Tải bản đầy đủ (.docx) (98 trang)

giáo trình hải dương học đại dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.25 MB, 98 trang )

MỤC LỤC


DANH MỤC HÌNH VẼ


DANH MỤC BẢNG BIỂU


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN ĐẠI DƯƠNG (6 tiết)
1.1. Đặc điểm chung của đại dương
1.1.1. Tính đới của đại dương
1.1.1.1. Các đại dương trên thế giới
Người ta phân chia Đại dương Thế giới thành các đại dương riêng biệt xuất phát
từ những dấu hiệu sau (theo tuần tự mức ý nghĩa): hình dáng đường bờ các lục địa và các
đảo, địa hình đáy, mức độ biệt lập của các hải lưu và thủy triều, mức độ biệt lập của hoàn
lưu khí quyển, những đặc điểm phân bố phương ngang và phương thẳng đứng của nhiệt
độ và độ muối.
Trong một thời gian dài Đại dương Thế giới được chia ra thành năm đại dương:
Đại Tây Dương, Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, Bắc Băng Dương và đại dương Nam
Cực. Hệ thống phân chia này đã được chấp nhận từ năm 1845 tại kì họp của Hội đồng
Hội địa lý hoàng gia ở Luân Đôn, nhưng mãi tới năm 1893 mới được công bố.
Trong các công trình sau đó của O. Kriummel và I.M. Sokanski đã đề xuất chia ba
đại dương: Đại Tây Dương, Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương. Trong đó Bắc Băng
Dương được gộp vào Đại Tây Dương.
Năm 1928, Phòng thủy đạc quốc tế đã xuất bản một ấn phẩm chuyên môn: “Ranh
giới các biển và đại dương”, trong đó chấp nhận chia Đại dương Thế giới thành bốn đại
dương. Trong những thập niên tiếp sau đã tiến hành nhiều công việc làm chính xác các
ranh giới và kích thước các đại dương và biển.
Trong ấn phẩm thứ ba của Phòng thủy đạc quốc tế (1953) vẫn giữ nguyên hệ phân
chia Đại dương Thế giới thành bốn đại dương: Đại Tây Dương, Thái Bình Dương, Ấn Độ


Dương và Bắc Băng Dương, nhưng từng đại dương không bao gồm các biển. Đại Tây
Dương và Thái Bình Dương được chia thành hai phần: phần bắc và phần nam, ranh giới
giữa hai phần đi qua đường xích đạo. Các eo nối hai biển hay hai đại dương không bị
chia ra làm hai phần, mà được gộp vào một biển hay một đại dương nào đó.
Các đại dương thế giới bao gồm:
Đại Tây Dương trải dài theo hướng kinh tuyến, các biên phía đông và phía tây của
nó được xác định rõ bởi bờ các lục địa: ở phía tây là bờ châu Mỹ, phía đông là châu Âu
và châu Phi. Biên phía bắc đi qua cửa phía đông của eo Đevit (70 oN), dọc theo cận nam
của Grinlan dến múi Nansen (68 o15’ N, 29o30’ E). Từ mũi Nansen biên nước đi đến cận
tây bắc Aixơlan và tiếp tục đi qua quần đảo Farer (đảo Fugle) đến quần đảo Sotland (đảo
Makl-Flagg) và theo vĩ tuyến 61oN tới bờ Na Uy.

4


Hình 1. Đại Tây Dương (Atlantic Ocean)
- Ở nam bán cầu biên giới phía tây của Đại Tây Dương đi qua eo Đreik theo kinh
tuyến mũi Horn (68oW) đến bờ Nam Cực, còn biên giới phía đông - theo kinh tuyến mũi
Hảo Vọng (20oE) và cũng tới bờ Nam Cực.
- Đại Tây Dương, diện tích và thể tích nước của nó bằng khoảng 0.25 lần so với
Đại dương Thế giới. Tổng diện tích các biển bằng khoảng 16% diện tích đại dương. Độ
sâu lớn nhất (8,742 m) đo được ở rãnh sâu Puecto-Riko.
Thái Bình Dương có biên giới phía tây là bờ châu Á. Với Ấn Độ Dương biên giới
đi qua cửa phía bắc của eo Malaka, bờ tây đảo Sumatra, bờ nam đảo Java đến đảo Timo.
Tiếp theo biên giới đi đến mũi Londonderry trên bờ nước Úc, cửa phía bắc của eo Basso
giữa Úc và đảo Tasmania, bờ phía tây Tasmania đến mũi Nam. Dọc theo kinh tuyến mũi
Nam (147oE) biên giới nước đi tới tờ châu Nam Cực.

Hình 2. Thái Bình Dương (Pacific Ocean)


5


- Diện tích Thái Bình Dương bằng gần một nửa toàn diện tích Đại dương Thế giới
và lớn hơn diện tích tất cả các lục địa và đảo. Thái Bình Dương cũng là đại dương sâu
nhất. Trong thời gian chuyến khảo sát của tầu nghiên cứu khoa học Nga “Vitiaz” năm
1957, tại rãnh sâu Marian đã đo được độ sâu lớn nhất của Đại dương Thế giới bằng
11,022 m.
- Biên giới phía đông của Thái Bình Dương là bờ Bắc Mỹ và Nam Mỹ và tiếp tục
theo kinh tuyến mũi Hocnơ (68 oE) tới Nam Cực. Ranh giới với Bắc Băng Dương đi theo
vòng tròn Cực Bắc, nhưng các nhà hải dương học thường chấp nhận chỗ hẹp và nông
nhất của eo Bering làm ranh giới - vẽ từ mũi Đeznhev đến mũi Hoàng tử Wuelski.
Ấn Độ Dương có biên giới phía đông trùng với biên giới phía tây của Thái Bình
Dương, bắt đầu rừ eo Malaka, còn biên giới phía tây trùng với biên giới phía đông của
Đại Tây Dương từ mũi Hảo Vọng tới châu Nam Cực. Biên giới phía bắc là bờ châu Á,
còn biên giới phía nam - bờ châu Nam Cực.
- Diện tích Ấn Độ Dương bằng hơn 0,2 lần diện tích Đại dương Thế giới, trong đó
phần diện tích các biển của nó là 15%. Độ sâu lớn nhất (7,209 m) đo được ở rãnh sâu
Zonđ.

Hình 3. Ấn Độ Dương (Idian Ocean)
Bắc Băng Dương khác với các đại dương khác, nó được bao bọc hoàn toàn bởi
lục địa. Vì vậy, như đã nêu ở trên, trong một số công trình nó được xem như một thủy
vực giữa lục địa của Đại Tây Dương. Mặc dù vậy, tính chất của các dòng chảy, đặc điểm
hoàn lưu khí quyển và sự hình thành chế độ thủy văn là căn cứ để cho rằng Bắc Băng
Dương có thể chia thành một đại dương riêng. Ranh giới của nó thực tế chúng ta đã mô tả
khi xét các biên phía bắc của Đại Tây Dương và Thái Bình Dương.

6



Hình 4. Bắc Băng Dương (Arctic Ocean)
1.1.1.2. Tính đới của đại dương
Định luật địa đới có thể là cơ sở lí luận của công tác phân vùng không gian địa lý
tự nhiên các đại dương, tức phân chia các vùng tựa đồng nhất theo một hay một tổ hợp
các đặc trưng. Người ta cho rằng bên trong các vùng được phân chia sự biến thiên của
các đặc trưng là không đáng kể. Trong phân vùng địa lý tự nhiên, Đại dương Thế giới các
vùng được phân chia gọi là các đới tự nhiên.
Năm 1961 Đ.V. Bogđanov đã đề xuất một hệ thống phân vùng khá lí thú. Với tư
cách là những dấu hiệu cơ bản, ông đã sử dụng các đặc trưng cấu trúc nhiệt muối và vị trí
của các dòng chảy chính. Bogđanov phân định được 11 đới tự nhiên, trong đó 6 đới ở bắc
bán cầu:
- 1) Đới cực (Bắc Băng Dương) trùng với thủy vực cực của Bắc Băng Dương và
đặc trưng bởi thảm băng thường trực quanh năm;
- 2) Đới cận cực (cận Bắc Băng Dương) - đó là những vùng đại dương và biển
nằm trong phạm vi di chuyển của các đồng băng và mùa hạ nước được sưởi ấm đến 5oC;
- 3) Ôn đới - đó là các thủy vực rộng lớn trong dải gió tây ngự trị. Nước mặt mùa
hạ được sưởi ấm đến 15-20 oC, biên độ dao động năm của nhiệt độ khoảng 10-15 oC;
- 4) Đới cận chí tuyến - những vùng đại dương chủ yếu chịu ảnh hưởng của các
vùng khí áp cao tựa dừng - các cực đại Azo và Ha Oai. Nơi này có đặc điểm là nước lớp
mặt thường bị mặn hóa do bốc hơi nhiều và ít mưa, do đó mật độ nước tăng và chìm
xuống dưới;
- 5) Đới chí tuyến (tín phong) nằm trong phạm vi tác động của các gió tín phong,
vì vậy luôn ngự trị dòng nước mặt ổn định hướng về phía tây, có nhiệt độ và độ muối
cao;

7


- 6) Đới xích đạo - về vị trí địa lý hơi dịch về phía bắc và đối xứng qua mặt phẳng

xích đạo nhiệt. Nét đặc trưng là nhiệt độ cao trong suốt năm và độ muối hơi giảm.
Ở nam bán cầu Bogđanov phân chia được 5 đới, về đặc điểm thì đồng nhất với các
đới tương tự ở bắc bán cầu, chỉ có điều là chúng biểu hiện ít rõ nét hơn, đó là đới chí
tuyến, đới cận chí tuyến, ôn đới, đới cận cực và đới cực.
Từng đới tự nhiên khác biệt so với các đới lân cận về khí hậu, các tính chất và
chuyển động của nước, thế giới sinh vật và những đặc điểm địa chất. Ngoài ra ranh giới
các đới phải không đổi trong thời gian.
Tính đới trong đại dương bị phá hủy mạnh ở những vùng hoạt động của các dòng
chảy ổn định như Gơnstrim và Kurosyo. Ngoài ra, ở vùng các dòng chảy ấm biên giới
dịch về phía các cực, còn ở vùng các dòng chảy lạnh - về phía xích đạo. Các đới tự nhiên
trong đại dương thực tế hoàn toàn tương ứng với các đới địa thực vật trên đất liền, thí dụ
đới cận cực - tương ứng với vùng đài nguyên phương bắc (tundra), vùng ôn đới - tương
ứng các đới rừng cỏ và thảo nguyên, đới cận chí tuyến - tương ứng với đai Địa Trung
Hải.
1.1.2. Đặc điểm khí hậu của đại dương
Các lực tạo triều không gây nên những biến động chu kỳ dài đối với các tính chất
khí tượng hải văn hay nói cách khác chính là khí hậu thế giới, ba ngoại lực chính tạo ra
những biến động đối với chế độ hải văn đại dương bao gồm: ứng suất gió, thông lượng
nhiệt và thông lượng nước trao đổi qua mặt phân cách nước-không khí.
Tất cả ba tác động này đều có một nguồn gốc chung là bức xạ mặt trời. Những
kiến thức về khí quyển sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn cơ chế biến đổi của các tác động này
cũng như quá trình chuyển hóa của bức xạ mặt trời vào các dạng năng lượng cụ thể trong
đại dương thế giới.
Nguyên nhân gây ra sự thay đổi, biến động về ưng suất gió, thông lượng
nhiệt,nước trao đổi chính là lượng bức xạ đến trái đất. Lượng bức xạ đi vào biên ngoài
của khí quyển có sự biến đổi đáng kể từ xích đạo đến các vùng cực. Tuy những biến đổi
cũng có sự khác biệt giữa các mùa, nhưng khu vực xích đạo vẫn nhận được nhiều năng
lượng hơn so với các vùng cực. Không khí lạnh ở các vùng cực có mật độ lớn hơn so với
không khí ấm tại xích đạo dẫn đến hình thành sự khác biệt về áp suất khí quyển tại hai
miền này của Quả Đất.

Từ quy luật khí áp, áp suất khí quyển ở mực nước biển tại các miền cực có giá trị
lớn hơn so với miền xích đạo và tạo ra gradient áp suất theo hướng từ cực về xích đạo.
Trong khi đó tại tầng cao khí quyển thì gradient áp suất lại có hướng ngược lại.
Trong cơ học chất lỏng, gradient áp suất là tác nhân gây ra dòng vận chuyển từ
miền áp cao về miền áp thấp. Trong trường hợp Quả Đất không quay thì không khí trong
khí quyển sẽ chuyển động theo hai vòng hoàn lưu đơn giản trên hai bán cầu (hình 1.8a).
8


Trên mặt biển không khí chuyển động từ cực về xích đạo; không khí sẽ nâng lên tại xích
đạo và quay trở lại các miền cực trên tầng cao.

Hình a)
Hình b)
Hình 5. Sơ đồ phân bố áp suất không khí trên mặt cắt kinh tuyến và chuyển động
của khí quyển tương ứng

Hình 6. Sơ đồ phân bố gió trên quả đất
Khi trái đất quay, hiện tượng chuyển động của không khí có sự biến đổi một cách
cơ bản theo hai cách.
- Cách 1: Khối hông khí chuyển động về phía xích đạo, hiệu ứng Quả Đất quay
làm cho đại dương và mặt đất nằm phía dưới đó chuyển dịch tương đối về phía đông.
Người quan trắc ở trên mặt đất sẽ nhận thấy chuyển động của không khí tương tự
dòng gió đông: gió thổi từ hướng đông kèm theo thành phần hướng xích đạo. Tại khu vực
nhiệt đới và cận nhiệt đới loại gió này được gọi là tín phong hay gió mậu dịch, tại các
khu vực vĩ độ cực đó là gió đông cực đới. Như vậy gió sẽ không còn thổi từ các miền áp
9


suất cao về các miền áp suất thấp nữa mà hầu như chuyển dịch theo các đường có giá trị

áp suất không đổi (các đường đẳng áp). Cũng xuất phát từ đây mà ý nghĩa của các đường
đẳng áp được khẳng định vị trí trên các bản đồ thời tiết hàng ngày trên phương tiện thông
tin đại chúng.
Do Quả Đất quay các dòng khí có hướng theo vỹ tuyến hơn là theo hướng kinh
tuyến, vai trò của chuyển động theo phương thẳng đứng bị suy giảm: không khí có thể đi
theo các hoàn lưu ngang trên mặt đất một cách nhanh chóng mà không cần đến các
chuyển động thăng hoặc giáng.
- Cách 2: Chính sự điều chỉnh này dẫn đến hướng biến đổi thứ hai của chuyển
động không khí làm cho hoàn lưu đơn trên từng bán cầu bị phân hóa. Do các dòng không
khí thổi theo địa đới có vận tốc lớn có tính bất ổn định cao đã hình thành nên các xoáy
dẫn đến sự điều chỉnh phân bố khí áp. Điều này dẫn đến sự xuất hiện của một cực đại áp
suất chuyển tiếp nằm ở vùng vĩ độ trung bình (Hình 6). Điều này tạo ra gradient áp suất
theo chiều ngược lại và gây nên một dải gió tây trên bề mặt Quả Đất (Hình 5 và 6).
Những người đi biển lâu năm trên các đại dương đều hiểu rõ thuật ngữ “vùng vĩ
tuyến 40”, do gió tại khu vực từ vĩ tuyến 40 đến 50 độ luôn có giá trị lớn, sự biến động
mạnh và độ giật lớn hết sức nguy hiểm.

Hình 7. Trường gió trung bình trên mặt đại dương thế giới vào tháng 7 (Đặc trưng
mùa Hè).
Theo số liệu lấy từ sử dụng số liệu từ Cơ sở dữ liệu
Đại dương/Khí quyển (Comprehensive Atmosphere/Ocean Data Set -COADS)
Do không khí trên đất liền bị đốt nóng nhanh hơn so với trên đại dương trong mùa
hè và bị làm lạnh nhanh hơn trong mùa đông nên các khối khí trên cùng một vĩ tuyến ở

10


lục địa có áp suất thấp hơn trong mùa hè và áp suất cao hơn trong mùa đông so với các
khối không khí trên đại dương.
Kết quả của quá trình này dẫn tới sự chuyển hướng gió trung bình so với hướng

đông hoặc tây cơ bản đối với từng đới cụ thể của đại dương thế giới. Tại một số vùng đại
dương hướng gió có sự biến đổi đáng kể theo mùa, trong đó có trường hợp gió đổi hướng
theo chiều đối lập. Với trường hợp này chúng ta có được các khu vực hoạt động của gió
mùa. ở đây cũng cần nhắc lại quy ước khác nhau về hướng gió và dòng chảy: hướng gió
được gọi theo điểm xuất phát của véc tơ (từ đâu tới) còn hướng dòng chảy biển lại theo
hướng véc tơ (đi tới đâu).

Hình 8. Trường gió trung bình trên mặt đại dương thế giới vào tháng 1(Đặc trưng
mùa Đông)
Theo số liệu lấy từ sử dụng số liệu từ Cơ sở dữ liệu
Đại dương/Khí quyển (Comprehensive Atmosphere/Ocean Data Set -COADS)
Có thể nhận thấy quy luật phân bố áp suất cao thấp theo đới được thể hiện rõ nét
hơn tại Nam Bán cầu do tỷ lệ tương đối giữa lục địa và đại dương không lớn. ở Bắc Bán
cầu phân bố áp suất theo đới bị thay đổi đáng kể do lục địa Châu á bởi tâm áp thấp mùa
hè trên khu vực bắc Pakistan và áp cao mùa đông trên khu vực Mông Cổ. Những trung
tâm khí áp này là nguyên nhân chính của hệ thống gió mùa ấn Độ Dương và Đông-Nam
Á.
Sự phân hóa của các trường áp dẫn đến hình thành các trường gió đã được mô tả ở
phần trên. Tính địa đới của phân bố áp suất trên khu vực Nam Bán cầu dẫn đến hình
thành đới gió tây mạnh từ 40˚ đến 60˚S. Trong khi đó có sự hiện diện của các hoàn lưu
khép kín xung quanh các trung tâm khí áp cao cận nhiệt đới bắc Thái Bình Dương và
Nam Thái Bình Dương.
11


Trên thế giới, lượng nhiệt tổng cộng bức xạ từ mặt trời đến trái đất được tính toán
thông qua lượng nhiệt mặt biển hấp thụ. Lượng bức xạ mặt trời đến mặt biển lớn nhất tại
các khu vực nhiệt đới và các vùng quang mây. Theo tính đới của đại dương, lượng nhiệt
hấp thụ vào biển tại các vùng xích đạo lên đến 97%. Lượng nhiệt tổng cộng có thể được
xác định thông qua các yếu tố: Bức xạ tới, bức xạ mặt biển, mất nhiệt do bốc hơi, và

nhiệt trao đổi thông qua mặt phân cách; và ở các vùng khác nhau, các yếu tố này cũng
được xác định khác nhau. Chính các nhân tố trên tạo nên khí hậu cho trái đất.
Khí hậu Việt Nam
Dọc theo lãnh thổ trải dài khí hậu Việt Nam phân bố thành 3 vùng: miền bắc có
khí hậu cận nhiệt đới ẩm, miền trung mang đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa, trong khi
khi miền nam nằm trong vùng nhiệt đới xavan. Khí hậu Việt Nam có độ ẩm tương đối
trung bình 84-100% cả năm. Tuy nhiên, vì có sự khác biệt về vĩ độ và sự khác biệt địa
hình nên khí hậu có khuynh hướng khác biệt nhau khá rõ nét theo từng vùng. Trong mùa
đông hay mùa khô, khoảng từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, gió mùa thường thổi từ phía
đông bắc dọc theo bờ biển Trung Quốc, qua vịnh Bắc Bộ, luôn theo các thung lũng sông
giữa các cánh cung núi ở Đông Bắc mang theo nhiều hơi ẩm; vì vậy ở đa số các vùng
việc phân biệt mùa đông là mùa khô chỉ là khi đem nó so sánh với mùa mưa hay mùa hè.
Trong thời gian gió mùa tây nam mùa hè, xảy ra từ tháng 5 đến tháng 10, không khí nóng
từ sa mạc Gobi phát triển xa về phía bắc, khiến không khí ẩm từ biển tràn vào trong đất
liền gây nên mưa nhiều.
Lượng mưa hàng năm ở mọi vùng đều lớn dao động từ 120 đến 300 xentimét, và ở
một số nơi có thể gây nên lũ. Gần 90% lượng mưa đổ xuống vào mùa hè. Nhiệt độ trung
bình hàng năm ở đồng bằng nói chung hơi cao hơn so với vùng núi và cao nguyên. Dao
động nhiệt độ từ mức thấp nhất là 5°C từ tháng 12 đến tháng 1, tháng lạnh nhất, cho tới
hơn 37°C vào tháng 4, tháng nóng nhất. Sự phân chia mùa ở nửa phía bắc rõ rệt hơn nửa
phía nam, nơi mà chỉ ngoại trừ vùng cao nguyên, nhiệt độ mùa chỉ chênh lệch vài độ,
thường trong khoảng 21-28°C.
1.1.3. Đặc điểm địa chất, địa mạo của đại dương
1.1.3.1. Đặc điểm địa chất, địa mạo
Những bản đồ đo sâu hiện đại cho thấy địa hình đáy Đại dương Thế giới rất đa
dạng. Tính chia cắt của đáy đại dương không thua kém tính chia cắt của địa hình lục địa
(hình 10), bao gồm:
- Phần rìa lục địa: Thềm lục địa (1), sườn lục địa (2), chân lục địa (3).
- Phần đới chuyển tiếp: long chảo biển ven (4), vòng cung đảo (5), rãnh sâu (6).
- Phần long đáy đại dương: bình nguyên sâu (7), dãy núi giữa đại dương (8), địa

hình đồi dưới sâu (9).

12


Hình 9. Mặt cắt ngang khái quát của đáy đại dương theo Leonchep O.
Đại hình đáy đại dương, trừ những vùng hoạt động núi lửa, có đặc điểm khá ổn
định so với địa hình lục địa, vì tác động của các quá ngoại sinh yếu hơn nhiều, thậm chí
vắng hẳn một số quá trình như gió và phong hóa vật lý.
Độ lặp lại của các cấp độ sâu ở các đại dương khác nhau cũng giống nhau và
giống như độ lặp lại của các cấp độ sâu ở toàn đại dương Thế giới, điều này phần nào nói
lên nguyên nhân hình thành chung của các đại dương Thế giới.
Theo những quan điểm hiện đại, có thế phân chia đáy đại dương thành những cấu
trúc vĩ mô như: rìa lục địa, đới chuyển tiếp, dãy núi giữ đại dương, long chảo đại dương.
Trong đó, rìa lục địa dưới nước chiếm 22.6% đáy đại dương thế giớ, viền quanh tất cả
các lục địa, gồm các dạng địa hình lớn nhứ:
- Thềm lục địa là phần kéo dài trực tiếp của nền lục địa. Nơi đây đáy đại dương hạ
thấp dần đều tới độ sâu 200 m, có khi sâu hơn, đồng thời độ dốc nhỏ. Địa hình đáy
thường khá phẳng, nhưng nhiều khi phát hiện thấy các dạng cổ phản ánh địa hình nền đất
liền kế cận. Bề rộng lớn nhất quan sát thấy ở vùng thềm lục địa Bắc Băng Dương; ở bờ
châu Âu, các bờ đông của châu Mỹ, bờ đông nam Nam Mỹ của Đại Tây Dương; bờ đông
châu Á và vùng quần đảo Dônđơ của Thái Bình Dương. Trong khi đó ở vùng bờ tây của
Bắc Mỹ và Nam Mỹ, ở bờ châu Phi thềm lục địa rất hẹp. thềm lục địa Đại dương Thế
giới có giá trị kinh tế to lớn, là nơi khai thác dầu khí, phát hiện những mỏ phốt phát,
quặng kim loại và tập trung phần lớn sản lượng đánh bắt cá và hải sản. Đồng thời thềm
lục địa liên quan trực tiếp với hàng hải và mọi hoạt động kỹ thuật khác của các dân tộc.
- Sườn lục địa là phần dưới nước của lục địa, nằm ở độ sâu từ khoảng 200 m đến
khoảng 2500 m. Nơi đây đáy biển có độ dốc lớn hơn ở thềm lục địa, tới 4-7 o, đôi khi tới
13-14o, thậm chí 20-40o, tức gần như độ dốc của sườn núi trên đất liền, do đó tại đây tính
chất của sóng biển, hướng dòng chảy biển thay đổi. Sườn lục địa có thể thể hiện dưới

dạng một dải nghiêng đều hoặc có tính chất từng bậc, làm thành những bình nguyên dưới
nước. Nét tiêu biểu của các sườn lục địa – tồn tại các hẻm (canhiôn), đó là những rãnh
sâu cắt xuyên sườn lục địa, dạng chữ V, sâu tới 1-2 km, dài vài trăm km, bề ngoài giống
các hẻm lớn trên lục địa. Đỉnh của các canhiôn thường phân nhánh và rất giống các thung
lũng sông. Các canhiôn cắt xuyên sườn lục địa, ăn sâu vào thềm lục địa, có khi vào cả đới
bờ của biển.

13


- Chân lục địa – miền bình nguyên khổng lồ gồm các đá trầm tích terigen dày tới
3.5 km, có đặc điểm là mặt nghiêng, dạng sóng thoải, bề rộng kể từ biên với sườn lục địa
ra tới vùng nước sâu của đại dương bằng khoảng vài trăm km. Thềm lục địa, sườn lục địa
và chân lục địa có cấu tạo địa chất giống nhau, cả ba làm thành rìa ngập nước của lục địa.
Vỏ Trái Đất nơi đây thuộc loại lục địa, tức gồm lớp tương đối xốp đá trầm tích, sau đến
lớp granít cứng và sau nữa là lớp bazan cứng hơn. Dưới nữa là mantia gồm đá cứng hơn
nữa. Ở chân lục địa, độ dày của vỏ lục địa vào khoang 5-10 km. Nơi đây bắt đầu chuyển
tiếp sang loại vỏ đại dương không có granít.
- Đới chuyển tiếp với 8.5 % tổng diện tích, rất tiêu biểu ở tây Thái Bình Dương
với các dạng địa hình như sau: kế cận với rìa lục địa dưới nước là lòng chảo biển ven
(Nhật Bản, Ôkhôt, Bêrinh) – sau đó là miền nâng cao nhưngg hẹp làm thành vòng cung
đảo – cuối cúng là rãnh nước sâu. Ở các vùng khác, đới chuyển tiếp có thể chỉ gồm một
hoặc hai dạng địa hình trong số trên, chẳng hạn ở đông Thái Bình Dương chỉ đặc trưng
bằng một dạng địa hình rãnh sâu, còn các dãy núi trẻ trên đất liền (như dãy Ăngđơ) đóng
vai vòng cung đảo. Địa hình của các lòng chảo biển ven có dáng của các đồng bằng với
những bậc gờ, những núi dưới nước, những thung lũng và những gò đất dưới nước. Vòng
cung đảo là miền nâng định hướng thành tuyến dài bị chia cắt bởi những đứt gãy ngang
với hoạt động núi lửa và động đất mãnh liệt.
- Đáy đại dương chiếm 68 % diện tích còn lại của toàn diện tích Đại dương Thế
giới. Vùng này cũng có cấu tạo hết sức phức tạp, có thể còn hơn cả địa hình lục địa. Yếu

tố địa hình lớn nhất của long đáy đại dương là những lòng chảo đại dương với độ sâu từ
4-4.5 km đến 6-7 km được ngăn cách với nhau bởi những dãy núi dưới nước và những
miền nâng, những cao nguyên dưới nước, gọi là thành long chảo đại dương. Những dãy
núi dưới nước liên kết với nhau thành chuỗi dài gần 80 nghìn km qua tất cả các đại
dương được gọi là những dãy núi giữa đại dương và là một dạng địa hình lớn độc lập.
- Các lòng chảo đại dương là những vùng rộng lớn, thấp, khá phẳng và đồng điệu
với độ dốc nhỏ hơn 0.1% nghiêng về phía tâm đại dương. Dạng bình nguyên nay ngự trị
ở vùng đáy Bắc Băng Dương, Đại Tây Dương và một phần Ấn Độ Dương. Tuy nhiên, ở
Thái Bình Dương lại tiêu biểu dạng địa hình đồi dưới sâu: tại đáy các lòng chảo đại
dương phát hiện thấy những miền nâng độc lập định hướng khác nhau, cao từ vài chục
đến vài trăm mét, đường kính từ vài trăm đến vài km. Những đồi này cấu tạo từ đá núi
lửa và có lớp phủ trầm tích. Một số đồi có dạng núi cao nhô lên khỏi mặt đại dương hoặc
tạo thành đảo.
- Những miền nâng dưới nước, những cao nguyên đại dương là những dạng địa
hình dương cỡ lớn ở đáy đại dương, không liên quan tới những dãy núi giữa đại dương.
Đó là những cao nguyên rộng lớn nhưng không cao lắm (vài trăm mét) hoặc những dãy
núi định hướng theo những hướng khác nhau cũng như những ngọn núi dưới nước đứng
14


riêng lẻ và những gaiôt – núi đỉnh phẳng dạng chóp cụt. Đỉnh của những dạng địa hình
này ở thấp dưới mặt nước đại dương đến 2 km. Chúng có thể là những đảo núi lửa đã bị
chìm hay những đảo atôn san hô chìm (ở nhiệt đới).
- Những dãy núi giữa đại dương. Như trên đã nói, các dãy núi giữa đại dương là
một hệ thống thống nhất bao trùm toàn bộ hành tinh chúng ta với độ trải dài phi thường
và chiếm một diện tích so sánh được với diện tích các đại lục. Độ cao đạt tới 2-3 km trên
mực đáy đại dương. Trên bình đồ hình dáng của hệ thống này như sau: ở nam bán cầu tại
đới giữa 40o và 60o vĩ độ Nam tồn tại một vòng gần kín những khối nâng dưới nước bao
quanh châu lục Nam Cực.
1.1.3.2. Trầm tích đáy đại dương

Đáy đại dương và biển là nơi liên tục tích tụ vật liệu lắng đọng. Trầm tích đáy, tùy
thuộc nguồn gốc xuất sinh, có thể gồm những nhóm:
- Trầm tích terigen hình thành từ những sản phẩm lục địa do phá hủy cơ học và
hóa học đất đá bờ, các dòng sông mang ra rồi được dòng chảy mang đi rất xa, có thể tới
những nơi xa nhất ở đại dương, những sản phẩm nhiều cỡ hạt do băng hà mang vào đại
dương, bụi do gió cuốn đi cùng những bào tử phấn hoa của thực vật cổ;
- Trầm tích biogen gồm những mảnh vụn thực và động vật sống ở đáy biển, chủ
yếu vùng nước nông ven bờ. Ở những nơi sâu chỉ gồm những mảnh động thực vật sống ở
gần mặt, trong lớp nước có ánh sáng. Phần lớn xác phù du sinh vật hòa tan trong khi
chìm, chỉ phần khó hòa tan chứa canxi và silic mới đạt đáy biển sâu. Theo tên gọi của các
cơ thể mà những mảnh vụn của chúng có nhiều trong bùn, người ta phân chia thành bùn
glôbigerina, pterôpôđa, kôcôlita, rađiolaria và điatômê;
- Trầm tích vulcanôgen gồm những tàn than, bụi và những sản phẩm phún xuất
khi núi lửa hoạt động, những phần tử mài mòn bờ đảo núi lửa v.v...;
- Trầm tích hêmôgn là những thành tạo khoáng vật xuất hiện do bão hòa các chất
tan, những kết hạch sắt – mangan ở đáy biển;
- Trầm tích côsmôgen được gặp ít hơn, dưới dạng những viên bi nhỏ chứa sắt từ,
silicat từ vũ trụ đi vào biển.
Kích thước hạt của các trầm tích đáy biển biến đổi trong một dải rộng: đá tảng
(đường kính lớn hơn 20 mm), đá dăm (20-2 mm), cát hạt lớn (2-0.5 mm), cát hạt vừa
(0.5-0.2 mm), cát hạt mịn (0.2-0.1 mm), cát bụi (0.1-0.02 mm), á sét (0.02-0.002 mm) và
sét (nhỏ hơn 0.002 mm) tùy thuộc vào tốc độ chìm lắng của các hạt và tốc độ di chuyển
các hạt theo đáy biển do hải lưu gây nên.
Ở vùng thềm và sườn lục địa cỡ hạt biến đổi mạnh từ nơi này đến nơi khác, phụ
thuộc vào độ sâu biển, tốc độ hải lưu, độ lớn triều, tính chất đá bờ v.v... Ở đáy sâu của đại
dương các hạt đều đặn hơn. Cũng có thể nói như vậy về thành phần hóa học của trầm tích

15



đáy: các trầm tích nước nông thì đa dạng hơn, còn các trầm tích nước sâu – đồng nhất
hơn.
Quy luật chung của sự phân bố bùn đáy là ở gần bờ tích tụ những trầm tích hạt lớn
như đá tảng, cuội, cát, cát bùn, lẫn với vỏ trai ốc, xa bờ xuất hiện bùn cát và cuối cùng là
bùn biển thẳm. Điều kiện vận chuyển trầm tích ở đáy, sự xói mòn, tốc độ lắng đọng, tính
chất triều lưu và sóng, nhất là địa hình đáy có thể tạo nên những phân bố dị thường: vật
liệu mảnh hạt và đều đặn tập trung ở gần đới bờ, còn trầm tích hạt thô bị mang đi xa ra
rìa bên ngoài của thềm lục địa.
1.1.3.3. Sự phân chia các vùng biển
Trong mỗi đại dương có thể tách ra các biển - đó là những vùng khá rộng của đại
dương, giới hạn bởi các bờ lục địa, các đảo, các miền nâng đáy (các ngưỡng) và có chế
độ thủy văn riêng.
Các đặc trưng trắc lượng hình thái của một số biển chính của Đại dương Thế giới.
Diện tích các biển chỉ bằng gần 10% diện tích Đại dương Thế giới, còn thể tích nước
trong đó không vượt quá 35.0 %. Biển lớn nhất là biển Koran nằm ở gần bờ tây nước Úc
(4.07 triệu km2), còn biển nhỏ nhất - Mramo, nằm giữa biển Địa Trung Hải và Hắc Hải.
Diện tích của nó chỉ bằng 12,000 km2. Độ sâu cực đại của các biển cũng nhận thấy ở biển
Koran (10,038 m). Nếu xét các độ sâu trung bình, thì biển sâu nhất là biển Sulavesi (biển
Selebes). Biển nông nhất là biển Azov, độ sâu trung bình chỉ bằng 7 m, độ sâu lớn nhất 13m.
Theo vị trí phân bố và các điều kiện địa lý tự nhiên, các biển được phân ra thành
ba nhóm chính: biển nội địa, biển ven và biển giữa các đảo.
Các biển giữa đất liền được bao bọc từ mọi phía bởi đất liền và thông với đại
dương hay biển khác bởi một hay một số eo biển. Vì vậy nét đặc trưng của những biển
này là tính đặc thù cao về các điều kiện tự nhiên, tính khép kín của hoàn lưu nước mặt và
tính biệt lập trong phân bố độ muối và nhiệt độ. Các biển giữa đất liền có thể thuộc loại
giữa các lục địa (thí dụ, Hồng Hải, Địa Trung Hải) và biển bên trong lục địa (thí dụ, biển
Bantic, Hắc Hải).
Các biển nửa kín thâm nhập khá sâu vào lục địa và tách biệt với đại dương bởi
các bán đảo hay chuỗi đảo. Dĩ nhiên là sự trao đổi nước với đại dương diễn ra tương đối
tự do hơn so với các biển giữa đất liền, tuy nhiên tính đặc thù của hoàn lưu và phân bố

các đặc trưng vật lý thủy văn vẫn được bảo toàn. Các biển nửa kín gồm biển Bering, biển
Okhot, biển Nhật Bản, những biển này ngăn cách với Thái Bình Dương bởi các chuỗi đảo
Aleut, Kurinski và Nhật Bản.
Các biển ven không thâm nhập sâu vào lục địa và phân cách với đại dương bởi
các bán đảo hoặc đảo thực tế không cản trở quá trình trao đổi nước. Đại dương và lục địa
có ảnh hưởng như nhau đối với sự phân bố của nhiệt độ, độ muối và sự hình thành hệ
16


thống dòng chảy trong các biển này. Thuộc loại biển ven có các biển ở thủy vực Bắc
Băng Dương, ngoại trừ Bạch Hải.
Biển giữa các đảo - đó là những bộ phận của đại dương được bao bọc bởi một
vòng cung đảo, các ngưỡng ngầm trong các eo giữa các đảo hầu như không cản trở sự
trao đổi nước tự do. Chế độ thủy văn trong các biển như vậy gần với chế độ đại dương,
mặc dù có thể nhận thấy những khác biệt địa phương. Các biển thuộc quần đảo Đông Ấn
Độ (Sulu, Sulavesi, Banđa...) là những biển giữa các đảo.
Vịnh - một bộ phận của biển hay đại dương hõm sâu vào đất liền, nhưng không bị
ngăn cách với đại dương hay biển bởi các đảo hoặc các ngưỡng đáy và do đó có sự trao
đổi nước tự do với những bộ phận khác của biển hay đại dương. Ranh giới phía đại
dương hay phía biển của các vịnh trong đa số các trường hợp chỉ có thể vẽ một cách quy
ước. Về kích thước, các vịnh đại dương có thể lớn hơn biển (thí dụ, vịnh Biskay, vịnh
Mêhicô, vịnh Huđzon). Tùy thuộc nguồn góc, hình dạng và cấu tạo bờ mà các vịnh được
gán những tên địa phương như vịnh, vũng, hõm, fiord, liman...).
Vũng là một vịnh không lớn, bị giới hạn với thủy vực chính bằng các đảo hay bán
đảo cản trở sự trao đổi nước tự do. Ở phía bắc nước Nga những vịnh hõm sâu vào đất liền
và thường có các sông đổ vào được người ta gọi là các hõm. Các hõm lớn nhất là Ôbi,
Đvina, Onhega, Penzin...
Liman - phần cửa của các thung lũng sông bị biển tràn ngập do quá trình lún yếu
của lục địa. Liman thường gặp ở bờ các biển phương bắc, trên đảo Sakhalin, ở biển Azov
và Hắc Hải.

Lagoon - là thủy vực không sâu, ngăn cách với biển do quá trình lắng đọng trầm
tích dưới dạng doi cát ven bờ và nối với biển bằng một eo hẹp hay một vùng biển giữa
lục địa và rạn san hô.
Khác với các lục địa, trong Đại dương Thế giới nhận thấy ba dạng phân đới tự
nhiên: phân đới vĩ độ, phân đới phương thẳng đứng và phân đai bao quanh lục địa. Mức
độ biểu lộ những dạng phân đới này không như nhau và phụ thuộc vào vĩ độ địa lý, phân
bố độ sâu, tính chất tương tác với các nhân tố lục địa và những nhân tố khác. Tổng quát
nhất vẫn là phân đới vĩ độ, là một bộ phận cấu thành của tính đới khí hậu vĩ độ trên mặt
trái đất. Nó biểu hiện rõ nhất trong lớp tựa đồng nhất bề mặt đại dương và chủ yếu được
gây nên bởi lượng nhiệt bức xạ tới.
Càng xuống sâu, phân bố của các đặc trưng sẽ trở nên đều hơn, kết quả là số đới vĩ
độ đồng nhất sẽ giảm và sự khác biệt giữa chúng cũng giảm. Nước lớp sâu ở tất cả các
đại dương, kể cả ở các vùng cực lẫn ở các vùng nhiệt đới, không còn khác biệt nhau
nhiều về các đặc trưng của mình nữa. Tính đới theo phương thẳng đứng (phân tầng) trong
đại dương thực chất là sự phân chia bề dày nước đại dương thành các dải cấu trúc, bên
trong mỗi dải sự phân bố của các đặc trưng hải dương học cơ bản được xem là đồng nhất.
17


Phân đai bao quanh lục địa được nghiên cứu ít nhất. Đai bao quanh lục địa được
qui định bởi mức độ liên hệ của các quá trình diễn ra trong đại dương với những tác động
trực tiếp hay gián tiếp của các nhân tố lục địa. Giá trị sinh thái học và địa hóa học của đai
bao quanh lục địa ngang bằng, hoặc đôi khi thậm chí vượt trội giá trị của các dạng phân
đới khác. Ảnh hưởng của các lục địa tới những quá trình thủy văn biểu lộ rõ nhất ở đai
thềm lục địa trải rộng tới độ sâu 150-200 m. Chiều rộng của thềm và diện tích thềm
chiếm chỗ ở các vùng đại dương khác nhau không như nhau. Chiều rộng trung bình của
đai thềm lục địa gần các bờ lục địa và các đảo bằng gần 80 km, mặc dù ở một số vùng bờ
nó vượt quá 500 km. Giá trị to lớn của thềm lục địa dẫn tới chỗ gần đây đã hình thành
một hướng khoa học mới và phát triển rất nhanh - hải dương học các vùng nước ven bờ.
1.2. Vị trí địa lý và vai trò của Biển Đông đối với vùng ven biển Việt Nam

1.2.1. Vị trí địa lý
Biển Đông, tên quốc tế là South China Sea (Nam Trung Hoa hay Hoa Nam) nằm ở
phía tây của Thái Bình Dương, là một biển ven đại dương tương đối kín. Biển Đông được
bao bọc bởi các đảo và quần đảo kèo dài từ Đài Loan, qua Philippin ở phía đông; đến
Borneo (Calimantan) ở Đông Nam và Sumatra ở phía Nam. Các phía bắc, tây-bắc, tây và
tây-nam, Biển Đông bị giới hạn bởi các phần lục địa châu á bao gồm bờ Nam đại lục
Trung Hoa, bán đảo Đông Dương và bán đảo Malaca.
Theo định nghĩa của Tổ chức Thủy đạc quốc tế, đường ranh giới cực bắc của Biển
Đông là đường nối điểm cực bắc của đảo Đài Loan đến lục địa Trung Hoa, gần vị trí vĩ
độ 25010'N, ranh giới phía cực nam của biển là vùng địa hình đáy bị nâng lên giữa các
đảo Sumatra và Borneo (Kalimantan) gần vĩ độ 3o00'S. Có 9 quốc gia nằm ven bờ Biển
Đông đó là Việt Nam, Trung Quốc, Philippin, Inđônêxia, Brunây, Malayxia, Xingapo,
Thái Lan và Cămpuchia. Diện tích Biển Đông khoảng 3,400,000km 2, độ sâu trung bình
khoảng 1140m và độ sâu cực đại khoảng 5016m.

18


Hình 10. Biển Đông và các biển kế cận
Biển Đông có khả năng trao đổi nước với các biển và các đại dương lân cận qua
các eo biển với mức độ trao đổi nước rất khác nhau. Biển Đông giao lưu với ấn Độ
Dương về phía Nam thông qua eo biển Karimata đi qua biển Java và eo biển Malaca.
Phía bắc Biển Đông giao lưu với biển Hoa Đông qua eo biển Đài Loan rộng 100 hải lý,
độ sâu lớn nhất là 70m. Về phía đông-bắc Biển Đông kết nối thuận lợi với Thái Bình
Dương qua eo biển Bashi (Luzon). Eo Bashi có bề rộng hơn 400 hải lý với độ sâu lớn
nhất đạt trên 5000m. Về phía đông-nam Biển Đông nối với Biển Sulu thông qua eo biển
sâu Mindoro cũng như một số eo biển hẹp khác thông qua quần đảo Philipin và Palawan.
Việt Nam có bờ biển dài 3260 km, tính trung bình cứ 100 km 2 đất liền thì có 1 km
bờ biển, là nước có tỷ lệ chiều dài bờ biển so với đất liền vào loại cao nhất thế giới, trong
khi đó trên thế giới trung bình cứ 600 km 2 diện tích đất liền mới có 1 km bờ biển. Việt

Nam có 28/61 tỉnh thành tiếp giáp với biển, vùng biển chủ quyền của Việt Nam rộng
khoảng một triệu kilomét vuông, gấp 3 lần diện tích đất liền.
Biển Đông có hai vịnh lớn là vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan. Vịnh Bắc Bộ (còn
được gọi là vịnh Tonkin) nằm ở phía tây-bắc của biển, bề ngang rộng từ 105 o36E đến
109o55E nằm trải dài từ vĩ tuyến 17 oN đến vĩ tuyến 21oN, diện tích khoảng 160,000 km 2,
19


chu vi khoảng 1,950 km, trong đó phía bờ Việt Nam là 740 km, chiều dài vịnh là 496 km,
nơi rộng nhất là 314 km.
Vịnh Bắc Bộ được bao bọc bởi bờ biển miền Bắc Việt Nam ở phía tây, bờ biển
nam Trung Quốc ở phía bắc và đông bắc trong đó có bán đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam.
Bờ biển khúc khuỷu với nhiều đảo lớn nhỏ, tập trung chủ yếu ở phía ven bờ Việt Nam.
Đặc biệt đảo Bạch Long Vĩ thuộc thành phố Hải Phòng nằm khoảng giữa vịnh với diện
tích 2.5 km2 cách bờ biển Việt Nam khoảng 110 km. Đảo Hải Nam là đảo lớn nhất trong
số các đảo thuộc Biển Đông, tuy nhiên do bị chia cắt với lục địa Trung Hoa với một eo
biển rất hẹp nên khi mô tả Biển Đông thông thường được xem là giới hạn đường bờ.
Vịnh Thái Lan nằm sâu vào phía bờ tây nam của Biển Đông có bốn quốc gia là
Việt Nam, Cămpuchia, Thái Lan và Malaisia bao quanh với đường bờ dài khoảng 2,300
km và diện tích 293,000km2. Vịnh có chiều dài lớn nhất là 628 km và là một vịnh nông,
nơi sâu nhất là 80m, trung bình là 60m, không có nhiều đảo như Vịnh Bắc Bộ, nhưng lại
có nhiều đảo lớn, như đảo Phú Quốc rộng hơn 568 km2 là đảo lớn nhất ven bờ Việt Nam.
Bên cạnh hai vịnh lớn và nông, Biển Đông còn có hai phần thềm lục địa khá rộng
gần như tách rời nhau qua vùng biển sâu ven bờ Trung Bộ Việt Nam. Thềm lục địa tây
bắc Biển Đông kéo dài từ cửa vịnh Bắc Bộ đến eo Đài Loan có bề rộng chỉ khoảng 200
hải lý có các đường đẳng độ sâu hầu như song song với đường bờ biển đông nam Trung
Quốc. Hầu như phần lớn vùng biển tây nam Biển Đông nằm trong khu vực thềm lục địa
Sunda kéo dài từ bờ biển Đông Nam Bộ và cửa vịnh Thái Lan đến tận biển Java và
Calimantan.
Ngoài khơi Biển Đông có hai quần đảo lớn đó là Hoàng Sa (Paracel) và Trường Sa

(Spratly), bên cạnh ý nghĩa địa chính trị, còn có ý nghĩa hết sức quan trọng trong sự hình
thành và biến động của các trường thủy văn và động lực biển.
Với những đặc điểm chung vừa nêu, có thể thấy về mặt vị trí địa lý Biển Đông
nằm gọn trong vành đai nhiệt đới xích đạo có mối liên quan trực tiếp với cả Thái Bình
Dương lẫn ấn Độ Dương cũng như hàng loạt các biển thuộc quần đảo Indonesia. Xét về
mặt địa hình, Biển Đông là một biển có địa hình hết sức phong phú trong bao gồm các
vịnh nông, thềm lục địa và cả phần biển sâu chiếm gần 50% diện tích.

20


Hình 11. Bản đồ địa hình Biển Đông
1.2.2. Vai trò của Biển Đông đối với vùng ven biển Việt Nam
Biển Đông đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam cả trong lịch sử, hiện tại và tương lai. Biển Đông không những cung cấp nguồn
lợi thủy hải sản, mà còn là cửa ngõ để Việt Nam phát triển các ngành kinh tế, giao
thương với thị trường khu vực và quốc tế, là nơi trao đổi và hội nhập với nhiều nền văn
hóa.
1.2.2.1. Vai trò kinh tế
Biển Đông đã tạo điều kiện để Việt Nam phát triển những ngành kinh tế mũi nhọn
như thủy sản, dầu khí, giao thông hàng hải, đóng tàu, du lịch… Điều kiện tự nhiên của bờ
biển Việt Nam đã tạo ra tiềm năng vô cùng to lớn cho ngành giao thông hàng hải Việt
Nam.
Biển Đông cung cấp nguồn lợi hải sản rất quan trọng. Theo các điều tra về nguồn
lợi thủy hải sản, tính đa dạng sinh học, trong vùng biển nước ta đã phát hiện được khoảng
11,000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình thuộc 6 vùng đa dạng
sinh học biển khác nhau. Trong đó có 6.000 loài động vật đáy, 2,400 loài cá (trong đó có
21



130 loài cá kinh tế), 653 loài rong biển, 657 loài động vật phù du, 537 loại thực vật phù
du, 225 loài tôm biển… Trữ lượng cá biển ước tính trong khoảng 3.1-4.1 triệu tấn, khả
năng khai thác là 1.4-1.6 triệu tấn.
Bên cạnh đó, diện tích nuôi trồng thủy sản của Việt Nam khoảng 2 triệu héc-ta với
3 loại hình nước ngọt, nước lợ và vùng nước mặn ven bờ. Giá trị xuất khẩu hải sản
khoảng 5 tỷ USD/năm, là 1 trong 10 nước có kim ngạch xuất khẩu hải sản đứng đầu thế
giới. Ngoài ra, với 48 vũng, vịnh nhỏ và 12 đầm, phá ven bờ, khoảng 1.120km rạn san
hô, 252.500ha rừng ngập mặn, cùng các thảm cỏ biển phân bố từ Bắc vào Nam... hệ sinh
thái ven biển Việt Nam còn có các loại động vật quý khác như đồi mồi, rắn biển, chim
biển, thú biển, hải sâm… Với tiềm năng trên, chúng ta có thể phát triển ngành nuôi trồng,
đánh bắt, chế biến hải sản một cách quy mô, toàn diện và hiện đại tạo ra nguồn xuất khẩu
có giá trị kinh tế cao.
Dầu khí là nguồn tài nguyên lớn nhất ở thềm lục địa Việt Nam có tầm chiến lược
quan trọng. Đến nay, người ta đã xác định được nhiều bể trầm tích như các bể Cửu Long,
Nam Côn Sơn, bồn trũng Sông Hồng, bồn trũng Thổ Chu và vùng thềm lục địa DK1...
được đánh giá có triển vọng dầu khí lớn nhất và khai thác thuận lợi. Tổng trữ lượng dự
báo địa chất của toàn thềm lục địa Việt Nam xấp xỉ 10 tỷ tấn dầu quy đổi, trữ lượng khai
thác 4-5 tỷ tấn. Trữ lượng khí dự báo khoảng 1.000 tỷ m3. Bên cạnh nguồn dầu khí, biển
Việt Nam còn có nhiều loại khoáng vật, sa khoáng có giá trị cao, trữ lượng lớn như:
Crôm, vàng, urani, photphorit, titan, than, sắt, mangan, cát thủy tinh, nước nặng…
Vùng biển nước ta án ngữ tuyến đường hàng hải quốc tế huyết mạch nối Thái
Bình Dương với Ấn Độ Dương; nối châu Âu, châu Phi, Trung Đông với Đông Á và
Đông Nam Á, là cầu nối quan trọng để phát triển thương mại và mở rộng giao lưu giữa
các nước trong khu vực và trên thế giới, là 1 trong 10 tuyến đường biển lớn nhất thế giới,
giao thông trên biển nhộn nhịp thứ 2 thế giới (sau Địa Trung Hải), hàng ngày có từ
3.000-3.500 tàu có tải trọng trên 5.000 tấn đi qua, chiếm 1/4 lưu lượng hàng hóa vận
chuyển bằng đường biển của thế giới. Ngoài ra, dọc bờ biển nước ta có hơn 80 cảng biển,
trong đó có nhiều nơi có khả năng xây dựng cảng nước sâu như: Cái Lân, Hải Phòng,
Nghi Sơn, Hòn La, Vũng Áng, Chân Mây, Đà Nẵng, Dung Quất, Vân Phong, Cam Ranh,
Vũng Tàu, Thị Vải... với năng lực thông quan hàng hóa qua cảng đạt khoảng 200 triệu

tấn/năm nên đường biển từ lâu đã trở thành con đường vận tải quan trọng của Việt Nam
trong việc giao thương hàng hóa trong nước và trên thế giới.
1.2.2.2. Vai trò phát triển du lịch
Biển Việt Nam đã cho thấy nhiều điều kiện để phát triển du lịch, ngành công
nghiệp không khói, hiện đang đóng góp không nhỏ vào nền kinh tế của đất nước. Do đặc
điểm kiến tạo khu vực, các dãy núi đá vôi vươn ra sát biển đã tạo nhiều cảnh quan thiên
nhiên sơn thủy rất đa dạng, nhiều vũng, vịnh, bãi cát trắng, hang động, các bán đảo và
22


các đảo lớn nhỏ liên kết với nhau thành một quần thể du lịch hiếm có trên thế giới như di
sản thiên nhiên Hạ Long được UNESCO xếp hạng. Các thắng cảnh trên đất liền nổi tiếng
như Phong Nha, Bích Động, Non Nước,… các di tích lịch sử và văn hóa như cố đô Huế,
phố cổ Hội An, tháp Chàm, nhà thờ đá Phát Diệm… đều được phân bố ở vùng ven biển.
Tiềm năng du lịch kể trên rất phù hợp để Việt Nam phát triển và đa dạng các loại
hình du lịch hiện đại như nghỉ ngơi, dưỡng bệnh, tắm biển, du lịch sinh thái, nghiên cứu
khoa học vùng ven bờ, hải đảo, đáy biển, du lịch thể thao, có thể tổ chức các giải thi đấu
thể thao quốc gia và quốc tế quanh năm, dịch vụ hội nghị, hội thảo trong nước và quốc tế.
1.2.2.3. Vai trò về an ninh quốc phòng
Xét về mặt an ninh quốc phòng, biển Đông đóng vai trò quan trọng là tuyến phòng
thủ hướng đông của đất nước. Biển, đảo nước ta được xem như sân trước, như cửa ngõ
quốc gia, hình thành phên dậu, chiến lũy nhiều lớp, nhiều tầng, có vị trí đặc biệt quan
trọng như một tuyến phòng thủ tiền tiêu bảo vệ sườn phía đông của đất nước. Đặc biệt là
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có ý nghĩa phòng thủ chiến lược rất quan trọng.

23


CHƯƠNG 2. CÁC NHÂN TỐ HÌNH THÀNH, ĐẶC ĐIỂM, TÍNH CHẤT KHÍ
TƯỢNG HẢI VĂN VÀ MÔI TRƯỜNG BIỂN (12 tiết)

2.1. Thành phần hóa học và tính chất vật lý của nước biển
2.1.1.Thành phần hóa học của nước biển
Nhiều tính chất vật lý và hóa học của nước tự nhiên là do cấu trúc phân tử nước
gây nên. Phân tử nước không đối xứng: ba hạt nhân làm thành một tam giác cân với hai
hạt nhân hyđrô nằm ở đáy và một hạt nhân ôxy ở đỉnh.
Tùy thuộc vào trạng thái pha của nước mà cấu trúc phân tử H 2O sẽ khác nhau.
Thật vậy, hơi nước chủ yếu cấu tạo từ các phân tử đơn độc. Trong trạng thái rắn (băng)
cấu tạo nước trở nên có sắp xếp trật tự. Trong các tinh thể băng những phân tử nước làm
thành một hệ thống lục giác với các liên hệ hyđrô bền vững. Cấu trúc như vậy rất xốp.
Nước ở trạng thái lỏng giữ vị trí trung gian giữa hơi nước và băng, trong đó vẫn bảo tồn
các yếu tố cấu trúc khung phân tử “giống băng”, còn các chỗ trống thì được làm đầy một
phần bởi các phân tử đơn độc. Vì vậy “sự xếp đặt” các phân tử trong nước lỏng đã gọn
chặt hơn so với băng, và sự nóng chảy của băng không làm giảm, mà làm tăng mật độ
nước một cách “dị thường”.
Cấu tạo phân cực của nước và điện trường xuất hiện trong nước gây nên độ thấm
điện môi cao của nước - một đại lượng cho biết các lực tương tác của các điện tích khi
chúng ở trong nước sẽ giảm đi bao nhiêu lần so với các lực tương tác đó khi ở trong chân
không. Độ thấm điện môi cao của nước làm cho nó có khả năng ion hóa cao, tức khả
năng phân tách các phân tử của những chất khác. Điều này có nghĩa rằng nước là một
chất hòa tan mạnh. Mỗi phân tử nước có một điện tích dương và hai điện tích âm có khả
năng tạo thành bốn mối liên kết hyđrô, tức mối liên kết của một nhân hyđrô tích điện
dương (proton) liên hệ hóa học trong một phân tử, với một nguyên tử ôxy tích điện âm
thuộc một phân tử khác.
Nước biển không phải là nước tinh khiết, trong nó còn có chứa các muối hòa tan,
các chất khí trong khí quyển hòa tan, các hợp chất hữu cơ và các hạt lơ lửng không hòa
tan. Thông qua các quá trình trao đổi nước – khí quyển tự nhiên, các chất được trao đổi
liên tục.
Như vậy là kể cả oxy và hyđro, trong nước biển có 13 nguyên tố có mặt với khối
lượng đáng kể nhất, chúng được gọi là những nguyên tố cơ bản trong thành phần hóa học
của nước biển. Những nguyên tố khác – người ta cho rằng đó là hầu hết các nguyên tố

còn lại của bảng tuần hoàn Menđêlêep – có mặt trong nước biển với khối lượng nhỏ hơn
3 mg trong 1 kg nước biển, tức nhỏ hơn 1 ‰ tổng độ muối.
Đặc điểm nữa trong thành phần hóa học nước biển khác với nước ngọt, nước sông
là ở chỗ trong nước biển tương quan trọng lượng giữa các ion chủ yếu nhất trái ngược với
tương quan đó trong nước sông.
24


Trong nước biển:

Trong nước sông:

Trong tự nhiên, các quá trình trao đổi hóa học, sinh học và địa chất học làm biến
đổi thành phần hóa học và hàm lượng các chất hòa tan. Những quá trình động lực như
dòng chảy từ lục địa, giáng thủy, bay hơi, quá trình băng làm thay đổi nồng độ dung dịch
nước biển trên phạm vi rộng lớn. Có thể lấy một ví dụ, độ muối của vùng nước cửa sông
có thể bằng 0‰, hoặc một số nơi độ muối có thể đạt đến 40‰.
Ngay trong nước biển, thành phần của nó cũng có thể bị thay đổi do quá trình
quang hợp, hô hấp, phân hủy chất hữu cơ có thể làm thay đổi hàm lượng, tức tỷ lệ giữa
các chất hòa tan. Đồng thời, nhờ có dòng chảy theo phương ngang và phương đứng, nên
các chất hòa tan được xáo trộn mạnh và làm cho thành phần nước đại dương có tính ổn
định, thay đổi không lớn trong thời gian dài.
2.1.2. Tính chất vật lý cơ bản nước biển
Tính chất vật lý của nước biển phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có nhiệt độ, áp
suất, nồng độ muối và một số yếu tố khác. Phần này sẽ đề cập lần lượt đến các yếu tố ảnh
hưởng đến tính chất vật lý của nước biển.
2.1.2.1. Mật độ
Khái niệm: Mật độ nước biển là tỷ số của trọng lượng một đơn vị thể tích nước ở
nhiệt độ quan trắc toC trên trọng lượng đơn vị thể tích nước cất ở 4 oC. Mật độ được quy
ước là σ, trong đó, σ được tính theo công thức


(Công thức 1)
Giá trị của mật độ nước biển được xác định qua giá trị của trọng lượng riêng nước
biển ở nhiệt độ 17.5oC, S(17.5/17.5), hoặc ở 0oC, S(0/4) (Nhiệt độ 17.5oC là nhiệt độ
trong phòng thí nghiệm, còn nhiệt độ 4oC mà nước có tỷ trọng nước cực đại).
2.1.2.2. Thể tích riêng
Thể tích riêng của nước biển được ký hiệu là Vt, được xác định theo công thức:

(Công thức 2)

25


×