chúng ta gọi là kiệt tác đều không
được người đương thời xem là tác phẩm văn học. Vào nửa sau thế kỉ XVIII,
5
người ta bỗng nhận ra Shakespeare chính là một nhà thơ trong những vở kịch
của ông. Kể từ đây kịch bản không phải chỉ được xem là bản gốc dung để biểu
diễn mà còn được xem là tác phẩm văn học dung để đọc. Đến thế kỉ XIX, nhất là
sang thế kỉ XX, công nghệ in ấn mang lại khả năng xuất bản và phát hành kịch
bản với một số lượng rất lớn. Thế là trong đại gia đình văn học nghệ thuật, kịch
thực sự trở thành một thể loại có vị trí vô cùng quan trọng. Hứng thú đọc kịch
bản ngày càng gia tăng. Nhiều khi người ta coi trọng phẩm chất văn học của kịch
bản hơn cả phẩm chất sân khấu của nó. Nhưng muốn xác định đặc trưng thể loại
của kịch bản văn học lại phải tính đến sự chi phối của nghệ thuật sân khấu.
Kịch được xây dựng trên cơ sở những mâu thuẫn lịch sử, xã hội hoặc
những xung đột mang tính muôn thủa của nhân loại (giữa thiện và ác, cao cả và
thấp hèn, ước mơ và hiện thực…). Những xung đột ấy được thể hiện bằng một
cốt truyện có cấu trúc chặt chẽ qua những hành động của các nhân vật và theo
những quy tắc nhất định của nghệ thuật kịch. Trong kịch thường chứa đựng
nhiều kịch tính, tức là những sự căng thẳng do tình huống tạo ra đối với nhân
vật.
Phần lớn kịch được xây dựng thông qua những hành động bên ngoài của
nhân vật, tuy nhiên cũng có những hành động bên trong, qua đó nhân vật chủ
yếu là suy ngẫm chịu đựng một tình huống xung đột hết sức căng thẳng.
Trong kịch, những lời phát biểu của nhân vật (trong đối thoại và độc thoại)
nói lên hành động, ý chí và sự tự khám phá tích cực có một ý nghĩa rất quyết
định. Còn những lời trần thuật (câu chuyện kể của các nhân vật về những điều đã
qua, sự thông báo của người dẫn truyện, những lời chỉ dẫn của tác giả trong kịch
bản) chỉ đóng vai trò thứ yếu nhiều khi không cần đến.
6
Về kết cấu: Vở Kịch thường được chia thành nhiều hồi, cảnh, nhằm tạo ra
sự trùng khớp giữa thời gian, địa điểm và hành động kịch đồng thời làm cho cái
được trình diễn mang màu sắc xác thực của đời sống. Qua các thế kỷ khác nhau,
mối quan hệ giữa ba yếu tố thời gian, địa điểm và hành động trong kết cấu của
kịch không ngừng thay đổi tùy theo quan niệm của những người sáng tạo và quy
mô, tầm vóc của những sự kiện, biến cố được phản ánh. Các nhà viết kịch đã mở
rộng biên độ và phạm vi phản ánh khiến kịch trở nên phong phú, sinh động.
Ở cấp độ này, kịch được chia thành nhiều thể loại: bi kịch, hài kịch, chính
kịch, cùng nhiều thể loại và biến thể khác nhau.
* Ở cấp độ thể loại
Có nhiều cách phân loại kịch, cách phổ biến nhất là dựa vào loại hình
xung đột, vào lí tưởng, mục đích xã hội của cuộc đấu tranh mà nhân vật trung
tâm theo đuổi, vào cảm xúc thẩm mĩ của độc giả và khan giả, theo đó kịch được
chia thành các thể: bi kịch, hài kịch và chính kịch.
Bi kịch phản ánh những xung đột gay gắt, quyết liệt, thường kết thúc bằng
sự thảm bại hoặc cái chết của nhân vật, mang lại ý nghĩa xã hội lớn lao, khơi dậy
trong tâm hồn độc giả và khán giả một tình cảm phức tạp, có nhiều đối nghịch
nhưng vô cùng mãnh liệt.
Hài kịch đối lập với bi kịch, hài kịch là thể kịch phản ánh cái hài. Hài kịch
tình huống là tếng cuời nằm châm biếm, đả kích những àn cảnh, môi trường sống
lố bịch. Hài kịch tính cách lại đưa lên sân khấu cái xấu, cái khiếm khuyết, chưa
hoàn thiện trong bản chất con người.
7
Chính kịch còn gọi là kịch Dram, hay đơn giản hơn là kịch. Cũng giống
như hài kịch, kịch tái hiện cuộc sống riêng của con người bình thường nhưng
mục đích chính không phải là cười nhạo, chế giễu các thói hư, tật xấu mà là mô
tả cá nhân trong các mối quan hệ chứa đựng những kịch tính đối với xã hội. Và
cũng giống với bi kịch, kịch chú trọng tái hiện những mâu thuẫn gay gắt, song
những xung đột của nó không căng thẳng đến tột độ, không mang tính chất vĩnh
hằng và về nguyên tắc có thể giải quyết được ổn thỏa. Với các nội dung như thế,
chính kịch phá vỡ những luật lệ, khuôn phép của kịch truyền thống, tạo được
nhiều cách tân nghệ thuật táo bạo.
1.2. Đặc trưng cơ bản của Kịch
1.2.1. Xung đột kịch
Do tính chất loại biệt, kịch lấy xung đột làm nội dung phản ánh. Nghệ
thuật kịch bao giờ cũng phản ánh cuộc sống trong một quá trình nhất định, ở
những trạng thái khách quan, dưới dạng trực tiếp, cụ thể, sinh động như đang
diễn ra trước mắt người xem. Nó hoàn toàn khác hẳn với hội họa, điêu khắc, chỉ
phản ánh cuộc sống tập trung trong một khoảnh khắc nhất định; nó cũng không
giống như âm nhạc và thơ trữ tình lấy tâm trạng, tình cảm của con người trước
một sự kiện là nội dung phản ánh. Chính tính chất đặc biệt ấy buộc nghệ thuật
kịch phải lựa chọn những chất liệu có tính chất động làm cơ sở cho nội dung của
kịch, nghĩa là nó phải phản ánh cuộc sống trong sự vận động của nó, mà đã nói
tới vận động không thể không nói đến xung đột.
Lấy xung đột trong đời sống làm cơ sở cho sự sáng tạo nghệ thuật, nhà
viết kịch đến với hiện thực bằng con đường ngắn nhất “Lý giải được những vấn
8
đề thuộc phạm trù xung đột thông qua hệ thống các hành động bằng sức mạnh
riêng của ngôn ngữ nhân vật, có nghĩa là nhà viết kịch đã lý giải được những
vấn đề mang ý nghĩa nhân bản luôn đặt ra cho mọi dân tộc, mọi thời đại bằng
tiếng nói riêng của thể loại” [4; 201]. Phađêep cũng từng khẳng định: “Xung đột
là cơ sở của kịch”. Thực tế trong sự vận động của hình tượng thơ cũng có bộc lộ
những mâu thuẫn giữa những trạng thái tình cảm khác biệt của cảm xúc: vui và
buồn, hạnh phúc và đau khổ. Trong các tác phẩm tự sự như tiểu thuyết, truyện
vừa, truyện ngắn, yếu tố mâu thuẫn tồn tại ngay trong sự vận động của cốt truyện
và trong sự phát triển của tính cách nhân vật. Với kịch, yếu tố xung đột mang
một sắc thái thẩm mỹ khác. Nhà viết kịch hiện đại Xô Viết Abrudov đã cho rằng
“Trong kịch không có những yếu tố tùy hứng mà người nghệ sỹ có quyền dùng
khi điều khiển số phận con người trong các tiểu thuyết và truyện. Ở đây có một
khuôn khổ rất chặt chẽ, không có thì giờ để mạn đàm, giải thích, luận đàm”[3;
427]. Sự khác biệt ấy chính là tính chất tập trung cao độ của xung đột kịch.
Xung đột có một vai trò to lớn trong việc tạo dựng cốt truyện và hành
động của nhân vật. Nó chính là động lực thúc đẩy sự phát triển của hành động
kịch nhằm xác lập những quan hệ mới giữa các nhân vật vốn được coi là kết thúc
tất yếu của các tác phẩm kịch.
Xung đột quy định những giai đoạn chính của sự phát triển cốt truyện:
Trình bày, khai đoạn, thắt nút, phát triển, đỉnh điểm, kết thúc. Nhưng trong kịch
không phải những xung đột nào cũng tạo được những xúc cảm thẩm mỹ, nó còn
phụ thuộc vào mối quan hệ giữa các lực lượng tương quan. Thiếu xung đột, tác
phẩm kịch sẽ mất đi đặc trưng cơ bản đầu tiên của thể loại, sẽ là những “vở kịch
tồi”.Vì vậy người viết kịch phải tạo được những xung đột mang ý nghĩa xã hội
9
sâu sắc, tính khái quát lớn lao nhưng phải hết sức chân thực, nghĩa là xung đột
mang tính điển hình hóa.
Thiếu ý nghĩa điển hình, tác phẩm kịch chỉ là sự mô phỏng những mâu
thuẫn vụn vặt, tầm thường của đời sống. Thiếu ý nghĩa chân thực, tác phẩm kịch
chỉ là sự giả tạo, là những dòng lý thuyết suông. Từ thời Hy Lạp cổ đại, những
vở bi kịch đã xoáy sâu vào những xung đột giữa khát vọng của con người với
quy luật nghiệt ngã của định mệnh. Bi kịch của Seechxpia là xung đột giữa
những lý tưởng nhân văn cao cả với những trở lực đen tối của xã hội. Kịch của
Sekhov đi từ nỗi bế tắc của mỗi số phận để phản ánh những vấn đề sâu xa của
nhân loại; rồi kịch của Sile, Ipxen, Arbudov, B. Brêch… cũng đi từ những xung
đột cụ thể của dân tộc, thời đại mình để vươn tới tầm khái quát lớn lao cho đời
sống nhân loại. Công chúng tìm đến với kịch là tìm đến một sự đồng cảm hoặc
sự phản bác đối với tác gủa trước những vấn đề quan trọng của đời sống. Nghệ
thuật kịch luôn là diễn đàn tư tưởng của cuộc sống, là mối giao cảm sâu xa giữa
tác giả và khán giả.
Nói tới xung đột kịch ta cần quan tâm đến vai trò tư tưởng của người viết.
Phản ánh những xung đột trong đời sống người viết muốn gửi gắm một ý nghĩa
tư tưởng nào đó tới khán giả. M. Pogodin, nhà viết kịch Xô Viết nổi tiếng khi
tìm hiểu về mối quan hệ giữa xung đột và tư tưởng, ông cho rằng: Xung đột là
điều kiện quan trọng đầu tiên của tác phẩm, nó mang lại cho tác phẩm kịch sự
sống và sự vận động. Nhưng xung đột bao giờ cũng phụ thuộc vào một cái cao
nhất, cũng là linh hồn của nó, đó là tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
Xung đột có thể có nhiều phạm vi và cấp độ: Xung đột trong nội tâm,
xung đột giữa tính cách và hoàn cảnh…Nhưng tập trung nhất vẫn là xung đột
10
giữa tính cách và hoàn cảnh. Không có xung đột, mâu thuẫn thì không có kịch
tính. Vở Lôi Vũ của nhà viết kịch Trung Quốc nổi tiếng Tào Ngu sở dĩ có kịch
tính gay gắt vì cốt truyện xây dựng trên những mâu thuẫn, xung đột chồng chéo
giữa bảy nhân vật của hai gia đình Chu Phác Viên và Lỗ Quý tạo nên sự cuốn
hút mạnh mẽ đối với khán giả. Kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng được
sây dựng trên cơ sở một xung đột mang tính chất bao trùm. Đó là xung đột giữa
khát vọng của Vũ Như Tô, một nghệ sĩ thiên tài muốn xây dựng cho đất nước
một công trình vĩ đại, với lợi ích lầm than của cuộc sống nhân dân. Xung đột này
làm nảy sinh hàng loạt mâu thuẫn chồng chéo giữa Trịnh Duy Sản với Lê Tương
Dực, giữa Trịnh Duy Sản với Vũ Như Tô, giữa Lê Tương Dực với thần dân, với
thái tử Chiêm Thành, giữa Vũ Như Tô với người cộng sự gần gũi như Phó Cỗi.
Xung đột trung tâm của vở kịch hình như cũng là xung đột trong tư tưởng của
tác giả. Không phải ngẫu nhiên, trong lời đề tựa, Nguyễn Huy Tưởng đã thốt lên:
“Than ôi, Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải? Ta chẳng biết”. Chính
những mâu thuẫn, xung đột chồng chéo ấy tạo nên sự hấp dẫn cho vở kịch Vũ
Như Tô.
Tuy nhiên không phải cứ miêu tả mâu thuẫn, xung đột của đời sống hiện
thực là tác phẩm có kịch tính. Về vấn đề này, Bielinski đã có một ý kiến rất quan
trọng. Ông viết: “ Kịch và tự sự đều có sự kiện; nhưng từ trong bản chất, tự sự và
kịch hoàn toàn đối nghịch nhau. Sự kiện thống ngự trong tác phẩm tự sự, con
người lại thống ngự trong tác phẩm kịch. Nhân vật của tự sự là biến cố, nhân vật
của kịch là con người cá nhân.
11
1.2.2. Hành động và cốt truyện
Kịch diễn ra trên sân khấu phải thông qua hành động. Theo Aristole
“Hành động là đặc trưng của kịch”. Nếu xung đột được coi là điều kiện cần thiết
để làm nảy sinh tác phẩm, thì hành động lại là yếu tố duy trì sự vận hành tác
phẩm. Trong mối giao lưu đó, xung đột là nơi quy tụ, chọn lọc và tổ chức hành
động kịch. Tính kịch của tác phẩm nằm trong xung đột nhưng hành động lại là
yếu tố để giải tỏa nằm trong xung đột ấy. Hành động kịch thường phát triển theo
xu hướng thuận chiều với xung đột. Xung đột càng căng thẳng thì thiên hướng
hành động càng trở nên quyết liệt, vì thế sức hấp dẫn của tác phẩm tăng lên.
Mỗi diễn viên trên sân khấu sẽ có một hệ thống hành động chính, gọi là
hành động xuyên nhằm thể hiện sứ mệnh tư tưởng của nhân vật mà mình sắm
vai, vì vậy hành động kịch không phải là hành động đơn lẻ, ngắt quãng mà là
một chuỗi hành động liên tục xoay quanh trục xung đột. Người ta gọi tất cả
những hành động xuyên của nhân vật trong toàn bộ buổi biểu diễn thành hành
động quán xuyến thể hiện tư tưởng, chủ đề chung của toàn vở kịch. Từng hành
động của mỗi diễn viên bắt nguồn từ những tình tiết trong kịch bản. Cũng theo
Aristole, thì kịch “là sự bắt chước một hành động quan trọng và hoàn chỉnh…sự
bắt chước hành động là nhờ vào cốt truyện” [1; 49]. Do thời gian và không gian
sân khấu hạn chế quy mô và quá trình biểu diễn, cũng do sự thưởng thức của một
tập thể khán giả phức tạp, phải cùng liên tục theo dõi buổi trình diễn, hành động
quán xuyến của vở kịch phải thật thống nhất, không thể quá phong phú, phức tạp.
Chính vì thế mà cốt truyện của kịch bản cũng phải tập trung.
Nếu kịch tính là đặc điểm nội dung thể loại thì sự tập trung cao độ của cốt
truyện là đặc điểm kết cấu của kịch. Tính tập trung cao độ biểu hiện trước hết ở
12
các bộ phận cấu thành cốt truyện kịch. Bộ phận duy nhất cấu thành nên cốt
truyện kịch là hành động được triển khai qua một hệ thống sự kiện diễn ra theo
trật tự thời gian.
Cốt truyện và hành động kịch phải thống nhất, tập trung, đòi hỏi chi tiết,
tình tiết, sự kiện không những phải cô đúc, gãy gọn mà còn phải liên đới với
nhau một cách chặt chẽ, logic, tất yếu, tự nhiên. Theo nhà văn Anh Đô-rit Letxinh: “Nhà viết kịch chân chính cố suy tính tính cách của các nhân vật sao cho
các sự việc thúc đẩy các nhân vật hoạt động, được diễn ra từ sự việc này dẫn
đến sự việc kia một cách tất yếu” [22; 260].
Cốt truyện và hành động kịch phải tập trung thống nhất, nhưng không có
nghĩa là đơn nhất, giản nhất. Cốt truyện là nhằm triển khai xung đột – những
xung đột đòi hỏi nghệ thuật phải góp phần giải quyết, có nghĩa là không dễ dàng
giải quyết trong thực tế. Những đường nét quá đơn giản không đủ hình dung
những vấn đề phức tạp, gay cấn. Cốt truyện được dẫn dắt theo quan hệ nhân –
quả, những mối quan hệ phải thật chặt chẽ nhưng không có nghĩa là tất yếu, quá
hiển nhiên cứ tuần tự, đều đều dễ làm ngấy khán giả. Do vậy trong kịch nhất
thiết phải có những chỗ ngoặt, những đoạn đột biến, những bước nhẩy vọt được
cấu tạo bằng những sự việc bất ngờ, gây hứng thú cho người xem. Thi pháp cốt
truyện của kịch rất coi trọng việc sáng tạo ra cái bất ngờ. Sự thống nhất hành
động cùng việc tạo ra những bước bất ngờ, đột biến mang lại cho cốt truyện kịch
một nhịp điệu phát triển riêng, mang đặc thù thể loại.
13
1.2.3. Ngôn ngữ kịch
Khi nói về các yếu tố của văn học, Gorki đã coi “Ngôn ngữ là yếu tố đầu
tiên của văn học”. Đây chính là chất liệu cấu thành tác phẩm, là cái vỏ của tư
duy, là cơ sở để người đọc giải mã nội dung, ý nghĩa bức thông điệp mà nhà văn
muốn gửi gắm. Gorki cho rằng : “Ngôn ngữ đối thoại có ý nghĩa to lớn và thậm
chí có ý nghĩa quyết định đối với sự sáng tác kịch” . Ngôn ngữ kịch mang tính
đặc thù rõ nét. Khác với ngôn ngữ thơ là vần, nhịp, ngôn ngữ tiểu thuyết là miêu
tả, kể chuyện…, ngôn ngữ kịch là ngôn ngữ đối thoại, hành động. “Đối thoại là
thể chất và linh hồn kịch. Kịch là văn bản đối thoại” (Đỗ Đức Hiểu). Ngôn ngữ
nhân vật chiếm vai trò quan trọng trong việc thể hiện nhân vật. Nguyên tắc xây
dựng ngôn ngữ từ nghệ thuật của một kịch bản văn học là tất cả mọi vấn đề xoay
quanh hình tượng đều nằm trong ngôn ngữ nhân vật. Ngôn ngữ nhân vật chính là
hình thức tồn tại hầu như duy nhất của ngôn ngữ kịch (không tính đến những lời
chú thích, minh họa về sân khấu, trang phục, sự xuất hiện của diễn viên khi xuất
hiện trên sân khấu…).
Ngôn ngữ nhân vật có ba dạng: đối thoại, độc thoại và bàng thoại.
- Đối thoại là nói với nhau, nhưng không phải cứ nói với nhau là đối thoại.
Bielinxki khẳng định: “Tính kịch không phải là do có nói qua lại mà tạo lên
được, nó phải là do hành động giao lưu sinh động giữa hai người mà tạo thành.
Nếu cả hai bên tranh luận đều muốn đè bẹp đối phương, hoặc tấn công vào
nhược điểm nào đó trong hành động của đối phương, hoặc tấn công vào một
nhược điểm nào đó trong tâm tư của đối phương, nếu thông qua cuộc tranh luận
đó đưa hai người tới một mối quan hệ mới, thì lúc đó mới là kịch” [13; 178].
- Độc thoại là nói với chính mình. Biện pháp này được sử dụng trong kịch
để bộc lộ nội tâm nhân vật. Trong những trường hợp nội tâm phức tạp, dằn vặt,
thì độc thoại chính là cuộc đối thoại giữa con tim và khối óc của bản thân. Người
ta dùng những phút im lặng, những lời ngầm, sự quan sát của những nhân vật
14
khác, thậm chí là sự phục hiện hoặc tái hiện những tình huống và tâm trạng trong
quá khứ hoặc hiện tại của nhân vật bằng những lớp kịch xen kẽ.
- Bàng thoại là lời nhân vật nói riêng với khán giả. Đang đối thoại, một
nhân vật tiến lên phía trước, hướng về khán giả nói vài câu giải thích cảnh ngộ,
một tâm trạng hay điều bí mật nào đó. Và khi ấy mặc nhiên những nhân vật khác
không nghe thấy lời nói đó. Cho nên, lời bàng thoại thể hiện rõ nhất tính chất
diễn trò đầy ước lệ của ngôn ngữ kịch.
Ngôn ngữ nhân vật kịch dù đối thoại hay độc thoại trước hết đó là ngôn
ngữ khắc họa tính cách. Từ những lời ăn tiếng nói của mình, nhân vật kịch “Phải
biểu hiện ở mức chính xác tối đa một cái gì đó điển hình” (Gorki). Sự chính xác
tối đa theo yêu cầu của Gorki chính là ở chỗ : Mỗi nhân vật với một nguồn gốc
xuất thân, bản chất xã hội và một đặc điểm cá tính riêng phải có một tiếng nói
riêng thật phù hợp. Đó là một đòi hỏi tất yếu, bởi vì bản chất của nhân vật kịch
“chỉ có thể được bộc lộ qua lời lẽ của chính họ mà thôi.”
Ngôn ngữ kịch là một hệ thống ngôn ngữ mang tính hành động. Hệ thống
ngôn ngữ ấy có nhiệm vụ mô tả chân dung nhân vật kịch bằng một loạt các thao
tác hành động. Tính hành động của nhân vật kịch không chỉ bộc lộ trong hình
tượng sân khấu mà nó đã được hình thành ngay trong cấu tạo kịch bản văn học.
Ngôn ngữ trong tác phẩm kịch phải đảm bảo cho sự phát triển đầy “kịch tính”
của cốt truyện và những phản ứng hành động theo kiểu dây chuyền của các nhân
vật kịch. Trong đối thoại, muốn lời thoại trở thành hành động có kịch tính, mỗi
lời nói phải bộc lộ một dục vọng, một mục đích, một khuynh hướng, ý chí. Cấu
trúc của đối thoại kịch vì thế thường chứa đựng nội dung đối nghịch như: Tấn
công – phản đòn, thăm dò – lảng tránh, vu vạ - biện minh, chất vấn – chối cãi, đe
dọa – coi thường, cầu xin – từ chối. Vì chứa đựng nội dung của những hành
động đối nghịch như thế nên đối thoại trong kịch cũng giống như một tổ chức
điểm nhìn thay thế cho điểm nhìn của người trần thuật, vừa là nhân tố quan trọng
15
thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện. Trong kịch, không chỉ riêng lời đối thoại
mà ngay cả lời độc thoại cũng có những đặc điểm của một hành động. Sự khác
nhau chỉ là ở chỗ, trong độc thoại, đối tượng tác động của lời thoại không phải là
người khác mà là chính bản thân nhân vật đang độc thoại. Tính hành động là đặc
điểm nổi bật của ngôn ngữ kịch, là cơ sở giúp cho đạo diễn, diễn viên xử lí thích
hợp với hành động của nhân vật trên sân khấu.
Ngôn ngữ kịch là ngôn ngữ hội thoại gần gũi với đời sống. Đó là thứ ngôn
ngữ súc tích, dễ hiểu và ít nhiều mang tính khẩu ngữ. Các nhân vật kịch đối đáp
với nhau một cách tự nhiên, giản dị theo cách đối thoại trong đời sống hàng
ngày. Tuy nhiên sự giản dị, tự nhiên ấy không hề mâu thuẫn với cách nói giàu ẩn
ý, giàu hình tượng và ý nghĩa triết lý sâu xa mà chúng ta thường bắt gặp trong
các tác phẩm kịch. Là một hình thái ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ kịch phải đạt
đến trình độ điêu luyện. Các tác phẩm kịch loại bỏ hoàn toàn những lời lẽ thô
thiển cũng như cách nói tự nhiên chủ nghĩa.
Mặc dù kịch chỉ có nhân vật, nhưng nhân vật cũng có thể qua độc thoại và
đối thoại, đóng vai trò chủ thể trữ tình và trần thuật ở một mức độ nhất định.
Ngôn ngữ kịch do đó có tính chất tổng hợp, nghĩa là mang cả yếu tố trữ tình và
tự sự nữa. Không nên hiểu trữ tình chỉ có trong độc thoại và tự sự chỉ có trong
đối thoại. Có khi trong độc thoại lại có tự sự, đó thường là khi nhân vật một
mình hồi tưởng lại truyện cũ. Ngược lại trong đối thoại lại có trữ tình, đó là lúc
nhân vật bộc lộ tình cảm để giao lưu.
1.2.4. Nhân vật Kịch
a. Nhân vật
Theo tiếng La tinh, nhân vật (Pessona) có nghĩa là cái mặt nạ được dùng
để đeo vào mặt của diễn viên khi biểu diễn. Ngoài ra, nhân vật được diễn đạt
bằng nhiều thuật ngữ khác như tính cách nhân vật hay vai hành động.
16
Trong lý luận và nghiên cứu văn học thì nhân vật là một khái niệm rất
quan trọng. Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về nhân vật văn học, như
“Nhân vật là con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học” (Từ điển
thuật ngữ văn học), hay “Nhân vật là yếu tố căn bản nhất trong các tác phẩm
văn học, tiêu điểm để bộc lộ chủ đề, tư tưởng và đến lượt mình nó lại được các
yếu tố có tính chất hình thức tập trung khắc họa. Nhân vật do đó là nơi tập trung
giá trị tư tưởng – nghệ thuật của tác phẩm văn học” [6; 86] nhưng đều gặp nhau
ở những nội hàm không thể thiếu của khái niệm này : Thứ nhất, đó là đối tượng
mà văn học miêu tả, thể hiện bằng phương tiện văn học khác nhau. Thứ hai, đó
là con người hoặc con vật, đồ vật, sự vật hiện tượng mang linh hồn, đặc điểm của
con người, là hình ảnh ẩn dụ của con người. Thứ 3, đó là đối tượng mang tính
ước lệ và có cách điệu so với đời sống hiện thực, bởi nó đã được khúc xạ qua
lăng kính chủ quan của nhà văn. Nhân vật văn học chính là đối tượng được miêu
tả đến mức có sức sống riêng nào đó bên trong tùy thuộc vào nhiệm vụ nghệ
thuật mà tác giả trao cho nó.
Văn học không thể thiếu nhân vật, bởi đó là hình thức cơ bản để qua đó
văn học miêu tả thế giới một cách hình tượng. Bản chất văn học là một quan hệ
đối với đời sống, nó chỉ tái hiện cuộc sống qua những chủ thể nhất định, đóng
vai trò như tấm gương của cuộc đời. Đối với mỗi nhân vật văn học thì tính cách
được coi là hạt nhân, là đặc điểm quan trọng nhất, là “nội dung của mọi nhân vật
văn học”. “Trong nghiên cứu văn học, theo nghĩa rộng nhất của nó, khái niệm
“nhân vật mới chính là hình ảnh về con người, khái niệm “tính cách” đã là hình
tượng về con người, còn khái niệm “tính cách điển hình” chính là điển hình về
con người; và như vậy, dùng khái niệm “nhân vật” là chỉ đối tượng được nói
đến, còn dùng khái niệm “tính cách” và “tính cách điển hình” là đã bao hàm cả
sự đánh giá về chất lượng tư tưởng – nghệ thuật của đối tượng đó” [7; 162-163].
Nhân vật và tính cách là những yếu tố thuộc nội dung nhưng các biện pháp thể
17
hiện chúng sao cho sinh động, hấp dẫn là thuộc về hình thức của tác phẩm.
Không thể phát huy vai trò của các chi tiết trong việc miêu tả ngoại hình và hành
động của nhân vật như tự sự: việc khắc họa tính cách, nhân vật kịch tập trung
vào hành động và ngôn ngữ của nhân vật. Nhờ đó mà với nghệ thuật trình diễn,
nhân vật kịch mới có thể hiện lên một cách chân thực, thuyết phục được công
chúng.
Nhân vật văn học là hiện tượng hết sức đa dạng. Các nhân vật thành công
thường là những sáng tạo độc đáo, không lặp lại. Tuy nhiên trong các nhân vật
xét về mặt nội dung, cấu trúc, chức năng có thể thấy nhiều hiện tượng lặp lại, tạo
thành các loại nhân vật. Để chiếm lĩnh thế giới nhân vật văn học đa dạng, cần
tìm hiều phương diện loại hình của chúng. Việc phân chia các loại hình nhân vật
cũng rất đa dạng. Xét về vai trò nhân vật trong tác phẩm, có thể nói tới nhân vật
chính, nhân vật phụ, nhân vật trung tâm. Xét về phương diện tư tưởng, về quan
hệ đối với lý tưởng của nhà văn, có thể nói tới nhân vật chính diện và nhân vật
phản diện. Các kiều cấu trúc nhân vật rất đa dạng: có kiểu nhân vật chức năng,
nhân vật loại hình, nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng. Điều này càng cho thấy
tính đa dạng và phong phú đồng thời cũng là khó khăn của việc đi vào tìm hiểu,
nghiên cứu nhân vật văn học.
Là yếu tố vừa thuộc về nội dung, vừa thuộc về hình thức, nhân vật văn học
là đối tượng nhà văn thể hiện chủ đề, tư tưởng của mình trong tác phẩm. Nói như
nhà văn Anh Đức thì sức sống của nhà văn chính là ở việc xây dựng những nhân
vật đặc sắc. Tất nhiên, đó không phải là điều đơn giản.
Chức năng của nhân vật là khái quát những quy luật của cuộc sống con
người, thể hiện những hiểu biết, những ao ước và kỳ vọng về con người. Nhân
vật văn học chính là hình ảnh về con người. Trong vai trò của một “người thư ký
của thời đại” (Banlzac), văn học trở thành một phương thức khái quát, phản ánh
và thể hiện cuộc sống – bằng hình tượng, nhân vật cụ thể - vô cùng hữu hiệu. Do
18
vậy, vai trò, chức năng quan trọng đầu tiên phải kể đến của nhân vật văn học là
phương tiện để nhà văn khái quát hiện thực. Nhân vật chính là người dẫn dắt
người đọc vào thế giới riêng của đời sống trong một thời kỳ lịch sử nhất định.
Nhân vật là công cụ tạo nên thế giới nghệ thuật, tái hiện con người với
những đặc điểm tính cách, số phận và chiều hướng con đường đời. Mỗi nhân vật
luôn được đặt trong không gian, thời gian nhất định với mối quan hệ xã hội, là
đối tượng để đánh giá các quan niệm đạo đức, có những quy luật nội tại và
những bậc thang giá trị.
Nhân vật là chìa khóa giúp cho nhà văn mở rộng đề tài, giúp cho tác phẩm
có tầm bao quát sâu và rộng. Sự phát triển của cốt truyện cũng như tình tiết
truyện chính là sự xoay quanh các nhân vật trong tác phẩm, qua đó tác giả gửi
gắm những giá trị nội dung và tư tưởng. Có thể khẳng định nhân vật sẽ quyết
định đến màu sắc và tính chất của tác phẩm, có nghĩa là loại nhân vật sẽ quyết
định việc nhà văn đi sâu vào vấn đề cốt lõi nào của đời sống và thế giới nghệ
thuật mà nó tạo nên vì thế mà cũng có nét riêng phù hợp.
Nhân vật còn là phương tiện để khái quát lên tính cách xã hội. Điều này do
nhân vật là nơi chứa đựng tính cách duy nhất. Khi đã mang trong mình sự khái
quát tính cách nhất định, nhân vật vừa có nét riêng lại vừa có khả năng đại diện
cho một lớp người nào đó. Lý luận văn học đã chỉ ra tính cách là sự khái quát
bản chất xã hội – lịch sử, tâm lý con người bằng hình thức con người cụ thể, là
sự thể hiện các phẩm chất xã hội của con người với tư cách là con người xã hội.
Tính cách là điểm trung tâm của các mối quan hệ giữa nội dung và hình thức.
Tập hợp của các cá thể nhân vật sẽ tạo nên một thế giới nhân vật. Ở đó
truyền tải ý đồ nghệ thuật của người cầm bút với những quan niệm nghệ thuật,
cách nhìn nhận và thể hiện con người. Trong thế giới nhân vật, từ con người cá
thể với những tính cách, cuộc đời, số phận, cho phép ta hình dung lên bức tranh
19
tổng thể về đời sống. Thế giới nhân vật chính là phần tất yếu trong thế giới nghệ
thuật của người cầm bút.
Với vai trò, vị trí quan trọng như vậy, một lần nữa có thể khẳng định: nhân
vật là yếu tố không thể thiếu đối với tác phẩm văn chương.
b. Nhân vật kịch và đặc điểm của nhân vật kịch
Nhân vật kịch là con người được miêu tả trong tác phẩm kịch. Tất cả mọi
nội dung, diễn biến của câu chuyện, hành động, xung đột và tư tưởng, quan niệm
của tác giả đều phải thể hiện qua nhân vật – và trực tiếp là qua biểu diễn của diễn
viên trên sân khấu. Nhân vật kịch luôn hiện hình trong tác phẩm đúng vào thời
điểm “bước ngoặt số phận” và dù ở bất cứ dạng thức nào, nó cũng luôn khẳng
định bản chất, tính cách của mình bằng hành động.
Nhân vật kịch là một yếu tố quan trọng nhất, không thể thiếu đối với tác
phẩm kịch. Mọi khía cạnh và vấn đề của đời sống, dụng ý của tác giả đều gửi
gắm qua nhân vật. “Do tính hiện đại và tính thời sự của mình, kịch thường tập
trung trong hình tượng nhân vật trung tâm của mình những điển hình mang dấu
vết của từng thời kỳ lịch sử” [16; 67].
Nhân vật kịch không thể được khắc họa với nhiều khía cạnh tỉ mỉ, hơn nữa
những tính cách quá ư phức tạp như trong tiểu thuyết không thể nào thích hợp
với việc thưởng thức liền mạch của một tập thể khán giả trong cùng một thời
gian ngắn ngủi. Người đọc tiểu thuyết có thể lật lại từng trang đã đọc để tìm ra
những khúc mắc. Khán giả của sân khấu không thể làm như thế. Tính cách trong
kịch do đó phải thật nổi bật. Đó cũng là điều được xác nhận xưa nay. Theo
Heeghen “Các nhân vật kịch phần đông đều đơn giản về mặt bên trong hơn so
với các hình tượng tự sự” [5; 105]. Timofeev còn giải thích thêm: “Hình tượng
kịch phản ánh những mâu thuẫn của cuộc sống đã chín mùi và gay gắt nhất và
đã được xác định, chính vì vậy nó được xây dựng trên những cơ sở nhấn mạnh