MỤC LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
MỞ ĐẦU
Giai cấp công nhân (GCCN) Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã đi tiên phong trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, liên minh, đoàn
kết chặt chẽ với nông dân, trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động trong sự
nghiệp giành độc lập dân tộc. Trong quá trình đó, GCCN luôn thể hiện là giai cấp
“dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực
dân” như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định. Trong thời kì đổi mới, giai cấp
công nhân Việt Nam ngày càng phát triển mạnh về nhiều mặt. Tuy nhiên, trước yêu
cầu của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế, một loạt vấn đề bức thiết đang đặt
ra đối với sự phát triển của giai cấp công nhân. Để cụ thể hóa và làm rõ vấn đề này
hơn, tôi xin lựa chọn đề tài : “Giai cấp công nhân ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng
và phương hướng phát triển”.
NỘI DUNG
Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lenin về giai cấp công nhân và một số
nét mới của giai cấp công nhân thế giới hiện nay.
1. Lý luận của chủ nghĩa Mác- Lenin về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân
1.1.
Khái niệm giai cấp công nhân và đặc trưng cơ bản của giai cấp công
nhân.
Trên cơ sở phân tích quy luật thực tế của sự vấn động trong xã hội tư bản chủ
nghĩa, chủ nghĩa Mác – lenin đã làm sáng tỏ tính tất yếu diệt vong của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự ra đời của phương thức cộng sản chủ nghĩa
mà lực lượng duy nhất có sứ mệnh lãnh đạo cuộc cách mạng thực hiện bước
chuyển biến lịch sử này là chính giai cấp công nhân.
C.Mác đã dùng nhiều thuật ngữ khác nhau để nói về giai cấp công nhân như:
giai cấp vô sản, giai cấp xã hội chỉ hoàn toàn dựa vào việc bán sức lao động của
mình, lao động làm thuê ở thế kỉ XIX, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp công nhân
hiện đại, giai cấp cộng nhân đại công nghiệp… như những cụm từ đồng nghĩa để
biểu thị một khái niệm: Giai cấp công nhân_con đẻ của nền đại công nghiệp tư bản
chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho nền sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất
I.
2
hiện đại. Mác và Angghen còn dùng những thuật ngữ có nội dung bó hẹp hơn để
chỉ các loại công nhân trong các ngành khác nhau, những giai đoạn phát triển khác
nhau của công nghiệp: Công nhân khoáng sản, công nhân công trường thủ công,
công nhân công xưởng, công nhân nông nghiệp…
Dù giai cấp công nhân có nhiều tên gọi khác nhau như thế nào đi nữa thì theo
C.Mác và Ph.Angghen vẫn chỉ mang hai thuộc tính cơ bản:
Về phương thức lao động, phương thức sản xuất, người lao động trực tiếp
hoặc gián tiếp vận hành những công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày
càng hiện đại và xã hội hóa cao. Khi nói về tiêu chí này, C.Mac và Ph.Angghen
luôn nhấn mạnh đến người công nhân công nghiệp công xưởng, coi là đại bộ phận
tiêu biểu cho giai cấp công nhân hiện đại. Điều này thể hiện rõ trong những luận
điểm sau của C.Mác và Ph.Angghen: “Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong
cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là bản than của
nền đại công nghiệp” “công nhân cũng là phát minh của thời đại mới, giống như
máy móc vậy…Công nhân Anh là đứa con đầu long của nền công nghiệp hiện đại”.
Về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, đó là những người lao
động không có tư liệu sản xuất, phải bán lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản
bóc lột về giá trị thặng dư. Để kiếm sống, họ phải tự bán mình và bị coi như một
món hàng hóa, “phải chịu hết sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị
trường”. Đây là một trong những đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân dưới chế
độ tư bản chủ nghĩa nên Mác và Angghen còn gọi giai cấp công nhân là giai cấp vô
sản.
Xuất phát từ những quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác- Lenin về
giai cấp công nhân, nghiên cứu những biến đổi của giai cấp công nhân trong giai
đoạn hiện nay, có thể nhận định : “Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn
định,hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại,
với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng
cao; là lực lượng sản xuất cơ bản, tiên tiến, trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình
sản xuất, tái sản xuất ra của cái vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; là lực
lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội. Ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những người không có
hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất, phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị
giai cấp tư sản bóc lột về giá trị thặng dư: ở các nước xã hội chủ nghĩa, họ là
người cùng nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng
3
nhau hợp tác lao động vì lợi ích chung của toàn xã hội trong đó có lợi ích chính
đáng của bản thân họ”.1
1.2.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Các nhà kinh điển của chủ nghiac Mác – Lenin đã khẳng định giai cấp công
nhân hiện đại là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất, có khả năng tổ chức
và lãnh đạo toàn thể nhân dân lao động tiến hành cuộc các mạng, từ hình thái kinh
tế xã hội tư bản sang hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa, giải phóng nhân loại
khỏi ách áp bức, bất công và mọi hình thức bóc lột. Nói một cách khái quát, nội
dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là: Xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa,
xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và toàn thể nhân loại khỏi mội sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu, xây
dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh. Đó là một quá trình lịch sử hết sức lâu
dài và khó khăn.
Có hai điều kiện khách quan qui định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Địa vị kinh tế- xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin, lực lượng sản xuất là yếu tố luôn luôn
vận động và phát triển.Trong lực lượng sản xuất ở bất kỳ xã hội nào, người lao
động cũng là yếu tố quan trọng nhất. Trong chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội,
với nền sản xuất đại công nghiệp ngày càng phát triển, thì “Lực lượng sản xuất
hàng đầu của toàn nhân loại là công nhân, người lao động”. Giai cấp công nhân có
những lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của đại đa số quần chúng nhân dân lao
động, do vậy tạo ra khả năng cho giai cấp này có thể đoàn kết với các giai cấp, tầng
lớp lao động khác trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản để giải phóng
mình và giải phóng toàn xã hội.
Bốn đặc điểm chính trị -xã hội của giai cấp công nhân:
giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng
giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất thời đại
ngày nay
giai cấp công nhân là giai cấp có ý thức tổ chức kỉ luật cao
giai cấp công nhân có bản chất quốc tế
1.3.
Hai nhân tố chủ quan đảm bảo cho giai cấp công nhân thực hiện thắng lợi
sư mệnh lịch sử thế giới của mình
Đảng cộng sản_nhân tố chủ quan hàng đầu: Đảng cộng sản là tổ chức chính trị
cao nhất của giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích và trí tuệ của giai cấp công
1 C.Mác và Ph. Angghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.456,457.
4
nhân và toàn thể nhân dân lao động. Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLenin, Đảng đưa ra cương lĩnh đường lối cách mạng phù hợp với mỗi giai đoạn
cách mạng. Cán bộ, đảng viên tuyên truyền phổ biến quan điểm đường lối của đảng
tới các tầng lớp nhân dân làm cho quần chúng nhân dân hiểu và phải bằng hành
động của mình để tập hợp ,lôi cuốn quần chúng nhân dân vào các phong trào cách
mạng.
Bản thân giai cấp công nhân : là cơ sở xã hội của Đảng cộng sản, là nguồn lực
bổ sung lực lượng phong phú cho đảng cộng sản, được giác ngộ lý tưởng cách
mạng, trang bị lý luận cách mạng, tự giác ra nhập đảng và được các tổ chức chính
trị -xã hội của giai cấp công nhân giới thiệu cho đảng.
2. Một số nét mới của giai cấp công nhân thế giới hiện nay.
2.1.
Sự lớn mạnh về cả số lượng, chất lượng và cơ cấu ngành nghề.2
Điều đầu tiên có thể dễ nhận thấy là so với thời kỳ trước đây, số lượng công
nhân trên thế giới tăng lên rất nhanh. Nếu thống kê ta thấy, thời kỳ Mác Ăng ghen
cuối thế kỷ XIX số lượng công nhân trên thế gới chỉ có khoảng trên 10 triệu thì đến
đầu thế kỷ XX là 119 triệu, đến cuối thế kỷ XX đã tăng lên đến trên 660 triệu và
đến nay số lượng GCCN3 khoảng trên 800 triệu (năm 2003).
Thứ hai,kết cấu giai cấp công nhân cũng có những biến động. Số lượng công
nhân trong tổng số lao động làm thuê tăng lên. Nếu như năm 1950 tỷ trọng lao
động làm thuê ở các nước tư bản trong tổng số dân cư chiếm 69% thì đến năm 1980
tỷ lệ này là 81,8%, hiện nay là 86 %. Trong đó ở các nước tư bản phát triển như
sau: Anh là 79,6%, Mỹ là 77%, Canada 76,3%, Đức là 75 %.
Cơ cấu công nhân cũng biến đổi theo lĩnh vực ngành nghề.
Tác động của khoa học - kỹ thuật đã đưa đến sự thay đổi của cơ cấu kinh tế. Nếu
giai cấp vô sản thế kỷ XIX được hình thành bởi 3 bộ phận là vô sản công nghiệp,
vô sản hầm mỏ và vô sản công nghiệp, thì dưới chủ nghĩa tư bản hiện đại, giai cấp
vô sản có mặt ở cả 3 lĩnh vực: Khu vực I (ngành nông lâm, ngư nghiệp), khu vực II
(khai thác, chế tạo, xây dựng), khu vực III (ngành kinh tế dịch vụ và công nghệ
cao).
Cùng với sự phát triển nhanh của khoa học-công nghệ, trình độ người lao
động nói chung cũng được nâng lên đáng kể. Thể hiện ngay ở nước ta nhưng năm
gần đây trình độ học vấn của công nhân đã tăng nhanh. Nếu như năm 1986 ta có
2 />3 Giai cấp công nhân
5
khoảng 40% công nhân có văn hoá cấp PTTH 4 thì đến nay số lượng đó là 70%. Tỷ
lệ lao động qua đào tạo năm 2005 chỉ 26%, năm 2006 khoảng 31%.
Ở các nước tư bản phát triển phần lớn công nhân có trình độ lành nghề. Chỉ
có khoảng 10 % công nhân có trình độ thấp và không lành nghề.
2.2. Sự thay đổi về chất lượng cuộc sống .
Dù có những nét thay đổi, song địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân
thế giới hiện nay vẫn không thay đổi: Hiện trạng các chủ lao động vi phạm pháp
luật: vi phạm luật lao động, buộc công nhân làm việc với cường độ quá cao, lương
trả ít, không thực hiện nghĩa vụ đóng bảo hiểm cho người lao động ... Do đó, sứ
mệnh lịch sử của họ được quy định một cách khách quan bởi địa vị kinh tế - xã hội
ấy vẫn không thay đổi.
II.
Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay và phương hướng
phát triển
1. Giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay: thực trạng và nguyên nhân.
1.1.
Thực trạng của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.5
Về số lượng, cơ cấu: Trong thời gian qua, số lượng công nhân Việt Nam có xu
hướng tăng nhanh theo quy mô nền kinh tế. Khởi đầu công cuộc CNH, HĐH 6,
đội ngũ công nhân nước ta có khoảng 5 triệu người. Đến cuối năm 2005, số
lượng công nhân trong các doanh nghiệp và cơ sở kinh tế thuộc mọi thành phần
kinh tế ở nước ta là 11,3 triệu người, chiếm 13,5% dân số, 26,46% lực lượng lao
động xã hội. Hiện tượng thay đổi việc làm, nghề nghiệp của công nhân nước ta
cũng có chiều hướng gia tăng. Sự thay đổi nơi làm việc cũng diễn ra thường
xuyên ở tất cả các thành phần kinh tế. Đặc biệt, công nhân lao động khu vực
kinh tế ngoài nhà nước có tỷ lệ thay đổi nơi làm việc rất lớn.
Về chất lượng: Trình độ nghề nghiệp của công nhân tuy đã được nâng cao,
nhưng nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Năm 2010, số lao động có
trình độ đại học trở lên là 5,7 %, cao đẳng là 1,7 %, trung cấp là 3,5 %, dạy
nghề 3,8 % . Tình trạng mất cân đối trong cơ cấu lao động kỹ thuật khá lớn.
Nhiều doanh nghiệp có thiết bị công nghệ cao nhưng lại thiếu công nhân lành
nghề. Đặc biệt, chỉ có 75,85% công nhân đang làm những công việc phù hợp
4 Phổ thong trung học
5 />6 Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
6
với ngành nghề đào tạo. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới năng suất, chất
lượng sản phẩm, gây lãng phí trong đào tạo nghề.
Về đời sống làm việc của công nhân lao động : Theo số liệu của Tổng Liên đoàn
lao động Việt Nam, năm 2009, cả nước có 83% số công nhân có việc làm
thường xuyên ổn định, còn 12% việc làm không ổn định và 2,7% thường xuyên
thiếu việc làm. Chỉ có khoảng 21% doanh nghiệp ngoài nhà nước đóng bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho công nhân và trích nộp kinh phí công đoàn.
Thu nhập của người lao động: Mức lương của người lao động hiện nay về cơ
bản không đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của bản thân, chứ chưa nói
đến việc tích lũy hay chăm lo cho con cái... Chẳng hạn, năm 2010, tiền lương
của người lao động trong các loại hình doanh nghiệp tăng 10,3% so với năm
2009 nhưng chỉ số giá sinh hoạt tăng 11,75%, nên việc tăng lương không có tác
dụng nhiều trong việc cải thiện đời sống công nhân, đặc biệt là công nhân ở các
KCN, KCX7. Trong khi đó, phần lớn các chủ doanh nghiệp vẫn đang lấy mức
lương tối thiểu để trả lương cho người lao động, chưa thật sự quan tâm đến việc
xây dựng thang, bảng lương. Ngoài ra, các chủ doanh nghiệp còn bớt một phần
lương của người lao động chi cho các khoản phụ cấp như ăn trưa, tiền hỗ trợ đi
lại, thưởng...
Nhà ở của người lao động. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, hầu hết các
tỉnh, thành phố lớn, các KCN, KCX không xây nhà lưu trú cho công nhân. Số
người lao động trong các KCN khoảng 1,6 triệu người, trong đó, chỉ có 20% số
người có chỗ ở ổn định(8). Đa số người lao động ngoại tỉnh làm việc tại các KCN
đều phải thuê nhà trọ, với điều kiện vệ sinh, môi trường không bảo đảm.
Đời sống văn hóa của công nhân: Những năm gần đây, các doanh nghiệp đã
từng bước đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của người lao động. Tuy nhiên, ở
hầu hết các KCN, KCX chưa tạo ra những điều kiện bảo đảm sinh hoạt văn hóa
cho công nhân. Theo kết quả điều tra xã hội học tại Bình Dương, có đến 71,8%
công nhân không có điều kiện để đến rạp chiếu phim, 88,2% không đi xem ca
nhạc, 84,7% không đi xem thi đấu thể thao, 95,3% chưa từng đến sinh hoạt tại
các câu lạc bộ, 91,8% không bao giờ đến các nhà văn hóa tham gia các hoạt
động vui chơi giải trí, văn hóa tinh thần, 89% giải trí bằng tivi, 82,4% bằng nghe
đài, chỉ có 1,2% sử dụng internet.
Điều kiện làm việc: Nhìn chung, điều kiện làm việc của công nhân chưa được
bảo đảm. Nhiều công nhân phải làm việc trong môi trường bị ô nhiễm nặng như
7 Khu công nghiệp, khu công xưởng
7
nóng, bụi, tiếng ồn, độ rung vượt tiêu chuẩn cho phép. Điều đó đã tác động xấu
đến sức khoẻ người lao động, gây ra các bệnh nghề nghiệp.
Ý thức tổ chức kỉ luật, thái độ tác phong lao động:
Hiện nay, công nhân nước ta năng động trong công việc, nhanh chóng tiếp thu
những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại và đã bắt đầu hình thành ý thức về
giá trị của bản thân thông qua lao động. Tâm lý lấy lợi ích làm động lực là nét mới
đang dần trở thành phổ biến trong công nhân. Sự quan tâm hàng đầu của công nhân
là việc làm, thu nhập tương xứng với lao động. Mong muốn được học tập, nâng cao
trình độ học vấn, chuyên môn, được bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp, chính
đáng.
Thực tế cho thấy GCCN Việt Nam đang có những biến đổi căn bản về chất.
Tuy có sự thay đổi và phát triển về mọi mặt nhưng vẫn tồn tại không ít hạn chế, bất
cập:
Thứ nhất, Trình độ học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp của công nhân lao động còn
thấp so với yêu cầu phát triển đất nước và đang mất cân đối nghiêm trọng trong cơ
cấu lao động kỹ thuật giữa các bộ phận công nhân. Rõ nét nhất là tình trạng thiếu
nghiêm trọng chuyên gia kỹ thuật, nhà quản lý giỏi, công nhân có trình độ tay nghề
cao.
Thứ hai, đời sống vật chất, tinh thần của công nhân chưa được đảm bảo, môi
trường làm việc độc hại, quyền lợi không được giải quyết một cách thỏa đáng... đã
dẫn đến các cuộc đình công.
Thứ ba, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp của một bộ phận công nhân
còn yếu. Ý thức chính trị, nhận thức về luật pháp của công nhân còn hạn chế. Tỷ lệ
đảng viên, đoàn viên công đoàn trong công nhân lao động còn thấp.
Thứ tư, vai trò của tổ chức đảng và các đoàn thể trong các doanh nghiệp chưa đáp
ứng được sự phát triển nhanh chóng về số lượng, cơ cấu của GCCN. Công tác phát
triển đảng trong công nhân chậm.
1.2.
Nguyên nhân của những hạn chế yếu kém kể trên.
Những hạn chế, yếu kém trên đây do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó
nổi lên một số nguyên nhân, như: Đại đa số công nhân Việt Nam đều xuất thân từ
tầng lớp nông dân với trình độ lao động giản đơn. Vì thế, giai cấp công nhân Việt
Nam ra đời muộn hơn so với giai cấp công nhân thế giới, số lượng ban đầu còn ít
và trình độ tay nghề thấp.
8
Do qui mô kinh tế nhỏ, trình độ phát triển, sức cạnh tranh của nền kinh tế
nước ta còn yếu so với khu vực và trên thế giới nên tỉ lệ thất nghiệp còn cao, việc
làm của công nhân lao động chưa được ổn định, nhiều người lao động bất chấp làm
những công việc trái với ngành nghề được đào tạo chỉ để có việc làm và có thu
nhập phục vụ cho cuộc sống.
Mặc dù Ðảng có chú trọng xây dựng giai cấp công nhân, nhưng quan tâm
chưa đầy đủ, chưa ngang tầm với vị trí, vai trò của giai cấp công nhân trong thời kỳ
mới, việc đào tạo lao động, nâng cao trình độ lao động còn bất cập, cơ chế đào tạo
còn máy móc, truyền thống, không được cập nhật thường xuyên với những cái mới
dẫn đến trì trệ, lỗi thời và chậm phát triển.Người sử dụng lao động không thực hiện
đúng, đầy đủ các qui định của pháp luật như không trả lương đúng bảng lương đã
đăng kí, tự ý thay đổi định mức lao động, sa thải công nhân vô cớ, không đóng đầy
đủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho công nhân.
Công tác giáo dục, nâng cao giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị cho giai cấp
công nhân chưa được chú trọng đúng mức, chưa đủ cơ sở vật chất để đáp ứng nhu
cầu sinh hoạt của công nhân; Công tác phát triển Đảng cho đội ngũ công nhân
trong hệ thống các doanh nghiệp trong cả nước, nhất là khối doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài còn gặp nhiều khó khăn, bất cập;
Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về giai cấp công nhân chưa
được quan tâm và đầu tư thỏa đáng, dẫn đến còn tình trạng nhìn nhận chưa đúng
mức về vị trí, vai trò của giai cấp công nhân trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế; Việc tổ chức và tham gia hoạt
động của các tổ chức công đoàn, các tổ chức đoàn thể và chính trị - xã hội trong các
hoạt động của đội ngũ công nhân còn mang nặng tính hình thức, hiệu quả chưa
cao...
Một số phương hướng cơ bản góp phần phát triển giai cấp công nhân ở Việt
Nam hiện nay
Để xây dựng GCCN Việt Nam ngày càng lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu của công
cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Về phía người sử dụng lao động: Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho
công nhân lao động, đặc biệt là người lao động ở các KCN, KCX. Từng bước
thực hiện chính sách tiền lương bảo đảm đời sống cho người lao động và có
tích lũy từ tiền lương; đồng thời, mở rộng cơ hội cho công nhân mua cổ phần
2.
9
trong doanh nghiệp, nhằm góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn
định và tiến bộ, giảm thiểu tranh chấp lao động và đình công trong doanh
nghiệp.
Về phía Đảng, Nhà nước, tổ chức công đoàn, chính quyền cơ sở:
Các cơ quan chức năng nhà nước và tổ chức công đoàn cần tăng cường công
tác kiểm tra, thanh tra để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của
người lao động, xử lý nghiêm các doanh nghiệp vi phạm quyền lợi của người
lao động. Xây dựng và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
y tế, bảo hiểm thất nghiệp đối với người lao động. Có chính sách cụ thể giải
quyết nhà ở cho người lao động. Khi phê duyệt các KCN, KCX, cần yêu cầu
dành quỹ đất tương xứng để xây dựng nhà ở và các công trình thuộc kết cấu hạ
tầng xã hội cho công nhân. Cần có chính sách ưu đãi thích đáng cho doanh
nghiệp đầu tư xây dựng nhà ở tại các KCN như chính sách ưu đãi về tiền sử
dụng đất, miễn giảm thuế, vay vốn ưu đãi, hỗ trợ hạ tầng…
Nâng cao chất lượng đời sống tinh thần cho công nhân. Nhà nước cần
thể chế hóa các quy định, xác định trách nhiệm rõ ràng đối với các cấp chính
quyền, các doanh nghiệp trong việc chăm lo xây dựng đời sống văn hóa cho người
lao động. Có các chính sách ưu đãi cho các nhà đầu tư xây dựng các dịch vụ văn
hóa, thể thao, chăm sóc sức khỏe cho người lao động.
Nâng cao chất lượng đào tạo nghề, phát triển đội ngũ công nhân có trình độ cao,
làm chủ được khoa học công nghệ, có kỹ năng lao động, tác phong công nghiệp, ý
thức kỷ luật. Tạo điều kiện cho họ tự học tập nâng cao trình độ; điều chỉnh, bổ sung
quy hoạch mạng lưới các cơ sở dạy nghề gắn với các ngành, các vùng kinh tế trọng
điểm. Khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế dành kinh phí
thích đáng và thời gian cho đào tạo, đào tạo lại công nhân.
Xây dựng, hoàn thiện các chính sách, pháp luật về lao động, việc làm, đời
sống, nâng cao thể chất cho công nhân. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của
Nhà nước, tổ chức công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác trong doanh
nghiệp, có chế tài xử lý nghiêm các tổ chức và cá nhân vi phạm chính sách, pháp
luật.
Tăng cường vai trò của các cấp uỷ Đảng, Đoàn Thanh niên và đặc biệt là của
Công đoàn trong việc nâng cao đời sống, đảm bảo quyền lợi cho công nhân nhất là
công nhân ở các KCN, KCX. Tăng tỷ lệ tham gia của công nhân trong cơ cấu tổ
chức chính trị - đoàn thể ở doanh nghiệp, nhất là tổ chức Công đoàn để tăng cường
tính đại diện cho lợi ích của công nhân.
10
Về phía bản thân giai cấp công nhân: Cần chủ động học tập nâng cao nhận
thức, nắm bắt những quy định cơ bản về quyền và nghĩa vụ của mình trong
quan hệ lao động để có thể tự bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng trong
trường hợp cần thiết.
Có ý thức chủ động rèn luyện kĩ năng làm việc,ý thức trách nhiệm trong công
việc,kỉ luật, tác phong công nghiệp,nâng cao trình độ chuyên môn và đạo đức nghề
nghiệp.
KẾT LUẬN
Trong tiến trình lịch sử, giai cấp công nhân luôn là lực lượng tiên phong của
Cách mạng Việt Nam. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, vai trò lãnh đạo cách
mạng của giai cấp công nhân đang đứng trước những thách thức mới. Vì vậy, việc
“Xây dựng giai cấp công nhân nước ta lớn mạnh trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” lại đang “là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách
của Ðảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị, của mỗi người công nhân và của
toàn xã hội”. Bài làm của tôi đã chỉ ra rõ thực trạng và phương hướng giải quyết
của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay. Tuy có sự tham khảo, tìm kiếm tài liệu
và quá trình học hỏi, tiếp thu từ ý kiến thầy (cô) nhưng bài làm của tôi vẫn không
tránh khỏi những sai sót và những ý kiến mang tính chủ quan. Rất mong quý thầy
(cô) xem xét và cho ý kiến để tôi có thể biết và khắc phục những sai sót của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, NXB CHÍNH TRỊ
QUỐC GIA- SỰ THẬT Hà Nội 2015
Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội- 2015
/> /> />
12