Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm Lịch sử lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (27.3 MB, 27 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
A.

Bác Hồ đã từng nói: “Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích
nước nhà Việt Nam”. Lịch sử chính là hồn phách của dân tộc. “Ôn cố, tri
tân” là một quá trình phát triển tư duy và hình thành nhân cách con người.
Mỗi chúng ta sinh ra và lớn lên trên đất nước Việt Nam. Mỗi người
đều mang trong mình dòng máu Lạc Hồng, chúng ta đều là con một mẹ,
sống chung dưới mái nhà Việt. Vậy tại sao con em chúng ta ít hiểu biết về
lịch sử nước Việt. Không biết, không hiểu sao yêu mến được? Tất cả là phải
làm sao cho các em biết - hiểu- yêu mến - tự hào về lịch sử dân tộc. Người
giáo viên là người lãnh sứ mệnh cao cả đó. Là cầu nối để đưa các em đến
gần hơn với những trang lịch sử hào hùng của ông cha ta.
Nhận thức được: Môn Lịch sử ở nhà trường phổ thông có vị trí rất
quan trọng trong việc đào tạo con người. Là một môn khoa học, lịch sử có
vai trò quan trọng trong việc đào tạo, giáo dục học sinh trở thành một con
người toàn diện. Lịch sử không chỉ giáo dục cho học sinh tình cảm yêu
ghét trong đấu tranh giai cấp mà còn bồi dưỡng cho các em năng lực đối
xử với mọi người xung quanh, biết yêu quý cái đẹp, yêu lao động, sự căm
thù quân cướp nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, khơi dậy ở học
sinh sự thông cảm sâu sắc và lòng kính yêu đối với quần chúng nhân dân.
Bởi vì, lịch sử chính là “người thầy của cuộc sống”; giúp các em có ý thức
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng
của cha ông trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước từ bao đời nay.
Môn Lịch sử ở tiểu học nói chung, môn Lịch sử ở lớp 4 nói riêng đều
nhằm cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về một số sự kiện, hiện
tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu theo dòng thời gian của lịch sử Việt Nam từ
buổi đầu dựng nước cho tới ngày nay. Dạy môn lịch sử là bước đầu hình
thành cho học sinh các kĩ năng quan sát sự vật, hiện tượng; thu thập, tìm
kiếm tư liệu lịch sử từ các nguồn thông tin khác nhau, biết đặt câu hỏi trong
quá trình học tập, trình bày kết quả bằng lời nói, hình vẽ, sơ đồ,…vận dụng


các kiến thức đã học vào thực tiễn đời sống. Góp phần bồi dưỡng ở học sinh
những thái độ và thói quen: ham học hỏi, tìm hiểu để biết các kiến thức về
Lịch sử dân tộc Việt Nam, tôn trọng các di tích văn hóa và tìm hiểu thêm về
lịch sử thế giới. Qua đó giáo dục các em lòng yêu quê hương đất nước, biết
tự hào về những trang lịch sử vẻ vang, hào hùng của dân tộc, tôn kính cội
nguồn, học tập và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, góp
phần hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho các em.
Để giúp học sinh theo dõi tiến trình lịch sử một cách hệ thống và ghi
nhớ một số sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử một cách chặt chẽ. Tôi nhận
thấy cần phải có những biện pháp thiết thực và hữu hiệu để tăng cường tính


tích cực hóa học tập của học sinh, giúp các em nắm vững kiến thức môn này.
Đó cũng chính là lí do thúc đẩy tôi nghiên cứu và thực hiện đề tài: “Một số
kinh nghiệm nâng cao hiệu quả dạy phân môn Lịch sử lớp 4 ” .

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TIỂU HỌC

Ở các lớp 1,2,3 các em chưa được học Lịch sử. Do đó Lịch sử là môn
học rất mới mẻ với các em. Cách các em tiếp thu bài ở lớp 4 cũng lạ lẫm hơn
với các lớp dưới. Phân môn Lịch sử là phân môn đặc trưng, các em bước đầu
phải làm quen với nhiều diều mới lạ như: bản đồ, lược đồ, bảng số liệu, sử
liệu… Từ những điều trên nếu không có sự chuẩn bị bài trước, không có
phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp, những gợi mở để học
sinh hứng thú tìm tòi thì rất dễ làm cho các em sợ học Lịch sử hoặc không
có hứng thú khi học phân môn này.
Để học sinh có khả năng tiếp thu bài có hiệu quả qua từng bài học cụ
thể theo từng dạng bài Lịch sử thì các em cần phải nắm được các bước tiến
hành của từng hoạt động để chuẩn bị cho tiết học. Nghĩa là giáo viên có

trách nhiệm giao việc cho tiết học sau, hướng dẫn học sinh chuẩn bị theo
dạng bài. Từ đó học sinh sẽ tích cực và chủ động hơn trong việc học. Qua
quá trình học tập (theo tôi là đến giữa học kì I) các em sẽ dần quen với môn
Lịch sử và có cách học Lịch sử chủ động và hứng khởi.
Để tổ chức dạy học Lịch sử cho học sinh, chúng ta cần hiểu rõ về đặc
điểm nhận thức và quá trình tư duy của các em. Đặc điểm tâm sinh lý của
học sinh là cơ sở nền móng của việc xây dựng các phương pháp dạy học
lịch sử ở Tiểu học. Lịch sử vốn là một môn học đặc thù, kiến thức lịch sử là
những gì đã diễn ra trong quá khứ. Chính vì thế, nhiệm vụ dạy học lịch sử là
khôi phục lại bức tranh quá khứ để từ đó rút ra bài học từ quá khứ, vận dụng
nó vào trong cuộc sống hiện tại và tương lai.
Do đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học còn non yếu, chưa đầy
đủ, sâu sắc và chưa đạt đến trình độ tư duy khái quát cao nên việc trình bày
và giảng dạy kiến thức phải hết sức đơn giản, nhẹ nhàng, cụ thể, dễ hiểu, dễ
nhớ. Đặc biệt, tư duy của các em luôn dựa trên các hình ảnh lịch sử cụ thể
nên khi trình bày phải hết sức coi trọng việc tạo biểu tượng cụ thể. Đây là cơ
sở để đề xuất các biện pháp hình thành năng lực học lịch sử cho học sinh
Tiểu học.
II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY VÀ HỌC LỊCH SỬ HIỆN NAY

1. Thực trạng chung:


Trong những năm gần đây, tình hình học sinh tiếp thu, ghi nhận
những kiến thức lịch sử của dân tộc, của đất nước quá hạn chế. Qua các
thông tin đại chúng đưa tin, đặc biệt là kết quả các lần thi của học sinh trung
học phổ thông, cao đẳng, đại học những năm qua quá thấp làm cho dư luận
không khỏi băn khoăn suy nghĩ và đặt câu hỏi tại sao kiến thức về môn lịch
sử của các em lại kém như vậy. Các em rất mơ hồ về lịch sử nước nhà. Có
những sai lầm rất ngớ ngẩn như: “Lê Lợi trở thành anh hùng trong kháng

chiến chống Pháp”; “Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân 1970, quân ta tiến
vào Him Lam, Bản Kéo lần lượt chiếm các đồi A1, C1,…” Đây cũng chính
là nỗi đau của người thầy, người cô. Phải chăng lịch sử bây giờ dài hơn ngày
xưa nên học sinh không tiếp thu được.
Những điều đáng buồn trên xuất phát từ nhiều khía cạnh khác nhau.
Có thể do học sinh chạy theo thời cuộc là coi trọng các môn tự nhiên hơn;
hoặc do các em chán và không muốn học Lịch sử. Nhưng vấn đề cốt lõi vẫn
là người giáo viên chưa thực sự hiểu rõ trọng tầm quan trọng của việc dạy và
học Lịch sử. Từ đó trong công tác giảng dạy chưa biết cách xây dựng tiết
dạy, chưa thực sự đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, bài
giảng không phù hợp.
Kết quả học môn lịch sử ở đơn vị tôi đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn
còn một số em nắm bắt, ghi nhớ kiến thức lịch sử còn thụ động, mau quên,
chưa biết cách quan sát sơ đồ, lược đồ, mô phỏng, tường thuật lại các sự
kiện, thời gian lịch sử.
Về nội dung chương trình Lịch sử lớp 4, mỗi bài học là một sự kiện,
hiện tượng hay nhân vật lịch sử tiêu biểu của một giai đoạn lịch sử nhất
định. Sự chọn lọc như vậy nhằm đảm bảo mục tiêu phù hợp với thời lượng
dành cho môn học cũng như trình độ nhận thức của học sinh.
2. Về phía giáo viên.
- Một số giáo viên chưa nhận thức đúng về vị trí vai trò của phân môn, quan
niệm Lịch sử không phải là môn học chính mà chỉ chú trọng vào hai môn
Toán và Tiếng Việt. Chính vì thế khi tham gia các hội thi giáo viên giỏi rất
dè dặt khi lựa chọn phân môn Lịch sử
- Giáo viên chưa biết cách xây dựng tiết học sao cho trọng tâm, chưa sử
dụng đúng lúc, đúng chỗ các phương tiện dạy học nên tiết dạy môn Lịch sử
không hấp dẫn học sinh. Các hình thức dạy học còn đơn điệu, khô cứng .
- Việc sưu tầm tài liệu về những sự kiện, nhân vật lịch sử của địa phương có
liên quan đến tiết dạy còn hạn chế.
- Trang thiết bị phục vụ cho môn học còn nghèo nàn, giáo viên chưa đi sâu

nghiên cứu tài liệu giảng dạy, chưa nhiệt tình trong bài dạy dẫn đến hiệu quả
của việc giảng dạy chưa cao.
3. Về phía học sinh.


Chương trình tiểu học được chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn I từ lớp 1
đến lớp 3, giai đoạn II từ lớp 4 đến lớp 5. Môn Lịch sử là môn học hoàn toàn
mới mẻ đối với các em, chính vì thế việc tiếp thu kiến thức về môn học này
là hết sức cần thiết. Qua giảng dạy tôi thấy:
- Nhiều em do hoàn cảnh gia đình khó khăn, chưa chú ý đến việc học
nói chung và môn Lịch sử nói riêng.
- Đặc biệt chưa nhận thức đúng vai trò của môn Lịch sử. Còn xem nhẹ
và đối phó khi học phân môn này.
- Khả năng nắm bắt kiến thức, kĩ năng quan sát, trí tưởng tượng khái
quát hóa còn yếu, khả năng ghi nhớ của các em còn chậm mà các nhân vật,
mốc lịch sử, sự kiện lịch sử lại nhiều nên các em chỉ có thể ghi nhớ một cách
máy móc (dễ nhớ nhưng lại mau quên).
- Kĩ năng đọc, kể, tường thuật của các em chậm, do đó ảnh hưởng đến
thời gian và tiến trình chung của môn học. Tinh thần hợp tác học chưa cao,
nhiều em chưa tự tin, học thụ động.
Sau 7 tuần học tôi cho học sinh làm bài kiểm tra các môn Khoa học,
Lịch sử, Địa lí với hình thức trắc nghiệm. Tổng số học sinh là 23 em thì kết
quả kiểm tra của môn Lịch sử như sau:
Kết quả khảo sát sau 7 tuần: Năm học 2012 – 2013
TSHS

KS sau 7 tuần

23


Giỏi (9 -10)

Khá (7- 8)

TB(5-6)

Yếu (dưới 5)

TS

%

TS

%

TS

%

TS

%

4

17,4

8


34,8

9

39,1

2

8,7

Bảng kết quả trên cho thấy chất lượng học Lịch sử ở trường tôi còn
quá thấp. Nhìn vào đó người giáo viên không khỏi lo lắng, trăn trở.
III. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1. Giáo viên phải nhận thức đúng về vị trí, tầm quan trọng của phân
môn Lịch sử:
Theo giáo sư Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam:
“Thế hệ trẻ lớn lên qua nền giáo dục phổ thông mà không yêu mến lịch sử
dân tộc, không có một vốn hiểu biết cần thiết về lịch sử và văn hóa dân tộc
và nhân loại, không có một niềm tự tin dân tộc, thì làm sao có thể hoàn
chỉnh được phẩm chất của người công dân Việt Nam”. Từ đặc điểm đó cho
thấy môn Lịch sử càng phải được đặt đúng vị thế và chức năng của nó trong
hệ thống giáo dục phổ thông.
Song trên thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy nhiều nhà trường tiểu học
nói chung, giáo viên trực tiếp giảng dạy nói riêng vẫn coi nhẹ phân môn
Lịch sử, Lịch sử vẫn chỉ được xem là một “môn phụ” trong hệ thống các
môn học. Nhiều giáo viên cũng thừa nhận, trong việc giảng dạy môn Lịch sử


thời gian qua, đôi lúc giáo viên chưa toàn tâm, toàn ý cho nội dung cần phải

chuyển tải, chỉ dạy qua loa cho xong chứ chưa đi sâu vào việc đổi mới
phương pháp dạy học. Nội dung dạy bị bó hẹp theo sách giáo khoa, mối liên
kết, khái quát một giai đoạn lịch sử không rõ ràng, gây khó hiểu và không
truyền được sự hứng thú học Sử cho học sinh.
Vì vậy phải có sự thay đổi mang tính cách mạng về quan niệm đối với
môn Lịch sử. Phải xây dựng và hình thành quan niệm đúng đắn về vị trí và
tầm quan trọng của môn Lịch sử từ các cấp quản lí giáo dục đến cha mẹ học
sinh và toàn xã hội. Không có quan niệm đúng đắn về môn học thì tất cả
những đề xuất về đổi mới nội dung, phương pháp nhằm nâng cao chất
lượng dạy học bộ môn đều không thể thực hiện để đem lại kết quả như mong
muốn. Từ đặc điểm đó, môn Lịch sử càng phải được đặt đúng vị thế và chức
năng của nó trong hệ thống giáo dục phổ thông.
Tuy hiện nay ở tiểu học một tuần chỉ có 1 tiết lịch sử ở lớp 4-5, với
thời lượng từ 35- 40 phút cho một tiết dạy, song không vì vậy mà giáo viên
xem nhẹ mà phải đầu tư đúng mức về thời gian, công sức, tìm tòi cách dạy
các tiết lịch sử đạt hiệu quả.
2. Giáo viên phải nắm vững mục tiêu, nội dung chương trình Lịch sử
4.
Muốn dạy đúng, đủ kiến thức Lịch sử 4, trước hết người giáo viên cần
nắm được mục tiêu của chương trình, nội dung chương trình sách giáo khoa
và cao hơn nữa là nắm được tiến trình lịch sử Việt Nam.
* Mục tiêu chủ yếu của chương trình Lịch sử 4 là:
- Cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ bản, thiết thực về: Các sự
kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu, tương đối có hệ thống theo dòng
thời gian của lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước cho tới nửa đầu thế kỉ
XIX.
- Bước đầu hình thành và rèn luyện cho học sinh các kĩ năng: Quan sát sự
vật, hiện tượng; Thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ các nguồn khác nhau;
Nêu thắc mắc, đặt câu hỏi trong quá trình học tập và chọn thông tin để giải
đáp; Nhận biết đúng các sự vật, hiện tượng lịch sử; Trình bày lại kết quả học

tập bằng hình vẽ, lời nói, sơ đồ…; Vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn
đời sống.
- Góp phần bồi dưỡng và phát triển ở học sinh những thái độ và thói
quen: Ham học hỏi, tìm hiểu để biết về môi trường xung quanh; Yêu thiên
nhiên, đất nước, con người Việt Nam; Tự hào, tôn trọng, giữ gìn và phát huy
một số truyền thống tốt đẹp của dân tộc, bảo vệ các di sản văn hoá, di tích
lịch sử gần gũi với các em…


* Nội dung chương trình sách giáo khoa Lịch sử 4:
Bao gồm những sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu phản ánh những cột
mốc đánh dấu sự phát triển của các giai đoạn lịch sử, những thành tựu trong
sự nghiệp dựng nước và giữ nước (kinh tế, văn hoá, chính trị…) của ông cha
ta từ buổi đầu dựng nước và giữ nước đến buổi đầu thời Nguyễn.
* Ngoài những nội dung trên người giáo viên muốn dạy hay, dạy giỏi thì
còn cần nắm vững chi tiết tiến trình lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước
và giữ nước cho tới ngày nay cũng như nắm vững lịch sử nhân loại. Có nắm
vững các kiến thức lịch sử thì người giáo viên mới có cái nhìn tổng thể, toàn
diện về lịch sử, hiểu được các chặng đường thăng trầm, biến động của đất
nước, thế giới qua các thời kì… và có thể lí giải chính xác nhất những băn
khoăn, thắc mắc của học sinh.
Để nắm được các nội dung cơ bản trên, không phải người giáo viên
muốn là nắm được ngay mà phải là quá trình tích luỹ lâu dài qua các cấp
học, ngành học đã được tham gia, qua các buổi học chuyên đề, qua tự học tự
nghiên cứu, ôn tập bằng nhiều hình thức (tự học, qua sách vở, đài, báo, ti vi,
phim ảnh, qua mạng Internet, qua học hỏi cấp trên, bạn bè, đồng nghiệp…)
3. Công tác chuẩn bị tiết dạy, định hướng về phương pháp và hình
thức tổ chức dạy học :
3.1. Công tác chuẩn bị tiết dạy: Từ đặc trưng và mục tiêu của phần
lịch sử trong chương trình tiểu học tôi nhận thấy : Để có một tiết học lịch sử

thành công, phát huy được tính tích cực của học sinh đòi hỏi phải có sự
chuẩn bị thật kỹ của người dạy và người học.
*Về phía học sinh :
Để giúp các em học tốt một bài lịch sử, cuối tiết dạy lịch sử trước,
thông thường tôi hướng dẫn các em chuẩn bị như sau:
- Ôn lại nội dung bài cũ, trả lời các câu hỏi cuối bài (từ đó mới có cơ
sở học bài mới).
- Với bài mới, các em cần đọc thành tiếng ít nhất 3 lần, sau đó đọc
thầm, đọc kỹ phần giải nghĩa từ ngữ khó ở cuối bài.
- Tập trả lời miệng các câu hỏi về tìm hiểu nội dung trong sách giáo
khoa, ghi lại những băn khoăn, thắc mắc (nếu có) về nội dung bài để cùng
tháo gỡ trong tiết học.
* Về phía giáo viên :
Để tổ chức dạy - học thành công một tiết Lịch sử, học sinh hiểu bài và
ghi nhớ được theo mục tiêu của tiết học, giáo viên cần chuẩn bị tốt những
việc sau:
- Căn cứ vào mục tiêu và nội dung của bài lịch sử, những yêu cầu cơ
bản của bài, trình độ học sinh, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của trường lớp
để thiết kế bài dạy phù hợp.


- Nắm chắc mục tiêu, yêu cầu ở từng bài. Đọc kỹ nội dung sắp dạy,
trao đổi, học tập, tìm hiểu thêm kiến thức liên quan, dự kiến các tình huống
học sinh sẽ mắc phải và cách xử lí những tình huống đó.
- Xây dựng các phương pháp giảng dạy, hình thức tổ chức, phương
tiện dạy học để giờ dạy nhẹ nhàng và đạt hiệu quả.
- Chuẩn bị đồ dùng dạy học phục vụ cho tiết học như tranh, ảnh, bản
đồ, các câu chuyện, tư liệu lịch sử có liên quan, phiếu học tập…
- Chuẩn bị và nắm vững hệ thống câu hỏi phù hợp với từng đối tượng
học sinh để các em hiểu nội dung bài một cách hiệu quả nhất, từ đó tìm ra

nội dung cần ghi nhớ.
- Liên hệ, tích hợp với kiến thức Địa lí để tăng hiệu quả dạy học. Ta
thấy phân môn Lịch sử và phân môn Địa lí 4 có mối quan hệ khá mật thiết
với nhau. Mỗi sự kiện lịch sử thường gắn liền với một vị trí địa lí nhất định,
còn mỗi một vị trí địa lí lại trải qua một quá trình lịch sử phát triển nhất
định. Ví dụ: Khi dạy bài “Nhà Lý dời đô ra Thăng Long”, giáo viên hỏi vì
sao nhà Lý chọn Thăng Long làm kinh đô, học sinh có thể vận dụng kiến
thức về Địa lí bài Đồng bằng Bắc Bộ để trả lời.
* Minh họa việc chuẩn bị phiếu học tập:
+ Mục đích: phiếu học tập có vai trò đáng kể trong quá trình dạy học,
là phương tiện luyện tập kĩ năng: đọc, hiểu, phân tích, tổng hợp ... cho học
sinh. Mặt khác, kết quả của phiếu học tập thu được từ học sinh không những
nhanh chóng, kịp thời mà còn thể hiện được trình độ, khả năng của từng em,
từ đó giúp cho giáo viên đánh giá chính xác và khách quan về năng lực của
học sinh.
+ Yêu cầu: Khi thiết kế phiếu học tập, giáo viên phải nghiên cứu kĩ
nội dung chương trình và bài học, nắm vững yêu cầu và quy trình khi thiết
kế, sử dụng phiếu, trình bày phiếu khoa học, chính xác, đẹp mắt.
Ví dụ: Thiết kế phiếu giao việc cho học sinh trong tiết ôn tập cuối
năm (Bài 20: Ôn tập) như sau:
* PHIẾU HỌC NHÓM *
Câu 1: Em hãy điền tiếp vào chỗ chấm những sự kiện tiêu biểu gắn với các
triều đại:
Triều đại
Sự kiện tiêu biểu
Nhà Ngô, Đinh, Tiền Lê
……………………………………….
……………………………………….
Nhà Lý
Nhà Trần


……………………………………….
……………………………………….
……………………………………….
……………………………………….


Nhà Hậu Lê

……………………………………….
……………………………………….

Câu 2: Em hãy viết ngắn gọn tình hình nước ta cuối thời Trần:
- Vua quan: ……………………………………………………..…………....
………………
- Nhân dân (nông dân, nô tì):
……………………………………………………. .
………………………………………………………………………………
……
Phiếu học tập trên được thiết kế và trình chiếu, hướng dẫn trên màn
hình, phát các bản in cho các nhóm bàn, yêu cầu các nhóm thảo luận và hoàn
thành bài tập để báo cáo trước lớp. Sau khi các nhóm báo cáo và nhận xét
lẫn nhau, giáo viên đưa đáp án hiển thị trên màn hình và kết luận.
3.2. Định hướng về phương pháp và hình thức tổ chức dạy học :
Để phát huy tính tích cực của học sinh trong phân môn lịch sử lớp 4
thì việc lựa chọn phương pháp dạy học và hướng dẫn học sinh cách học là
rất quan trọng. Giáo viên phải lựa chọn phương pháp sao cho phù hợp với
từng bài, từng hoạt động với từng đối tượng học sinh
Dạy môn lịch sử người giáo viên cần sử dụng các phương pháp đặc
trưng của nhiều môn học khác nhau. Do chính tính tích hợp của nội dung.

Đề cao vai trò chủ thể của người học, tăng cường tính tự giác tích cực và
sáng tạo của hoạt động học tập. Giáo viên cần huy động tối đa kinh nghiệm
và vốn tri thức có sẵn của học sinh vào việc dẫn dắt các em tự phát triển tri
thức mới của bài học. Giáo viên thiết kế hệ thống câu hỏi, bài tập giao cho
học sinh thực hiện với sự hướng dẫn cần thiết. Tổ chức các hoạt động như
trò chơi học tập, sắm vai …Qua đó giúp học sinh linh hội kiến thức.
Cần vận dụng tối đa các điều kiện, phương tiện ở địa phương để tổ
chức cho học sinh học ngoài lớp, cho học sinh tham quan các di tích lịch
sử,văn hoá, các dấu vết quá khứ ,…
Một số phương pháp cụ thể :
* Nêu và giải quyết vấn đề
* Dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ
* Khai thác kiến thức từ kênh hình
* Hình thành khái niệm và biểu tượng lịch sử.
* Kể chuyện lịch sử.
* Phương pháp vấn đáp. .
Một số hình thức dạy học phần lịch sử :
- Dạy trong lớp học
- Dạy ngoài hiện trường
* Dạy cả lớp
* Dạy cả lớp


* Dạy học theo nhóm
* Dạytheo nhóm
* Dạy cá nhân
* Dạy cá nhân
4. Phong cách của giáo viên khi lên lớp:
Một yêu cầu quan trọng đối với giáo viên là phải Dạy đúng, nhưng
học sinh còn cần những giáo viên Dạy hay. Giáo viên dạy Lịch sử làm sao

cho Dạy đúng và Dạy hay? Tiêu chí Dạy đúng dễ xác định thông qua chuẩn
kiến thức, chương trình và sách giáo khoa. Dạy hay thì thật khó đo đếm.
“Thước đo” để xem xét có lẽ chỉ thông qua sự hứng thú của học sinh.
Tạo hứng thú cho người học luôn là một vấn đề quan trọng trong hoạt
động dạy - học. Bởi vì dạy - học là hoạt động phức tạp, trong đó chất lượng,
hiệu quả phụ thuộc vào chủ thể nhận thức là người học. Và điều này lại phụ
thuộc vào nhiều yếu tố khác như: năng lực nhận thức, động cơ học tập, sự
quyết tâm và các yếu tố khách quan như: môi trường học tập, người tổ chức
quá trình dạy học, sự hứng thú trong học tập. Hứng thú làm tăng hiệu quả
của quá trình nhận thức làm nảy sinh khát vọng hành động và hành động
một cách say mê, sáng tạo, tăng năng suất làm việc ở mỗi người. Trong hoạt
động học tập hứng thú là yếu tố quan trọng thôi thúc học sinh nắm bắt tri
thức một cách nhanh hơn, sâu sắc hơn. Khi có hứng thú học một môn học
nào đó, học sinh sẽ say mê trong nghiên cứu, học tập việc lĩnh hội tri thức
trở nên dễ dàng hơn và ngược lại, khi nắm bắt được vấn đề, tức hiểu được
bài thì người học lại có thêm hứng thú học tập, nhờ đó kết quả học tập của
họ ngày càng được nâng cao, phát triển một cách tích cực. Như đại văn hào
Macxim Goocki khái quát: “tài năng, nói cho cùng là tình yêu đối với công
việc”. Chính vì vậy, việc tạo hứng thú học tập cho người học là một trong
những yêu cầu nhất thiết đối với việc dạy học.
Cho dù giáo viên có kiến thức chắc chắn, lựa chọn được phương pháp
hình thức phù hợp thì cũng chưa thể lôi cuốn được học sinh học tập một
cách say mê hứng thú. Mà một yếu tố quan trọng trực tiếp có ảnh hưởng tới
việc học của học sinh đó là Thái độ của giáo viên đối với tiết dạy. Thái độ
của giáo viên thể hiện qua lời giới thiệu bài, giọng kể, cách đặt câu hỏi, cách
gọi HS, ánh mắt cử chỉ,…
+ Thái độ của GV:
Trong giảng dạy Lịch sử, trước tiên, GV phải tỏ thái độ yêu mến lịch
sử của dân tộc (tự hào, vui sướng khi là người truyền đạt kiến thức lịch sử
cho các em).

Sau đó là thái độ phù hợp với nhân vật (nếu là anh hùng của đất nước
thì nói với thái độ tôn trọng, tự hào; đối với tướng giặc thì tỏ thái độ không
đồng tình, căm thù,..), sự kiện (lúc ta thắng thì vui mừng; lúc giặc xâm
chiếm, đe doạ áp bức nhân dân thì lo lắng, phẫn nộ,…).


GV còn cần phải giáo dục thái độ cho HS, giúp các em nhận ra cái
hay trong từng trận đánh, niềm tự hào khi chiến thắng quân xâm lược,…
+ Giọng kể: Tất cả các phần giới thiệu bài, giới thiệu diễn biến cuộc
chiến, giới thiệu nhân vật hay mô tả hiện vật lịc sử, GV cần phát huy tốt
giọng nói bằng giọng kể: Kể phải hấp dẫn, đầy đủ chi tiết và mang sắc thái
biểu cảm phù hợp.
+ Cách đặt câu hỏi: Nhiều GV còn xem nhẹ cách đặt câu hỏi. Đặt câu
hỏi một cách rõ ràng, HS sẽ dễ dàng trả lời nội dung câu hỏi.
+ Cách gọi HS: Cách gọi HS hay nhóm HS cũng là một nghệ thuật.
Ta cần gọi với giọng vừa phải, từ tốn. Phải dùng từ tế nhị, có thể gọi tên
nhưng nên kèm theo tên đệm để lời gọi nhẹ nhàng, tình cảm hơn.
- Cách trình bày bảng: Trình bày bảng không khoa học, ghi lộn xộn các
kiến thức, tranh ảnh sẽ không gây ấn tượng về bài dạy. Bảng lớp của tôi
được chia ra làm 3 phần:
+ Phần giữa bảng: dùng ghi thứ, ghi tên phân môn, tên bài (ghi phấn
màu), nội dung hoạt động hoặc trọng tâm của bài.
+ Phần bên trái bảng: dùng trình bày tranh, ảnh lược đồ dùng trước
khi đi vào phần tìm hiểu bài (hoặc nội dung hướng dẫn tìm hiểu bài).
+ Phần bên phải: Ghi phần luyện tập hoặc treo phiếu học tập, các
phiếu ghi bài tập trắc nghiệm, củng cố, tranh ảnh HS sưu tầm, … Nếu có thi
đua điền phiếu dán bảng thì sử dụng cả 3 phần phía dưới bảng để trình bày.
5. Tích cực đổi mới phương pháp, hình thức, phương tiện dạy học kết
hợp ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy nhằm gây hứng thú và
phát huy tính tích cực cho người học.

Mỗi phương pháp dạy học đều có tác dụng tích cực đối với học sinh,
giúp học sinh nắm vững kiến thức và phát triển kỹ năng thái độ. Không có
phương pháp nào là vạn năng cả, chính vì vậy trong một tiết dạy để đạt hiệu
quả cao nhất đòi hỏi người giáo viên cần phải có sự sử dụng phối hợp hợp lý
các phương pháp dạy học khác nhau. Với điều kiện cơ sở vật chất và trình
độ tiếp nhận của học sinh. Khi dạy lịch sử cần lựa chọn hình thức và
phương pháp phù hợp với tình hình giảng dạy chung và đặc trưng riêng của
các bài lịch sử.
Việc đổi mới phương pháp dạy học muốn đạt hiệu quả cao cần thực
hiện song song với đổi mới hình thức dạy học, tăng cường sử dụng các
phương tiện dạy học được thể hiện ở chỗ:
- Tập trung vào dạy cách học, đặc biệt giúp học sinh có nhu cầu học,
biết cách tự học.
- Coi trọng và khuyến khích dạy học trên cơ sở hoạt động học tập tích
cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.


- Sử dụng đúng mức, đúng chỗ, đúng lúc các phương pháp và hình
thức tổ chức dạy học truyền thống cũng như hiện đại để phát huy tối đa các
mặt mạnh của từng phương pháp và của sự phối hợp giữa các phương pháp.
Như vậy, quá trình dạy - học phải lấy hoạt động của người học làm
trung tâm, mọi hoạt động của thầy đều hướng vào việc tổ chức, hướng dẫn
học sinh tìm tòi, phát hiện, khám phá và lĩnh hội tri thức, rèn luyện kĩ
năng…cho học sinh. Để thực hiện các yêu cầu trên trong một bài, tôi thường
dạy học theo quy trình sau:
- GV hoặc HS đặt ra vấn đề cần giải quyết trong bài thông qua các
tình huống có vấn đề hoặc tìm hiểu kinh nghiệm của học sinh có liên quan
đến nội dung bài.
- Tổ chức cho học sinh tìm tòi, khai thác các kiến thức trong SGK,
tranh ảnh, bản đồ, sơ đồ,… Qua đó các em sẽ nắm được các nhân vật, hiện

tượng, sự kiện, lịch sử diễn ra như thế nào.
- Trên cơ sở các hình ảnh về lịch sử đã được hình thành, GV đặt ra các
câu hỏi, đưa ra các bài tập,… và vận dụng các hình thức tổ chức dạy học
(nhóm, cá nhân, cả lớp, trong lớp, tham quan…) giúp học sinh bước đầu biết
so sánh các điểm giống, khác nhau, phân tích các đặc điểm, tổng hợp các nét
chung của sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử ...
- Từ những hiểu biết trên, giáo viên tổ chức cho học sinh trình bày
dưới các hình thức khác nhau (nói, kể, viết, vẽ…) về một sự kiện, hiện
tượng, nhân vật lịch sử sinh động và chính xác; đồng thời các em cũng biết
vận dụng các kiến thức đã học vào cuộc sống trong việc bảo vệ thiên nhiên,
môi trường, di sản văn hoá, lịch sử.
Như vậy, học tập lịch sử là một quá trình nhận thức những điều đã diễn
ra trong quá khứ của xã hội để hiểu về hiện tại và chuẩn bị cho tương lai.
Đặc trưng nổi bật của nhận thức lịch sử là con người không thể tri giác trực
tiếp những gì thuộc về quá khứ. Mặt khác, lịch sử là những sự việc đã diễn
ra, là hiện thực trong quá khứ, là tồn tại khách quan, không thể “phán đoán”,
“suy luận”,… để biết lịch sử. Vì vậy, nhiệm vụ đầu tiên, tất yếu của bộ môn
Lịch sử trong nhà trường là tái tạo lịch sử, tức là cho học sinh tiếp xúc với
những chứng cứ vật chất, những dấu vết của quá khứ, tạo ra ở học sinh
những hình ảnh cụ thể, sinh động, chính xác về các sự kiện, hiện tượng lịch
sử, tạo ra những biểu tượng về con người và hoạt động của họ trong bối
cảnh thời gian, không gian xác định, trong những điều kiện lịch sử cụ thể.
* Vậy tái tạo lịch sử bằng những phương thức nào? Theo tôi, trước
hết phải kể đến lời nói sinh động, giàu hình ảnh của giáo viên, tức là giáo
viên dùng phương pháp tường thuật, miêu tả, kể chuyện, nêu đặc điểm của
nhân vật lịch sử. Có thể nói, chỉ có miêu tả, tường thuật, kể chuyện mới tái
hiện được những biến cố lịch sử quan trọng, đem đến cho học sinh những


hứng thú mạnh mẽ. Do sách giáo khoa viết rất cô đọng, trừu tượng nên tôi

đã sử dụng nhiều tư liệu, kết hợp với đồ dùng trực quan (tranh ảnh, bản đồ)
để miêu tả, tường thuật. Các phương tiện trực quan sẽ tạo ra hình ảnh lịch sử
cụ thể, sinh động, chính xác hơn, giúp học sinh thuận lợi hơn trong việc tạo
biểu tượng lịch sử.
Tuy nhiên, các phương tiện trực quan phục vụ việc dạy học lịch sử còn
nhiều hạn chế. Phương tiện vừa thiếu lại vừa không phù hợp. Thử lấy ví dụ
về hệ thống bản đồ, chúng ta có thể khẳng định một điều rằng hệ thống bản
đồ và tranh ảnh lịch sử trong danh mục đồ dùng do Bộ Giáo dục và đào tạo
ban hành không đủ. Các tranh ảnh ở sách giáo khoa màu sắc còn đơn điệu,
thiếu đồng bộ.
* Trước những khó khăn đó, việc dạy học theo hướng ứng dụng công
nghệ thông tin là một giải pháp tích cực, là hướng đi kịp thời để giải
quyết những khó khăn nêu trên.
- Mục đích của việc áp dụng phương pháp nghe nhìn là: nhằm tạo
hứng thú học tập cho học sinh và cũng nhằm đổi mới tư duy, phát huy năng
lực của giáo viên, coi việc thực hành, thực nghiệm là một yêu cầu quan
trọng. Với phương pháp này, kiến thức Lịch sử được truyền đạt đến học sinh
qua những cuốn phim tư liệu, video clip, tranh, ảnh phong phú, tránh được
sự truyền đạt kiến thức một cách máy móc, nhồi nhét, giúp học sinh tự làm
chủ kiến thức, không phải học vẹt, học chay...Giáo viên tổ chức được những
tiết học sinh động, nhẹ nhàng, hiệu quả, xóa đi kiểu dạy học nhồi nhét một
cách vô cảm về những sự kiện, con người, ngày tháng. Học sinh tiếp thu
kiến thức một cách hào hứng, vui tươi… và từ đó tăng thêm lòng yêu nước,
tự hào dân tộc, chủ động tìm tòi, khám phá, thêm yêu lịch sử nước nhà.
Nhận thấy điều đó, tôi thường soạn giáo án Lịch sử trên phần mềm
PowerPoint. Qua các năm, trao đổi giáo án giữa giáo viên trong khối nên các
bài giảng soạn bằng phần mềm PowerPoint tăng cả về số lượng và chất
lượng. Khi giảng dạy, hiệu quả tiết dạy thấy rõ ràng.
Ví dụ: Khi dạy bài “Nhà Lý dời đô ra Thăng Long” để học sinh so sánh
được địa hình của vùng đất Đại La và Hoa Lư tôi trình chiếu hình ảnh hai

vùng đất này để học sinh dễ so sán.


Giờ dạy Lịch sử bằng giáo án lịch sử ở lớp 4c – Trường Tiểu học Nga
Thanh Ngoài ra tôi còn cung cấp thêm một số hình ảnh khác liên quan đến
bài học:


Hay khi dạy bài: Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân tôi trưng lược đồ trấn
giữ các vùng của 12 sứ quân.


Lược đồ 12 sứ quân


Cung điện kinh đô Hoa Lư
Hay một số hình ảnh khác liên quan đến nội dung bài học:

Đền thờ Đinh bộ Lĩnh ở Hoa Lư – Ninh Bình


Tượng thờ Đinh Bộ Lĩnh tại đền thờ Đinh bộ Lĩnh ở Hoa Lư – Ninh
Bình
Hay khi dạy bài: Nghĩa quân Tây Sơn tiến ra Thăng Long tôi cung cấp
thêm lược đồ Nghĩa quân Tây Sơn tiến ra Thăng Long (Năm 1786) để các
em nắm rõ hơn về con đường tiến quân của nghĩa quân Tây Sơn.


Nhưng vấn đề đặt ra là thiếu máy móc nghiêm trọng, giáo viên nào cũng
muốn giờ dạy của mình mang lại hiệu quả cao cho học trò bằng những trang

giáo án điện tử trong khi cả trường chỉ được cấp… 1 màn hình và máy
chiếu.
Dạy học lịch sử muốn đạt hiệu quả cao, giáo viên còn có thể sử dụng
tối đa những điều kiện cụ thể ở địa phương để tổ chức các giờ học ngoài lớp,
cho học sinh đi tham quan các di tích lịch sử, văn hoá, gặp gỡ các cá nhân
hoặc tập thể đã tham gia trong các sự kiện đó…Ví dụ khi dạy bài 4 (Khởi
nghĩa Hai Bà Trưng, năm 40) và bài 14 (Cuộc kháng chiến chống quân xâm
lược Mông - Nguyên),
* Và nữa Trò chơi học tập cũng là một cách thay đổi hình thức tổ
chức lớp học: Vì học sinh Tiểu học có nhu cầu được vui chơi rất lớn nên nếu
ta tổ chức hoạt động học gắn với hoạt động vui chơi sẽ tránh gây áp lực và
tạo ra được không khí vui tươi, thoải mái và gây nhiều hứng thú cho các em.
Bởi vậy giáo viên cần tích cực thiết kế các trò chơi lồng vào các hoạt động
học. Khi thiết kế trò chơi học tập trong dạy học lịch sử, giáo viên cần chú ý
xác định rõ mục đích của trò chơi là nhằm giúp gì cho hoạt động học, cần


chuẩn bị những gì, cách tiến hành ra sao và sau trò chơi rút ra được nội
dung, kết luận gì?
Khi dạy Lịch sử 4, tôi thường xuyên thiết kế một số trò chơi như
“Chọn số”, “Xem ai nhớ nhất” để dạy các tiết ôn tập, thực hành giúp củng cố
kiến thức cho các em (như bài 6,20,29…); trò chơi “Mặt xanh, mặt đỏ”
thường sử dụng dạy các bài mới hoặc bài ôn (như bài 10,12, 25…); trò chơi
“Ai chỉ đúng” thường dùng dạy các bài có hoạt động làm việc với bản đồ,
lược đồ (bài 2,5,10,21,…); trò chơi “Ô chữ kì diệu” dạy các bài ôn tập tổng
hợp hoặc dạy hoạt động củng cố cuối bài (bài 6, 11, 15 20,…) (đã minh họa
ở trên); trò chơi “Đố bạn” có thể áp dụng dạy tất cả các bài (học sinh đố
nhau về nội dung bài).
Sau đây tôi trình bày cách tiến hành trò chơi “Mặt xanh, mặt đỏ”:
* Mục đích: Giúp học sinh ôn tập, củng cố kiến thức đã học, phát huy

sự nhanh nhẹn, rèn luyện trí thông minh, tạo không khí vui tươi thoải mái,
kích thích khả năng tư duy, tổng hợp vấn đề; giúp giáo viên củng cố bài
nhanh gọn, hiệu quả.
* Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị cho mỗi học sinh một tấm thẻ (có cán,
một mặt màu xanh, một mặt màu đỏ), hệ thống các ý kiến cả đúng cả sai.
Ví dụ: Với bài “Những chính sách về kinh tế và văn hóa của vua
Quang Trung”, để củng cố về nội dung của “Chiếu khuyến nông”, giáo
viên chuẩn bị các ý kiến như sau:
1. Chia ruộng đất cho nông dân.
2. Chia thóc cho nông dân.
3. Đào kênh mương dẫn nước vào ruộng.
4. Lệnh cho nông dân trở về quê cũ cày cấy, khai phá ruộng hoang.
* Cách thực hiện trò chơi:
- Cuối tiết học, giáo viên chia lớp thành 3 đội chơi (mỗi dãy bàn là
một đội), nêu tên trò chơi, cách chơi, luật chơi, phát thẻ cho từng em, yêu
cầu học sinh vận dụng kiến thức bài học và vốn hiểu biết của bản thân để
xác định ý kiến giáo viên đưa ra là đúng hay sai. Nếu ý kiến đúng thì giơ thẻ
mặt đỏ hướng lên bảng và ngược lại.
- Giáo viên lần lượt nêu các ý kiến. Sau mỗi ý kiến giáo viên tổng kết
số lượng các bạn trả lời đúng, sai của từng đội, cho học sinh giải thích ý kiến
đưa ra và kết luận. Cuối cùng giáo viên tổng hợp kết quả của các đội, tuyên
dương đội thắng cuộc, chốt kiến thức bài học.
6. Hướng dẫn học sinh cách học bộ môn lịch sử theo từng loại bài:
Trước kia chúng ta thường quan niệm học lịch sử là phải học thuộc,
nạp vào bộ nhớ của học sinh theo lối thầy đọc, trò chép, học thuộc lòng theo
thầy, theo sách giáo khoa là đạt yêu cầu.


Nhưng học tập lịch sử theo quan niệm hiện đại không phải là theo cách
trên mà là: học sinh thông qua làm việc với sử liệu mà tạo ra hình ảnh lịch

sử, tự xậy dựng, tự hình dung về quá khứ lịch sử đã diễn ra.
6.1. Với loại bài dạy về nhân vật lịch sử:
Loại bài này chỉ khoảng 4 bài trong chương trình. Bao gồm các bài
sau: Khởi nghĩa Hai Bà Trưng; Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh
đạo (938); Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân; Quang Trung đại phá quân
Thanh.
a. Mục tiêu:
- Học sinh biết và hiểu: Công lao và những đóng góp của một số nhân
vật đối với lịch sử dân tộc.
- Học sinh có khả năng kể lại hoặc mô tả một cách khái quát những
đóng góp của các nhân vật lịch sử đã học hoặc sưu tầm những câu chuyện về
họ.
- Học sinh ghi nhớ công ơn của các nhân vật lịch sử.
b. Những phương pháp dạy học đặc trưng
Chương trình lịch sử Tiểu học không giới thiệu tiểu sử các nhân vật
lịch sử, mà thông qua cuộc đời hoạt động và sự nghiệp của nhân vật để làm
sáng tỏ những sự kiện cơ bản của lịch sử dân tộc. Ví dụ Lê Lợi xây dựng và
chỉ huy nghĩa quân Lam Sơn đánh thắng quân Minh, thống nhất đất nước
vào năm 1428… Như vậy nhân vật lịch sử bao giờ cũng gắn liền với sự kiện
lịch sử, giáo viên phải biết khai thác tốt các sự kiện để làm nổi bật những
hoạt động và công lao to lớn của nhân vật.
Khi dạy các bài về nhân vật lịch sử, giáo viên cần lưu ý một số điểm
sau:
- Mỗi bài đều có hình ảnh (tranh vẽ, chân dung) nhân vật lịch sử giúp
học sinh nắm bắt được diện mạo, hình thức bên ngoài của nhân vật. Giáo
viên cần sử dụng và khai thác triệt để những bức ảnh này nhằm phục vụ nội
dung bài học.
- Khi trình bày về nhân vật, phải cho học sinh biết nhân vật đó là
người như thế nào? (Sinh ra khi nào? Ở đâu? Làm gì? Có tính cách gì nổi
bật? Tài năng, đức độ ra sao?....)

- Kể chuyện hoặc miêu tả những hoạt động của họ để làm cơ sở cho
việc đánh giá khách quan công lao của các nhân vật đối với lịch sử. Khi kể
chuyện hay tường thuật, miêu tả tình tiết các hoạt động,có thể kết hợp phân
tích để học sinh hiểu hơn nội dung, bản chất sự kiện.
- Trên cơ sở khai thác những nội dung đó, giáo viên tiến hành giáo
dục tư tưởng, tình cảm, thái độ cho học sinh về lòng biết ơn, sự khâm phục,
kính trọng đối với nhân vật lịch sử một cách tự nhiên, có hiệu quả nhất.
Thông thường, đối với dạng bài này phương pháp chủ đạo là kể chuyện,


miêu tả, tường thuật kết hợp với hỏi đáp để khắc sâu hình ảnh nhân vật trong
tâm trí học sinh.
 Ví dụ: Khi dạy bài “Chiến thắng Chi Lăng”:
Hoạt động 1: Tìm hiểu về nghĩa quân Lam Sơn.
Ở hoạt động này, tôi tập trung sử dụng phương pháp hỏi- đáp để học
sinh nêu được sự lớn mạnh của nghĩa quân Lam Sơn.
Hoạt động 2: Vài nét về tiểu sử của Lê Lợi.
- Thực hiện hoạt động này cần sử dụng phương pháp kể chuyện. Khi
giảng dạy, tôi thường tổ chức học sinh đọc nội dung sách giáo khoa kết hợp
với hiểu biết của bản thân để kể lại tiểu sử của Lê Lợi. Nếu trường hợp học
sinh không kể được, tôi sẽ dẫn dắt, gợi mở cho các em bằng các câu hỏi gợi
ý: Lê Lợi là người vùng nào? Ông đã làm những gì để xây dựng nghĩa quân?
Hoạt động 3: Công lao của Lê Lợi.
Tôi thường tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm để thấy được những
đóng góp của Lê Lợi đối với lịch sử dân tộc.
6.2. Dạng bài có nội dung về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, tình
hình kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội.
Bao gồm 13 bài là các bài sau: Nước Văn Lang; Nước Âu Lạc; Nước
ta dưới ách đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc; Nhà Lý dời đô
ra Thăng Long; Nhà Trần thành lập; Nhà Trần và việc đắp đê; Nước ta cuối

thời Trần; Nhà Hậu Lê và việc tổ chức, quản lí đất nước; Trịnh- Nguyễn
phân tranh; Cuộc khẩn hoang ở Đàng Trong; Thành thị ở thế kỉ XVI- XVII;
Những chính sách về kinh tế và văn hóa của vua Quang Trung; Nhà Nguyễn
thành lập.
a. Mục tiêu: Học xong loại bài này, học sinh biết và hiểu:
- Hoàn cảnh ra đời, địa phận; thời gian ra đời và tồn tại của nhà nước;
tên vua, tên nước, nơi đóng đô,…
- Hiểu một cách đơn giản về tổ chức bộ máy nhà nước.
- Biết được những nét chính về đời sống kinh tế, vật chất; văn hóa tinh
thần của con người trong xã hội.
Học sinh có kĩ năng:
- Vẽ hoặc mô tả đơn giản bộ máy chính quyền nhà nước.
- So sánh ở mức độ thấp tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội
của các triều đại hoặc các giai đoạn lịch sử khác nhau.
Học sinh có thái độ: Có ý thức tìm hiểu lịch sử dân tộc qua các triều
đại thông qua phim ảnh, các câu chuyện lịch sử,…
b. Phương pháp dạy học dạng bài này
- Phải cho học sinh biết được hoàn cảnh ra đời, địa phận (cương vực
địa lí); thời gian ra đời và tồn tại của nhà nước; tên vua, tên nước, nơi đóng
đô,…


- Giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ được sơ đồ tổ chức bộ máy nhà
nước một cách đơn giản hoặc ở mức độ thấp hơn là mô tả được tổ chức bộ
máy nhà nước: Đứng đầu chính quyền (Nhà nước) là ai? Gồm những tầng
lớp nào? Bên dưới chính quyền trung ương là những đơn vị hành chính nào?
Gồm mấy cấp? Đứng đầu mỗi cấp là tầng lớp nào?....
- Mô tả được những nét chính về đời sống kinh tế, vật chất, tinh thần
của con người trong xã hội; cách tổ chức quân đội, luật pháp…
- Đối với dạng bài này, tôi thường sắp xếp thành từng ý, gợi mở vấn

đề rồi tổ chức dẫn dắt cho học sinh tìm hiểu thông tin qua phương pháp vấn
đáp- tìm tòi, thảo luận nhóm, đàm thoại,.. Với dạng bài này, cần khai thác
triệt để các đồ dùng dạy học. Mặt khác, việc miêu tả, giải thích, phân tích
của giáo viên cũng rất quan trọng vì nó liên quan tới một số thuật ngữ, khái
niệm khó.
Để dạy tốt loại bài này, tôi thường thực hiện trình tự bài giảng như sau:
+ Mô tả tình hình nước ta cuối hay sau thời kì nào đó (tình hình đất
nước, quan lại, chính quyền, cuộc sống của các tầng lớp nhân dân trong xã
hội,…).
+ Trong tình cảnh đó, chính quyền (hay nhân dân hoặc nhân vật lịch
sử,…) đã làm gì và làm như thế nào?
+ Kết quả của những việc làm đó?
 Ví dụ: Bài 8 – Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ nhất
(Năm 981).
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động của học sinh
- Gv hỏi:
- HS trả lời:
+ Theo dõi bài, em hãy cho biết + Con thứ là Đinh Toàn, mới 6 tuổi lên
tình hình nước ta sau khi Đinh ngôi. Lợi dụng cơ hội đó, nhà Tống đem
Tiên Hoàng và con trưởng là quân xâm lược nước ta. Thế nước lâm
Đinh Liễn bị ám hại?
nguy. Vua còn quá nhỏ không gánh nổi
việc nước.
+ Trước tình hình đó, triều đình + Triều đình đã họp bàn để chọn người
đã làm gì?
chỉ huy kháng chiến.
+ Kết quả những việc làm đó ra + Mọi người đã đặt niềm tin vào Thập
sao?
đạo tướng quân Lê Hoàn. Thái hậu họ

Dương đã sai người lấy áo long cổn trao
cho Lê Hoàn và mời ông lên ngôi vua.
Trên cơ sở những nội dung cơ bản trên, tôi đã căn cứ vào nội dung cụ
thể của từng bài để vận dụng linh hoạt các phương pháp: kể chuyện, thảo
luận nhóm, đàm thoại,….để chuyển tải nội dung bài học một cách hiệu quả.


6.3. Dạng bài có nội dung về các cuộc khởi nghĩa, kháng chiến,
chiến thắng, chiến dịch, phản công,…
Bao gồm…là các bài sau: Khởi nghĩa Hai Bà Trưng; Chiến thắng
Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo (938); Cuộc kháng chiến chống quân
Tống xâm lược. (lần 1, lần 2); Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược
Mông – Nguyên; Chiến thắng Chi Lăng; Nghĩa quân Tây Sơn tiến ra Thăng
Long; Quang Trung đại phá quân Thanh,...
a. Mục tiêu: Học sinh biết và hiểu:
- Thời gian, địa diểm diễn ra các cuộc khởi nghĩa, chiến thắng, …
- Những nét chính về diễn biến và ý nghĩa của các thắng lợi đó.
Học sinh có khả năng: Tường thuật, miêu tả những nét chính của cuộc
khởi nghĩa hay chiến dịch đã học.
Học sinh có thái độ: biết ơn những người đã làm nên những sự kiện
vĩ đại của lịch sử dân tộc và có ý thức bảo vệ những thành quả của cách
mạng.
b. Những phương pháp dạy học đặc trưng.
Dạng bài này chiếm một tỉ lệ khá cao trong chương trình. Với dạng bài
này, cần cho học sinh biết, hiểu những nội dung sau:
- Nguyên nhân, hoàn cảnh dẫn đến cuộc khởi nghĩa, kháng chiến, chiến
dịch,…
- Khái lược diễn biến cuộc khởi nghĩa, kháng chiến, chiến dịch,…
Để học sinh hiểu sâu hơn những nội dung trên, giáo viên nhất thiết nên
sử dụng bản đồ, lược đồ, tranh ảnh,… dẫn dắt học sinh xác định và mô tả

được vị trí, khu vực, địa bàn diễn ra cuộc khởi nghĩa/ kháng chiến/ chiến
dịch,…, phải trình bày diễn biến của các sự kiện trên hệ thống kênh hình.
Đặc biệt phải coi hệ thống kênh hình là nguồn tri thức để khai thác.
 Ví dụ: Bài 16- Chiến thắng Chi Lăng
Khi dạy bài này, giáo viên không thể tường thuật hay mô tả “chay” mà
phải sử dụng kênh hình (VD hình 29-SGK) để học sinh thấy được vị trí của
ải Chi Lăng. Giáo viên đưa ra một số câu hỏi gợi ý để tìm hiểu về ải Chi
Lăng: Em có nhận xét gì về vị trí của ải Chi Lăng? Tại sao nghĩa quân Lam
Sơn lại chọn ải Chi Lăng làm trận địa đánh địch?...
Như vậy, theo tôi, phương pháp chủ đạo khi dạy dạng bài học này là
tường thuật, miêu tả kết hợp với kể chuyện và khai thác kiến thức từ hệ
thống kênh hình để làm sống dậy diễn biến của cuộc khởi nghĩa/ kháng
chiến/ chiến dịch hay cuộc tiến công.
6.4. Dạng bài có nội dung về thành tựu văn hóa - khoa học.
Bao gồm……là các bài sau: Chùa thời Lý; Trường học thời Hậu Lê;
Văn hóa, khoa học thời Hậu Lê; Kinh thành Huế.


a. Mục tiêu: - Học sinh biết và hiểu một số thành tựu trong lĩnh vực văn hóa,
khoa học điểm hình của dân tộc qua các thời kì lịch sử.
- Học sinh có khả năng kể, mô tả những nét khái quát nhất về các
thành tựu đó.
- Có ý thức trân trọng, giữ gìn, bảo vệ những thành tựu văn hóa, khoa
học của dân tộc.
c. Những phương pháp dạy học đặc trưng.
- Phải mô tả được những đặc điểm nổi bật của công trình kiến trúc
(Quá trình xây dựng, quy mô, cấu trúc, kiểu dáng, nét điêu khắc, chạm trổ,
…)
- Mô tả cách giáo dục, thi cử hay nội dung thi cử của mỗi thời kì.
- Nêu được các thành tựu cơ bản về văn hóa, khoa học trong thời kì

ấy.
Trên cơ sở đó, giáo dục ý thức, trách nhiệm bảo vệ các công trình nghệ
thuật kiến trúc, văn hóa, khoa học cho học sinh.
Ở loại bài này, thường có nhiều tranh ảnh về các công trình kiến trúc,
các thành tựu về văn hóa… Vì vậy, tôi thường hướng dẫn học sinh đi từ
quan sát đến mô tả và nêu ra nhận xét. Như vậy, khai thác kiến thức từ kênh
hình là phương pháp cực kì quan trọng với dạng bài này. Tuy nhiên, để tăng
tính hiệu quả cho tiết học, tôi còn kết hợp tổ chức cho học sinh hợp tác làm
việc theo nhóm, tổ chức các trò chơi.
6.5. Dạng bài có nội dung ôn tập, tổng kết.
Bao gồm 3 bài là:
- Bài 6: Hệ thống lại những sự kiện điển hình từ thời kì dựng nước tới
năm 938.
- Bài 20: Tổng hợp những nét cơ bản của lịch sử dân tộc trong các lĩnh
vực kinh tế, chính trị, văn hóa- xã hội và những cuộc kháng chiến chống
ngoại xâm của dân tộc ta từ buổi đầu độc lập đến thời Hậu Lê.
- Bài 29: Tổng kết lịch sử từ thời vua Hùng đến giữa thế kỉ XIX.
a. Mục tiêu:
- Hệ thống hóa và củng cố những kiến thức đã học.
- Học sinh có khả năng nhận thức lịch sử một cách sâu sắc hơn, toàn
diện hơn và làm bài kiểm tra tốt hơn.
- Học sinh có ý thức ghi nhớ lịch sử dân tộc.
b. Những phương pháp dạy học cơ bản.
Để dạy tốt dạng bài này, mở đầu bài học, tôi thường nêu nhiệm vụ cần
giải quyết rồi tiến hành tổ chức cho học sinh làm việc dưới sự hướng dẫn
của giáo viên. Trong quá trình tiến hành bài học, tôi phải thu hút được tất cả
học sinh vào các hoạt động, phát huy cao nhất tính tích cực của mỗi học sinh
trong việc trao đổi những câu hỏi mà giáo viên đặt ra, thực hiện các công



việc như: vẽ sơ đồ, lập bảng niên biểu, thống kê, tìm các dẫn chứng… Đây
là yếu tố quan trọng để phát triển tư duy, rèn luyện kĩ năng thực hành.
Thông thường, với dạng bài ôn tập, tổng kết phải vận dụng tổng hợp
nhiều phương pháp. Tuy nhiên cũng tùy từng phần, từng nội dung cụ thể
trong từng bài mà giáo viên lựa chọn phương pháp hay hình thức dạy học
phù hợp. Riêng tôi lại thấy trò chơi là một phương pháp rất thích hợp với
dạng bài này vì nó có thể tổng hợp kiến thức từ nhiều bài học khác nhau,
đồng thời cũng tạo ra không khí sôi nổi, hấp dẫn cho học sinh trong quá
trình học tập. Qua những hoạt động “học mà chơi, chơi mà học”, các em sẽ
ghi nhớ một cách tự giác những kiến thức lịch sử đã học.
Trên đây tôi vừa trình bày một số giải pháp và tổ chức thực hiện dạy
lịch sử lớp 4C. Ngoài ra, để dạy học lịch sử đạt hiệu quả cao tôi còn phối kết
hợp với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường. Ví dụ như kết
hợp với tổ chức Đoàn TNCS, Đội TNTP tổ chức tìm hiểu và thi chuyên hiệu
“Nhà Sử học nhỏ tuổi”; thi “Rung chuông vàng” về kiến thức Lịch sử; thi
trả lời nhanh các câu hỏi trong các buổi ôn tập dưới cờ…; phối hợp với
chuyên môn nhà trường in một số tấm pa-nô (về Tiểu sử, công lao của một
số nhân vật lịch sử tiêu biểu) treo ở một số vị trí quan trọng để tất cả học
sinh và giáo viên đều có thể biết.
IV. KIỂM NGHIỆM

Với các giải pháp trên đưa vào vận dụng trong dạy học phân môn lịch
sử lớp 4. Trong suốt quá trình học tập từ đầu học kì một đến nay, qua kiểm
tra, đánh giá kết quả ở các tháng được nâng lên rõ rệt. Các em tiếp thu bài
nhanh và nhớ lâu, có tinh thần học tập tốt. Các em trung bình yếu cũng tích
cực tham gia học tập và phát biểu xây dựng bài. Đó cũng là nền tảng để các
em bước vào bậc học của các lớp cao hơn
Kết quả các lần kiểm tra: Năm học : 2013 – 2014
TSHS


KS sau 4 tuần
KT học kì I
Điểm tháng 3

23
23
23

Giỏi (9 -10)

Khá (7- 8)

TB(5-6)

TS

%

TS

%

TS

%

4
7
10


17,4
30,4
43,5

8
11
9

34,8
47,9
39,1

9
5
4

39,1
21,7
17,4

Yếu (dưới
5)
TS
%

2

8,7

Đạt được kết quả trên có sự cố gắng của học sinh, các bậc phụ huynh,

… Bên cạnh đó còn có sự giúp đỡ của chuyên môn trường, xây dựng và góp
ý, tôi đã nâng cao sáng kiến của mình. Học sinh ham học, tự tin, chất lượng
nâng lên một cách rõ rệt. Đặc biệt không có em nào bị điểm yếu.


×