Tải bản đầy đủ (.ppt) (52 trang)

Phong trào khang phap o bắc kỳ 1873 1884

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.2 MB, 52 trang )

TRƯỜNG ĐH SƯ PHẠM-ĐH THÁI NGUYÊN
KHOA LỊCH SỬ

PHONG TRÀO KHÁNG PHÁP Ở BẮC KÌ
TỪ NĂM 1873 ĐẾN NĂM 1883


Cấu trúc chuyên đề

II. Nội dung
I. Lí do chọn
chuyên đề

III. Kết luận


I. Lí do chọn chuyên đề:
1. Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
“Dân ta phải bíêt sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”.
2. Làm rõ một giai đoạn lịch sử đầy biến động trong tiến
trình lịch sử Việt Nam.


II. Nội dung:
1. Tình hình Việt Nam trước khi thực dân
Pháp đánh Bắc Kì.
2. Nhân dân Bắc Kì kháng Pháp lần thứ nhất.
3. Tình hình Việt Nam sau Hiệp ước Giáp
Tuất 1874.
4. Nhân dân Bắc Kì kháng Pháp lần thứ hai.




1. Tình hình Việt Nam trước khi thực dân
Pháp xâm lược Bắc Kì lần thứ nhất.

- Từ năm 1867, sau khi cả sáu tỉnh Nam Kì rơi vào tay
Pháp, tư tưởng đầu hàng đã chi phối các quan lại cao
cấp trong triều đình Huế. Nhà Nguyễn tiếp tục chính
sách “bế quan toả cảng”, tuy đã bắt đầu cử người
sang phương Tây học kĩ thuật vào Nam học tiếng
Pháp.
- Đối với 6 tỉnh Nam kì triều đình Huế mặc nhiên thừa
nhận đó là vùng đất của Pháp, không nghĩ gì đến việc
giành lại.
- Nền kinh tế của đất nước ngày càng bị kiệt quệ vì
triều đình vơ vét tiền bạc để trả chiến phí cho Pháp.


- Đời sống của nhân dân cực khổ, mâu thuẫn xã hội
ngày càng gay gắt, hàng loạt các cuộc khởi nghĩa nổi
dậy nhưng đều bị triều đình đàn áp đẫm máu.

Nhân dân Việt nam đói khổ nghèo nàn, lạc hậu


Sơ đồ một số cuộc nổi dậy của nhân dân Bắc Kì


...Cơm thì nỏ (chẳng) có
Rau cháo cũng không

Đất trắng xoá ngoài đồng
Nhà giàu niêm kín cổng
Còn một bộ xương sống
Vơ vất đi ăn mày
Ngồi xó chợ, lùm cây
Quạ kêu vang bốn phía
Xác đầy nghĩa địa
Thây thối bên cầu
Trời ảm đạm u sầu
Cảnh hoang tàn đói rét
Dân nghèo cùng kiệt...”

(Vè cái thời Tự Đức)


- Đứng trước vận nước nguy nan, một số quan chức,
sĩ phu đã mạnh dạn dâng lên triều đình những bản
điều trần bày tỏ ý kiến cải cách duy tân như là Phan
Thú Thứ, Đặng Huy Trứ. Đặc biệt là các bản điều
trần của Nguyễn Trường Tộ (ông đã dâng lên triều
đình14 bản điều trần) đề cập đến hàng loạt vấn đề
quan trọng như chấn chỉnh bộ máy quan lại, phát triển
công thương nghiệpn và tài chính, chỉnh đốn võ bị,
mở rộng ngoại giao, cải tổ giáo dục. Nhưng đều bị
triều đình cự tuyệt.


Chân dung một số nhà cải cách

Phạm Thú Thứ


Đặng Huy Trứ
(1825-1874)

Nguyễn Trường Tộ
(1830-1871)


Quân đội nhà Nguyễn Lạc hậu


-Trong khi đó thực dân Pháp giáo giết chuẩn bị xâm
lược nước ta. Sau khi chiếm được các tỉnh nam Kì,
thực dân Pháp từng bứoc thiết lập bộ máy cai trị, biến
nơi đây thành bàn đạp tấn công ra Bắc, điều tra tình
hình bố phòng của nước ta, bắt liên lạc với GiăngĐuy-Pi, một lái buôn đang hoạt động ở vùng biển
Trung Quốc-Việt nam. Ngoài vra chúng còn lôi kéo
một số tín đồ công giáo kích động họ nổi lên chống
triều đình.
- Chớp cơ hội giải quyết vụ Đuy-Puy đang gây rối ở
Hà Nội. Thực dân Pháp ở Sài Gòn đã phái đại uý
Gác-ni-ê đem quân ra Bắc


2. Cuộc kháng của nhân dân ta khi thực
dân Pháp đánh Bắc Kì lần thứ nhất.

Khung cảnh Hà Nội năm 1873



- Sau khi lấy cớ xâm
lược Bắc Kì, khởi
hành từ Sài Gòn ngày
11-10-1873, ra tới Hà
Nội 5-11. Sáng ngày
19-11 Pháp gửi tối
hậu thư cho Nguyễn
Tri Phương, không
đợi trả lời, sáng 2011 quân Pháp nổ
súng chiếm thành Hà
Nội.
Quân Pháp tấn công thành Hà Nội


SƠ ĐỒ QUÂN PHÁP TẤN CÔNG THÀNH HÀ NỘI LẦN THỨ NHẤT

Thành Hà Nội

Chú giải
Quân Pháp tấn công thành
Hà Nội.
Quân dân Hà Nội chiến đấu.


-

Về phía triều đình:
+ Quan lại của triều đình ở Hà Nội lúng túng bị động.
Khi địch nổ súng đánh thành Hà Nôị, khoảng 100 binh
sĩ dưới sự chỉ huy một viên chưởng cơ đã chiến đấu

anh dũng và hi sinh tới người cuối cùng tại Ô Quan
Chưởng.

Ô

Ô Quan Chưởng


-Về phía triều đình:
+ Quan lại của triều đình ở Hà Nội lúng túng bị động.
Khi địch nổ súng đánh thành Hà Nôị, khoảng 100
binh sĩ dưới sự chỉ huy một viên chưởng cơ đã chiến
đấu anh dũng và hi sinh tới người cuối cùng tại Ô
Quan Chưởng.

Ô Quan Chưởng


- Trong thành, tổng đốc
Nguyễn Tri Phương đã
đốc thúc quân sĩ chiến
đâú dũng cảm. Khi bị
trọng thương, bị giặc bắt
ông đã khước từ mọi sự
chữa chạy của Pháp nhịn
ăn cho đến chết. Con trai
ông là Nguyễn Lâm
cũng hi sinh trong chiến
đấu.
Nguyễn Tri Phương

(1800-1873)


Thơ điếu Nguyễn Tri Phương
của Nguyễn Thiện Thuật
“Vua cha nặng nghĩa nhẹ thân mình
Thua được bàn chi việc dụng binh
Trăm trận gian nan mà chẳng chết
Một hòa tạm bợ lại quyên sinh
Cửa trời đã đón người quân tử
Bể ngọc khôn trông mặt lão thành
Danh vọng thế mà lâm cảnh thế
Quả trời không muốn để tròn danh”.
Khương Hữu Dụng dịch
(Thơ văn yêu nước thế kỷ XIX)


- Về phía nhân dân: Hành động xâm lược của quân Pháp
khiến cho nhân dân ta vô cùng căm phẫn. Ngay khi
Gác-ni-ê ra đến Hà Nội, quân dân ta đã bất hợp tác
với Pháp. Các giếng nước ăn bị bỏ thuốc độc , kho
thuốc súng ở bờ sông của Pháp nhiều làn bị đốt cháy.
*Khi thành Hà Nội bị giặc chiếm
-Quân triều đình tan rã nhanh chóng
-Nhân dân Hà Nội vẫn tiếp tục chiến đấu. Các sĩ phu
văn thân yêu nước lập Nghĩa Hội, bí mật tổ chức
kháng Pháp, ví dụ như tú tài Phạm Lý.


Khi quân Pháp đánh các tỉnh Hưng Yên, Hải

Dương, Nam Định, Ninh Bình.. Đã gặp phải sự
kháng cự quyết liệt của nhân dân ta, ví dụ như ở Nam
Định có cuộc chiến đấu của Phạm Văn Nghị, Nguyễn
Mậu Kiến ở Thái Bình…
Căn cứ của
Nguyễn Mậu
Kiến (Thái Bình)

Căn cứ
của Phạm
Văn Nghị
(Nam
Định)


Trận đánh gây tiếng vang lớn nhất lúc bấy giờ là
trận phục kích của quân ta ở trân Cầu Giấy ngày 2112-1873. Thừa lúc Gác-ni-ê đem quân xuống đánh
Nam Định việc canh phòng Hà Nội sơ hở, quân ta do
Hoàng Tá Viêm chỉ huy (có sự phôí hợp với quân cờ
đen của Lưu Vĩnh Phúc) Từ Sơn Tây kéo về Hà Nội
hình thành trận tuyến bao vây quân địch. Nghe tin đó,
buộc Gác-ni-ê phải tức tốc đưa quân Nam Định trở
về. Ngày 21-12-1873 Lưu Vĩnh Phúc kéo quân vào
sát thành khiêu chiến. Gác-ni-ê đem quân đuổi theo.
Rơi vào trận phục kích của quân ta tại khu vực Cầu
Giấy, toán quân Pháp trong đó có cả Gác-ni-ê bị tiêu
diệt.


SƠ ĐỒ TRẬN CẦU GIẤY LẦN THỨ NHẤT


Cầu
Giấy

Quân của Hoàng Tá Viên
và Lưu Vĩnh Phúc
Quân Pháp đánh lên
Sơn Tây
Nơi quân, dân Hà Nội
tiêu diệt Gác-ni-ê


Cuộc chiến đấu giữa quân ta và quân Pháp tại Cầu Giấy 21-12-1973


Hiệp ước Giáp Tuất đã được kí kết tại Sài Gòn
(15-3-1874) gồm có 22 điều khoản. Với hoà ước này,
phong kiến triều Nguyễn chính thức dâng toàn bộ đất
đai Nam Kì cho thực dân Pháp, công nhận quyền đi
lại, buôn bán, kiểm soát, điều tra tình hình của chúng
ở Việt Nam.
Sau đây là một vài điều khoản chính và nặng nề
nhất nói lên sự phụ thuộc ngày càng chặt chẽ của triều
đình Huế vào thực dân Pháp:


×