Mục lục
I. Giới thiệu chung.
1. Điều kiện tự nhiên của bản Xà
2. Điều kiện kinh tế xã hội,phong tục tập quán của bản.
3. Lịch sử hình thành của bản.
II.Tình hình chăn nuôi của bản Xà
1. Vị trí, vai trò của ngành chăn nuôi trong phát triển kinh tế của bản.
2. Tình hình chăn nuôi của bản trớc đổi mới (năm 1986 ).
3. Tình hình chăn nuôi của bản từ đổi mới đến nay.
4. So sánh tình hình chăn nuôi của bản với các vùng( bản ) khác trong toàn xã.
III. Nhận xét, kết luận.
1
I. Giới thiệu chung.
Để tìm hiểu sâu hơn con ngời, phong tục tập quán cũng nh cuộc sống sinh
hoạt vật chất và tinh thần của đồng bào ngời Thái ở miền núi trung du phía Bắc,
theo chơng trình của bộ môn Nhân Học đoàn thực tập lớp K49 Lịch Sử chúng tôi
đã tổ chức một cuộc khảo sát ngắn tại Bản Xà, xã Huy Hạ, huyện Phù Yên, tỉnh
Sơn La. Qua tiếp xúc và tìm hiểu chúng tôi cũng đã hiểu thêm phần nào con ngời
cũng nh cuộc sống ở đây. Trong báo cáo thực tế này, nhóm chúng tôi chỉ đi sâu
tìm hiểu tình hình chăn nuôi của bản Xà trớc đây và hiện nay.
1.Điều kiện tự nhiên của Bản.
Điều kiện tự nhiên của bản Xà ,xã Huy Hạ, huyện Phù Yên mang đặc điểm
chung của vùng Tây Bắc.
- Địa hình: Huy Hạ có địa hình không bằng phẳng, nhiều đồi núi,độ dốc cao
xen lẫn đồi núi là các thung lũng nhỏ chính vì vậy mà nên kinh tế ở đây nằm trong
tình trạng sản xuất nhỏ, manh mún khó tạo thành các vùng chuyên canh lớn.
- Đất đai: Đất feralit đỏ vàng, nghèo dinh dỡng, độ chua cao, không thích
hợp với việc trồng lúa,chỉ thích hợp với việc trồng rừng, cây công nghiệp. Do độ
dốc của địa hình nên dễ bị rửa trôi vào mùa ma.
- Khí hậu: Nhiệt đới ẩm gió mùa, phân hoá theo độ cao, khá thích hợp với
các loại cây ôn đới nh bắp cải, su hào.
- Nớc: nguồn nớc cung cấp cho sản xuất và sinh hoạt là suối Tấc, lợng nớc
phân hoá theo mùa cùng với mùa ma và mùa khô.
2.Điều kiện xã hội, phong tục tập quán của bản.
- Cơ sở vật chất: Bản Xà là địa bàn nằm gần đờng quốc lộ 37, tuy nhiên đờng
đi lại trong bản rất khó khăn, đờng hẹp, dốc, lầy lội trong mùa ma, bụi vào mùa
khô. Cơ sở vật chất phục vụ cho đời sống sản xuất và sinh hoạt của ng ời dân trong
bản về cơ bản tơng đối đầy đủ gồm điện, trờng, trạm. Vấn đề khó khăn cần quan
tâm đó là hệ thống đờng giao thông trong bản cần đợc nâng cấp, mở rộng và vấn đề
nớc sinh hoạt cho ngời dân trong bản.
- Dân c: Trong bản có tổng số là 127 hộ với 653 ngời trong đó có 301 nam và
352 nữ. Ngời dân có kinh nghiệm trong cả 2 loại hình ruộng nơng và ruộng nớc.
Tuy nhiên trình độ dân trí còn thấp , việc sản xuất chủ yếu mang tính chất thủ công
2
nên năng suất lao động cha cao. Ngoài việc sản xuất nông nghiệp, trong bản còn có
một số ngành nghề thủ công nh dệt, làm hơng...
- Phong tục tập quán: Cùng với những lễ hội của cả nớc nh tết Nguyên Đán,
lễ xiếp xí (rằm tháng7), tết thanh minh (rằm tháng 3), trong bản còn có những
truyền thống riêng, quy định riêng về việc ma chay, cới xin, lễ hội của Bản nh cới
xin quy định không quá 30 cân thịt- gạo, viêc ma chay thì mỗi ngời trong bản điều
góp một ít gạo và những ngời trong gia đình phải mặc đồ trắng. Nhìn chung phong
tục tập quán của bản đều xuất phát từ truyền thống nông nghiệp con trâu đi trớc
cái cày theo sau, tâm lý thờ cúng tổ tiên và mang đậm bản sác dân tộc.
3. Lịch sử hình thành của bản.
Dựa vào một số tài liệu của bản và thông tin do các cụ già trong bản cung
cấp thì những ngời đầu tiên sống ở bản là ngời gốc Hoa, họ định c và lập miếu cổ
thụ để thờ cúng , đến nay miếu cổ chỉ còn là dấu vết và có một số gia đình hiện nay
cũng đã khẳng định mình là ngời gốc Hoa và đã tìm kiếm anh em gốc Hoa.
Trải qua một thời gian chiến tranh, sau khi giải phóng Đồn Mo, trong bản đã
có sự thay đổi lớn thành phần dân c: những ngời Hoa di tản, chỉ một số ít ở lại, ngời
Thái tiến vào khai hoang, lập bản, định c sinh sống. Cùng với sự phát triển kinh tế,
xã hội của đất nớc ( đặc biệt là chính sách di dân của nhà nớc) các dân tộc khác nh
Kinh, Mờng đã đến sinh sống tại bản. Hiện nay bản Xà có rất nhiều dân tộc khác
nhau sinh sống nhng tộc ngời chiếm nhiều nhất là ngời Thái.
Theo ông Đinh Văn Phanh, trởng công an xã Huy Hạ thì vào những năm
1978-1979 do chính sách chuyển đổi cơ cấu khai hoang phục hoá nên ngời Thái đã
phá đất để làm ruộng và do nhu cầu nguồn nớc và sự mở rộng dân c nên từ bản cũ
là bản Xà chuyển sang bản mới để ở, vẫn lấy tên cũ là bản Xà nhng tách làm 2 bản
là bản Xà I ( gồm hầu hết những ngời sống trong bản từ lâu) bản Xà II( gồm hầu
hết những ngời mới đến lập nghiệp). Lúc ban đầu trung bình mỗi bản chỉ có 50 ngời và sống chủ yếu bằng sản xuất nông nghiệp tự cung tự cấp và một số ngành nghề
thủ công nh dệt vải, làm hơng ...
Nh vậy, điều kiện tự nhiên và điều kiện xã hội của bản đã tác động mạnh đến
tình hình sản xuất cũng nh sinh hoạt của ngời dân trong bản. Nông nghiệp trong
vùng không nằm ngoài sự tác động mạnh mẽ của hoàn cảnh này và do đó ngành
chăn nuôi của bản cũng chịu ảnh hởng rất lớn của các yếu tố về điều kiện tự nhiên.
3
II. Tình hình chăn nuôi của bản.
1. Vị trí, vai trò của ngành chăn nuôi trong sự phát triển kinh tế của bản.
Đối với một vùng, một nớc làm nông nghiệp chủ yếu thì chăn nuôi đóng
một vai trò rất quan trọng. Đặc biệt là đối với một vùng còn gặp nhiều khó khăn về
kinh tế nh xã Huy Hạ thì chăn nuôi có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết.
- Chăn nuôi đã góp phần hỗ trợ tích cực cho trồng trọt. Đặc biết trâu bò đợc
nuôi để làm sức kéo đã hỗ trợ đắc lực cho ngời dân trong việc cày bừa nhng ngời
dân cha biết tận dụng phân gia súc để phục vụ cho việc phát triển nông nghiệp.
Hiện nay máy móc đã đợc đa vào sử dụng nhng không thể phủ nhận vai trò của con
trâu, con bò đối với nông nghiệp vốn là biểu tợng của nền nông nghiệp Việt Nam
con trâu đi trớc cái cày theo sau.
- Nói đến vai trò của chăn nuôi qua chuyến đi thực tế ở bản Xà- xà Huy Hạ
chúng tôi nhận thấy rằng: trớc đây và bây giờ ngành chăn nuôi đều cung cấp một lợng thịt đáng kể phục vụ bữa ăn hàng ngày của con ngời. Bên cạnh đĩa rau, bát
cơm chúng ta thấy bữa ăn của ngời dân trong bản còn có các sản phẩm lấy ra từ
chăn nuôi nh thịt, trứng. Bữa ăn của ngời dân đã đợc cải thiện. Ngời ta giết trâu bò
mổ lợn trong các lễ hội làm cho lễ hội thêm tng bừng. Bữa ăn làm cho con ngời ấm
cúng hơn.
- Từ khi ngời dân có những tiến bộ trong phơng pháp chăn nuôi thì chất lợng
chăn nuôi ngày càng đợc nâng cao. Chăn nuôi góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế,
tăng thu nhập cho ngời dân trong bản. Đặc biệt lợi ích chăn nuôi của bò, trâu, lợn
đã làm cho cuộc sống của ngời dân ngày càng khấm khá.
Tuy còn nhiều khó khăn và hạn chế về nhiều mặt nhng phải thấy rằng ngành
chăn nuôi trong bản đã đem lại nhiều lợi ích cho ngời dân. Chăn nuôi phát triển
làm cho đời sống của ngời dân nâng lên, bộ mặt của bản, của xã có nhiều đổi
mới.Và ngành chăn nuôi ngày càng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế đang còn
khá khó khăn của bản hiện nay.
2. Tình hình chăn nuôi của bản trớc đổi mới( năm 1986).
4
Trớc đây cùng với sự khó khăn về mọi mặt thì ngành chăn nuôi của bản cũng
trong tình trạng nhỏ lẻ, tự nhiên, mục đích chính là phục vụ nhu cầu về thức ăn, lợi
ích kinh tế không đợc chú trọng.
- Hình thức chăn nuôi: chủ yếu là chăn nuôi theo phơng thức chăn thả tự
nhiên trên ao hồ quanh nhà và thả rông.Không có chuồng trại nhiều, nếu có thì
chuồng cũng chỉ đợc dựng từ những thanh tre nứa quanh nhà và làm ở dới gầm nhà
sàn với mục đích nhốt gia súc, gia cầm tránh thú dữ . Lợi ích của hình thức chăn
nuôi này là tiết kiệm đợc thức ăn, công sức lao động trong chăn nuôi nhng nó cũng
phản ánh sự khó khăn về mọi mặt đời sống của ngời dân trong vùng. Ngoài hình
thức trên, trong bản cũng nh trong xã còn có hình thức chăn nuôi tập thể hợp tác xã
nhng hình thức này cũng ở quy mô nhỏ và tồn tại theo khuynh hớng chung của
chính sách nhà nớc.
- Theo thống kê của xã thì số lợng gia súc, gia cầm trong thời kỳ này còn khá
ít.
+Gia súc: trong bản nuôi chủ yếu là trâu với mục đích để lấy sức kéo
trong nông nghiệp. Năm 1967 trong toàn bản có khoảng 30 con trâu. Bò đợc nuôi
rất ít, chỉ rải rác trong một số hộ khá giả hơn. Ngoài ra, bản còn nuôi đ ợc ngựa, dê
nhng số lợng không nhiều.
+ Gia cầm: nuôi đợc khá nhiều với mục đích phục vu nhu cầu sinh hoạt
của từng hộ gia đình. Những con vật chủ yếu đợc nuôi là gà và ngan, trung bình
mỗi gia đình có 1 đàn gà, một đàn ngan ( khoảng3-4 con).
Nhìn chung chăn nuôi của thời kỳ này còn khá khó khăn; tính chất tự cung tự
cấp, nhỏ lẻ, mang tính phát triển tự nhiên là đặc điểm chủ yếu trong chăn nuôi của
bản Xà trớc đổi mới. Việc chăn nuôi không phát triển nên hiệu quả kinh tế từ việc
chăn nuôi là không lớn, nó chỉ cung cấp nhu cầu của ngời dân trong bản, cha có sự
giao lu buôn bán nhờ chăn nuôi.
- Thức ăn cho chăn nuôi không nhiều, do chăn thả tự nhiên nên việc ngời dân
cung cấp thức ăn cho chăn nuôi không đợc chú trọng, vì đời sồng của c dân trong
bản còn khó khăn nên chỉ một phần nhỏ ngô, sắn là đầu t cho chăn nuôi, chính vì
vậy mà năng suất chăn nuôi rất bị hạn chế.
3. Tình hình chăn nuôi hiện nay( từ sau đổi mới 1986 đến năm 2005).
5
Nhìn chung chăn nuôi của bản trong thời kì này cũng đã có nhiều thay đổi
tiến bộ cùng với sự phát triển của kinh tế trong vùng cũng nh của đất nớc.
- Từ năm 1986, hình thức chăn nuôi chủ yếu là chăn nuôi cá thể theo từng hộ
gia đình với quy mô nhỏ , hình thức chăn nuôi tập thể hợp tác xã không còn nữa.
Và hiện nay hiện tợng thả rông gia súc không còn và thay vào đó là chăn nuôi
chuồn trại; đối với lợn, trâu, bò có chuồng trại riêng; đối với gia cầm thì ngày thả
rông, tối nhốt chuồng. Chuồng trại chăn nuôi gia súc gia cầm ở đây rất đơn giản
nhng cũng đã chú trọng hơn trớc đây.Vị trí của chuồng trại chăn nuôi gia cầm thì ở
ngay dới gầm nhà sàn còn chuồng chăn nuôi gia súc lớn đợc làm ở những nơi xa
nhà hơn với mục đích giữ vệ sinh khu vực sinh sống.
Tuy nhiên hiện nay ở một số gia đình vẫn còn duy trì cách thức chăn nuôi
theo kiểu truyền thống và có cải biến cho phù hợp với điều kiện thực tế. Tức là họ
không nhốt vật nuôi vào chuồng trại nh phần lớn các gia đình mà thả dông trong vờn nhng ở cổ những con vật nuôi đó có đeo một cái gông hình tam giác làm bằng
gỗ. Xung quanh vờn nhà họ rào kín. Nh vậy mục đích của việc làm này là không
cần phải làm chuông trại mà vẫn giữ đợc vật nuôi trong vờn vì chúng không thể
chui ra ngoài đợc.
- Về sản lợng: Theo kết quả báo cáo tổng kết tình hình chăn nuôi của xã Huy
Hạ năm 1995 thì toàn xã có tổng số đàn trâu khoảng 687 con. Số lợng trâu ngày
càng tăng đáng kể so với trớc. Trâu đợc nuôi nhiều nhất ở Nà Lò. Bò nuôi trong xã
rất ít chỉ có khoảng 94 con. Số lợng bò ít hơn trâu vì ngời dân ở đây nuôi trâu chủ
yếu là lấy sức kéo phục vụ hoạt động là chính còn phục vụ nhu cầu thực phẩm rất ít
vì vùng cha đủ điều kiện.Gia cầm trong cả xã có khoảng 15.137 con và hiện nay đã
giảm chút ít do dịch bệnh phát sinh. Ngoài những con vật phổ biến trên, trong xã
đã bớc đầu chăn thả dê( bắt đầu năm 2004), tổng đàn dê trong xã là 449 con, đợc
tập trung nuôi ở Đồng Lì, Nà Lò. Xu hớng đàn dê ngày càng tăng do khí hậu khô,
hình thức chăn nuôi chủ yếu là thả rông và đặc biệt là đã hình thành các đồng cỏ
thích hợp cho nuôi dê phục vụ nhu cầu thơng mại. Có một số hộ nuôi tới 30 con.
* Riêng đối với bản Xà , nơi chúng tôi trực tiếp tiếp xúc với các hộ gia đình
cùng với những thông tin do anh Tân- trởng ban công tác thú y của xã cung cấp thì
cũng nằm trong sự phát triển chăn nuôi của toàn xã, chăn nuôi của bản có sự thay
6
đổi đáng kể, sản lợng chăn nuôi ngày càng tăng và hình thức chăn nuôi cũng khá
phổ biến. Sự thay đổi đợc thể hiện trong bảng dới đây.
Năm
1986
1996
2006
Trâu
52
76
102
Gia súc
Bò
12
19
25
Gia cầm
Lợn
165
209
387
Gà
556
643
855
(Đơn vị: con)
Ngan
486
697
+Mục đích chăn nuôi của bản Xà cũng không khác so với các bản khác trong
toàn xã là trâu bò nuôi để lấy sức kéo, lợn và gia cầm chăn nuôi chủ yếu là lấy thịt
phục vụ nhu cầu trong bản và đã có sự trao đổi buôn bán nhằm mục đích kinh tế.
+Nguồn thức ăn cung cấp cho chăn nuôi của các hộ gia đình trong bản chủ
yếu là ngô, sắn, cám gạo, rau bèo, những sản phẩm thừa trong nông nghiệp.
+Năng suất thu hoạch từ chăn nuôi của bản cũng đã tăng lên: trung bình lợn
cho từ 1-2 lứa/ năm, trâu bò 1 lứa/năm, gia cầm khoảng 3-4 lứa/năm.
Có thể nói, tình hình chăn nuôi của bản xã Huy Hạ nói chung và bản Xà nói riêng
trong những năm gần đây có sự thay đổi đáng kể theo chiều hớng đi lên.Chính sự
thay đổi này đã làm cho kinh tế của bản đợc cải thiện, đời sống nhân dân đợc đầy
đủ hơn. Tuy nhiên sự phát triển đó cũng không làm cho chăn nuôi trong bản thoát
khỏi hình thức chăn nuôi nhỏ lẻ, manh mún, giao lu buôn bán sản phẩm chăn nuôi
không nhiều, vẫn mang tính tự cấp, tự túc là chủ yếu.
4. So sánh chăn nuôi của bản với các bản khác trong toàn xã.
Tình hình chăn nuôi của bản Xà so với trớc đây cũng đã đạt đợc những
thành tựu nhất định trong toàn thể sự phát triển chăn nuôi của xã với số lợng và
chất lợng đàn gia súc, gia cầm ngày càng tăng. Hiện nay toàn xã có khoảng 657
con trâu thì bản Xà có 102 con; bò gần 25 con, số lợn của bản cũng lên tới 391 con
và gia cầm là gần 2000 con. Nhìn chung so với toàn xã thì số gia súc, gia cầm của
bản chiếm rất ít.
Mặc dù trong những năm gần đây tình hình chăn nuôi của bản Xà có phát
triển nhng so với các bản khác thì còn rất manh mún. Trong xã có bản Nà Lò II là
có tình hình chăn nuôi phát triển nhất, số lợng trâu nhiều nhất ở Đồng Cù và bò
phát triển nhất ở Noong Vai.Sở dĩ tình hình chăn nuôi của bản nh trên là do nhiều
7
nguyên nhân nh đời sống của nhân dân còn thấp, cha có vốn đầu t...Vấn đề đạt ra là
cần phải tăng cờng đầu t cũng nh nâng cao nhận thức của ngời dân trong bản.
III. Nhận xét, kết luận.
Qua nghiên cứu tình hình chăn nuôi của bản Xà( thuộc xã Huy hạ, huyện Phù
Yên, tỉnh Sơn La) chúng ta thấy nổi lên một số vấn đề nh sau.
Thứ nhất, về tổng quan thì ngành chăn nuôi của bản Xà còn kém phát triển
so với các bản khác trong toàn xã, đặc biết là đặt trong tình hình chăn nuôi chung
hiện nay. Nguyên nhân của vấn đề này là do tập quán chăn nuôi tự nhiên còn ảnh
hởng rất đậm nét trong nếp nghĩ và ý thức của ngời dân. Mặc dù đã có sự chuyển
biến về mục đích chăn nuôi song những chuyển biến đó không đáng kể. Hiện nay
chăn nuôi lấy sức kéo và phân bón vẫn chiếm vị trí thứ yếu còn chủ yếu là lấy thực
phẩm, đặc biệt là chăn nuôi với mục đích kinh tế trao đổi buôn bán cha đợc chú ý.
Thứ hai, vấn đề thức ăn cho chăn nuôi cha đợc quan tâm đúng mức, năng
suất , sản lợng cây trồng cho chăn nuôi cha cao nên không đủ đáp ứng nhu cầu về
thức ăn cho các loại vật nuôi.Trong khi đó đội ngũ cán bộ phục vụ công tác phát
triển chăn nuôi còn mỏng do đó nhiều ngời dân cha tiếp cận đợc với kĩ thuật chăn
nuôi mới, đặc biết là phơng thức chăn nuôi công nghiệp. Điều này có ảnh hởng
không nhỏ tới việc phát triển số lợng đàn gia súc, gia cầm cũng nh tới năng suẩt,
chất lợng ngành chăn nuôi của bản.
Thứ 3, khả năng phát triển chăn nuôi của bản Xà là rất lớn với tổng diện tích
đất canh tác nông nghiệp ( 2 vụ lúa/ năm) là gần 2000m2, bên cạnh đó ngời dân có
thể khai thác lợi thế về đất rừng làm nơng rẫy và tận dụng những sản phẩm từ sinh
hoạt đẻ phục vụ mục đích chăn nuôi. Mặt khác, lực lợng lao động khá dồi dào với
truyền thống canh tác nông nghiệp và kinh nghiệm chăn nuôi từ lâu đời.Nếu kết
hợp 2 yếu tố chủ động nguồn lực và cho chăn nuôi và thức ăn thì chắc hẳn trong tơng lai vấn đề chăn nuôi của bản Xà sẽ có những bớc tiến đáng kể.
*Phơng hớng phát triển chăn nuôi của bản.
Theo nh chúng tôi đợc biết thì để phát triển đợc ngành chăn nuôi thì vấn đề
vốn và kĩ thuật phải đợc u tiên hàng đầu. Hiện nay có 1 thực tế là ngời dân rất
8
muốn đợc hỗ trợ về vốn để đầu t mua giống và thức ăn cho chăn nuôi song để vay
đợc vốn là một việc không dễ dàng gì, đặc biệt lại là vay vốn với lãi suất u đãi và
trong thời hạn dài. Chính vì vậy, chính quyền địa phơng cũng nh Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn cần có những chính sách hợp lý hơn về thế chấp, lãi
suất để ngời dân có điều kiện phát triển số lợng cũng nh chất lợng ngành chăn nuôi
của mỗi gia đình trong bản.
Song song với việc đầu t vốn là việc tuyên truyền, mở các lớp học về kĩ thuật
căn nuôi mới cũng cần phải đợc chú ý để ngời dân có thể tiếp cận đợc với những
phơng thức chăn nuôi công nghiệp, mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần cải
thiện đời sống vật chất, tinh thần cho ngời dân trong bản, tuyên truyền cho ngời
dân hiểu đợc tầm quan trọng của chăn nuôi, dần hớng họ chăn nuôi để phục vụ
mục đích kinh tế, trao đổi buôn bán trên thị trờng , đem lại nguồn thu nhập để cải
thiện phần nào đời sống vốn khó khăn thiếu thốn của ngời dân trong bản cũng nh
trong toàn xã.
Tóm lại: chỉ trong một thời gian ngắn tiếp xúc cũng nh đợc tham gia trực tiếp đời
sống sinh hoạt của c dân ngời Thái tại bản Xà, xã Huy Hạ, huyện Phù Yên, tỉnh
Sơn la, chúng tôi cũng đã hiểu một phần nào cuộc sống sinh hoạt của c dân vùng
Tây Bắc, và đặc biệt chuyến thực tập đã cung cấp cho chúng tôi những t liệu cần
thiết để hoàn thành bài thực tập về tình hình chăn nuôi này. Qua đây em cũng cảm
ơn cán bộ, c dân bản Xà, xã Huy Hạ và các thầy cô giáo trong bộ môn nhân học đã
tạo điều kiện cho chúng em hoàn thành chuyến đi thực tế này.
9