BÁO CÁO KẾT QUẢ TẬP HUẤN
BÀI 1: Một số vấn đề chung về mô hình trường học mới cấp THCS
I. Thông tin chung
1. Sở GDĐT:
2. Môn học:
3. Thông tin nhóm (Bao gồm những thành viên tham gia qua mạng)
STT
Họ và tên
Đơn vị
Điện
Ghi chú
thoại/email
1
2
3
…
II. Nội dung:
1.Đặc điểm nổi bật của mô hình trường học mới cấp trung học cơ sở là gì?
a. Hoạt động học của học sinh được coi là trung tâm của quá trình dạy
học. Học sinh tự thiết lập tiến độ và các bước đi cho quá trình học tập, với một
chương trình tự học theo từng bước và tăng cường sự ưu việt của hoạt động
nhóm. Học sinh được khuyến khích, tạo cơ hội tham gia tích cực vào các hoạt
động học tập, đặc biệt là hoạt động theo nhóm và tự học. Giáo viên tận dụng khả
năng tổ chức các hoạt động để giúp học sinh vận dụng kiến thức, kĩ năng vào
cuộc sống.
b. Tài liệu hướng dẫn học tập được thiết kế cho học sinh hoạt động, học
nhóm, tự học; dùng chung cho giáo viên, học sinh và cha mẹ học sinh. Trong tài
liệu, cấu trúc các hoạt động học tập theo các chủ đề;
c. Giáo viên duy trì một môi trường học tập cởi mở, thân thiện, hiệu quả
và đóng vai trò là người hướng dẫn học, quan tâm đến sự khác biệt trong việc
tiếp thu kiến thức của học sinh.
d. Nhà trường thiết lập mối liên hệ chặt chẽ với cha mẹ học sinh và cộng
đồng, trong đó các thành viên của gia đình được tham gia vào quá trình giáo dục
và các dự án học tập tại cộng đồng.
1
e. Đánh giá học sinh thường xuyên theo quá trình học tập nhằm kiểm tra
và hướng dẫn phương pháp học tập có hiệu quả cho học sinh. Coi trọng việc học
sinh tự đánh giá, đánh giá lẫn nhau và đánh giá của cha mẹ học sinh, cộng đồng.
Kết hợp đánh giá kiến thức, kỹ năng với đánh giá năng lực và phẩm chất của
học sinh.
f. Giáo viên có vị trí mới, được bồi dưỡng thường xuyên để nâng cao trình
độ và năng lực nghề nghiệp, đáp ứng vai trò quan trọng là người hướng dẫn, tổ
chức và quyết định trong các hoạt động học tập, giáo dục, đánh giá học sinh và
phối hợp với cha mẹ học sinh và cộng đồng.
2. Điểm quan trọng nhất của mỗi hoạt động học (Hoạt động khởi động;
Hoạt động hình thành kiến thức; Hoạt động luyện tập; Hoạt động vận
dụng; Hoạt động tìm tòi, mở rộng) trong bài học theo mô hình trường học
mới là gì?
a.Hoạt động khởi động: Mục đích của hoạt động này là tạo tâm thế học
tập cho học sinh, giúp học sinh ý thức được nhiệm vụ học tập, hứng thú học bài
mới. Giáo viên sẽ tạo tình huống học tập dựa trên việc huy động kiến thức, kinh
nghiệm của bản thân học sinh có liên quan đến vấn đề xuất hiện trong tài liệu
hướng dẫn học; làm bộc lộ "cái" học sinh đã biết, bổ khuyết những gì cá nhân
học sinh còn thiếu, giúp học sinh nhận ra "cái" chưa biết và muốn biết thông qua
hoạt động này. Từ đó, giúp học sinh suy nghĩ và xuất hiện những quan niệm ban
đầu của mình về vấn đề sắp tìm hiểu, học tập.
b. Hoạt động hình thành kiến thức: Mục đích của hoạt động này là giúp
học sinh lĩnh hội được kiến thức, kỹ năng mới và đưa các kiến thức, kỹ năng
mới vào hệ thống kiến thức, kỹ năng đã có của bản thân. Giáo viên sẽ giúp học
sinh xây dựng kiến thức, kĩ năng mới của bản thân trên cơ sở đối chiếu kiến
thức, kinh nghiệm sẵn có với những hiểu biết mới; kết nối/sắp xếp kiến thức, kĩ
năng cũ và mới dựa trên việc phát biểu, viết ra các kết luận/khái niệm/công thức
mới…
2
c. Hoạt động luyện tập: Mục đích của hoạt động này là giúp học sinh củng
cố, hoàn thiện kiến thức, kỹ năng vừa lĩnh hội được. Giáo viên sẽ yêu cầu học
sinh thực hiện các nhiệm vụ, làm các bài tập cụ thể giống như các nhiệm vụ, bài
tập trong bước hình thành kiến thức, để diễn đạt được đúng kiến thức hoặc mô tả
đúng kĩ năng đã học bằng ngôn ngữ theo cách của riêng mình, từ đó áp dụng
trực tiếp kiến thức, kĩ năng đã biết để giải quyết các tình huống/vấn đề trong học
tập.
d. Hoạt động vận dụng: Mục đích của hoạt động này là giúp học sinh vận
dụng được các kiến thức, kĩ năng để giải quyết các tình huống/vấn đề mới,
không giống với những tình huống/vấn đề đã được hướng dẫn hay đưa ra những
phản hồi hợp lí trước một tình huống/vấn đề mới trong học tập hoặc trong cuộc
sống. Giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh kết nối và sắp xếp lại các kiến thức, kĩ
năng đã học để giải quyết thành công tình huống/vấn đề tương tự tình huống/vấn
đề đã học. Đây có thể là những hoạt động mang tính nghiên cứu, sáng tạo, vì thế
cần hướng dẫn học sinh tranh thủ sự hướng dẫn của gia đình, địa phương để
hoàn thành nhiệm vụ học tập. Trước một vấn đề, học sinh có thể có nhiều cách
giải quyết khác nhau.
đ) Hoạt động tìm tòi mở rộng: Mục đích của hoạt động này là giúp học
sinh không bao giờ bằng lòng, thỏa mãn với những gì đã học và hiểu rằng ngoài
những kiến thức được học trong nhà trường còn rất nhiều điều có thể và cần phải
tiếp tục học tập, học tập suốt đời. Giáo viên cần khuyến khích học sinh tiếp tục
tìm tòi và mở rộng kiến thức ngoài lớp học. Học sinh tự đặt ra các tình huống có
vấn đề nảy sinh từ nội dung bài học, từ thực tiễn cuộc sống, vận dụng các kiến
thức, kĩ năng đã học để giải quyết bằng những cách khác nhau.
3. Hội đồng tự quản học sinh có vai trò gì trong hoạt động học của học sinh
trong/ngoài giờ học trên lớp?
Hội đồng tự quản học sinh là một tổ chức của học sinh, do học sinh thành
lập ở từng lớp dưới sự hướng dẫn của giáo viên chủ nhiệm và cha mẹ học sinh
để tổ chức các hoạt động học tập, vui chơi của chính các em đồng thời quản lí,
3
giám sát, điều chỉnh các hoạt động đó; bảo đảm cho các em tham gia một cách
dân chủ và tích cực vào đời sống học đường; khuyến khích các em tham gia một
cách toàn diện vào các hoạt động của nhà trường và phát triển lòng khoan dung,
sự tôn trọng, bình đẳng, tinh thần hợp tác và đoàn kết cho học sinh. Tổ chức Hội
đồng tự quản học sinh là một biện pháp giáo dục nhằm thúc đẩy sự phát triển về
đạo đức, tình cảm và xã hội của học sinh thông qua những kinh nghiệm hoạt
động thực tế của học sinh trong nhà trường và mối quan hệ với những người
xung quanh. Tham gia Hội đồng tự quản học sinh, học sinh sẽ có những tiến bộ
rõ rệt về khả năng tự ý thức, lòng tự trọng, tính tự tin, các hành vi cư xử tôn
trọng và bình đẳng giữa học sinh nam và học sinh nữ; phát triển kĩ năng ra quyết
định, kĩ năng hợp tác và kĩ năng lãnh đạo đồng thời cũng chuẩn bị cho các em ý
thức trách nhiệm khi thực hiện những quyền và bổn phận của mình.
4. Thầy/cô hãy đề xuất giải pháp huy động sự tham gia của cha mẹ học sinh
và cộng đồng trong việc giáo dục học sinh.
- Sự gắn kết giữa gia đình và nhà trường trong việc giáo dục học sinh là
vô cùng quan trọng và cần thiết. Đặc biệt là giữa giáo viên chủ nhiệm, giáo viên
bộ môn trong việc quản lí học sinh. Giáo viên cần kết hợp trao đổi thông tin của
học sinh với gia đình để có biện pháp kịp thời nhắc nhở học sinh.
- Sử dụng hiệu quả sổ liên lạc giữa nhà trường và gia đình là biện pháp
hữu hiệu, là phương tiện trao đổi thông tin 2 chiều giữa gia đình và nhà trường.
Trong suốt quá trình giáo dục, giáo viên chủ nhiệm cần có kế hoạch định kỳ
thông báo cho gia đình học sinh biết kết quả hai mặt giáo dục và các mặt khác
của con em qua sổ liên lạc.
Điều quan trọng là cùng với việc thông báo kết quả cần phải có những lời nhận
xét, đánh giá toàn diện, phản ánh những tiến bộ, những điểm cơ bản của từng
học sinh và những kiến nghị cần thiết với gia đình.
Những nhận xét đánh giá và kiến nghị phải cụ thể khách quan, tránh chung
chung hời hợt.
4
Cha mẹ học sinh sau khi xem xét sổ liên lạc cần ghi rõ ý kiến của mình về
những kết quả phấn đấu của con cái cũng như về nhận xét đánh giá của giáo
viên chủ nhiệm.
Chính sự thông báo trao đổi ý kiến qua lại như vậy giúp cho cả nhà trường và
gia đình thường xuyên, kịp thời thu được những thông tin cần thiết về học sinh
để không ngừng điều chỉnh và hoàn thiện những tác động sư phạm phối hợp
giáo dục các em.
- Trò chuyện với cha mẹ học sinh, giáo viên hiểu được tính cách, hứng
thú và khuynh hướng của học sinh, đồng thời giáo viên chủ nhiệm cũng đem lại
cho gia đình những lời khuyên về mặt sư phạm trong việc tổ chức công việc ở
nhà, những hình thức và phương pháp rèn luyện đạo đức cho các em...
Qua đó, tạo ra và củng cố sự tin cậy lẫn nhau giữa hai bên. Nhờ vậy hiệu quả
giáo dục học sinh sẽ được nâng cao.
5. Thầy/cô hãy trình bày những thuận lợi và khó khăn khi triển khai mô
hình trường học mới tại trường mình đang công tác.
a. Thuận lợi:
- Tài liệu hướng học được xây dựng dưới dạng 3 trong 1 ( nghĩa là dùng chung
cho Học sinh, giáo viên và cha mẹ học sinh).
- So với quy định hiện hành thì số lượng các môn học theo mô hình VNEN giảm
đi, có các môn được tích hợp lại thành nội dung hoạt động giáo dục như:
+ Môn Toán: HDH môn Toán.
+ Môn Ngữ văn: HDH môn Ngữ văn.
+ Môn KHTN : gồm môn Lý, Hóa, Sinh.
+ Môn KHXH: gồm môn Sử, Địa.
+ Môn Công dân : HDH môn GD công dân.
+ Môn HDH Công nghệ và Tin học ứng dụng.
+ Hướng dẫn các hoạt động giáo dục: gồm môn Âm nhạc, Mĩ thuật và Thể
dục.
5
- Tài liệu có kênh hình, kênh chữ rõ ràng và các lôgô chỉ dẫn, các câu lệnh thì
ngắn gọn, dễ hiểu và thống nhất nhằm giúp học sinh tự đọc, tự học thuận tiện và
làm đúng theo mục tiêu bài học.
- Học tập theo mô hình VNEN giúp học sinh phát huy tính tự học, sáng tạo, tính
tự giác, tự quản, sự tự tin, hứng thú trong học tập. Với phương pháp dạy học
mới còn giúp cho các em phát huy tốt các kỹ năng: như kỹ năng làm việc nhóm,
kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hợp tác, kỹ năng tự đánh giá lẫn nhau trong giờ học,
ngoài ra giúp các em hiểu biết nhiều hơn, có trách nhiệm và biết phấn đấu làm
chủ quá trình học tập của mình.
- Còn đối với giáo viên thì giúp cho thầy cô có nghiệp vụ sư phạm được nâng
cao hơn và có kỹ năng điều hành các hoạt động dạy học.
- Đối với cha mẹ học sinh và cộng đồng thì có liên quan trực tiếp, có trách
nhiệm tham gia với nhiều hoạt động và hỗ trợ nhà trường nhiều hơn. Đồng thời
cha mẹ học sinh còn được tiếp nhận, bổ sung tri thức từ nhà trường thông qua
học sinh.
b. Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi mà chương trình đã mang lại thì cũng còn rất nhiều
khó khăn cần phải được tháo gỡ như:
Nhiều học sinh khi tiếp cận mô hình trường học mới tỏ ra khá bỡ ngỡ. Cụ thể,
nhiều con chưa biết cách tự học, chưa hứng thú tham gia thảo luận nhóm, thụ
động, trông chờ, ỷ lại vào nhóm trưởng. Học nhóm bên cạnh việc phát huy trí
tuệ tập thể thì còn khiến cho nhiều học sinh có cơ hội nói chuyện riêng, không
tập trung khi giáo viên đang hướng dẫn nhóm khác. Ngoài ra, ngồi học quay vào
nhau, cộng với sĩ số lớp quá đông sẽ không tránh khỏi việc nhìn bài nhau. Chưa
kể một số học sinh học giỏi muốn nhóm mình sớm hoàn thành nhiệm vụ nên có
thể đọc bài cho bạn chép hoặc cho bạn nhìn bài. Khi nghiệm thu kết quả, giáo
viên thấy các học sinh trong nhóm đều hoàn thành nhiệm vụ nên có thể chủ quan
không giảng lại, trong khi thực tế, còn nhiều học sinh chưa hiểu hết bài. Học
theo mô hình mới, có thể xảy ra tình trạng: những học sinh giỏi thì ngày càng
6
năng động, tự tin, tiến bộ nhanh nhưng những học sinh yếu kém thì càng chậm
tiến bộ.
Bên cạnh những điều trên, tôi còn nhận thấy, trong một lớp học đông mà thời
lượng của một tiết dạy cố định là một trở ngại rất lớn cho việc dạy học theo
nhóm. Nếu giáo viên không kiểm soát tốt sự tương tác giữa các học sinh trong
nhóm thì một số có thể lãng phí thời gian vào việc thảo luận những vấn đề
không liên quan hoặc có thể xảy ra trường hợp một học sinh phụ trách nhóm
theo kiểu độc đoán sẽ hướng các bạn còn lại thảo luận những vấn đề không đúng
trọng tâm bài học. Hoặc sẽ có một số học sinh được làm nhóm trưởng nhưng
chưa thành thạo trong việc điều hành hoạt động nhóm nên nhóm học chưa hiệu
quả. Mô hình trường học mới khi thực hiện với lớp học đông (trên 30 học sinh)
là rất khó khăn bởi việc chia nhóm (theo nghiên cứu, số lượng người học theo
nhóm ở dạng lý tưởng là 4-5 người/nhóm) sẽ không phù hợp với không gian lớp
học. Lớp đông thì giáo viên ít có thời gian đến từng nhóm để kịp thời sửa chữa
và chỉ bảo cho các học sinh yếu kém.
Diện tích lớp học nhỏ thì việc kê bàn cho học sinh làm việc theo nhóm rất khó
hợp lý. Nhiều học sinh sẽ khó theo dõi trên bảng, dẫn đến tư thế ngồi không
đúng, có thể làm cho các con cong, vẹo cột sống hoặc loạn thị...
Học theo mô hình mới, học sinh phải có sự chuẩn bị bài trước ở nhà, dưới sự hỗ
trợ của phụ huynh, thì việc thảo luận trên lớp mới hiệu quả. Tuy nhiên, tôi thấy
không phải phụ huynh nào cũng có khả năng hỗ trợ các con điều này.
6. Đề xuất, kiến nghị với Trường, Phòng, Sở, Bộ.
Không
7