1
MỞ ĐẦU
2
Uỷ ban pháp luật là một trong những cơ quan của Quốc hội có chức
năng nhiệm vụ tham mưu cho Quốc hội trong công tác lập pháp, giám sát và
1. Tính cấp thiết của đề tài
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, Uỷ ban pháp luật phải được
Sau khi Cách mạng thành công, nhân dân các bộ tộc Lào dưới sự lãnh
nâng cao chất lượng về tổ chức và hoạt động nhằm làm tốt chức năng nhiệm
đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào giành được quyền làm chủ đất nước
vụ của mình, làm sáng tỏ, phát huy những giá trị của dân chủ đại diện, đảm
và trong ngày mồng 2 tháng 12 năm 1975 đã thành lập nước Cộng hòa Dân
bảo quyền lực thuộc về nhân dân.
chủ Nhân dân (CHĐCN) Lào. Đó là nhà nước kiểu mới - Nhà nước pháp
Vì vậy, nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn để tiếp tục nâng cao chất
quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực
lượng hoạt động của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội nước Cộng hòa Dân chủ
thuộc về nhân dân.
Nhân dân Lào là đòi hỏi cấp bách cả phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Bởi
Để đảm bảo quyền làm chủ đất nước của nhân dân các bộ tộc Lào và
đáp ứng những yêu cầu mới trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng và Nhà
nước rất quan tâm đến vấn đề nâng cao chất lượng hoạt động các cơ quan
quyền lực nhà nước (quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp). Quốc hội là một
trong ba quyền lực đó. Quốc hội có chức năng và vị trí rất quan trọng. Quốc
hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và pháp luật, quyết định
những vấn đề quan trọng của đất nước và có quyền giám sát tối cao đối với
toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Theo chủ trương và đường lối của Đảng Nhân dân Cách mạng
(NDCM) Lào là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN)
của dân, do dân và vì dân, từng bước quản lý nhà nước bằng pháp luật, yêu
cầu đó đòi hỏi phải kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao chất
lượng hoạt động của Quốc hội, trong đó chức năng lập pháp phải được đẩy
mạnh hơn nữa để đáp ứng yêu cầu mới của Đảng và Nhà nước, để thể hiện
chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật phù hợp với đời sống xã hội
hiện nay.
vậy, tác giả lựa chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng hoạt động của Uỷ ban
pháp luật của Quốc hội nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay vấn đề nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội nói
chung và nâng cao chất lượng hoạt động của Uỷ ban pháp luật nói riêng đã và
đang được các nhà nghiên cứu khoa học Lào và Việt Nam quan tâm đến,
nhưng vấn đề này ở Việt Nam không phải là vấn đề mới vì có nhiều nhà nghiên
cứu khoa học nghiên cứu từ lâu. Ở Lào, vấn đề này là vừa được nghiên cứu
chính thức chỉ là một số công trình nghiên cứu khoa học đề cập đến trong vài
năm vừa qua.
Những công trình khoa học nghiên cứu đến đề tài này như sau:
- Tổ chức và hoạt động của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Nxb. CTQG, năm 1993.
- Quyền giám sát tối cao của Quốc hội, luận án tiến sỹ (1995) của
Phạm Ngọc Kỳ, Viện Nhà nước và pháp luật.
- Nhân dân lao động thực thi quyền lực chính trị thông qua cơ quan
dân cử của Nguyễn Viết Bé, Nxb. CTQG, Hà Nội năm 1998.
3
- Chức năng lập pháp của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, luận văn thạc sỹ (1998) của Phạm Thị Tình, trường Đại học Luật
Hà Nội.
- Hoàn thiện quy trình xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng của
đất nước trong hoạt động của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, luận văn thạc sỹ (2001) của Nguyễn Quốc Thắng, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Đổi mới tổ chức bộ máy Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, luận văn thạc sỹ (2001) của Trần Thị Thanh Mai, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nâng cao chất lượng và hiệu lực của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội
nước CHXHCN Việt Nam, luận văn thạc sỹ (2002) của Nguyễn Thị Dung,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Tăng cường vai trò của Quốc hội trong việc đảm bảo quyền lực chính
trị của nhân dân lao động ở nước CHDCND Lào, luận văn thạc sỹ (2004) của
Xải U Phun Xả Ly, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nhìn chung những công trình trên đã đề cập đến khía cạnh của hoạt
động Uỷ ban pháp luật của Quốc hội, tiếp thu những kết quả đó, luận văn
nghiên cứu một cách hệ thống toàn diện vấn đề nâng cao chất lượng hoạt
động của Quốc hội theo định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
của dân, do dân và vì dân.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Luận văn có mục đích nghiên cứu cả lý luận và thực tiễn về tổ chức và
hoạt động của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội, đề xuất những phương hướng
4
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc nâng cao chất lượng hoạt động của
Uỷ ban pháp luật của Quốc hội.
- Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của Uỷ ban pháp luật của
Quốc hội trong công cuộc đổi mới hiện nay.
- Đề xuất những phướng hướng và giải pháp tiếp tục nâng cao chất
lượng hoạt động của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu luận văn là hoạt động của Uỷ ban pháp luật của
Quốc hội nước CHDCND Lào.
- Thời gian xem xét chủ yếu là từ năm 2002 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, chủ trương đường lối đổi mới
của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào.
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của
triết học Mác Lênin, phương pháp lôgíc kết hợp với lịch sử, phương pháp
phân tích và tổng hợp, khảo sát thực tiễn so sánh, điều tra xã hội học…
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Đánh giá rõ thực trạng chất lượng hoạt động của Uỷ ban pháp luật của
Quốc hội nước CHDCND Lào hiện nay.
- Đưa ra một số giải pháp chủ yếu, cần thiết có tính khả thi nhằm nâng cao
chất lượng hoạt động của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội nước CHDCND Lào.
7. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội, góp
Luận văn sẽ góp phần hoàn thiện về phương diện lý luận về việc nâng
phần vào việc tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do
cao chất lượng hoạt động của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội nước CHDCND
dân và vì dân ở nước CHDCND Lào.
5
6
Lào trên cơ sở góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do
các bộ tộc Lào là chấm dứt chế độ cũ. Đại hội đã nhất trí đơn xin thoái vị của
dân và vì dân.
Vua, đơn xin giải thể Hội đồng quốc gia chính trị Liên hiệp và Chính phủ liên
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu nghiên cứu và
giảng dạy về nhà nước và pháp luật trong các trường đào tạo cán bộ của Đảng và
Nhà nước về nâng cao chất lượng hoạt động của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội.
hiệp lâm thời. Đại hội đã thông qua nghị quyết về tên Nhà nước, quốc kỳ,
quốc huy, quốc ca, ngôn ngữ và chính thức tổ chức Nhà nước [33, tr.1004].
Cơ cấu quyền lực nhà nước tối cao đầu tiên của nước CHDCND Lào
8. Kết cấu của luận văn
do Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc lần thứ nhất bầu ra và thông qua vào
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
ngày 2 tháng 12 năm 1975. Hệ thống chính trị cách mạng đầu tiên của nước
CHDCND Lào được tổ chức và hoạt động theo cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà
chương, 9 tiết.
nước quản lý, nhân dân làm chủ". Các bộ phận cấu thành trong hệ thống
Chương 1
chính trị gồm có: Đảng, Nhà nước, Hội đồng nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ
CƠ SỞ LÝ LUẬN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG
quốc Lào và các tổ chức quần chúng, trong cấu trúc đó bộ phận chiếm vị trí
CỦA UỶ BAN PHÁP LUẬT CỦA QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA
DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
quan trọng nhất là Hội đồng nhân dân (HĐND) tối cao
Cơ cấu Nhà nước đầu tiên của nước CHDCND Lào gồm có:
- Chủ tịch nước CHDCND Lào.
1.1. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA UỶ BAN PHÁP LUẬT CỦA
QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
1.1.1. Sự hình thành của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội nước Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào là đất nước có lịch sử vẻ vang trên con
đường đấu tranh chống ngoại xâm, nhiều thế hệ sinh sống có lòng yêu nước,
- Hội đồng nhân dân tối cao (Quốc hội).
- Hội đồng Bộ trưởng (Chính phủ).
Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia, là người tượng trưng cho sự
đoàn kết, thống nhất các bộ tộc Lào trên cả nước, là người thay mặt nhân dân
trong quan hệ quốc tế. Chủ tịch nước đồng thời là Chủ tịch Hội đồng nhân dân
tối cao.
hy sinh dũng cảm để giành độc lập tự do cho dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của
Dựa vào thực tiễn của đất nước, CHDCND Lào đầu tiên được tổ chức
Đảng NDCM Lào phong trào cách mạng Lào từng bước lớn mạnh, trải qua
theo quy định tại Điều 1 của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân tối cao đầu tiên
nhiều năm đấu tranh ác liệt gian khổ nhân dân Lào đã giành được độc lập tự
1978 (khi đó chưa có Hiến pháp) đã quy định:
do, từ địa vị nô lệ, nhân dân các bộ tộc Lào đã được làm chủ đất nước, lật đổ
- Quốc gia: chia thành tỉnh - thành phố;
chính quyền cũ và giành được chính quyền về tay mình. Tại Đại hội đại biểu
- Tỉnh chia thành huyện;
nhân dân toàn quốc lần thứ nhất khai mạc trọng thể tại Thủ đô Viêng Chăn từ
- Huyện: chia thành xã.
ngày mồng 1 - 2 / 12 / 1975 nhân dân Lào đã tuyên bố với thế giới sự ra đời
- Xã: chia thành làng (bản).
của nước CHDCND Lào và khẳng định ý chí và nguyện vọng của nhân dân
7
Hệ thống tổ chức Hội đồng nhân dân tối cao đầu tiên của nước
CHDCND Lào được thiết lập theo 4 cấp như sau:
8
Chủ tịch HĐND Tối cao khóa II không kiêm chức Chủ tịch nước như
khóa I, chỉ phụ trách vụ của mình đó là cơ quan lập pháp tối cao. HĐND Tối
- Hội đồng nhân dân tối cao (Quốc hội);
cao khóa II được tổ chức và hoạt động trong giai đoạn đổi mới đất nước, thực
- Hội đồng nhân dân tỉnh - thành phố;
hiện vai trò trọng yếu trong việc thể hiện hóa những chủ trương đường lối của
- Hội đồng nhân dân huyện;
Đại hội Đảng NDCM Lào lần thứ IV, HĐND Tối cao đã ban hành Hiến pháp,
- Hội đồng nhân dân xã.
Hiến pháp đầu tiên của nước CHDCND Lào và 22 đạo luật điều chỉnh các
Hội đồng nhân dân tối cao khóa I hoạt động với nhiệm kỳ đặc biệt kéo
quan hệ xã hội theo từng lĩnh vực cụ thể.
dài gần 14 năm (1975 - 1889), được tổ chức và hoạt động trong điều kiện cả
nước vừa phải hoàn thành cách mạng giải phóng, thống nhất đất nước, vừa
thực hiện từng bước cải cách dân chủ, hoàn thiện bộ máy nhà nước để góp
phần quan trọng vào thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Số đại biểu Hội đồng nhân dân tối cao (Quốc hội) khóa I được bầu gồm
45 đại biểu, trong đó có 4 đại biểu nữ, 1 Chủ tịch, 4 Phó Chủ tịch và 1 Tổng
Thư ký thường trực, 13 ủy viên thường vụ và có 3 ủy ban: ủy ban dự án hiến
pháp, ủy ban dự án nghị định sắc lệnh - Luật bầu cử và ủy ban Kế hoạch và
ngân sách; đồng thời còn có Văn phòng giúp việc Quốc hội. Với trách nhiệm
là đại biểu của nhân dân, Quốc hội thực sự trở thành nơi phản ánh mọi tâm tư,
nguyện vọng của nhân dân. Các đại biểu Quốc hội được nhân dân bầu ra thực
sự trở thành người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhân dân, thay mặt nhân
dân thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân các bộ tộc Lào.
Hội đồng nhân dân tối cao khóa II được bầu ngày 26 tháng 03 năm
1989 có số đại biểu là 79, trong đó có 5 đại biểu nữ. HĐND Tối cao khóa II
ngoài các chức danh Chủ tịch, Phó Chủ tịch còn có thêm Uỷ ban thường vụ
(UBTV) và các ban phụ trách các lĩnh vực quan trọng của đất nước trong đó
có Uỷ ban pháp luật.
Hệ thống tổ chức HĐND Tối cao khóa II được tổ chức và hoạt động
theo ba cấp như sau:
- HĐND Tối cao;
- HĐND tỉnh - thành phố;
- HĐND huyện.
HĐND Tối cao khóa I như trên đã nói được tổ chức hoạt động theo 4
cấp, bởi vì điều kiện đất nước mới giải phóng bộ máy chính quyền địa
phương vẫn giữ nguyên theo hình thức nhà nước khu giải phóng. Đến HĐND
Tối cao khóa II đã thay đổi, nhất là bỏ HĐND cấp xã.
Quốc hội nước CHDCND Lào chính thức đã ra đời vào ngày 20 tháng
12 năm 1992, gồm có 85 đại biểu, 8 đại biểu nữ, có một Chủ tịch, 2 Phó Chủ
tịch, 8 ủy viên Thường vụ và 6 ủy ban: ủy ban thư ký, ủy ban kinh tế và kế
hoạch tài chính, Uỷ ban pháp luật, ủy ban văn hóa-xã hội, ủy ban dân tộc và
ủy ban đối ngoại, đồng thời còn có Văn phòng giúp việc Quốc hội.
Quốc hội đã có những thay đổi nhất định về tổ chức và hoạt động trên
cơ sở Hiến pháp năm 1991, dựa trên thực tiễn của đất nước và phù hợp với
tinh thần đổi mới, Quốc hội đã thống nhất quyết định HĐND Tối cao 3 cấp
chuyển thành Quốc hội một cấp. Nhằm thực hiện vị trí, vai trò, và nhiệm vụ
của mình, Điều 39 Hiến pháp 1991 xác định rõ: Quốc hội là cơ quan quyền
9
lực nhà nước cao nhất, là cơ quan có quyền lập hiến, lập pháp, có quyền giám
sát tối cao và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước [34, tr.8].
Ngày 21 tháng 12 năm 1997, Quốc hội khóa IV được bầu ra gồm có 99
10
Quốc hội của bất kỳ nước nào cũng có chức năng làm luật chức năng
quyết định ngân sách, chức năng giám sát việc thực thi pháp luật và một số
chức năng khác.
đại biểu, 21 đại biểu nữ, có 1 Chủ tịch, 3 Phó Chủ tịch (1 nữ) 7 ủy viên
Qua nghiên cứu hệ thống Nghị viện các nước trên thế giới cho thấy,
thường vụ có 6 ủy ban như Quốc hội khóa III, nhưng bỏ ủy ban thư ký và
việc thành lập các ủy ban trong Nghị viện các nước thường dựa trên các bộ
thành lập thêm ủy ban quốc phòng, an ninh [32, tr.5].
tương đương của Chính phủ nhưng hầu hết Nghị viện nào cũng có những ủy
Quốc hội khóa V được bầu vào ngày 24 tháng 4 năm 2002 gồm có 109
ban chủ chốt như ủy ban về pháp luật, kinh tế, ngân sách. Ở Việt Nam, Uỷ
đại biểu, 25 đại biểu nữ, 1 Chủ tịch, có 1 Phó Chủ tịch, 7 ủy viên Thường vụ
ban pháp luật là một trong 7 ủy ban và Hội đồng dân tộc của Quốc hội, Uỷ
và có 6 ủy ban: Uỷ ban pháp luật, ủy ban kinh tế - kế hoạch và tài chính, ủy
ban pháp luật có vị trí quan trọng góp phần vào việc giúp Quốc hội, Uỷ ban
ban văn hóa xã hội, ủy ban dân tộc, ủy ban đối ngoại và ủy ban quốc phòng,
thường vụ Quốc hội hoàn thành chức năng, nhiệm vụ trong công tác lập pháp,
an ninh. Quốc hội tiếp tục thực hiện vị trí vai trò của mình trên cơ sở Hiến
giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.
pháp (1991), Hiến pháp sửa đổi năm 2003, Luật về Quốc hội năm 1993, Luật
Ở Quốc hội Trung Quốc có 8 ủy ban chuyên môn. Trong đó ủy ban luật
về Quốc hội sửa đổi năm 2003 và Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997,
pháp có vị trí quan trọng. Nghị viện Cộng hòa Pháp có Uỷ ban pháp luật phụ
phát huy những thành quả đạt được của Quốc hội các khóa trước. Quốc hội khóa
trách về các lĩnh vực luật dân sự, luật hình sự, luật xí nghiệp, đoàn thể, chính
V đã có những đổi mới đáng kể, tiến hành tương đối đồng bộ, khẩn trương và có
quyền địa phương ở cả Thượng viện và Hạ viện. Nghị viện Liên bang
hiệu quả trên quy mô rộng lớn trong nhiệm vụ và quyền hạn của mình.
Australia có các ủy ban Thượng viện nghiên cứu chi tiết các dự án luật và
1.1.2. Sự phát triển của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội nước Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào
kiểm tra tính xác thực của các bản thẩm tra dự án luật.
Nghị viện Canada có ủy ban liên hợp Thường trực, chuyên xem xét các
1.1.2.1. Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1992
nghị định của Chính phủ, có các ủy ban lập pháp để xem xét một dự án luật
Trong lịch sử Quốc hội nước CHDCND Lào, Uỷ ban pháp luật luôn
cụ thể và chấm dứt hoạt động khi dự án luật đó được gửi lại cho Hạ viện,
luôn là bộ phận cấu thành cơ cấu tổ chức của Quốc hội, cũng như Nghị viện
Nghị viện Phần Lan có ủy ban Hiến pháp và ủy ban lập pháp. Nghị viện
các nước, Quốc hội không thể hoạt động được nếu không có ủy ban chuẩn bị
Indonexia có ủy ban pháp chế và Văn phòng luật sư…
nội dung các báo cáo, tham mưu những vấn đề thuộc nội dung của các dự án
Ở CHDCND Lào HĐND tối cao (Quốc hội) khóa I đã có 2 ủy ban: ủy
luật, những vấn đề quan trọng do các cơ quan có thẩm quyền trình ra Quốc
ban dự án Hiến pháp và ủy ban dự án sắc lệnh và Luật bầu cử, chưa gọi là Uỷ
hội xem xét, thông qua. Với những nhiệm vụ chuyên môn khác nhau, mỗi ủy
ban pháp luật, cả 2 ủy ban có chức năng và nhiệm vụ tham mưu cho việc lập
ban của Quốc hội đều có chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình để tạo nên
hiến pháp, thẩm tra các sắc lệnh liên quan đến nhiệm vụ và quyền hạn của
hiệu quả hoạt động của Quốc hội.
HĐND tối cao và phổ biến chính sách của Đảng. Khi đó chức năng và nhiệm
11
12
vụ của Đảng và Nhà nước chưa phân công rõ ràng bởi vì sau khi đất nước
mọi mặt của đời sống xã hội, hệ thống chính sách đó phản ánh chính xác, khách
được giải phóng, tình hình trên đất nước chưa ổn định, nền kinh tế của Nhà
quan và phản ánh được lợi ích chung của nhân dân” [25, tr.79].
nước bị phá hủy, cơ sở vật chất thiếu thốn, nhân dân bị nghèo đói và vẫn còn
Song song với xây dựng và cải cách hệ thống chính sách, Văn kiện Đại
tàn quân của chính quyền cũ hoạt động chống lại chế độ mới. Một số nơi còn
hội cũng xác định phải thể chế hóa chính sách đó thành pháp luật. Vì nếu
có tình trạng nhân dân không hiểu biết chủ trương, đường lối của chế độ mới,
không có pháp luật thì không thể quản lý xã hội được.
Nhà nước cũng chưa kịp ban hành các đạo luật, Nhà nước đã tạm thời quản lý
Sự phát triển của xã hội đang đòi hỏi Nhà nước Lào phải xây dựng và
kinh tế - xã hội bằng các chỉ thị, thông tư, sắc lệnh và đường lối của Đảng.
không ngừng cải cách các bộ máy quản lý để đủ khả năng đáp ứng việc xây
Nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và chính quyền các cấp từ Trung ương đến địa
dựng hệ thống pháp luật. Công việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã
phương là chú trọng hai nhiệm vụ cơ bản:
hội, đào tạo và sắp xếp bộ máy cán bộ công chức, quản lý và tạo điều kiện
- Tổ chức và động viên rộng rãi, phát huy dân chủ nâng cao trình độ
quản lý mọi hoạt động của xã hội đi theo chủ trương, đường lối của Đảng.
nhận thức của nhân dân về chính trị, về tinh thần yêu nước, yêu giai cấp, yêu
Dưới sự lãnh đạo sáng suất của Đảng, cùng với chính sách đổi mới của
chế độ mới, cùng nhau xây dựng và bảo vệ chế độ Cộng hòa dân chủ nhân
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV và tình hình ổn định của đất nước trong
dân non trẻ mới được thành lập.
giai đoạn mới đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động trở lại của ủy ban
- Đấu tranh chống và trấn áp những kẻ có âm mưu phản cách mạng,
những người có tội ác to lớn đối với nhân dân, xóa bỏ tận gốc những tàn dư tệ
nạn của xã hội cũ.
dự án Hiến pháp ủy ban đã bắt đầu việc chuẩn bị cho soạn thảo bản Hiến pháp
đầu tiên của nước CHDCND Lào.
HĐND tối cao khóa II đã được thành lập Uỷ ban pháp luật trên cơ sở
Đứng trước tình hình đất nước còn có nhiều khó khăn như vậy HĐND
kết hợp 2 ủy ban là ủy ban dự án Hiến pháp và ủy ban dự án sắc lệnh và luật
tối cao khóa I đã tập trung vào việc khôi phục đất nước sau chiến tranh đã làm
bầu cử. Uỷ ban pháp luật của HĐND tối cao khóa II có nhiệm vụ quan trọng
cho việc lập Hiến pháp bị tạm dừng, ủy ban dự án Hiến pháp không được hoạt
là tham mưu cho Uỷ ban thường vụ HĐND tối cao trong việc soạn thảo bản
động theo nhiệm vụ được đề ra.
Hiến pháp đầu tiên và một số dự án luật. Uỷ ban pháp luật đã góp phần quan
Đến cuối nhiệm kỳ của HĐND tối cao khóa I, tình hình kinh tế - chính
trọng trong việc soạn thảo bản Hiến pháp đầu tiên. Bản Hiến pháp này đã
trị và xã hội đã ổn định, cũng là lúc Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng
được quần chúng nhân dân góp ý kiến rộng rãi và cũng là lần đầu tiên có sự
NDCM Lào được mở ra (1986). Đại hội lần này đã ban hành chính sách đổi
đồng ý của nhân dân tham gia soạn thảo bản Hiến pháp. Bản Hiến pháp đã
mới đất nước toàn diện, trong đó việc quản lý nhà nước bằng pháp luật đã
tổng kết những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng và xây
được đề cao. Trong Văn kiện của Đại hội đã khẳng định: “Muốn quản lý nhà nước
dựng đất nước Lào. Quy định chế độ chính trị, chế độ kinh tế và chế độ xã
được là không có cách nào khác phải xây dựng và cải cách hệ thống chính sách về
hội, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và hệ thống bộ máy nhà nước,
đồng thời quy định quyền làm chủ của nhân dân. Bản Hiến pháp được đại
13
14
biểu HĐND tối cao khóa II thảo luận nhiều lần và đến cuối nhiệm kỳ đã được
chính sách lớn của Đảng và Nhà nước được tập trung thực hiện nhằm tiếp tục
thông qua vào ngày 14/8/1991 tại kỳ họp thứ 6, và được công bố chính thức
đẩy mạnh sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và cũng đặt ra yêu cầu
ban hành vào ngày 15/8/1991. Đó là cơ sở pháp lý vững chắc để xây dựng bộ
bức xúc trong đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, bộ máy
máy nhà nước và là một văn bản luật cơ bản đầu tiên, thể hiện đường lối đổi
Nhà nước, cải cách hành chính, cải cách tư pháp và đổi mới tổ chức và hoạt
mới của Đảng NDCM Lào, tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng hệ thống
động của Quốc hội ngang tầm đòi hỏi và yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong
pháp luật cho các nhiệm kỳ Quốc hội tiếp theo, bảo đảm cho các cơ quan lập
giai đoạn mới.
pháp, hành pháp và tư pháp hoạt động có hiệu quả trong tình hình mới.
Số lượng thành viên của Uỷ ban pháp luật được tăng cường nhiều hơn.
1.1.2.2. Giai đoạn từ năm 1992 đến nay
Các đại biểu là thành viên ủy ban đều được lựa chọn trên cơ sở bảo đảm hoàn
Phải mất gần 16 năm sau khi giải phóng đất nước, Nhà nước CHDCND
thành chức năng, nhiệm vụ của ủy ban, có tính đến yếu tố đại diện cho các
Lào mới xây dựng được bản Hiến pháp vì nhiều lý do trong và ngoài nước, từ sự
vùng, miền, ngành và lĩnh vực công tác nhằm bảo đảm cho hoạt động của ủy
sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu, sau đó là sự ra đi của ông
ban vừa có tính chuyên môn cao vừa bảo đảm tính đại diện hợp lý và có điều
Chủ tịch Cay Xỏn Phôm Vi Hản (21/11/1992) - vị lãnh tụ trong công cuộc cách
kiện thời gian hoạt động.
mạng giải phóng đất nước. Ông là người khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước.
Thường trực Uỷ ban pháp luật hoạt động chuyên trách, toàn bộ thời
Trước tình hình trong nước và quốc tế có sự biến đổi mạnh mẽ với nhiều thuận lợi
gian và công sức phục vụ cho hoạt động của ủy ban và Quốc hội, các đại biểu
cũng như khó khăn thử thách. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong
được lựa chọn là những người có trình độ và kinh nghiệm xây dựng pháp luật,
giai đoạn đổi mới như vậy CHDCND Lào cần phải kiên trì mục tiêu độc lập dân
trong hoạt động tư pháp và một số lĩnh vực chuyên môn khác, có trách nhiệm
tộc, chủ quyền đất nước trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, xác định phát triển
cao trong công việc và tổ chức hợp lý, khoa học các hoạt động của ủy ban
kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, cải
trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao.
cách và hoàn thiện Nhà nước, phát huy dân chủ, giữ vững và phát huy bản chất
Uỷ ban pháp luật có bộ máy giúp việc là Cục pháp luật, bao gồm các
giai cấp công nhân, từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân,
cán bộ, chuyên viên là những người tốt nghiệp đại học luật ở trong nước và
do dân, và vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào.
nước ngoài. Các điều kiện làm việc như văn phòng, trang thiết bị và cơ sở vật
Giai đoạn này được coi là giai đoạn đổi mới mạnh mẽ về tổ chức và
chất cần thiết phục vụ cho hoạt động của ủy ban ngày càng được tăng cường
hoạt động của Quốc hội, với việc quy định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ của
cả về số lượng và chất lượng, bảo đảm để ủy ban thực hiện đầy đủ chức năng,
Quốc hội và các ủy ban của Quốc hội, thành lập thêm các ủy ban chuyên môn
nhiệm vụ và quyền hạn của mình.
đặc trách những lĩnh vực rộng lớn của đời sống xã hội, cơ cấu, chất lượng của
đại biểu Quốc hội được chú trọng nâng cao. Đây cũng là giai đoạn mà những
thành quả của công cuộc đổi mới toàn diện được phát huy, những chủ trương
1.2. CHỨC NĂNG NHIỆM VỤ CỦA UỶ BAN PHÁP LUẬT CỦA QUỐC HỘI
NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
15
16
Quốc hội nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào là cơ quan đại diện
Uỷ ban pháp luật của Quốc hội nước CHDCND Lào có ba chức năng
quyền lực và lợi ích của nhân dân các bộ tộc, vừa là cơ quan quyền lực nhà
chính là thẩm tra, giám sát, kiến nghị về lĩnh vực được giao. Ba chức năng
nước vừa là cơ quan lập Hiến, có quyền quyết định vấn đề quan trọng của đất
này không thể tách rời nhau mà luôn luôn gắn kết, hỗ trợ cho nhau. Để thực
nước, giám sát hoạt động của cơ quan hành pháp và tư pháp.
hiện chức năng thẩm tra Uỷ ban pháp luật của Quốc hội phải thực hiện chức
Quốc hội có các ủy ban giúp việc về nhiều lĩnh vực khác nhau, các ủy
năng giám sát, khảo sát và qua công tác giám sát để có thể có những kiến nghị
ban của Quốc hội là cơ quan tham mưu của Quốc hội và UBTVQH, có nhiệm
là căn cứ xác đáng phục vụ cho chức năng thẩm tra. Qua công tác thẩm tra,
vụ thẩm tra các dự án pháp luật, dự án pháp lệnh, giúp Quốc hội và UBTVQH
giám sát mới đề xuất, kiến nghị với Quốc hội và UBTVQH các giải pháp để
thực hiện nhiệm vụ giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước. Mỗi ủy ban
thực thi pháp luật hoặc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật hiện hành cho
của Quốc hội đều có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình để tạo nên
phù hợp với tình hình thực tiễn.
hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Trong đó Uỷ ban pháp luật là cơ quan tham
mưu của Quốc hội và UBTVQH trong lĩnh vực lập hiến, lập pháp. Uỷ ban
pháp luật được giao quyền thẩm tra, xem xét về tính hợp hiến, hợp pháp, tính
thống nhất của dự án luật trước trình Quốc hội xem xét, thông qua, giám sát
hoạt động của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, kiến nghị các giải
pháp liên quan đến lĩnh vực pháp luật. Trong lịch sử của Quốc hội, Uỷ ban
pháp luật của Quốc hội các khóa đã góp phần quan trọng vào việc giúp Quốc
hội và UBTVQH hoàn thành chức năng, nhiệm vụ trong công tác lập pháp,
giám sát và quyết định vấn đề quan trọng của đất nước, tạo điều kiện thuận lợi
cho sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì
dân do Đảng NDCM Lào đã đặt ra.
1.2.1. Chức năng và phương thức hoạt động thẩm tra của Uỷ ban
pháp luật của Quốc hội
Uỷ ban pháp luật của Quốc hội nước CHDCND Lào là cơ quan tham
mưu, giúp việc và giám sát của Quốc hội, UBTVQH trong lĩnh vực lập hiến,
lập pháp thực hiện nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp, luật về Quốc hội
và các văn bản khác.
- Chức năng thẩm tra của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội nước
CHDCND Lào. Thẩm tra là hoạt động thuộc chức năng, nhiệm vụ của các ủy
ban của Quốc hội do Quốc hội giao nhiệm vụ thẩm tra các dự án luật, pháp
lệnh và các dự án văn bản pháp luật khác trước khi trình Quốc hội, UBTVQH
xem xét thông qua. Đây là một khâu quan trọng trong quy trình xây dựng luật,
pháp lệnh của Quốc hội. Trong các nhiệm vụ, quyền hạn được giao thì nhiệm
vụ thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh và các dự án, báo cáo khác được coi là
nhiệm vụ quan trọng nhất, nó là cơ sở, căn cứ để đưa các kiến nghị, giải pháp
hoàn thiện các dự án luật, pháp lệnh hoặc dự thảo nghị quyết để trình Quốc
hội, UBTVQH xem xét, sửa đổi hệ thống pháp luật hiện hành nhằm đưa pháp
luật thực sự đi vào cuộc sống, có giá trị điều chỉnh các quan hệ xã hội. Tuy
nhiên, không nên hiểu đơn thuần nhiệm vụ thẩm tra các dự án chỉ phục vụ cho
việc thực hiện chức năng của Quốc hội là hoạt động lập pháp mà còn phục vụ
cho cả ba chức năng của Quốc hội.
- Quan niệm về chức năng thẩm tra của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội
nước CHDCND Lào. Thẩm tra là điều tra, tìm hiểu để xem xét lại điều đã kết
luận hoặc vấn đề đã nêu có đúng, có chính xác không. Hoạt động thẩm tra của
Uỷ ban pháp luật của Quốc hội nước CHDCND Lào là hoạt động mang tính
17
18
pháp lý, được tiến hành thông qua các hình thức họp toàn thể hoặc phiên họp
Thẩm quyền trong nhiệm vụ thẩm tra của Uỷ ban pháp luật của Quốc
thường trực của ủy ban theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Hoạt động
hội nước CHDCND Lào căn cứ vào chất lượng dự án được soạn thảo, thông
thẩm tra của Uỷ ban pháp luật nhằm kiểm tra, xem xét, đánh giá, thẩm định
qua quy trình thẩm tra, ủy ban có quyền đưa ra các quyết định sau đây:
chất lượng và nội dung của dự án luật, dự án pháp lệnh và các văn bản khác
+ Tán thành với toàn bộ nội dung và hình thức của dự án. Việc tán
của các cơ quan được giao soạn thảo hoặc có trách nhiệm chuẩn bị các dự án
thành này được thể hiện qua báo cáo thẩm tra hoặc của ủy ban trình ra Quốc
luật, dự án pháp lệnh và các văn bản trước khi trình Quốc hội, UBTVQH xem
hội hoặc UBTVQH. Hoạt động thẩm tra của Uỷ ban pháp luật có đạt chất
xét và thông qua. Khi tiến hành hoạt động thẩm tra, Uỷ ban pháp luật có quyền
lượng và hiệu quả hay không còn tùy thuộc vào việc chuẩn bị báo cáo thẩm
yêu cầu cơ quan, tổ chức báo cáo, trình bày về những vấn đề có liên quan đến
tra (giai đoạn cuối cùng của quy trình thẩm tra). Hay nói cách khác, báo cáo
dự án được thẩm tra, có quyền bác bỏ hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc có
thẩm tra là kết quả cuối cùng của hoạt động thẩm tra. Toàn bộ nội dung của
quyền đề nghị hoãn lại để trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội vào một
cuộc họp thẩm tra được phản ánh qua báo cáo thẩm tra;
phiên họp khác. Để phục vụ thẩm tra, Uỷ ban pháp luật của Quốc hội có quyền
+ Không tán thành với toàn bộ dự án. Hậu quả của quyết định này là
tiến hành một loạt các hoạt động khác như khảo sát, điều tra, xem xét trực tiếp
ngay sau khi cuộc họp thẩm tra, dự án có thể được trình UBTVQH xem xét
chất vấn, yêu cầu báo cáo về những vấn đề có liên quan đến các dự án luật, pháp
cho ý kiến ủy ban vẫn trình báo cao thẩm tra và nêu rõ về các nội dung không
lệnh.
tán thành để UBTVQH xem xét, quyết định. Khi dự án bị Uỷ ban thường vụ
- Lĩnh vực thẩm tra của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội nước CHDCND Lào.
Quốc hội cho ý kiến chưa trình ra Quốc hội thì cơ quan trình dự án phải chuẩn
Theo Luật về Quốc hội năm 2003 (Điều 33) đã xác định nhiệm vụ thẩm
bị lại, xem xét lại quy trình phân tích chính sách, soạn thảo lại dự án và tiếp
tra của Uỷ ban pháp luật về lĩnh vực như sau:
+Tổ chức bộ máy nhà nước, hình sự, nhân sự, hành chính và các dự án
khác do Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội giao.
+Dự kiến của Chính phủ về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, đề
nghị của cơ quan khác, của tổ chức, của đại biểu Quốc hội về xây dựng luật,
pháp lệnh, kiến nghị của đại biểu Quốc hội về luật, pháp lệnh.
+Các báo cáo của Chính phủ về việc giải quyết khiếu nại, tổ cáo của
công dân, về công tác phòng ngừa và chống vi phạm pháp luật và tội phạm,
công tác thi hành án, các báo cáo công tác của Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao, của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
tục xin ý kiến của các cơ quan có thẩm quyền; hoặc có quyền rút khỏi chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh.
+ Tán thành cơ bản về các nội dung của dự án nhưng đề nghị xem xét
các điều kiện bảo đảm thực hiện hoặc sửa đổi về kỹ thuật câu chữ cho phù
hợp và dự án được tiếp tục chỉnh lý, hoàn thiện để trình xem xét thông qua.
+ Tán thành một số nội dung và yêu cầu cơ quan soạn thảo nghiên cứu
sửa đổi một số nội dung, bao gồm cả kỹ thuật lập pháp hoặc những vấn đề về
thủ tục. Đây là vấn đề thường gặp nhất mà rất ít khi có dự án trình đến các cơ
quan của Quốc hội thẩm tra lại được sự ủng hộ nhất trí hoàn toàn về nội dung
cũng như hình thức của văn bản. Bởi vì, về phía cơ quan soạn thảo bao giờ
cũng muốn có những quy định thuận lợi cho hoạt động của mình hoặc vì lợi
19
20
ích cục bộ nên có những quy định không phù hợp với hệ thống pháp luật hiện
luật, pháp lệnh có chất lượng trước khi trình ủy ban thẩm tra thì sẽ giảm bớt
hành. Do đó, sau khi tiến hành thẩm tra bao giờ cũng có bước phối hợp giữa
thời gian và công sức cho cơ quan thẩm tra, góp phần nâng cao chất lượng
cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra, cơ quan tham gia thẩm tra, dự án được
của dự án luật, pháp lệnh – có thể hiểu thẩm tra của ủy ban thực hiện một loạt
trình UBTVQH cho ý kiến thì cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra và Uỷ ban
các thao tác như xem xét, thẩm tra, khảo sát, điều tra, nghiên cứu, hỏi, chất
pháp luật (trong trường hợp Uỷ ban pháp luật là cơ quan tham gia thẩm tra)
vấn, thẩm vấn và phối hợp hoạt động với các cơ quan hữu quan đưa ra các dự
phải tổ chức họp để tiếp thu ý kiến của các thành viên UBTVQH để chỉnh lý
án luật, pháp lệnh hoặc các dự án khác trên cơ sở đường lối, chủ trương, chính
dự án.
sách của Đảng và Nhà nước phù hợp với Hiến pháp, luật, nghị quyết của
- Báo cáo thẩm tra của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội nước CHDCND Lào.
Quốc hội, các điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước, bảo đảm khi dự án
Báo cáo thẩm tra dự án luật, pháp lệnh là một văn bản do các cơ quan
được thông qua có chất lượng, bảo đảm điều chỉnh các quan hệ xã hội mà dự
thẩm tra về dự án được thẩm tra dưới hình thức quy định, có tính chất bắt
luật pháp lệnh hướng tới, thúc đẩy các quan hệ kinh tế – xã hội phát triển tạo
buộc nhằm bảo đảm cho quy trình xây dựng luật, pháp lệnh được tiến hành
điều kiện thuận lợi cho công cuộc hoàn thiện hệ thống pháp luật xây dựng nhà
chặt chẽ, khoa học và có hiệu quả.
nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân.
Về mục đích với việc thể hiện quan điểm của cơ quan thẩm tra là cơ
quan được Quốc hội giao phụ trách những lĩnh vực chuyên môn thì báo cáo
thẩm tra chính là văn bản đánh giá chất lượng của dự án luật, pháp lệnh cả về
nội dung và hình thức và một số trường hợp nêu ra những vấn đề (về lý luận,
về pháp luật, về thực tiễn) cùng những giải pháp nhất định để Quốc hội,
- Nội dung cơ bản của báo cáo thẩm tra:
Cơ quan thẩm tra tiến hành thẩm tra về tất cả các mặt của dự án luật, dự
án pháp lệnh, dự án nghị quyết, phải tập trung vào những nội dung sau đây:
+ Sự cần thiết ban hành luật, pháp lệnh, nghị quyết, đối tượng phạm vi
điều chỉnh;
UBTVQH có cơ sở xem xét, thảo luận và thông qua dự án. Báo cáo thẩm tra
+ Sự phù hợp của nội dung dự án với đường lối, chủ trương, chính sách
còn có sự kiểm tra trước nhằm phát hiện những vi phạm, khiếm khuyết hạn
của Đảng; tính hợp hiến, hợp pháp của dự án và tính thống nhất của văn bản
chế với dự báo, phòng ngừa những điểm sai trái có thể có trong dự thảo.
với hệ thống pháp luật;
Hoạt động thẩm tra của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội có những tính
chất tương tự như hoạt động thẩm định của Bộ Tư pháp. Tuy nhiên hai hoạt
động này có sự khác nhau và có thể phân biệt qua đặc trưng về chủ thể, đối
tượng, nội dung vị trí và vai trò của mỗi hoạt động quy trình xây dựng pháp
luật. Hoạt động thẩm định và thẩm tra mặc dù có những điểm khác nhau
nhưng chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau: hoạt động thẩm định là tiền
đề có tác dụng hỗ trợ cho hoạt động thẩm tra. Nếu hoạt động thẩm định dự án
+ Việc tuân thủ thủ tục và trình tự soạn thảo.
+ Tính khả thi của dự án;
- Hình thức báo cáo thẩm tra:
+ Nếu căn cứ vào chủ thể của cơ quan thẩm tra:
Báo cáo thẩm tra của cơ quan thẩm tra;
21
Báo cáo thẩm tra của cơ quan tham gia thẩm tra (về những nội dung
có liên quan tới lĩnh vực ủy ban phụ trách);
Báo cáo của Uỷ ban pháp luật (với tư cách tham gia thẩm tra nhằm
bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật).
+ Nếu căn cứ theo mức độ thẩm tra.
Báo cáo thẩm tra sơ bộ do Thường trực ủy ban tiến hành.
Báo cáo thẩm tra chính thức do toàn thể ủy ban tiến hành.
Như vậy, báo cáo thẩm tra là văn bản pháp lý quan trọng thể hiện chất
lượng thẩm tra của ủy ban. Chất lượng thẩm tra có liên quan đến chất lượng
các dự án luật, pháp lệnh và ảnh hưởng rất lớn đến quy trình xem xét, thông
qua luật tại kỳ họp Quốc hội.
Báo cáo thẩm tra nó không những có giá trị như một văn bản phản biện
đối với cơ quan trình dự án luật mà còn tác động trực tiếp đến các đại biểu
Quốc hội trong quá trình phân tích, xem xét thông qua dự án luật, bảo đảm
cho quá trình thông qua dự án luật nhanh hơn, có chất lượng cao hơn. Bảo
đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật được
với các dự án luật, pháp lệnh trước khi trình Quốc hội và UBTVQH thông qua
có ý nghĩa rất quan trọng, đặc biệt là trong điều kiện đang xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Một hệ thống pháp luật hợp hiến, hợp pháp và thống nhất, trong đó các
văn bản pháp luật tuân theo và không được trái với quy định của Hiến pháp và
các đạo luật sẽ bảo đảm được tính tối cao của Hiến pháp và các đạo luật; bảo
đảm được vị trí của Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập
pháp. Ở nước CHDCND Lào, quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân
dân bầu ra Quốc hội, là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất, đại diện cho ý chí của nhân dân trong cả nước.
22
Thực hiện quyền lực nhà nước cao nhất do nhân dân trao cho, Quốc hội thực
hiện quyền lập hiến và lập pháp. Tuy nhiên, quyền lập hiến và lập pháp của
Quốc hội chỉ có ý nghĩa khi các văn bản pháp luật của các cơ quan nhà nước
phải được ban hành trên cơ sở căn cứ vào quy định của Hiến pháp và các đạo
luật, đồng thời không được trái với các quy định của Hiến pháp và các đạo
luật. Việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống
pháp luật sẽ bảo đảm trật tự, kỷ cương trong công tác xây dựng pháp luật, bảo
đảm cho mỗi quy phạm pháp luật đều được xuất phát từ ý chí của Quốc hội,
cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân và như vậy sẽ bảo đảm được các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân tránh trường hợp mỗi địa phương,
mỗi ngành ban hành mỗi loại văn bản khác nhau, không phù hợp với các điều
luật, đối lập với lợi ích chung của cả nước.
Một hệ thống pháp luật hợp hiến, hợp pháp và thống nhất, trong đó các
văn bản pháp luật không có sự chồng chéo, mâu thuẫn nhau các quy định
trong mỗi văn bản pháp luật đều rõ ràng, chính xác, sẽ bảo đảm cho việc nhận
thức và thực hiện pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất trên toàn quốc.
Một hệ thống pháp luật không đồng bộ, mâu thuẫn nhau trong các văn bản
pháp luật sẽ gây khó khăn cho việc thực hiện pháp luật của công dân và việc
áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, việc
đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật không có nghĩa là các văn bản
của các cơ quan nhà nước ở các địa phương đều phải như nhau, không tính
đến hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của mỗi địa phương các địa phương có thể
ban hành các văn bản phù hợp với hoàn cảnh điều kiện ở mỗi địa phương
nhưng phải trên cơ sở quy định của các văn bản của cơ quan nhà nước cấp
trên và không được trái với chúng, việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống
pháp luật là điều kiện quan trọng để bảo đảm pháp chế XHCN, trật tự pháp
luật, bảo đảm công bằng và ổn định xã hội trong toàn quốc.
23
24
Quốc hội có quyền ban hành luật, bộ luật cũng có nghĩa là luật hoặc bộ
theo thứ bậc và có liên quan chặt chẽ với nhau. Các quy phạm pháp luật do cơ
luật do Quốc hội ban hành phải bảo đảm phù hợp với Hiến pháp cả về nội
quan nhà nước cấp dưới ban hành phải phù hợp và không được trái với các
dung và hình thức. Để bảo đảm cho Quốc hội có một dự án luật, bộ luật tương
văn bản do cơ quan nhà nước cấp trên ban hành; các văn bản quy phạm dưới
đối hoàn chỉnh trước khi thông qua thì các cơ quan hữu quan phải tuân thủ
luật khi được ban hành phải căn cứ vào các văn bản luật. Không được trái với
đầy đủ quy trình từ xây dựng chính sách, soạn thảo, thẩm định, trình thẩm tra
quy định của Hiến pháp và luật. Mọi lĩnh vực quan hệ xã hội quan trọng và cơ
cho ý kiến và chỉnh lý hoàn thiện dự thảo trước khi thông qua.
bản đều được các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh, không có khoảng
Luật, pháp lệnh ở CHDCND Lào được giao cho nhiều cơ quan khác
nhau soạn thảo và được thể hiện theo nhiều cách, quan niệm và chuẩn mực kỹ
trống, không có sự chồng chéo mâu thuẫn trong từng văn bản, trong mỗi
ngành luật và giữa các ngành với nhau.
thuật cũng khác nhau, Bộ Tư pháp là cơ quan được giao chủ trì soạn thảo một
- Tính thống nhất của hệ thống pháp luật không chỉ đòi hỏi yêu cầu
số lĩnh vực tư pháp, chương trình xây dựng luật, pháp lệnh... đồng thời được
thống nhất về mặt nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật mà còn đòi
giao thẩm định các văn bản do các Bộ, ngành khác chủ trì soạn thảo. Tuy
hỏi cả yêu cầu thống nhất về mặt hình thức thể hiện, về kỹ thuật soạn thảo văn
nhiên, mặc dù đã có Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ thẩm định các dự
bản, các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
án luật, pháp lệnh do các Bộ, ngành dự thảo để Chính phủ xem xét, quyết
ban hành phải đáp ứng những quy định quy phạm pháp luật theo quy định của
định về các nội dung của dự án trước khi trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ
luật pháp. Các quy định trong mỗi văn bản quy phạm pháp luật phải được
Quốc hội xem xét, thông qua nhưng xu hướng chung thì Bộ, ngành nào được
biểu hiện bằng ngôn ngữ diễn đạt phải đơn giản, phổ thông dễ hiểu, tránh
giao soạn thảo văn bản thuộc lĩnh vực của mình cũng đều có xu hướng cục
trường hợp các quy phạm pháp luật có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau
bộ, muốn bảo vệ lợi ích của Bộ, ngành mình. Vì thế, cần phải có một cơ quan
hoặc được diễn đạt quá rườm rà.
của Quốc hội thực hiện việc thẩm tra hoặc tham gia thẩm tra để bảo đảm tính
- Tính hợp hiến của hệ thống pháp luật còn đòi hỏi văn bản pháp luật
hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống. Chức năng này theo quy
trong hệ thống pháp luật phải được ban hành theo đúng thẩm quyền và trình
định của pháp luật, Quốc hội giao cho Uỷ ban pháp luật.
tự ban hành văn bản do pháp luật quy định. Đối với Hiến pháp và các văn bản
Để đánh giá về một hệ thống pháp luật cần phải dựa vào nhiều loại tiêu
luật thì phải có Quốc hội (cơ quan duy nhất có quyền lập Hiến và lập pháp
chuẩn khác nhau trong đó có những tiêu chuẩn quan trọng như tính toàn diện,
ban hành). Thủ tục soạn thảo, thông qua công bố Hiến pháp phải theo một
tính đồng bộ, tính phù hợp và trình độ kỹ thuật xây dựng văn bản, một hệ
trình tự được quy định rất chặt chẽ (so với việc thông qua qua các văn bản
thống văn bản pháp luật hợp hiến, hợp pháp và có tính thống nhất phải bảo
luật) do Quốc hội quy định. UBTVQH có thẩm quyền ban hành pháp lệnh,
đảm được các yêu cầu sau đây:
nghị quyết, chủ tịch nước ban hành văn bản theo đúng thẩm quyền không chỉ
- Đó là hệ thống pháp luật đồng bộ. Trong hệ thống pháp luật đó, các
văn bản quy phạm pháp luật không mâu thuẫn chồng chéo nhau mà tồn tại
thể hiện ở yêu cầu về mặt hình thức văn bản mà còn đòi hỏi ở yêu cầu về nội
dung đối với mỗi loại văn bản, ví dụ như: những vấn đề liên quan đến quyền
25
và nghĩa vụ cơ bản của công dân phải do Hiến pháp và pháp luật quy định,
hoặc việc ban hành mới, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế là thẩm quyền mà
Hiến pháp giao cho Quốc hội quy định (tức là phải dưới hình thức văn bản
luật).
26
- Phương thức hoạt động thẩm tra của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội
nước CHDCND Lào.
Phương thức hoạt động thẩm tra của Uỷ ban pháp luật là hệ thống các
hình thức, biện pháp sử dụng để tác động vào quá trình thực hiện chức năng
- Tính hợp hiến của hệ thống pháp luật còn đòi hỏi văn bản pháp luật
bảo đảm định hướng chính trị. Chính trị là nền tảng của pháp luật, thông qua
pháp luật là một biện pháp chính trị, là chính trị. Chính vì vậy trong quá trình
ban hành văn bản quy phạm pháp luật từ việc quyết định chương trình đến
việc ban hành từng đạo luật pháp lệnh, Quốc hội đều có sự chỉ đạo của Ban
Chấp hành Trung ương hoặc Bộ Chính trị để bảo đảm cho các văn bản này đi
đúng định hướng. Do đó, khi tiến hành thẩm tra các dự án. Uỷ ban pháp luật
đúng phải luôn luôn quán triệt yêu cầu này.
Trên đây là một số yêu cầu cơ bản phải có để xác định một hệ thống
thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của Uỷ ban pháp luật nhằm đạt mục tiêu đã đề
ra. Vì vậy, phương thức hoạt động thẩm tra có ý nghĩa quan trọng và ảnh
hưởng rất lớn đến mục đích, mức độ hiệu quả hoàn thiện nhiệm vụ. Quyền
hạn thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của Uỷ ban pháp luật.
Theo quy định tại Quy chế hoạt động của Uỷ ban pháp luật năm 1999.
Uỷ ban pháp luật làm việc theo nguyên tắc tập trung dân chủ, lấy cuộc họp là
nơi thảo luận và quyết định các vấn đề theo đa số, có nghĩa là mọi hoạt động
của Uỷ ban pháp luật phải được bàn bạc thảo luận và biểu quyết tại phiên họp
pháp luật là hợp hiến, hợp pháp và thống nhất. Đồng thời, chúng tôi cũng cho
của ủy ban. Mọi quyết định phải bảo đảm quá nửa tổng số ủy viên ủy ban biểu
rằng đối với một hệ thống pháp luật hoàn thiện thì ngoài yêu cầu hợp hiến,
quyết tán thành mới có giá trị. Vì vậy, nguyên tắc hoạt động của Uỷ ban pháp
hợp pháp và thống nhất ra thì còn có những yêu cầu cơ bản khác như: yêu cầu
luật là theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số, phản ánh tính dân chủ
về tính toàn diện của hệ thống pháp luật (đòi hỏi mọi lĩnh vực quan hệ xã hội
trong thực thi quyền lực của Quốc hội. Chế độ làm việc này là một cơ chế hữu
phải được pháp luật điều chỉnh trên cơ sở xác định một cách toàn diện, đầy đủ
hiệu chống mọi sự lạm dụng quyền lực cá nhân vào trong hoạt động của Uỷ
những nhu cầu xã hội cần điều chỉnh bằng pháp luật có tính đến những lĩnh
ban pháp luật. Mọi vấn đề thẩm tra đều phải được thảo luận, bàn bạc dân chủ
vực ưu tiên): yêu cầu về tính phù hợp, hài hòa của hệ thống pháp luật (thể
tại phiên họp thẩm tra, các thành viên ủy ban đều có quyền phát biểu, đưa ra
hiện sự tương quan giữa trình độ của hệ thống pháp luật với trình độ phát
chính kiến, tranh luận, thảo luận về toàn bộ nội dung và hình thức thể hiện
triển của kinh tế – xã hội, không thể cao hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triển
của dự án, các chính sách mà dự án hướng tới.
đó). Việc xác định rõ những yêu cầu đối với một hệ thống pháp luật được coi
Hình thức tổ chức họp thẩm tra của Uỷ ban pháp luật
là hợp hiến, hợp pháp và thống nhất có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định
Theo quy định hiện hành thì hiện nay Uỷ ban pháp luật có hai hình thức
trách nhiệm và những công việc cần phải làm của cơ quan có trách nhiệm,
thẩm tra dự án luật, pháp lệnh là thẩm tra sơ bộ và thẩm tra chính thức. Thẩm
bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và thống nhất của hệ thống pháp luật.
tra sơ bộ được tiến hành với các dự án luật, pháp lệnh để trình UBTVQH cho
ý kiến còn việc trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, thông
qua dự án Luật, pháp lệnh thì bắt buộc phải thẩm tra chính thức.
27
28
- Phiên họp thẩm tra sơ bộ là phiên họp do Thường trực Uỷ ban pháp
quan trình dự án tổ chức khảo sát thực tế. Tiếp theo ủy ban tổ chức phiên họp
luật tổ chức bao gồm các thành viên trong Thường trực Uỷ ban pháp luật
toàn thể ủy ban để thẩm tra hoặc phiên họp Thường trực của ủy ban để thẩm
(Chủ nhiệm và Phó Chủ nhiệm theo nhiệm kỳ Quốc hội) và một số thành viên
tra sơ bộ và làm báo cáo thẩm tra.
ủy ban làm việc tại các cơ quan Trung ương. Tùy thuộc nội dung của từng dự
Phiên họp toàn thể ủy ban được tổ chức công khai, trong trường hợp
án mà phiên họp thẩm tra có thể có sự tham dự của đại diện Thường trực của
cần thiết, có thể họp nội bộ theo đề nghị của Thường trực ủy ban. Việc thẩm
các ủy ban khác của Quốc hội, đại diện một số cơ quan, tổ chức hữu quan và
tra tiến hành theo trình tự sau đây:
đương nhiên phải có mặt của vị Bộ trưởng hoặc Thủ trưởng cơ quan ngang
Bộ- Trưởng ban soạn thảo được Chính phủ ủy quyền để trình bày Tờ trình về
nội dung dự án.
- Phiên họp thẩm tra chính thức bao gồm toàn thể thành viên ủy ban.
Thành phần tham dự cũng như phiên họp thẩm tra sơ bộ.
Trong trường hợp dự án được giao cho Uỷ ban pháp luật chủ trì thẩm
tra các ủy ban khác phối hợp thẩm tra thì phiên họp thẩm tra sơ bộ và phiên
Đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc trình dự án, dự thảo báo cáo
trình bày về dự án, dự thảo;
Các đại biểu tham dự phiên họp nêu câu hỏi và đại diện cơ quan, tổ
chức trình dự án trả lời và trình bày bổ sung;
Đại diện Thường trực ủy ban phát biểu ý kiến của tiểu ban được giao
nghiên cứu thẩm tra và đại diện cơ quan, tổ chức hữu quan tham dự phiên họp
phát biểu ý kiến;
họp thẩm tra chính thức cũng đều có đại diện của Thường trực các ủy ban
Thành viên ủy ban thảo luận;
khác của Quốc hội tham gia.
Chủ tọa phiên họp kết luận.
Ngoài ra, trên thực tế còn có các phương thức linh hoạt hơn cụ thể như sau:
Họp Thường trực ủy ban kết hợp gửi ý kiến nghiên cứu của Thường
Đối với những vấn đề quan trọng và cần thiết thì chủ tọa phiên họp lấy
biểu quyết.
trực ủy ban và các tài liệu có liên quan đến dự án cho các thành viên của ủy
Trên cơ sở đó Thường trực ủy ban làm báo cáo thẩm tra. Báo cáo thẩm
ban để xin ý kiến, sau đó Thường trực ủy ban nghiên cứu, tổng hợp ý kiến
tra của ủy ban được gửi đến Quốc hội, UBTVQH theo thời hạn do pháp luật
phản hồi để chuẩn bị báo cáo thẩm tra.
quy định. Trong quá trình thẩm tra, đại diện cơ quan, tổ chức, trình dự án, dự
- Họp toàn thể ủy ban chủ trì thẩm tra và ủy ban phối hợp thẩm tra để
thẩm tra. Phương thức này rất ít khi được các ủy ban áp dụng.
- Tiến hành thảo luận tại phiên họp thẩm tra.
thảo có thể giải trình, trình bày bổ sung ý kiến để làm rõ vấn đề mà ủy ban,
đại biểu tham dự phiên họp thẩm tra nêu hoặc yêu cầu.
Thường trực ủy ban có thể tổ chức phiên họp thẩm tra sơ bộ dự án luật,
Sau khi nhận được dự án luật, dự án pháp lệnh, để chuẩn bị cho việc
dự án pháp lệnh, dự án khác để trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét cho
thẩm tra. Thường trực ủy ban giao cho tiểu ban hoặc thành viên ủy ban nghiên
ý kiến trước khi trình Quốc hội. Phiên họp thẩm tra sơ bộ được tiến hành theo
cứu và chuẩn bị ý kiến, yêu cầu cơ quan soạn thảo, các cơ quan hữu quan
trình tự quy định như phiên họp toàn thể ủy ban. Kết quả thẩm tra của Uỷ ban
trình bày những vấn đề liên quan, tổ chức lấy ý kiến chuyên gia, lấy ý kiến
pháp luật được báo cáo trước Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội bằng văn
của các cơ quan chịu sự tác động của dự án, tự mình hoặc phối hợp với các cơ
bản do Chủ nhiệm ủy ban hoặc Phó Chủ nhiệm ủy ban được Chủ nhiệm ủy
29
30
ban ủy nhiệm trình bày. Trong trường hợp có phối hợp thẩm tra thì trong báo
tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật đối với dự
cáo thẩm tra còn phải phản ánh ý kiến của các ủy ban khác.
án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết thì Uỷ ban pháp luật báo cáo
Sau khi Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến về
Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội về ý kiến của mình.
các dự án luật, pháp lệnh, Thường trực ủy ban chủ trì thẩm tra phối hợp với
Trong trường hợp cần thiết, ủy ban tổ chức phiên họp riêng để thẩm tra
cơ quan tổ chức liên quan chỉnh lý dự án trước khi trình Quóc hội, Uỷ ban
và gửi ý kiến bằng văn bản đến các ủy ban chủ trì thẩm tra hoặc có thể trình
thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua. Khi tiến hành xem xét, thẩm tra dự
bày ý kiến riêng của ủy ban trước Quốc hội, UBTVQH về dự án, dự thảo đó.
- Ý nghĩa, tầm quan trọng, giá trị pháp lý của hoạt động thẩm tra:
án luật, pháp lệnh thuộc lĩnh vực ủy ban chủ trì thẩm tra, ủy ban có thể tham
khảo ý kiến của các ủy ban khác. Trong trường hợp có những vấn đề lớn liên
+ Thẩm tra các dự án trước khi trình Quốc hội, UBTVQH thông qua là
quan tới chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước và các ý kiến tại cuộc
một khâu quan trọng trong quy trình lập pháp. Nâng cao chất lượng thẩm tra
họp thẩm tra giữa cơ quan soạn thảo dự án luật với cơ quan chủ trì thẩm tra
chính là góp phần nâng cao chất lượng các dự án luật thông qua, giúp Quốc
còn có nhiều ý kiến khác nhau, chưa thống nhất thì các cơ quan này có trách
hội thực hiện tốt chức năng lập pháp theo Hiến pháp và pháp luật quy định.
Thẩm tra là hoạt động thuộc chức năng, nhiệm vụ của các ủy ban của
nhiệm báo cáo lên cấp có thẩm quyền để cho ý kiến chỉ đạo trước khi trình
báo cáo thẩm tra trước Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Quốc hội. Việc thẩm tra cắc dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác được
Trong hoạt động thẩm tra, ủy ban có quyền yêu cầu các thành viên
thực hiện trước khi trình Quốc hội, UBTVQH xem xét thông qua. Đây là một
Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát
khâu, quan trọng trong quy trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội, thể
nhân dân tối cao và những cán bộ, công chức khác của Nhà nước cung cấp
hiện sự phân công khoa học, hợp lý và cần thiết, không chỉ ở nước Lào mà đa
các tài liệu hoặc đến để trình bày những vấn đề mà ủy ban đang xem xét,
số Nghị viện các nước cũng quy định như vậy. Hiện nay ở nước Lào các dự
thẩm tra. Người nhận được yêu cầu của ủy ban có trách nhiệm đáp ứng yêu
án do Chính phủ trình đã được Bộ Tư pháp thẩm định trước theo tiêu chí đã
cầu đó. Ngoài ra ủy ban có thể tổ chức hội thảo, lấy ý kiến đóng góp của các
được Chính phủ đề ra cho từng dự án. Còn đối với hoạt động thẩm tra của các
cơ quan hữu quan để phục vụ cho hoạt động thẩm tra.
Uỷ Chính ban của Quốc hội thì quy trình thẩm tra được thực hiện sau khi cơ
Uỷ ban pháp luật của Quốc hội có trách nhiệm bảo đảm tính hợp hiến,
hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật đối với dự án luật, dự án
quan soạn thảo chính thức trình ra Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc
hội.
pháp lệnh, trước khi trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét,
+ Trong điều kiện của Quốc hội nước CHDCND Lào hoạt động không
thông qua bằng các hoạt động: tham gia thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh
chuyên trách thì càng đòi hỏi tính chuyên trách cao trong các cơ quan tham
do các ủy ban khác của Quốc hội chủ trì thẩm tra. Khi tham gia phiên họp
mưu của Quốc hội, nhất là trong hoạt động xây dựng pháp luật. Quốc hội bao
thẩm tra, đại diện Thường trực ủy ban có trách nhiệm báo cáo ý kiến của
gồm các đại biểu nhiều ngành, nhiều địa phương, nhiều lĩnh vực chuyên môn,
Thường trực hoặc của ủy ban và có quyền trình bày ý kiến riêng của mình về
hơn nữa Quốc hội mỗi năm họp 2 kỳ, mỗi kỳ họp khoảng 20 ngày, thời gian
dự án đó. Trong trường hợp có ý kiến khác với cơ quan chủ trì thẩm tra về
dành cho việc thông qua các dự án luật không nhiều, lại với áp lực về số lượng
31
32
dự án theo chương trình phải hoàn thành thì việc nâng cao chất lượng của hoạt
thêm, thậm chí có dự án Luật phải đưa ra khỏi chương trình xây dựng Luật,
động thẩm tra tại các ủy ban là rất quan trọng. Về phía các đại biểu Quốc hội,
pháp lệnh hàng năm của Quốc hội.
báo cáo thẩm tra có chất lượng tốt sẽ giúp cho đại biểu có căn cứ để thảo luận
Ý nghĩa quan trọng của hoạt động thẩm tra là sự "đánh giá lại một
và yên tâm khi lựa chọn phương án, biểu quyết thông qua các dự án luật, góp
cách khách quan để xử lý, bổ sung hợp lý cho khâu soạn thảo, góp phần
phần thực hiện tốt chương trình xây dựng pháp luật hàng năm của Quốc hội đã
nâng cao tính có căn cứ và tính khả thi của dự án. Nếu được chuẩn bị tốt,
đề ra.
trong phiên họp thẩm tra sẽ còn nhiều vấn đề được đặt ra để cơ quan soạn
+ Hoạt động thẩm tra thể hiện sự xem xét, đánh giá khách quan nhất
thảo giải trình rõ những căn cứ, quan điểm, nhiều ý kiến, kiến nghị được
đối với dự án do cơ quan soạn thảo trình, vừa mang tính hợp tác, bổ sung góp
đưa ra thảo luận cân nhắc kỹ. Đây cũng là nơi trao đổi, thảo luận cặn kẽ
phần hoàn chỉnh các dự án trước khi trình để xem xét, thông qua. Qua hoạt
các vấn đề kể cả về từ ngữ, bố cục, kỹ thuật văn bản. Do thành viên các ủy
động thẩm tra, cũng đánh giá được chất lượng hoạt động của các ủy ban của
ban Quốc hội bầu ra lựa chọn, cơ cấu hợp lý, đặc biệt là am hiểu chuyên
Quốc hội, trong đó có Uỷ ban pháp luật của Quốc hội theo chức năng, nhiệm
môn và có kinh nghiệm thực tiễn về lĩnh vực hoạt động, nên có điều kiện
vụ được giao.
để thảo luận sâu hơn, kỹ hơn về các nội dung của dự án và những vẫn đề
Ở CHDCND Lào cũng như ở các nước, đa số các dự án luật, pháp lệnh
lớn còn có ý kiến khác nhau. Mặt khác, công tác thẩm tra là hoàn toàn độc
đều do Chính phủ trình, là cơ quan hành pháp, trực tiếp điều hành thực hiện
lập với quá trình soạn thảo nên rất khách quan để xem xét các dự án trên
các chính sách quốc gia, quản lý xã hội, thực thi pháp luật trong cuộc sống,
nhiều phương diện, không tránh né cũng như không bị lệ thuộc những vấn
Chính phủ nắm bắt sát từng lĩnh vực và các vấn đề phát sinh trong thực tế từ
đề còn vướng mắc vì nhiều lý do, phát hiện những khiếm khuyết khắc phục
đó có nhiều thuận lợi khi chuẩn bị soạn thảo các dự án.
được tư tưởng cục bộ, chủ quan từ khâu soạn thảo. Kết quả thẩm tra có tác
Tuy vậy, tình hình đó cũng có hạn chế là không ít dự án có các điều
dụng rất lớn, không những giúp cho dự án được xây dựng có luận cứ vững
luật thiên về bảo vệ lợi ích của các Bộ, tạo thuận lợi cho cơ quan nhà nước để
chắc mà còn có thể bổ sung được nhiều vấn đề mới toàn diện hơn. Việc
dễ quản lý, điều hành, mà chưa chú ý quyền lợi của người dân, doanh nghiệp,
thẩm tra khoa học, cụ thể và chi tiết của cơ quan thẩm tra càng có giá trị
tổ chức hoặc lợi ích toàn cục của đất nước nhất là trong điều kiện nhà nước
đối với cơ quan trình dự án trong việc tiếp thu, chỉnh lý, đồng thời cũng có
đang thực hiện hội nhập quốc tế, phát huy dân chủ. Bên cạnh đó, do số lượng
tác động trở lại thúc đẩy quá trình soạn thảo có sự chuẩn bị tốt hơn về luận
dự án luật, pháp lệnh Chính phủ phải chuẩn bị là khá lớn, bị sức ép theo tiến
cứ, cơ sở lý luận, thực tiễn cũng như tính khả thi.
độ chương trình, nhiều dự án chưa chuẩn bị kỹ vẫn trình ra Quốc hội, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội để xem xét thông qua. Ý kiến thẩm tra khách quan sẽ
- Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh là hoạt động có giá trị
bắt buộc trong quy trình lập pháp ở nước CHDCND Lào có yêu cầu về nội
giúp cho UBTVQH có cơ sở chỉ đạo chỉnh lý kịp thời để có thể tiếp tục trình
dung rõ ràng không phải là trình tự mang tính thủ tục, hình thức. Như đã nêu
ra Quốc hội xem xét, thông qua hay phải hoãn lại để chỉnh lý, hoàn chỉnh
trên, hoạt động thẩm tra là một trong những hoạt động chủ yếu của các ủy ban
33
34
của Quốc hội báo cáo thẩm tra là tài liệu được lưu thành chính thức trong
+ Thẩm tra được tiến hành bằng phiên họp toàn thể gồm tất cả các
phiên họp của UBTVQH và kỳ họp Quốc hội, các nội dung của tài liệu thẩm
thành viên ủy ban (thẩm tra chính thức), hoặc bằng các phiên họp gồm một số
tra không phải là ý kiến bắt buộc phải chấp nhận nhưng là ý kiến chính thức
thành viên ủy ban. Đây là vấn đề có liên quan đến nguyên tắc hoạt động của
của tập thể cơ quan tham mưu giúp việc cho Quốc hội, đặc biệt là các nội
ủy ban, ủy ban hoạt động theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số, vì
dung thẩm tra về tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống
vậy, phiên họp Thường trực mở rộng có được coi là hợp pháp hay không cũng
pháp luật đối với các dự án.
còn có những quan điểm khác nhau. Ý kiến của nhiều chuyên gia pháp luật
Việc thẩm tra bảo đảm tính hợp hiện, hợp pháp và tính thống nhất của
cho rằng, cần phải nghiên cứu và đánh giá nghiêm túc trên phương diện lý
hệ thống pháp luật sẽ bảo đảm trật tự kỷ cương trong công tác xây dựng pháp
luận về hoạt động thẩm tra của Thường trực ủy ban. Bởi vì, nguyên tắc làm
luật, tăng cường tính khả thi của các dự án luật, pháp lệnh trong cuộc sống.
việc của ủy ban là theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số thì mọi vấn đề
Đây là hoạt động rất quan trọng điều kiện chúng ta đang hoàn thiện dần hệ
được đưa ra thảo luận tại ủy ban phải được toàn thể các thành viên ủy ban dự
thống pháp luật của nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân.
họp thảo luận và biểu quyết theo đa số. Quan điểm khác thực tế hơn thì cho
Các dự án được thẩm tra bảo đảm cho mỗi quy phạm pháp luật trong các dự
rằng, trong điều kiện phần lớn số thành viên ủy ban hoạt động kiêm nhiệm
án phải phù hợp với hiến pháp, luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
giữ các cương vị chủ chốt ở các địa phương như hiện nay thì việc liên tục tổ
công dân, tránh tùy tiện. Mặt khác, yêu cầu này đặt ra còn có ý nghĩa bảo đảm
chức phiên họp thẩm tra để bảo đảm có báo cáo thẩm tra trình ra các phiên
cho các quy định trong các dự án, luật, pháp lệnh rõ ràng, chính xác, giúp cho
họp thường kỳ hàng tháng của UBTVQH và tại kỳ họp Quốc hội là không có
nhận thức thực hiện được nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo đảm pháp chế
tính khả thi.
XHCN. Trật tự và công bằng xã hội. Đây là nhiệm vụ không kém phần quan
- Một số yêu cầu đặt ra nhằm nâng cao hoạt động thẩm tra:
trọng và cần thiết thuộc về trách nhiệm của Uỷ ban pháp luật.
Trong tình hình và điều kiện hiện nay, nhiều ý kiến cho rằng để nâng
+ Bảo đảm tiến độ, trình tự, thủ tục thẩm tra theo đúng quy định của
cao chất lượng các dự án luật, pháp lệnh phải tập trung từ giai đoạn soạn thảo,
quy trình lập pháp. Điều này có ý nghĩa là thẩm tra phải được tiến hành theo
đây là điều rất đúng. Tuy nhiên, chất lượng các dự án là kết quả chung của
đúng quy trình về mặt thời gian, tiến độ, thủ tục trình tự theo luật định. Mọi
các giai đoạn của một quy trình nên cần quan tâm đúng mức giai đoạn tại các
dự án luật pháp lệnh trước khi được trình ra Quốc hội hoặc UBTVQH xem
xét, thông qua thì bắt buộc phải qua công đoạn thẩm tra, không có một ngoại
lệ nào. Nếu dự án luật chưa qua công đoạn thẩm tra thì cũng không được trình
UBTVQH để xem xét, cho ý kiến hoặc công bố xin ý kiến nhân dân và đương
nhiên không thể trình ra Quốc hội hoặc UBTVQH xem xét, thông qua.
ủy ban Quốc hội là một trong những giai đoạn không kém phần quan trọng
bảo đảm đủ yêu cầu đặt ra, để khi trình Quốc hội, UBTVQH các dự án nhanh
chóng được thông qua. Nâng cao chất lượng thẩm tra dự án luật, pháp lệnh
của ủy ban của Quốc hội có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần bảo đảm tiến độ,
thời gian xem xét thông qua các dự án luật, pháp lệnh cũng như chất lượng
của các dự án. Nếu trong quá trình thẩm tra, ủy ban có điều kiện phân tích,
35
36
đánh giá cụ thể về sự cần thiết, sự phù hợp của từng điều luật với thực tế
thiết ban hành văn bản, đối tượng, phạm vi điều chỉnh sự phù hợp của nội
khách quan, về tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản đối
dung dự án với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, tính hợp hiến,
với hệ thống pháp luật thì sẽ làm cơ sở vững chắc cho Ban soạn thảo và các
hợp pháp của văn bản với hệ thống pháp luật, tính khả thi của dự án. Các vấn
cơ quan hữu quan nhanh chóng tiếp thu và chỉnh lý dự thảo văn bản.
đề quan trọng còn có các ý kiến quan điểm khác nhau giữa các thành viên
Để nâng cao chất lượng hoạt động thẩm tra phải tiếp tục có thêm nhiều
hoặc giữa các thành viên với ban soạn thảo, các đề xuất, giải pháp đưa ra đều
biện pháp, trong đó cần nghiên cứu phân công về cơ quan chủ trì thẩm tra,
phải được thảo luận kỹ và thể hiện trong báo cáo thẩm tra. Chủ tọa (người
tham gia hoặc phối hợp thẩm tra cho rõ ràng, hợp lý giữa các ủy ban Quốc hội
điều khiển phiên họp) phải bố trí thời gian hợp lý, đề nghị thành viên tham dự
tạo điều kiện cho các cơ quan hoàn thành nhiệm vụ. Bên cạnh đó còn có quy
đông đủ, phối hợp lấy ý kiến của các cơ quan hữu quan, hướng các đại biểu
chế đánh giá chất lượng dự án do cơ quan thể hiện rõ trách nhiệm và có tác
thảo luận vào những vấn đề trọng tâm của dự án.
dụng nâng cao chất lượng của các giai đoạn trong quy trình chung. Muốn tiến
+ Thẩm tra dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết phải đảm bảo sự
hành thẩm tra một dự án có chất lương thì trước hết phải bảo đảm và quan
lãnh đạo của Đảng. Dự án luật, dự án pháp lệnh hoặc dự thảo nghị quyết đưa
tâm đến các yêu cầu sau:
ra phải chuyển tải nội dung đường lối chính sách của Đảng. Bởi vì, ở nước
+ Các tài liệu phục vụ phiên họp thẩm tra phải được gửi đến các thành
CHDCND Lào, Đảng NDCM Lào là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.
viên dự án họp đúng quy định, các thủ tục về thời gian gửi tờ trình, dự án luật,
Mọi chủ trương, đường lối của Đảng xuất phát từ nhân dân, mang nội dung
dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết cho ủy ban phải được tuân thủ nghiêm
dân chủ, phản ánh quy luật khách quan của sự vận động xã hội. Trong điều
ngặt, chậm nhất là hai mươi ngày, trước ngày phiên họp UBTVQH cơ quan tổ
kiện Đảng cầm quyền thì bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng cũng là một đặc
chức, đại biểu Quốc hội trình dự án phải gửi tờ trình, dự án luật, dự án pháp
trưng tất yếu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
lệnh, dự thảo nghị quyết tới cơ quan thẩm tra để tiến hành thẩm tra. Tờ trình
dân, do dân và vì dân, lấy pháp luật là phương tiện quản lý nhà nước và xã
về dự án văn bản phải là bản chính thức có ký tên, đóng dấu của Thủ tướng
hội.
hoặc Thủ tướng cơ quan có thẩm quyền. Mặc dù đó là quy định về thủ tục
+ Thẩm tra phải đánh giá chính xác về tính hợp hiến, hợp pháp và tính
nhưng có ý nghĩa quan trọng đối với Thường trực ủy ban, Các thành viên ủy
thống nhất của văn bản đối với hệ thống pháp luật. ủy ban là cơ quan chuyên
ban và bộ phận tham mưu giúp việc trong việc bố trí thời gian để nghiên cứu
môn của Quốc hội, do đó nhiệm vụ của ủy ban phải là nghiên cứu, xem xét tất
trước, tìm hiểu, so sánh với quy định của pháp luật hiện hành, tham khảo ý
cả những vấn đề thuộc nội dung và hình thức của dự án. Nội dung của dự án
kiến của các chuyên gia ở địa phương hoặc tài liệu tham khảo của nước ngoài,
không những phải phù hợp với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội mà
tổ chức khảo sát thực tiễn, bảo đảm cho việc thẩm tra có chất lượng thực sự.
còn phải phù hợp về thẩm quyền, trình tự ban hành văn bản, nó không những
+ Phiên họp thẩm tra phải được tiến hành xem xét, thảo luận, tranh luận
về tất cả các vấn đề thuộc nội dung và hình thức của văn bản. Đó là: về sự cần
rõ ràng, rành mạch về nội dung mà còn chặt chẽ lôgíc về kỹ thuật lập pháp mà
trình tự và thủ tục này đã được luật quy định.
37
38
+ Trước khi tiến hành thẩm tra, ủy ban thẩm tra có thể tiến hành các
chỉ là một tất yếu mà còn là một đặc trưng trong cách mạng XHCN. Tổ chức
hoạt động hỗ trợ thẩm tra như khảo sát thực tiễn, tham gia xây dựng dự án
hoạt động giám sát phụ thuộc vào tính chất, trình độ của việc tổ chức quản lý
luật, pháp lệnh, nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, yêu cầu ban
trong mỗi chế độ xã hội. Như vậy hoạt động giám sát trong XHCN, theo
soạn thảo báo cáo tiến độ, nội dung cơ bản của dự án, xin ý kiến góp ý của
Lênin trước hết phải xác lập vai trò chủ động sáng tạo, tự giác của quần chúng
nhân dân, các ngành các cấp về dự án luật, pháp lệnh, tham khảo ý kiến của
nhân dân là cơ sở nền tảng để xây dựng hoạt động giám sát, là nhân tố cơ bản
các chuyên gia, các cộng tác viên. Các hoạt động hỗ trợ cho thẩm tra này
của xã hội mới. Nội dung của cuộc cách mạng càng sâu sắc và triệt để bao
không phải là một yêu cầu bắt buộc trong quy trình thẩm tra. Tuy nhiên thực
nhiêu thì quần chúng càng có những hành động lịch sử tích cực bấy nhiêu.
tiễn là cơ sở của lý luận, soi sáng dẫn đường cho lý luận. Một đạo luật được
Một trong những hành động tích cực ấy là việc quần chúng thực hiện hoạt
ban hành nếu không phù hợp với thực tiễn cuộc sống sẽ không có hiệu lực
động giám sát trên toàn xã hội. Quần chúng tiến hành giám sát là một trong
trên thực tế, tác động và ảnh hưởng xấu đến xã hội. Vì thế, thông qua các hoạt
những quá trình thực hiện dân chủ hóa. Quá trình thực hiện dân chủ trong một
động khảo sát thực tiễn, thu thập ý kiến của các tầng lớp nhân dân. Trong xã
hoạt động của đời sống xã hội là cơ sở thực hiện có hiệu quả hoạt động quản
hội sẽ giúp cho ủy ban có đủ các căn cứ vững chắc chuẩn xác khi thảo luận
lý nhà nước XHCN. Là chỗ dựa cho hoạt động kiểm tra, giám sát của Nhà
biểu quyết về những vấn đề về chính sách mà dự án nêu ra. Mặt khác, ủy ban
nước. Điều đó theo Lênin, phù hợp với nguyên tắc tập trung dân chủ trong
cũng có đủ căn cứ để bác bỏ những chính sách đưa ra không hợp lý. Không có
quản lý nhà nước. Trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng, Lênin đã coi hoạt
tính khả thi, làm tốn kém chi phí ngân sách của nhà nước và tiền bạc của nhân
động kiểm tra, giám sát là một khía cạnh quan trọng của chế độ dân chủ sau
dân, bảo đảm cho các quy định của luật, pháp lệnh không xa rời thực tiễn, làm
khi khẳng định mọi người đều thực sự tham gia quản lý nhà nước, và hiệu quả
cho người dân tin tưởng, tự nguyện tự giác chấp hành pháp luật.
của quá trình hoạt động ấy thật là vô giá. Nhấn mạnh vai trò của quần chúng
1.2.2. Chức năng và phương thức hoạt động giám sát của Uỷ ban
pháp luật của Quốc hội nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào
1.2.2.1. Chức năng giám sát của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội
nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào
- Quan niệm giám sát
Theo quan niệm của Lênin, giám sát là sự cần thiết khách quan phải có
trong cách mạng XHCN và coi đó là tất yếu không thể thiếu được, thậm chí là
một vấn đề vốn có của CNXH. Trong những tác phẩm nổi tiếng của Lênin đã
nhiều lần khẳng định "Chủ nghĩa xã hội là kiểm tra và kiểm soát", "chủ nghĩa
xã hội chính là sự giám sát". Lênin coi việc tổ chức hoạt động giám sát không
tham gia hoạt động kiểm tra, giám sát, Lênin viết: "Khi đa số nhân dân tự
mình và ở khắp mọi nơi tiến hành kiểm kê, giám sát thì sự giám sát đó thật là
vạn năng, phổ biến và có tính chất toàn dân. Không có ai trốn thoát sự giám
sát đó bằng cách nào được cả, không còn trốn vào đâu được cả" [13, tr.15].
Một trong những biện pháp quan trọng theo Lênin: công tác kiểm tra
giám sát phải được thể chế hóa bằng pháp luật. Quan điểm của Lênin về việc
thể chế hóa công tác kiểm tra, giám sát bằng pháp luật là một bộ phận trong
hệ thống quan điểm về đời sống pháp luật với các nội dung cơ bản: ý chí của
Nhà nước, của giai cấp thống trị được thể chế hóa thành pháp luật. Pháp luật
chỉ trở thành hành vi cụ thể, thành quan hệ pháp luật trong đời sống thực tế
39
sinh động hàng ngày khi nó được thực hiện nghiêm chỉnh và được kiểm tra,
giám sát việc tuân theo và chấp hành pháp luật.
Những quan điểm trên đây của Lênin về kiểm tra, giám sát là cơ sở lý
luận để hiểu biết chức năng giám sát của Quốc hội nói chung và chức năng
giám sát của Uỷ ban pháp luật nói riêng.
40
- Lĩnh vực được giám sát, đối tượng giám sát và địa bàn giám sát cơ
chế, thẩm quyền giám sát của Uỷ ban pháp luật được thực hiện theo quy định
của luật và theo sự phân công của UBTVQH;
- Uỷ ban pháp luật chịu sự chỉ đạo, điều hòa phối hợp hoạt động giám
sát của UBTVQH.
Uỷ ban pháp luật là một cơ quan của Quốc hội, được Quốc hội bầu ra,
Đối tượng chịu sự giám sát của Uỷ ban pháp luật là Chính phủ, Bộ, cơ
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, các
quan ngang Bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các
thành viên của Uỷ ban pháp luật là các đại biểu của nhân dân, do nhân dân ở
cơ quan, tổ chức và công dân. Giám sát là một trong ba chức năng của Uỷ ban
các địa phương khác nhau bầu ra, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà
pháp luật, chức năng giám sát của Uỷ ban pháp luật là theo dõi, xem xét, đánh
nước. Uỷ ban pháp luật thực hiện quyền giám sát cũng chính là việc thực hiện
giá hoạt động thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết
quyền lực mà nhân dân giao cho mình. Uỷ ban pháp luật thực hiện quyền
của UBTVQH, xem xét tính hợp hiến, hợp pháp đối với các văn bản quy phạm
giám sát để bảo đảm thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp
pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
lệnh, nghị quyết của UBTVQH. Giám sát tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống
quan ngang Bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, văn
nhất của các văn bản do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân
bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở
tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành hoặc giám sát văn bản của
Trung ương hoặc giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan Trung
Bộ, cơ quan ngang Bộ thuộc lĩnh vực ủy ban phụ trách, Giám sát của Uỷ ban
ương của tổ chức chính trị - xã hội thuộc lĩnh vực Uỷ ban phụ trách. Hiệu quả
pháp luật là giám sát mang tính quyền lực nhà nước [35, tr.15]. Tuy nhiên,
gíam sát tổcủa UBPL là quyền đưa ra các kết luận, kiến nghị, yêu cầu các cơ
khác với Quốc hội, quyền giám sát tối cao chỉ thuộc về Quốc hội và chỉ duy
quan tổ chức bị giám sát nghiên cứu xem xét xử lý theo thẩm quyền về các
nhất Quốc hội mới có quyền giám sát tối cao tại kỳ họp; quyền giám sát của
hành vi vi phạm pháp luật, yêu cầu cơ quan có thẩm quyền sửa đổi hoặc hủy bỏ
Uỷ ban pháp luật bị hạn chế, giới hạn trong phạm vi lĩnh vực mà Quốc hội
văn bản trái pháp luật, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý những người có
giao, thông qua các quy định của pháp luật với những đặc điểm sau đây:
hành vi vi phạm pháp luật, đề nghị bỏ phiếu tín nhiệm.
- Quyền giám sát của Uỷ ban pháp luật là một quyền độc lập, hoạt động
chỉ có tính chất tư vấn, phục vụ quyền giám sát tối cao của Quốc hội;
- Quyền giám sát của Uỷ ban pháp luật chỉ giới hạn trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban pháp luật;
Phương thức hoạt động giám sát của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội nước
CHDCND Lào:
Uỷ ban pháp luật của Quốc hội nước CHDCND Lào thực hiện phương
thức hoạt động giám sát nhằm bảo đảm pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh
trong các cơ quan nhà nước và mọi tổ chức, công dân.
41
42
Trong hoạt động giám sát, Uỷ ban pháp luật sử dụng các phương thức
sau đây:
Trong trường hợp phát hiện văn bản quy phạm pháp luật có quy định
trái luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH thì
- Họp toàn thể hoặc họp Thường trực ủy ban để nghe báo cáo về hoạt
Uỷ ban pháp luật trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình yêu cầu chính
động của các đối tượng chịu sự giám sát, yêu cầu cơ quan báo cáo về những
cơ quan ban hành văn bản xem xét lại và tự quyết định đình chỉ việc thi hành,
vấn đề mà ủy ban quan tâm;
sửa đổi hoặc bãi bỏ văn bản trái pháp luật đó. Cơ quan ban hành văn bản có
- Tổ chức đoàn giám sát việc thực thi pháp luật;
trách nhiệm thông báo cho Uỷ ban pháp luật việc giải quyết yêu cầu của ủy
- Nghiên cứu xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, nắm thông tin qua các
ban trong một thời gian nhất định. Trong trường hợp cơ quan ban hành văn
phương tiện thông tin đại chúng.
bản không chấp nhận yêu cầu của Uỷ ban pháp luật thì ủy ban kiến nghị
Thẩm tra các báo cáo phục vụ cho nhiệm vụ giám sát.
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hoặc báo cáo UBTVQH xem xét, quyết
Theo quy định tại Điều 28 của Luật giám sát của Quốc hội, Uỷ ban
định.
pháp luật của Quốc hội có nhiệm vụ thẩm tra, nghiên cứu các báo cáo về thi
Uỷ ban pháp luật tiến hành giám sát theo trình tự sau đây:
hành hiến pháp, pháp luật, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và kế hoạch ngân
- Yêu cầu các cơ quan hữu quan gửi báo cáo theo thời gian quy định để
sách nhà nước và các văn bản pháp luật do Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ,
các thành viên ủy ban có điều kiện thời gian nghiên cứu và chuẩn bị ý kiến
Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành.
Trình tự, thủ tục Uỷ ban pháp luật giám sát văn bản quy phạm pháp luật:
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Uỷ ban pháp luật có
trách nhiệm thường xuyên theo dõi, đôn đốc Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ. Tòa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao ban hành văn bản quy phạm pháp luật để hướng dẫn
thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH
đúng thời gian quy định.
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang
Bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao khi ban hành các
trước khi dự họp ủy ban;
- Tổ chức các hoạt động kiểm tra, khảo sát, giám sát thực tế;
- Tổ chức lấy ý kiến của các chuyên gia các cơ quan, tổ chức hữu quan.
- Yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan cung cấp tài liệu hoặc mời đại
diện các cơ quan đến dự phiên họp thẩm tra của ủy ban để trình bày, làm rõ
các vấn đề ủy ban quan tâm.
- Theo dõi trên các phương tiện thông tin đại chúng;
- Nghiên cứu đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân gửi tới Uỷ ban
pháp luật hoặc các đơn thư do các đồng chí lãnh đạo Quốc hội giao.
văn bản quy phạm pháp luật và các cơ quan tổ chức khi ban hành văn bản quy
Trên cơ sở các hoạt động này, ủy ban có thể tổng hợp đầy đủ các căn
phạm pháp luật liên tịch phải có trách nhiệm gửi văn bản đã ban hành cho
cứ để xem xét, đánh giá chi tiết về nội dung, hình thức và các số liệu được
UBPL để giám sát. Khi nhận được văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan hữu
trình trong báo cáo, kết quả hoạt động, sự chuyển biến, tiến bộ, những ưu
quan gửi đến, Uỷ ban pháp luật có trách nhiệm xem xét, nghiên cứu nội dung
điểm khuyết điểm của các cơ quan bảo vệ pháp luật, những công tác trọng
của văn bản.
tâm và những giải pháp thực hiện trong thời gian giao tới.
43
Tổ chức các đoàn giám sát:
44
Uỷ ban pháp luật có nhiệm vụ giám sát việc ban hành các nghị quyết,
Tổ chức các đoàn giám sát là hoạt động được áp dụng tương đối phổ
nghị định của Chính phủ, các văn bản của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm
biến đối với các ủy ban Quốc hội. Căn cứ pháp lý để thành lập các đoàn giám
sát nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát,
sát là chương trình công tác của Uỷ ban pháp luật hoặc do Quốc hội,
xét xử. Uỷ ban pháp luật giám sát "việc ban hành" các văn bản nói trên là
UBTVQH giao tại Điều 32 của Luật Giám sát của Quốc hội năm 2003, ủy ban
giám sát tất cả các công đoạn từ việc soạn thảo, thẩm định cho đến khi trình
Quốc hội có thể thành lập Đoàn giám sát khi có sự cần thiết trong công tác
thông qua các văn bản đó. Uỷ ban pháp luật còn có nhiệm vụ giám sát việc
giám sát nhưng phải có sự đồng ý của UBTVQH.
giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến Quốc hội. Uỷ ban pháp luật
Trong quyết định thành lập Đoàn giám sát phải quy định rõ nội dung,
có trách nhiệm tiếp nhận và xử lý các đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân
quyền hạn, nghĩa vụ, mục đích giám sát đối với cơ quan đối tượng chịu sự
về lĩnh vực tư pháp. Đối tượng giám sát của Uỷ ban pháp luật trong lĩnh vực
giám sát, và phải thông báo cho cơ quan, đối tượng biết trước hoạt động giám
này là việc giải quyết những đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân về các vụ
sát 7 ngày.
việc thuộc lĩnh vực hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế, lao động, thi hành án,
Quyền hạn và nghĩa vụ của Đoàn giám sát:
xâm phạm hoạt động tư pháp và một số vụ việc khác, hình thức giám sát là
- Yêu cầu các cơ quan bị giám sát báo cáo, các tài liệu thuộc nội dung
dựa trên kết quả nghiên cứu, phân loại, xử lý các đơn thư của vụ giúp việc đề
giám sát;
tiến hành giám sát hoặc chuyển đến cơ quan thẩm quyền xem xét, giải quyết
- Thẩm tra, đánh giá báo cáo và các tài liệu;
và theo dõi, đôn đốc việc giải quyết các đơn thư đó. Đối với các đơn thư
- Kiến nghị các giải pháp khắc phục khi phát hiện có vấn đề trái pháp luật.
khiếu nại bức xúc kéo dài, vụ việc đã qua nhiều cấp xét xử nhưng đương sự
- Gửi báo cáo thẩm tra đánh giá giám sát cho ủy ban trong thời gian 10
vẫn tiếp tục khiếu nại, thì ủy ban tổ chức tiến hành giám sát cá biệt để đề xuất
ngày kể từ ngày kết thúc giám sát.
Trình tự thẩm tra và giải quyết kết quả giám sát của Đoàn giám sát:
- Đoàn giám sát trình bày kết quả giám sát tại cuộc họp toàn thể của ủy ban;
- Cơ quan bị giám sát có thể giải thích các vấn đề đã đặt ra trong báo
cáo kết quả giám sát.
các cơ quan có các biện pháp giải quyết hoặc đề nghị UBTVQH yêu cầu cơ
quan xem xét, giải quyết theo thẩm quyền.
Một số vấn đề phải quan tâm nhằm nâng cao hoạt động giám sát của
Uỷ ban pháp luật của Quốc hội nước CHDCND Lào.
- Báo cáo kết quả giám sát là văn bản pháp lý quan trọng nhất phản ánh
- Thành viên tham dự thảo luận, góp phần ý kiến;
toàn bộ nội dung hoạt động giám sát của ủy ban. Các kết luận, kiến nghị trong
- Chủ nhiệm ủy ban tổng kết các ý kiến thảo luận và các thành viên ủy
báo cáo giám sát chính là các tiêu chí để đánh giá chất lượng và hiệu lực hoạt
ban bỏ phiếu quyết định. Nếu trong trường hợp giám sát phát hiện có hành vi
động giám sát của ủy ban. Vì vậy, nội dung báo cáo giám sát phải thể hiện rõ
vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc ngoài phạm vi nhiệm vụ của ủy ban. ủy
các yêu cầu sau đây:
ban có thể báo cáo trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định.
45
- Đánh giá chính xác, khách quan tình hình thực hiện pháp luật, các vi
phạm luật, những tồn tại, vướng mắc trong quá trình thực thi pháp luật. Các
nhận xét, đánh giá về tình hình thi hành pháp luật và kiến nghị của hoạt động
giám sát bảo đảm để các đối tượng chịu sự giám sát có thể khắc phục kịp thời,
tránh dây dưa, kéo dài.
46
1.2.3. Chức năng và phương thức hoạt động kiến nghị của Uỷ ban
pháp luật của Quốc hội nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào
1.2.3.1. Chức năng kiến nghị của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội
nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào
Chức năng kiến nghị của Uỷ ban pháp luật xuất phát từ các quyền năng
Xác định trọng tâm, trọng điểm nội dung, đối tượng giám sát rõ ràng,
của Quốc hội: quyền lập hiến, lập pháp, quyền quyết định các vấn đề quan
mục đích và thời điểm mà ủy ban xác định nội dung cần tập trung giám sát,
trọng của đất nước và quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của
nhưng phải quán triệt quan điểm kết quả giám sát là phục vụ chủ yếu cho hoạt
Nhà nước. Các ủy ban của Quốc hội là bộ máy tham mưu giúp Quốc hội và
động lập pháp, mang tính vĩ mô mà không nên tập trung quá nhiều vào việc
Uỷ ban thường vụ Quốc hội; thực hiện chức năng nhiệm vụ mà Quốc hội, Uỷ
giải quyết các vụ việc cá biệt.
ban thường vụ giao cho. Uỷ ban pháp luật của Quốc hội có chức năng thẩm
Hoạt động giám sát có thể được tiến hành bằng nhiều hình thức khác
tra giám sát các dự án luật, pháp lệnh, chức năng giám sát hoạt động của cơ
nhau, nhưng dù bằng hình thức nào ủy ban cũng không tổ chức giám sát tràn
quan hành pháp và tư pháp. Thông qua hoạt động từ hai chức năng nói trên đã
lan, dàn trải, có quá nhiều đoàn giám sát trong cùng một địa bàn hoặc cơ cấu
Đoàn giám sát quá nhiều thành viên sẽ gây khó khăn, phiền hà cho cơ quan,
địa phương nơi ủy ban tiến hành giám sát. ủy ban cần kết hợp việc nghe các
cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan báo cáo, yêu cầu các cơ quan tổ chức, đơn
vị đó giải trình cụ thể về những vấn đề mà ủy ban quan tâm đồng thời cần kết
hợp tìm hiểu, xem xét, khảo sát thu thập thông tin có liên quan đến những vấn
đề mà chương trình kế hoạch giám sát đã đặt ra.
+ Các kết luận, kiến nghị các biện pháp giải quyết phải rõ ràng cụ thể,
có tính khả thi, các cơ quan có trách nhiệm phải thi hành các kết luận, kiến
nghị, các biện pháp giải quyết phải quan tâm đến lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân.
+ Báo cáo giám sát phải được đưa ra phiên họp toàn thể, hoặc phiên họp
Thường trực ủy ban mở rộng để thảo luận, hoặc phải được gửi đến các thành
viên ủy ban góp ý kiến và biểu quyết nhất trí về các kiến nghị, giải pháp đưa ra.
xuất hiện một chức năng là chức năng kiến nghị. Có thể nói chức năng kiến
nghị của Uỷ ban pháp luật là hệ quả của việc thực hiện chức năng thẩm tra và
chức năng giám sát. Thông qua hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh,
Uỷ ban pháp luật đề ra các giải pháp các phương án về nội dung, hình thức và
các yêu cầu của dự án luật, pháp lệnh, Uỷ ban pháp luật có thể đưa ra các
đánh giá về chất lượng các dự án, về nội dung của từng vấn đề hoặc các điều
khoản cụ thể sửa đổi hoặc hủy bỏ để Quốc hội, UBTVQH có cơ sở xem xét
nghiên cứu trước khi thông qua. Bằng hoạt động giám sát, Uỷ ban pháp luật
đưa ra các kiến nghị, khuyến nghị về các giải pháp để các đối tượng bị giám
sát có thể nghiên cứu sửa chữa các sai sót hoặc xử lý những trường hợp vi
phạm pháp luật, hoặc kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý các hành vi
sai trái.
Chức năng kiến nghị của Uỷ ban pháp luật được thể hiện thông qua hoạt
động thẩm tra, hoạt động giám sát hoặc tham gia phối hợp thẩm tra, giám sát với
các ủy ban khác của Quốc hội. Các kiến nghị của ủy ban là kiến nghị mang tính
47
48
quyền lực nhà nước, vì lợi ích của nhân dân mà không vì lợi ích của một cá nhân
giải quyết khiếu nại, về các sai phạm của cán bộ có thẩm quyền, từ đó kiến
thành viên ủy ban hoặc cá nhân khác. Kiến nghị của ủy ban là mang tính vĩ mô,
nghị các giải pháp thích hợp để giảm bớt tình hình khiếu nại, tố cáo bức xúc.
khác với kiến nghị của tổ chức, cá nhân gửi đến các cơ quan nhà nước hoặc gửi
Thông qua hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính
đến Quốc hội là các kiến nghị cụ thể ở tầm vĩ mô hoặc của tổ chức. Các kiến nghị
phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
của ủy ban là kiến nghị tập thể ủy ban, các kiến nghị này đã được xem xét, thảo
tối cao, của Bộ trưởng, Thủ tưởng cơ quan ngang Bộ, văn bản quy phạm pháp
luận và quyết định bằng các phiên họp toàn thể hoặc phiên họp Thường trực ủy
ban và được thể hiện thông qua báo cáo thẩm tra hoặc báo cáo giám sát. Các kiến
nghị mặc dù chỉ có tính chất tư vấn nhưng nó là cơ sở để các đại biểu Quốc hội
hoặc các thành viên UBTVQH xem xét, thảo luận và quyết định.
luật liên tịch thuộc lĩnh vực do ủy ban phụ trách, Uỷ ban pháp luật kiến nghị
các cơ quan này kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp
lệnh. Trong trường hợp phát hiện văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái
với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội thì kiến nghị UBTVQH xem
xét, đình chỉ việc thi hành và trình Quốc hội hủy bỏ hoặc bãi bỏ văn bản đó;
Thông qua hoạt động thẩm tra chương trình xây dựng luật, pháp lệnh,
kiến nghị UBTVQH; xem xét, hủy bỏ hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp
Uỷ ban pháp luật kiến nghị với Quốc hội, UBTVQH ban hành mới hoặc sửa
luật trái với pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH kiến nghị Thủ tướng Chính
đổi, bổ sung một số văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, kiến nghị với
phủ xem xét, bãi bỏ văn bản của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ có
Quốc hội đổi mới quy trình thông qua luật.
dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh nghị
Thông qua hoạt động thẩm tra các báo cáo của Chính phủ, Tòa án nhân
quyết của UBTVQH. Thông qua hoạt động giám sát, nếu phát hiện những
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Uỷ ban pháp luật kiến nghị với
người do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm
Quốc hội, UBTVQH yêu cầu các cơ quan thống nhất về thời gian tổng hợp
trọng, làm thiệt hại đến lợi ích nhân dân thì ủy ban có quyền kiến nghị
các số liệu trên cơ sở đó đánh giá chính xác tình hình tội phạm và vi phạm
pháp luật, tình hình khiếu nại, tố cáo công dân, về công tác điều tra kiểm sát,
xét xử, thi hành án, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
- Uỷ ban pháp luật kiến nghị với Quốc hội, UBTVQH xem xét sửa đổi,
UBTVQH xem xét trình Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người do
Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn theo quy định của pháp luật.
1.3. YÊU CẦU KHÁCH QUAN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CỦA UỶ BAN
PHÁP LUẬT CỦA QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
bổ sung hoặc ban hành mới một số chính sách không còn phù hợp trong các
1.3.1. Nâng cao chất lượng hoạt động của Uỷ ban pháp luật của
luật, pháp lệnh hiện hành. Các kết luận đánh giá của các Đoàn giám sát là các
Quốc hội nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào là yêu cầu khách quan
kiến nghị xác đáng về những vấn đề cụ thể để các địa phương, cơ quan được
của việc nâng cao sự lãnh đạo của Đảng
giám sát nghiên cứu, tiếp thu kịp thời xử lý những sai phạm, thông qua việc tổ
chức giám sát các vụ án cá biệt, Uỷ ban pháp luật phát hiện những vướng mắc
trong việc thực thi pháp luật, nhất là những vướng mắc về thời hạn, thời hiệu
Công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ, có nguyên tắc, có bước đi vững
chắc của Đảng NDCM Lào đã được coi là một nguyên tắc của cách mạng.
Càng tiến hành tích cực sự nghiệp đổi mới thì càng đòi hỏi phải tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan quyền lực nhà nước. Trong đó
49
trọng tâm là cơ quan lập pháp - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Đại hội
lần thứ bảy của Đảng NDCM Lào đã nhấn mạnh:
50
Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng của Đảng và đã được khẳng định
trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Lào. Kiên định mục tiêu mà Đảng và
Để tăng cường quản lý nhà nước - xã hội bằng pháp luật chúng ta
nhân dân các bộ tộc Lào đã lựa chọn. Trong khi nhiều Đảng cộng sản xa rời
phải tập trung củng cố các cơ quan quyền lực nhà nước để có khả năng
mục tiêu XHCN và học thuyết Mác - Lênin, Đảng NDCM Lào kiên định: giữ
hoạt động có hiệu quả theo chức năng của mình. Trước hết phải tập
vững định hướng XHCN coi đó là nguyên tắc, là mục tiêu phải bám sát trên
trung nâng cao vai trò và củng cố hoạt động, tổ chức của Quốc hội phải
mọi chặng đường của cách mạng Lào. Tuy nhiên, để đạt tới mục tiêu ấy đòi
nâng cao ý thức và kiến nghị và chất lượng chính trị của Đại biểu Quốc
hỏi phải có những quan điểm đúng đắn về CNXH. Nhưng vấn đề đặt ra trong
hội cao hơn nữa. Tạo điều kiện cho Đại biểu Quốc hội bám sát với nhân
giai đoạn mới cần phải nhận thức về xây dựng CNXH như thế nào để tránh
dân, củng cố, cải cách kiểu mẫu và cách làm việc của Quốc hội và tăng
cường sự phối hợp với cơ quan nhà nước khác [28, tr.47].
Những nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào:
- Nguyên tắc giữ vững định hướng XHCN, gắn độc lập dân tộc với CNXH:
Lịch sử của cách mạng Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chứng minh
rõ quy luật của cách mạng Lào là "độc lập dân tộc gắn liền với CNXH". Chỉ
có đi lên XHCN mới giành và giữ được độc lập, tự do cho dân tộc, không gắn
giải phóng dân tộc với mục tiêu XHCN thì không thể huy động được sức
mạnh của các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động trong quá trình đấu tranh
tình trạng chủ quan, duy ý chí, rập khuôn như trước đây. Chủ nghĩa xã hội
theo quan điểm cũ là coi trọng chế độ sở hữu công cộng, duy trì cơ chế quản
lý tập trung, bao cấp đã hạn chế quyền tự do dân chủ, sáng kiến cá nhân, kìm
hãm nhân sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan điểm mới về CNXH là
chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước và mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới. Đó là
một sự chuyển biến căn bản về tư duy mới giúp Đảng khắc phục được tình
trạng chủ quan, duy ý chí trong việc hoạch định các chính sách phát triển kinh
vì độc lập và cách mạng sẽ không thể thắng lợi. Như vậy xét về mặt lý luận và
tế - xã hội, tạo tiền đề mới cho Đảng xác định con đường phát triển của cách
thực tiễn muốn giải phóng dân tộc thoát khỏi áp bức, bóc lột, nô dịch dân tộc
mạng phù hợp với đặc điểm của Lào. Cùng với sự thay đổi toàn diện và sâu sắc về
không còn có con đường nào khác ngoài con đường đi lên CNXH. Ngày nay,
kinh tế, xã hội, chế độ dân chủ nhân dân sẽ ngày được củng cố và phát triển, chế độ
giữ vững định hướng XHCN vẫn là định hướng tư tưởng rất quan trọng, đặc
làm chủ của nhân dân sẽ ngày càng được hoàn thiện và từng bước phát triển thành
biệt, trong tình hình hiện nay, khi đất nước đang đứng trước thời cơ và vận
CNXH. Như vậy CNXH thực chất là hình thức phát triển cao nhất của chế độ dân
hội lớn cùng với những thách thức và nguy cơ không thể xem thường. Giữ
chủ nhân dân mà Đảng và nhân dân các bộ tộc Lào đang dầy công xây dựng.
vững định hướng XHCN đã trở thành một nguyên tắc của đổi mới cũng như
Do vậy, con đường đi lên CNXH của cách mạng Lào bằng con đường
đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan quyền lực nhà nước nói
phát triển chế độ dân chủ là một con đường tất yếu của cách mạng Lào. Bởi vì
chung và cơ quan lập pháp nói riêng (Quốc hội). Điều đó thực chất là kiên trì
thực chất chế độ dân chủ nhân dân cũng chính là một trong những hình thức
sự lựa chọn con đường phát triển của dân tộc, là sự vận dụng sáng tạo tư
quá độ lên CNXH. Do đó khẳng định Nghị quyết Trung ương 7 khóa V
tưởng độc lập dân tộc với CNXH của Đảng NDCM Lào trong giai đoạn mới.
(1/1989) của Đảng NDCM Lào về xác định lại con đường đi lên CNXH ở Lào