Những Giá trị và hạn chế của triết học
duy vật thời kỳ hy lạp- la mã cổ đại. ý nghĩa đối với
sự phát triển t tởng triết học trong lịch sử
Triết học ra đời vào khoảng từ thế kỷ thứ VIII đến khoảng thế kỷ thứ VI
tr.CN, thuật ngữ triết học có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp (Phislosôphia) có
nghĩa là yêu thích sự thông thái; những t tởng triết học xuất hiện đồng thời ở
cả Hy Lạp, Trung Quốc và ấn Độ cổ đại vào thời kỳ này đánh dấu một bớc
phát triển mới trong xã hội phân chia giai cấp và nó có ảnh hởng lớn tới triết
học Mác sau này. Sự xuất hiện triết học đánh dấu một bớc phát triển lớn của t
tởng nhân loại, từ cảm nhận vũ trụ một cách trực quan đến thế giới quan đều
dựa trên các tri thức mang tính khái quát hoá, trừu tợng hoá của t duy.
Hy Lạp là một nớc nằm ở bán đảo Ban Căng gồm nhiều đảo nhỏ. Miền
nam bán đảo Ban Căng thuộc Châu Âu, nhiều hòn đảo ở biển Êgiê và cả miền
ven biển của bán đảo Tiểu á. Diện tích khoảng 132.000 km2 giáp An Ba Ni,
Bun Ga Ri, Thổ Nhĩ Kỳ, Nam T. Thủ đô Aten, có thành phố cảng là trung tâm
giao lu quốc tế, điều kiện rất thuận lợi cho nên từ rất sớm ngành nông nghiệp,
thủ công nghiệp, thơng nghiệp Hy Lạp cổ đại đã phát triển. Xã hội Hy Lạp cổ
đại phát triển đã đạt tới mức hoàn thiện của nó; sự phát triển đó đã làm xuất
hiện hai trung tâm kinh tế- chính trị điển hình là thành bang Aten và thành
bang Spác. Xã hội Hy Lạp lúc này có hai tầng lớp cơ bản đó là: tầng lớp chủ
nô dân chủ ở thành bang Aten và tầng lớp chủ nô quý tộc ở thành bang Spác.
Tơng ứng với hai trung tâm kinh tế- chính trị này là hai thể chế nhà nớc khác
nhau về hình thức đó là nhà nớc chủ nô dân chủ Aten và nhà nớc chủ nô quân
chủ Spác. Sự khác nhau đó đã gây ra cuộc nội chiến tơng tàn và cuối cùng
chiến thắng đã thuộc về thành bang Spác.
Ngời Hy Lạp cổ đại đã kế thừa rất nhiều kiến thức của ngời phơng Đông
mà trớc hết là kiến thức về khoa học tự nhiên của ngời Ai Cập, Babilon và của
ngời ấn Độ cổ đại.
Từ những nét đặc thù về kinh tế- chính trị, xã hội và những tiền đề về khoa
học ấy, triết học Hy Lạp cổ đại có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, sự phân chia và đối lập giữa các trờng phái triết học, duy vật và
duy tâm, biện chứng và siêu hình, vô thần và hữu thần là nét nổi bật của quá
trình phát sinh, phát triển triết học; trong đó điển hình là cuộc đấu tranh giữa
1
hai đờng lối triết học: đờng lối duy vật của Đêmôcrít và đờng lối duy tâm
của Platôn.
Thứ hai, các hệ thống triết học Hy lạp cổ đại nói chung đều có xu hớng đi
sâu giải quyết các vấn đề về bản thể luận và nhận thức luận, là những vấn đề
của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Thứ ba, nền triết học Hy Lạp cổ đại nói chung còn ở trình độ trực quan,
chất phác. Tuy vậy nó đã đặt ra hầu hết các vấn đề triết học căn bản, nó chứa
đựng mầm mống của tất cả thế giới quan duy vật.
Thứ t, triết học Hy Lạp cổ đại luôn gắn với khoa học tự nhiên.
Những nét đặc trng này không chỉ là cái phân biệt giữa hai nền triết học
Đông- Tây cổ đại mà còn nói lên vị trí và vai trò của triết học Hy Lạp cổ đại
đối với lịch sử triết học thế giới, nó đặt nền tảng cho sự phát triển triết học Tây
Âu trên hai ngàn năm về sau. Đánh giá về vị trí vai trò và sự ảnh hởng của
triết học Hy Lạp cổ đại Ăngghen viết: từ các hình thức muôn hình muôn vẻ
của triết học Hy Lạp, đã có mầm mống và đang nảy nở hầu hết tất cả các loại
thế giới quan sau này1.
Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển vào khoảng thế kỷ thứ VI tr.CN. Cơ sở
kinh tế của nền triết học đó là quyền sở hữu của chủ nô đối với t liệu sản xuất
và ngời nô lệ. Nếu nh trong xã hội Cộng sản nguyên thuỷ cuộc sống của mỗi
ngời hoà tan vào cuộc sống cộng đồng, thì giờ đây khi xuất hiện chế độ t
hữu về của cải, buộc mỗi ngời cần ý thức về bản thân mình, cần có một quan
điểm sống phù hợp với hoàn cảnh mới. Nhu cầu đó đòi hỏi sự ra đời của triết
học. Trong xã hội có sự phân chia thành giai cấp, có sự phân công lao động
giữa lao động trí óc và lao động chân tay, dẫn tới sự hình thành một bộ phận
các nhà trí thức chuyên nghiên cứu triết học và khoa học, làm phá vỡ ý thức hệ
thần thoại và tôn giáo nguyên thuỷ.
Do nhu cầu thực tiễn của nền sản xuất xã hội nên lực lợng sản xuất từng bớc phát triển đó cũng là sự quan tâm của nhiều ngành khoa học. Chính sự phát
triển các ngành khoa học ấy nó lại tạo ra điều kiện để phát triển lực lợng sản
xuất. Vì lực lợng sản xuất thời kỳ này ở Hy Lạp cổ đại yêu cầu ngày càng cao
đối với khoa học và t tởng tiên tiến. ở đảo Crét thế kỷ thứ III tr.CN ngời dân ở
đây đã biết sử dụng đồ đồng làm công cụ lao động sản xuất, nghề trồng trọt,
ng nghiệp, thơng nghiệp và hằng hải phát triển. Đó chính là nhu cầu của đòi
hỏi của sản xuất vật chất nên các ngành: thiên văn, khí tợng, toán học, vật lý...
cũng phát triển. T tởng Hy Lạp cổ đại cũng đan xen hình thành phát triển với
1
Giáo trình triết học Mác- Lênin, Nxb CTQG, Hà Nội, 1999, tr 17.
2
các khoa học khác do yêu cầu sản xuất vật chất phát triển . Những tri thức này
tuy ở hình thái sơ khai nhng đều đợc trình bày trong hệ thống triết học tự
nhiên của các nhà triết học cổ đại. Khoa học lúc đó cha phân ngành, các nhà
triết học đồng thời là nhà khoa học nh: toán học, vật lý học, thiên văn
học...Nh vậy, triết học Hy Lạp cổ đại ngay từ khi mới ra đời đã gắn với nhu
cầu thực tiễn và gắn liền với khoa học. Sự hình thành và phát triển t tởng triết
học Hy Lạp cổ đại liên tục gắn liền với cuộc đấu tranh giữa các lực lợng xã
hội đối lập, đó là lực lợng đại diện cho chủ nô dân chủ và chủ nô quý tộc bảo
thủ muốn duy trì xã hội chiếm hữu nô lệ. Chính đó là cuộc đấu tranh gay gắt
giữa nô lệ và chủ nô. Đấu tranh gay gắt giữa khoa học và tôn giáo, giữa t tởng
duy vật với t tởng thần thánh. Chính cuộc đấu tranh gay gắt này ảnh hởng sâu
sắc đến cuộc đấu tranh giữa hai đờng lối trong triết học đó là đờng lối triết học
của Đêmôcrít và đờng lối triết học Platôn.
Xứ Iôni là trung tâm chủ yếu đẻ ra chủ nghĩa duy vật thời cổ Hy Lạp và
là trung tâm của các trờng phái triết học nh Milê, Êphedo và Êlê. Những nhà
triết học tiêu biểu ở thời kỳ Hy Lạp cổ đại là: TaLét (626- 547 tr.CN),
Anaximanđrơ (610- 546 tr.CN), Anaximen (585- 525 tr.CN), Hêraclít (520460 tr.CN), Pitago (571- 479 tr.CN), Lơxíp (500- 440 tr.CN), Đêmôcrít (460370 tr.CN), Platôn (472- 347 tr.CN), Arixtốt (384- 322 tr.CN)... những quan
điểm triết học gắn liền với t tởng chính trị của họ là cơ sở lý luận cho sự hoạt
động tiến bộ của tầng lớp tiên tiến trong giai cấp chủ nô. Sự nảy nở rực rỡ của
các trào lu t tởng triết học Hy Lạp cổ đại có liên hệ mật thiết và chịu ảnh hởng
của triết học phơng Đông cổ đại. Vào thời kỳ khoa học phát sinh ở Hy Lạp, thì
ở phơng Đông đã tích luỹ đợc những tri thức đáng kể về thiên văn học, hình
học, đại số, y học... các nhà bác học lớn của Hy Lạp cổ đại phần nhiều đã tới
Ai Cập, Babilon nghiên cứu và học tập. Những mầm móng về quan niệm duy
vật và vô thần của các nhà triết học Ai Cập và Bibalon có ảnh hởng tích cực
đến sự phát triển của triết học ở Hy Lạp cổ đại. Vì vậy, có thể nói triết học phơng Đông, trớc hết là triết học Ai Cập, Babilon là một trong những tiền đề của
triết học Hy Lạp cổ đại.
Nhìn chung, triết học Hy Lạp cổ đại mang tính chất duy vật tự phát và
biện chứng sơ khai. Nhng đời sống chính trị ở Hy Lạp bấy giờ sôi động,
những quan hệ thơng mại với nhiều nớc khác nhau trên Địa Trung Hải, sự tiếp
xúc với điều kiện sinh hoạt và những tri thức muôn vẻ của nhân dân các nớc
ấy, sự quan sát các hiện tợng tự nhiên một cách trực tiếp nh một khối duy nhất
và lòng mong muốn giải thích chúng một cách khoa học đã góp phần qui định
và làm phát triển thế giới quan duy vật tự phát và biện chứng sơ khai của Hy
3
Lạp cổ đại. Mặc dù xuất hiện trong điều kiện các tri thức khoa học sơ khai,
triết học Hy Lạp cổ đại đã đề cập tới những vấn đề cơ bản của thế giới quan
theo nghĩa hiện đại tuy còn ở trạng thái mầm móng. Triết học Hy Lạp cổ đại
tuy thô sơ, mộc mạc tự phát nhng về cơ bản nó đã phản ánh đúng thế giới
trong sự vận động và phát triển thế giới. Nên những giá trị và những t tởng
triết học tích cực của nó cũng có ý nghĩa rất to lớn trong đấu tranh chống lại
chủ nghĩa duy tâm, t tởng thần thánh (thần thoại) tạo cơ sở cho khoa học và
triết học phát triển.
Tại sao các nhà triết học phơng Tây hoà mình trong tự nhiên, quan tâm
đến tự nhiên, đối tợng nghiên cứu là giới tự nhiên, nhà khoa học tự nhiên là
nhà triết học, hoặc nhà triết học cũng đồng thời là nhà khoa học tự nhiên.
Trong khi đó triết học phơng Đông thiên về nghiên cứu các quan hệ xã hội,
các thiết chế xã hội về tinh thần, về tâm linh. Bởi vì ở phơng Tây chính nhu
cầu của sản xuất xã hội, chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp cực kỳ phát triển. Đó là
thời kỳ nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Với việc
xuất hiện các quan hệ tiền- hàng đã làm cho thơng mại và trao đổi hàng hoá đợc tăng cờng. Thời kỳ này ngời Hy Lạp đã có thể đóng đợc những chiến
thuyền lớn cho phép họ vợt biển Địa Trung Hải tìm đến những miền đất mới.
Nhờ đó mà lãnh thổ Hy Lạp và thuộc địa của nó đợc mở rộng tạo điều kiện
cho giao lu văn hoá giữa các dân tộc. Nên xuất hiện nhiều t tởng tìm tòi sáng
tạo, nhu cầu đo đạc, buôn bán, thời tiết... nhu cầu thực tiễn đó đòi hỏi nền
khoa học toán học (hình học, đại số), vật lý, thiên văn ...ra đời đáp ứng nhu
cầu cho sản xuất. Vì vậy các nhà triết học Hy Lạp đều là nhà khoa học tự
nhiên bách khoa lỗi lạc. Ngay từ khi mới ra đời triết học duy vật Hy Lạp cổ
đại cũng thể hiện rõ tính biện chứng sơ khai của nó. Mặc dù ngay thời kỳ này
sự phân chia khuynh hớng triết học đã khá rõ rệt nhng nhìn chung nó mang
tính duy vật tự phát. Ngay từ khi mới ra đời, nó đã tìm cách giải thích thế giới
nh một chỉnh thể thống nhất trong đó các sự vật vận động và biến đổi không
ngừng. Ngoài ra triết học Hy Lạp cổ đại còn thể hiện ở chỗ nó là thế giới quan
và ý thức hệ của giai cấp chủ nô thống trị trong xã hội Hy Lạp và La Mã lúc
bấy giờ. Nh vậy, ngay từ đầu nó mang tính giai cấp sâu sắc. Tính giai cấp của
một học thuyết triết học, theo các nhà nghiên cứu, không chỉ thể hiện ở chỗ
học thuyết đó biểu hiện lập trờng của một giai cấp hay một đảng phái nào đó,
mà còn thể hiện t tởng của một khuynh hớng, trào lu triết học nhất định.
Những mâu thuẫn trong xã hội cổ đại đợc thể hiện trong cuộc đấu tranh về t tởng của các nhà triết học cổ Hy Lạp, tiêu biểu nhất là cuộc đấu tranh giữa hai
đờng lối triết học Đêmôcrít và đờng lối triết học Platôn. Đây cũng là cuộc
4
xung đột của hai thế giới quan xuất hiện đầu tiên trong triết học. Nó liên quan
đến thế giới quan, phơng pháp luận trong triết học trong giải quyết tính đảng,
tính chính trị, tính xu hớng. Vì vậy, triết học phơng Đông ít bút chiến, ít phê
phán, thờng thế hệ sau kế thừa thế hệ trớc. Lấy gốc của thầy làm điểm tựa để
phát triển lên. Từ những điều kiện kinh tế, xã hội và những đặc điểm của triết
học Hy Lạp cổ đại có thể khái quát những giá trị và hạn chế của triết học duy
vật Hy Lạp cổ đại đợc thể hiện trên các phơng diện bản thể luận, vũ trụ quan,
nhận thức luận và chính trị xã hội.
Dới đây là những phân tích tập trung chủ yếu những nét cơ bản của một
số đại biểu ở các trờng phái khác nhau trên các phơng diện vừa nêu.
Một là, về bản thể luận và vũ trụ thế giới:
Trớc tiên phải kể đến trờng phái triết học Milê, trờng phái triết học này
cũng xuất hiện ở cái nôi triết học đầu tiên của Hy Lạp cổ đại là Iônia. Điểm
tiến bộ của các nhà triết học duy vật này đều xuất phát từ các tầng lớp tiến bộ
trong giai cấp chủ nô, họ có nhiều t tởng khác với các quan niệm thần thoại
và tôn giáo nguyên thuỷ thống trị hồi đó. Chủ yếu lý giải các vấn đề bản chất
và khởi nguyên của thế giới dựa trên một số các tri thức khoa học sơ khai có
đợc thời đó, coi toàn bộ thế giới chúng ta nh một chỉnh thể thống nhất, sinh ra
từ một khởi nguyên duy nhất nh: nớc, lửa, không khí, Apâyrôn ... để giải thích
thế giới, có thể có nhìn nhận khác nhau, nhng cái chung là nghiên cứu sự tồn
tại trong tự nhiên vốn có của sự vật. Chẳng hạn, nh Talét thành tựu nổi bật của
ông là giải thích tự nhiên không phải bằng tín điều tôn giáo, mà bằng nghiên
cứu hiện thực, xuất phát từ việc quan sát trực tiếp sự vật, ông cho rằng nớc giữ
vai trò trực tiếp quan trọng trong tự nhiên cũng nh trong đời sống con ngời,
cũng nh mọi thức ăn, mọi sự vật đều ẩm ớt, hạt giống của mọi sự vật đều ẩm ớt... nguồn gốc ẩm ớt của vật thể chính là nớc, không có nớc là không có gì cả.
Vì thế, Talét cho rằng nớc là yếu tố đầu tiên, là bản nguyên của mọi vật, tất cả
bắt đầu từ nớc, rồi trở lại về với yếu tố cuối cùng là nớc. Nh vậy theo Talét, vật
chất (nớc) vận động vĩnh viễn- thế giới tồn tại tuần hoàn khép kín của nớc, thế
giới tồn tại thống nhất ở nớc. Những quan niệm triết học duy vật nói trên tuy
còn mộc mạc, thô sơ, nhng có chứa đựng những yếu tố biện chứng tự phát,
ngây thơ.
Còn Anaximăngđrơ cho rằng chất Apâyrôn, Anaximan cho rằng không
khí cũng đều là vật chất đầu tiên tạo lên thế giới và giải thích thế giới vật chất.
Nhng so với quan niệm của Talét thì quan niệm về vật chất của Anaximăngđrơ
có bớc phát triển mới. Bởi vì, ông coi vật chất khởi nguyên không phải là một
5
dạng vật chất cụ thể nh nớc, cũng không phải là một vật thể có kích thớc có
khối lợng. Apâyrôn là một yếu tố vật chất khởi nguyên, khó nhận thức bằng
giác quan, phản ánh ở mức độ trừu tợng hơn Talét. Với quan niệm nh vậy, lần
đầu tiên trong lịch sử triết học duy vật Hy Lạp cổ đại vật chất không bị đồng
nhất với một vật thể cụ thể. Mặc dù còn mang nặng tính chất ngây thơ, chất
phác, nhng quan niệm nh vậy đã là một bớc tiến mới rất tích cực trong quá
trình nhận thức vật chất, bớc nhảy vọt mới về trình độ t duy trừu tợng của ngời
Hy Lạp cổ đại. Về phép biện chứng Anaximăngđrơ đã nêu ra những phỏng
đoán thiên tài. Theo ông chất Apâyrôn có ẩn chứa những mặt đối lập giữa cái
đơn và cái đa (nhiều), giữa cái nóng và cái lạnh, giữa cái khô và cái ớt. Chính
những mặt đối lập ấy đã làm cho sự vật thành những dạng vật chất khác nhau.
Ông bác bỏ quan niệm về tính đồng nhất tuyệt đối, thuần tuý, không có khác
biệt của sự vật... Còn Anaximan cũng nh các nhà duy vật tiền bối thuộc phái
Milê, cố công tìm kiếm khởi nguyên vật chất dạng vật chất mẹ để giải thích
vật chất, khởi nguyên vật chất đó, theo ông là không khí bởi vì nó giữ vai trò
quan trọng trong đời sống của thiên nhiên và của con ngời. Nh vậy điểm tiến
bộ tích cực của ông cống hiến cho triết học duy vật là dành nhiều công sức để
nghiên cứu nguồn gốc vũ trụ trên quan điểm vô thần. Ông bác bỏ những
chuyện hoang đờng về thần thánh và khẳng định rằng mọi nguyên nhân của sự
vật đều quy về không khí vô hạn.
Ngời có công lao đóng góp những giá trị to lớn về phép biện chứng phải
kể đến trờng phái triết học Êphetsơ đại diện là Hêraclít. Ông là đại biểu điển
hình nhất của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong giai đoạn đầu của
triết học Hy Lạp cổ đại. Cống hiến lớn nhất và nổi tiếng của ông là triết học
duy vật với rất nhiều yếu tố biện chứng có giá trị, tuy ông cha trình bày dới
dạng một hệ thống các luận điểm khoa học nh sau này, mặc dù là biện chứng
sơ khai nhng nó có giá trị to lớn đợc các nhà triết học cổ điển Đức sau này kế
thừa và các nhà sáng lập triết học Mác xít đánh giá cao. Nh vậy, cũng nh trờng
phái triết học Milê, các trờng phái triết học khác ở Hy Lạp cổ đại đều coi vật
chất là tính thứ nhất. Thế giới vật chất đợc hình thành từ một nguyên thể vật
chất. Nhng Hêraclít còn đi xa hơn các vị tiền bối ở phép biện chứng, chính
ông là ngời sáng lập ra phơng pháp biện chứng. Lênin đánh giá phép biện
chứng của Hêraclít là phép biện chứng hoàn toàn khách quan coi nh là
nguyên lý của tất cả cái gì tồn tại2.
Giá trị nổi bật trong phép biện chứng của Hêraclít cống hiến cho triết học
duy vật Hy Lạp cổ đại là quan niệm về vận động vĩnh viễn của vật chất. Ông
2
Lênin toàn tập,tập 29, Nxb Tiến bộ.M.1981, tr 277
6
cho rằng lửa chẳng những là nguyên nhân sinh ra mọi vật mà còn là nguồn
gốc của mọi vận động, ông nói cái chết của lửa là sự ra đời của không khí,
cái chết của không khí là sự ra đời của nớc, từ cái chết của nớc sinh ra không
khí, từ cái chết của không khí- lửa và ngợc lại3. Ông đã căn cứ vào những
kinh nghiệm cảm tính khái quát một kết luận nổi tiếng về vật chất vận động
mọi vật đều trôi đi, chảy đi, không có cái gì đứng nguyên tại chỗ; tất cả
mọi vật đều vận động, không có cái gì tồn tại mà lại cố định... Hêraclít khẳng
định luận điểm bất hủ: Chúng ta không thể tắm hai lần trên cùng một dòng
sông, vì nớc sông không ngừng chảy4. Ngay cả mặt trời ông cũng cho rằng
mặt trời mỗi ngày một mới. Với quan niệm nh vậy nhiều nhà triết học Hy Lạp
cổ đại coi ông là nhà triết học vận động và gọi ông là học thuyết về dòng
chảy. So với các nhà triết học tiền bối cùng thời thì Hêracrít đã đa triết học
duy vật cổ đại tiến lên một bớc mới với những quan điểm duy vật và những
yếu tố biện chứng. Cái quý giá nhất trong triết học của ông là phép biện chứng
mặc dù chỉ là phép biện chứng tự phát, ngây thơ, ông cũng xuất phát từ tự
nhiên chứ không phải từ thần thánh để giải thích tự nhiên. Ông chống lại
những quan niệm siêu hình và chỉ ra mối liên hệ của vũ trụ và sự vận động,
phát triển của thế giới...
Về phép biện chứng, khi Hêracrít quan niệm về linh hồn con ngời đợc thể
hiện rất rõ. Ông cho rằng trong con ngời ngoài lửa ra còn có cả những chỗ ẩm
ớt cho nên mới sinh ra ngời tốt, ngời xấu. Linh hồn con ngời là sự thống nhất
của hai mặt đối lập- cái ẩm ớt và lửa... Lênin đánh giá cao quan niệm này của
ông: ...cho rằng chúng đã thể hiện một trong những điểm cơ bản của phép
biện chứng5.
Nói đến giá trị đỉnh cao của triết học duy vật Hy Lạp cổ đại là phải liên
hệ chứng minh các đại biểu của trờng phái nguyên tử luận, đại biểu sáng giá
nhất là Đêmôcrít, đồng quan điểm với thầy mình là Lơxíp để phát triển thuyết
nguyên tử luận lên một trình độ mới. Ông cho rằng, nguyên tử là cơ sở cấu tạo
nên vạn vật, nguyên tử là hạt vật chất cực nhỏ, không nhìn thấy đợc, không
phân chia đợc, không mùi vị, không âm thanh, không màu sắc, không khác
nhau về chất mà chỉ khác nhau về hình thức, trật tự và t thế. Dới con mắt của
Đêmôcrít, mọi sự vật trong thế giới chúng ta đều đợc tái tạo từ các nguyên tử
và khoảng không; nguyên tử vô hạn về số lợng và hình thức nhng mỗi nguyên
tử lại có hình thức xác định. Theo ông các sự vật hiện tợng đều do nguyên tử
cấu tạo nên, các nguyên tử kết hợp với nhau theo một trật tự xác định, sự liên
Lịch sử triết học, Nxb CTQG, Hà Nội. 1998.tr156.
Lịch sử triết học, Nxb QĐND, Hà Nội. 2003.tr105.
5 Lịch sử triết học, Nxb CTQG, Hà Nội. 1998.tr159.
3
4
7
kết khác nhau đã quy định bản chất khác nhau của sự vật. Sự xuất hiện hay
mất đi của sự vật này hay sự vật khác là kết quả việc kết hợp hay phân tán của
các nguyên tử trong quá trình vận động trong khoảng không và tuân theo
những quy luật tự nhiên. Mọi biến đổi của sự vật thực chất là sự thay đổi trình
tự sắp xếp của các nguyên tử tạo nên chúng. Còn bản thân mỗi nguyên tử thì
không thay đổi gì cả. Nh vậy, một mặt Đêmôcrít duy trì các nguyên lý bảo tồn
tồn tại, coi các nguyên tử là bất biến, vĩnh viễn, mặt khác lại ủng hộ quan
niệm của Hêraclít cho rằng mọi sự vật đều biến đổi không ngừng.
Về vũ trụ nói chung, theo Đêmôcrít là khoảng không vô cùng vô tận
trong đó chứa đựng vô số thế giới khác nhau đợc cấu tạo từ vô vàn từ các loại
nguyên tử. Theo ông động lực vận động vĩnh viễn của nguyên tử là động lực tự
thân nó. Quan niệm ấy có ý nghĩa rất lớn đối với việc nghiên cứu vận động
trên quan điểm duy vật, ông cho rằng vận động của nguyên tử là vĩnh viễn,
nguyên nhân vận động là tự bản thân nó, nguồn gốc của sự vận động của các
nguyên tử là do sự va chạm.
Với thành tựu triết học rực rỡ của Đêmôcrít đã đa chủ nghĩa duy vật Hy
Lạp cổ đại lên một đỉnh cao mới. Mặc dù chủ nghĩa duy vật của ông cha thoát
khỏi tính chất thô sơ, chất phác, còn mang tính chất máy móc siêu hình nhng
so với triết học duy vật của các trờng phái trớc đó, đã thể hiện đợc tính trừu tợng và tính khái quát cao trong định nghĩa vật chất; đã có những quan niệm
đúng đắn về mối liên hệ không thể tách rời giữa nhận thức cảm tính và nhận
thức lý tính. Ông cũng là ngời đầu tiên đặt cơ sở lý luận cho chủ nghĩa vô
thần. Công lao lịch sử của ông đợc thể hiện rõ trong cuộc đấu tranh bền bỉ để
bảo vệ, truyền bá chủ nghĩa duy vật, chống lại một cách quyết liệt chủ nghĩa
duy tâm và thần học ở Hy Lạp cổ đại. Vì thế, hệ thống quan niệm duy vật của
Đêmôcrít đợc coi là giá trị tinh thần kết tinh của thời đại đó và đợc gọi là đờng lối Đêmôcrít. Đờng lối này hoàn toàn đối lập với đờng lối Platôndòng hệ thống triết học duy tâm. Vì vậy, học thuyết của ông là một bớc tiến
khổng lồ lên phía trớc trong phát triển triết học duy vật ở Hy Lạp cổ đại. Mác,
ăngghen gọi ông là bộ óc bách khoa đầu tiên của Hy Lạp cổ đại6.
Ngoài ra đến thế kỷ thứ V tr.CN, một số nhà triết học lại cho rằng khởi
nguyên của thế giới vật chất không phải là một yếu tố nh trờng phái vừa chứng
minh ở trên mà là bốn yếu tố vật chất nh: đất, nớc, không khí và lửa. Điển
hình là Empêđôcơlơ, ông gọi đây là bốn căn nguyên của mọi sự vật, hiện tợng.
Nhìn chung triết học của ông cũng đã tổng hợp đợc nhiều quan niệm duy vật
6
Lịch sử triết học, Nxb QĐND, Hà Nội. 2003.tr106.
8
của các nhà triết học duy vật tiền bối và phát triển thêm quan niệm biện chứng
(tự phát) về vận động, vĩnh viễn, về tính biện chứng của quá trình hình thành
vũ trụ và về quan niệm tiến hoá của sự vật... Nhng sai lầm của ông cho rằng
nguồn gốc và động lực của sự biến đổi nh là những lực lợng tinh thần nh tình
yêu và căm thù...
Tóm lại, dới góc độ bản thể luận và vũ trụ quan sơ khai giá trị cống hiến
của triết học duy vật Hy Lạp cổ đại là phản ánh thế giới đúng đắn, có tác dụng
thúc đẩy tiến bộ xã hội, sản xuất, văn hoá, khoa học trong xã hội chiếm hữu
nô lệ nói riêng và cho nhân loại nói chung. Nét nổi bật của triết học duy vật
Hy Lạp cổ đại là tính chất mộc mạc thô sơ của nó. Nó giải thích tự nhiên trên
quan điểm duy vật thuần phác, theo Ăngghen, đó là quan niệm về thế giới
một cách nguyên thuỷ, ngây thơ, nhng căn bản là đúng7. Các nhà triết học
duy vật Hy Lạp cổ đại khẳng định thế giới vật chất tồn tại khách quan. Thế
giới đó không do thần thánh hoặc do một lực lợng siêu nhiên nào tạo nên. Thế
giới vật chất xuất hiện từ vật chất, từ những nguyên thể vật chất đầu tiên nh: nớc (Talét), Lửa (Hêra clít), không khí (Anaximen), nguyên tử (Đêmôcrít), hoặc
do 4 nguyên tố là đất,nớc, không khí, lửa (Empêđôcơlơ)... song, do trình độ
khoa học cha phát triển mạnh, cho nên các nhà triết học duy vật đơng thời chỉ
có thể quan sát trực tiếp những hiện tợng tự nhiên để rút ra những kết luận
triết học. Họ cha có điều kiện và khả năng đạt tới trình độ mổ xẻ, phân tích tự
nhiên để đi sâu vào bản chất của sự vật mà chỉ có thể vẽ đợc bức tranh tổng
quát về thế giới, về tự nhiên. Tuy vây, quan niệm duy vật thô sơ này cũng có
đóng góp vào sự tác động trong đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, chống tôn
giáo, chống thần học cổ đại, tức là chống lại sự thống trị, áp bức về tinh thần
của tập đoàn chủ nô quý tộc phản động.
Dới góc độ phép biện chứng nhìn chung những giá trị triết học của nó có
ý nghĩa rất to lớn, trong đó phải nói đến Hêraclít, triết học của ông rất nhiều
yếu tố biện chứng có giá trị đợc các nhà triết học Mácxít đánh giá cao. Các
nhà triết học Hy Lạp cổ đại nghiên cứu phép biện chứng chỉ cốt nâng cao nghệ
thuật tranh luận, nghệ thuật hùng biện để bảo vệ những luận điểm triết học
của mình và để tìm ra chân lý. Kết quả của quá trình nghiên cứu này nhiều
nhà triết học đã nhận thức đợc và phát hiện ra nhiều yếu tố của phép biện
chứng nh mối liên hệ giữa các hiện tợng và sự vật, sự vận động vĩnh viễn của
vật chất; tính thống nhất của những mặt đối lập của sự vật, tính nhân quả của
sự phát sinh, phát triển diệt vong của sự vật. Những yếu tố biện chứng đó
chính là sự phỏng đoán thiên tài về những nguyên lý và quy luật của phép biện
7
Ăng ghen, chống Đuy- rinh, Nxb, ST, HN, 1984, tr 32.
9
chứng mà Mác, Ănghen gọi là phép biện chứng tự phát, ngây thơ. Nó cha đợc
chứng minh một cách khoa học và cũng cha đợc nghiên cứu một cách tự giác,
có ý đồ, mục đích từ đầu. Đó là hình thức đầu tiên, hình thức cổ đại của phép
biện chứng.
Thứ hai, về mặt nhận thức luận:
Điểm tiến bộ có giá trị cống hiến của các nhà triết học duy vật Hy Lạp
cổ đại là đã giải quyết đúng đắn mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của triết học.
Họ cho rằng con ngời có khả năng nhận thức đợc thế giới, nhận thức đợc chân
lý khách quan. Đối tợng của nhận thức theo họ không phải là thế giới ý niệm
mà là thế giới vật chất, là giới tự nhiên. Họ là những ngời đầu tiên nêu lên cảm
giác luận duy vật và cho rằng cảm giác có ý nghĩa quan trọng trong quá trình
nhận thức. Nhận thức lý tính không tách rời nhận thức cảm tính. Theo họ, đó
là hai giai đoạn của quá trình nhận thức. Nói tóm lại, họ đã đứng trên quan
điểm nhận thức luận duy vật để chống chủ nghĩa duy lý duy tâm. Chẳng hạn,
cả Hêraclít và Đêmôcrít đều có quan niệm về nhận thức một cách đúng đắn,
mặc dù cũng còn có mặt hạn chế. Nếu nh các nhà triết học trờng phái Milê
chủ yếu bàn về bản thể luận, sự vận động thế giới thì Hêraclít và Đêmôcrít bên
cạnh đó hai ông còn phân tích nhiều vấn đề về nhận thức luận. Hêraclít một
mặt ông đánh giá cao vai trò của các giác quan trong nhận thức các sự vật đơn
lẻ, cho rằng chúng đem lại cho ta những hiểu biết xác thực và sinh động về sự
vật; mặt khác ông cho rằng mục đích tối cao của chúng ta là nhận thức logos,
nhận thức sự thống nhất của vũ trụ là sự thông thái tối cao. Tuy nhiên, đây là
việc đầy phức tạp, cho nên mặc dù logos tồn tại vĩnh viễn và trong cuộc sống
của mình, con ngời thờng xuyên tiếp xúc với nó, nhng ít ngời hiểu đợc, chỉ có
một số nhà thông thái hiểu đợc logos, nhng cần nhấn mạnh rằng ngời hiểu biết
nhiều cha hẳn đã là thông thái, đó cũng là hạn chế của ông. Mặc dù vậy Mác
và Ăngghen vẫn đánh cao chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng của Hêraclít
và coi ông là đại biểu xuất sắc của phép biện chứng thời cổ.
Còn đối với Đêmôcrít ngời có công lớn trong việc đa lý luận nhận thức
duy vật tiến lên một bớc mới, khác với các nhà triết học trớc, Đêmôcrít cho
rằng đối tợng nhận thức là giới tự nhiên; mục tiêu nhận thức là bản chất sự vật.
Ông không phủ định vai trò của nhận thức cảm tính và cũng không tuyệt đối
hoá vai trò nhận thức lý tính. Ông cho rằng, nhận thức đều bắt nguồn từ cảm
giác tiến lên t duy. Ông chia nhận thức thành hai dạng:
- Dạng nhận thức mờ tối: là dạng nhận thức thông qua cảm giác, do các
giác quan đem lại.
10
- Dạng nhận thức chân lý: là dạng nhận thức thông qua những phán đoán
lôgic, dạng này đem lại những kết quả đáng tin cậy. Đó là dạng nhận thức đợc
nguyên tử và chân không, tức là nhận thức đợc bản chất của sự vật.
Hai dạng này có liên hệ chặt chẽ với nhau; mỗi loại đều có vai trò quan
trọng riêng, chúng liên hệ chặt chẽ và bổ sung cho nhau, nhng theo Đêmôcrít
đáng tin cậy hơn cả là nhận thức chân lý. Đêmôcrít đã kế thừa và phát triển
các quan điểm duy vật và t tởng biện chứng trớc đó, vì vậy triết học của ông
đã trở thành đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại.
Mặc dù vậy Đêmôcrít cũng có những điểm hạn chế đó là ông cha thấy sự
khác biệt cơ bản của hai trình độ nhận thức nêu trên, mà chỉ thấy khác nhau về
số lợng; ông cũng cha thấy sự chuyển hoá biện chứng giữa hai trình độ nhận
thức vừa nêu.
Thứ ba là, về mặt chính trị xã hội:
Nhìn chung các nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại đều có quan tâm đến
xã hội, các hiện tợng xã hội, hiện tợng chính trị trong đời sống xã hội. Điểm
tiến bộ của họ là ủng hộ dân chủ, tự do, đứng trên lập trờng của tầng lớp dân
chủ chủ nô. Đấu tranh bảo vệ nền dân chủ Aten, về vấn đề nhà nớc, đạo đức
có rất nhiều điểm tiến bộ. Chẳng hạn nh Đêmôcrít cho rằng con ngời và linh
hồn con ngời đều do nguyên tử và khoảng không tạo nên; con ngời là động vật
có khả năng học, có cảm giác và năng động, linh hồn con ngời là tổng thể các
nguyên tử, là cơ sở của mọi hoạt động cũng nh sức sống của con ngời, linh
hồn con ngời mất đi cùng với khi thể xác mất đi. Ông đứng trên lập trờng dân
chủ chủ nô, bảo vệ nền dân chủ nhà nớc Aten. Điểm hạn chế của ông ở chỗ
cho rằng nô lệ không có dân chủ.
Về đạo đức học Đêmôcrít cho rằng đối tợng của đạo đức là lơng tâm là
cuộc sống, hành vi, số phận mỗi con ngời, chống lại sự giàu có quá đáng, lợi
nhuận bất lơng; ca ngợi lợi ích chung bảo vệ quyền lợi công dân tự do và cho
rằng: cần phải a thích cái nghèo trong một nhà nớc dân chủ hơn so với cái
gọi là cuộc sống hạnh phúc trong chế độ chuyên chế, tựa nh tự do tốt hơn so
với nô lệ8. Phơng châm t tởng của ông đó là thà nghèo còn hơn là giàu có nhng mất dân chủ tự do. Mục tiêu của con ngời hớng tới tự do và hạnh phúc, nhng hạnh phúc không chỉ là sự giàu có; chỉ có ngời nào biết bằng lòng với sự hởng lạc vừa phải thì mới có đợc hạnh phúc. Hạnh phúc là ở sự thanh thản tâm
hồn, đợc tự do. Hạt nhân trung tâm trong đạo đức là lơng tâm, lơng tâm là
sự lành mạnh về tinh thần của từng cá nhân. Ông chống lại sự giàu có quá
8
Lịch sử triết học, Nxb CTQG, Hà Nội. 1998.tr176.
11
đáng, lợi nhuận bất lơng gây hại cho ngời lơng thiện, đó là những vấn đề
chính trong đạo đức học mà ông nêu ra, đó là t tởng hết sức tiến bộ về con ngời và lơng tâm con ngời của ông.
Về Nhà nớc Đêmôcrít khẳng định: nhà nớc đóng vai trò duy trì trật tự và
điều hành hoạt động của xã hội, cho nên cần phải trừng phạt nghiêm khắc
những kẻ nào vi phạm pháp luật hay các chuẩn mực đạo đức, đây là t tởng duy
vật về xây dựng nhà nớc pháp quyền về sau này.
Về giáo dục Đêmôcrít cũng có quan điểm tiến bộ, ông cho rằng nhân tài
là do khổ luyện và giáo dục, hai vấn đề này không tách rời nhau. Nhìn chung
các nhà triết học duy vật cổ đại ở Hy Lạp đều theo quan điểm vô thần, không
thừa nhận có thần linh, thợng đế. Các nhà triết học cho rằng thần là hình ảnh
do trí tợng tợng của con ngời tạo ra, là sự nhân cách hoá những hiện tợng của
tự nhiên hay những thuộc tính của con ngời. Thần mặt trời của tôn giáo Hy lạp
thực ra chỉ là một khối lửa. Chính thuyết nguyên tử của Lơxíp và Đêmôcrít có
ý nghĩa rất lớn về vô thần, các ông đều không thừa nhận có thợng đế. Nó là cơ
sở lý luận duy vật của chủ nghĩa vô thần thời bấy giờ. Nhìn chung các nhà duy
vật thời kỳ Hy Lạp cổ đại đều khẳng định thế giới tồn tại vĩnh viễn không do
ai sáng tạo ra, không có một lực lợng nào bên ngoài vào sự xuất hiện hay sự
diệt vong của thế giới, kiên quyết bác bỏ mọi điều bịa đặt về sự giáng thế của
thần thánh, bác bỏ và chống lại mọi niềm tin vào những biểu tợng hoang đờng
tôn giáo nó có ý nghĩa rất to lớn trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy
tâm, có ý nghĩa tiến bộ và có vai trò lịch sử to lớn cho sự phát triển của khoa
học nhất là thuyết nguyên tử đã dặt cơ sở cho sự phát triển của khoa học tự
nhiên và triết học duy vật sau này.
Đêmôcrít có rất nhiều công lao phát triển lôgic học ông coi lôgic là công
cụ của nhận thức, lấy phơng pháp quy nạp là công cụ nhằm vạch ra bản chất
của sự vật.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tiến bộ trên các phơng diện vừa nêu trên
của các nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại vẫn còn những hạn chế trêm một
số lĩnh vực đó là:
- Triết học duy vật nhng là duy vật tự phát, mộc mạc, còn biện chứng sơ
khai, ngây thơ cha đợc trình bày dới dạng một hệ thống các khái niệm, phạm
trù, quy luật một cách khoa học nh triết học hiện đại sau này. Đó cũng là tất
yếu của lịch sử, do trình độ khoa học cha phát triển mạnh, so với các khu vực
khác có tiến bộ hơn, nhng cũng bị hạn chế bởi điều kiện lịch sử, đó là xã hội
chiếm hữu nô lệ.
12
- Một số đại biểu trờng phái đơn nguyên hay đa nguyên (4 yếu tố) vẫn bị
ảnh hởng đan xen bởi thần thoại tôn giáo, thừa nhận trong thế giới vẫn tồn tại
các vị thần, các vị thần linh là các lực lợng này đã làm cho thế giới vận động
biến đổi (nh Talét, Anaximanđrơ...).
- Trên phơng diện triết học về bản thể luận, nhận thức luận, chính trị- xã
hội mặc dù có nhiều yếu tố tích cực nhng cơ bản vẫn còn hạn chế nh khi nói
về vận động cả Đêmôcrít và Lơxíp cha giải thích đợc nguồn gốc vận động; về
không gian thì ông nói không gian tách rời vật chất, không gian có giới hạn.
Các ông phủ nhận cái ngẫu nhiên, coi cái ngẫu nhiên là một hiện tợng không
có nguyên nhân, là một khái niệm dùng để che dấu sự ngu dốt của con ngời...
- Về linh hồn Đêmôcrít xem nh không phải hiện tợng tinh thần ý thức mà
là hiện tợng vật chất. Theo ông, linh hồn cũng nh lửa, là cái bản nguyên bằng
lửa trong cơ thể. Quan niệm này cũng giống nh Hêraclít đã từng quan niệm:
Nếu thể xác chết, linh hồn còn thì không khác nào ngọn đuốc tắt mà ánh
sáng vẫn còn9.
Sự khác nhau giữa cái sống và cái chết theo Đêmôcrít chỉ là sự khác
nhau về số lợng nguyên tử hình cầu có trong cơ thể.
- Về lĩnh vực xã hội, mặc dù các nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại có
bớc tiến bộ nhất định, nhng nhìn chung đều duy tâm kể cả Đêmôcrít.
Đêmôcrít coi nhu cầu của con ngời, tức là ý muốn, nguyện vọng của con ngời,
quyết định tất cả, quyết định cả đời sống vật chất và đời sống tinh thần của
con ngời; ông chỉ đề cập dân chủ chủ nô còn nô lệ không có dân chủ, nô lệ chỉ
biết vâng lời chủ. Còn về mặt chính trị sai lầm của Hêracrít đó là tính chất
phản dân chủ, thù nghịch với nhân dân, với thờng dân đem một số ngời (thiểu
số ngời) mà ông gọi là u tú đối lập với quần chúng và ông chủ trơng phải
dùng chính quyền để dập tắt nhanh chóng phong trào dân chủ. Quan điểm
chính trị xã hội của ông phản ánh rõ lập trờng giai cấp chủ nô quý tộc của ông
trong cuộc đấu tranh giai cấp vào thời kỳ hình thành chế độ chiếm hữu nô lệ
của Hy Lạp cổ đại.
Nhìn chung điểm hạn chế trong lĩnh vực chính trị xã hội, hầu hết các nhà
triết học trớc Mác đều duy tâm. Chỉ đến triết học Mác xít thì vấn đề xã hội
mới đợc giải quyết trên quan điểm duy vật triệt để.
Tóm lại, những thành tựu phát triển rực rỡ nói trên của triết học duy vật
Hy Lạp cổ đại đã đợc ghi vào lịch sử t tởng của loài ngời về những cống hiến
chói lọi đặc biệt là các vấn đề về triết học duy vật, phơng pháp biện chứng
9
Lịch sử triết học, Nxb trẻ, HN 1998.
13
chất phác, lôgíc học và đạo đức học... Đó là kết quả tất yếu của tiến trình phát
triển của lịch sử.
Nghiên cứu lịch sử phát sinh phát triển của triết học nói chung, của triết
học duy vật Hy Lạp cổ đại nói riêng một lần nữa giúp chúng ta nhìn nhận rõ
ràng đợc sự kế tục, kế thừa của văn minh nhân loại và triết học. Trên cơ sở đó
cho ta thấy đợc những giá trị cống hiến của các nhà triết học duy vật cổ đại,
đặt nền tảng phơng pháp luận cho sự phát triển triết học duy vật biện chứng
sau này, là tiền đề cơ sở lý luận cho sự phát triển của khoa học tự nhiên, liên
kết chặt chẽ giữa triết học và các khoa học tự nhiên, đề ra nhiệm vụ cho khoa
học hiện đại, nó bao chứa mầm mống của tất cả thế giới quan về sau này.
Chúng ta thấy rằng, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm, giữa biện chứng và siêu hình của triết học Hy Lạp cổ đại là rất rõ nết,
đặc biệt là cuộc đấu tranh giữa hai đờng lối triết học: đờng lối Đêmôcrít và
đờng lối Platôn. Cuộc đấu tranh này phản ánh đờng lối quyết liệt giữa tầng
lớp chủ nô tiến bộ mà Đêmôcrít đại diện và tầng lớp chủ nô quý tộc do Platôn
đại diện. Qua cuộc đấu tranh này càng khẳng định sức sống của chủ nghĩa duy
vật và phép biện chứng, làm cơ sở hình thành thế giới quan mới sau này và đặt
nền móng cho toàn bộ triết học về sau. Lênin viết: Hai nghìn năm phát triển
của triết học cũng chỉ xoay quanh trục Đêmôcrít- Platôn; Hê ghen đối xử với
Đêmôcrít hoàn toàn nh một ngời mẹ ghẻ, nhà duy tâm không chịu đựng nổi
tinh thần duy vật; các nhà duy tâm t sản hiện đại đối với Đêmôcrít nh một kẻ
thù còn sống, điều đó minh hoạ đặc sắc cho tính đảng của triết học 10. Lịch sử
phát triển của triết học từ khi xuất hiện triết học cả trờng phái duy vật và duy
tâm trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau, nhng mỗi giai đoạn khác
nhau về nội dung, hình thức, trình độ, phơng pháp và các vấn đề đợc đặt nên
hàng đầu... đó là nguồn gốc, động lực phát triển của lịch sử t tởng triết học. Có
thể nói cuộc đấu tranh giữa hai đờng lối triết học Đêmôcrít và đờng lối Platôn
mở đầu cho cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong
lịch sử t tởng triết học. Đỉnh cao của cuộc đấu tranh này phải kể tới cuộc đấu
tranh giữa triết học của Hêghen với Phơ bách, hạt nhân hợp lý trong triết học
của các ông là tiền đề trực tiếp hình thành triết học Mác sau này.
Qua nghiên cứu triết học Hy Lạp cổ đại giúp ta nắm đợc điều kiện kinh
tế- xã hội và văn hoá của xã hội Hy Lạp cổ đại, hiểu đợc cội nguồn lịch sử văn
hoá và các vấn đề hiện đại của xã hội phơng Tây. Thấy đợc mầm mống, là một
trong những cái nôi của mọi dạng thế giới quan sau này. Ăngghen viết:
10
Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 1981, T.29, tr 282- tr 285.
14
Không có cơ sở văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì cũng không có Châu
Âu hiện đại đợc11.
Trong công tác nghiên cứu khoa học, học tập và giảng dạy giúp cho
chúng ta bóc ra đợc những mặt tích cực và những điểm hạn chế, hiểu biết sâu
thêm về giá trị lịch sử văn hoá phơng Tây, để phát huy củng cố niềm tin duy
vật triệt để, vào triết học Mác xít. Vận dụng nó vào các hoạt động giảng dạy,
nghiên cứu khoa học và các lĩnh vực hoạt động thực tiễn của đời sống xã hội,
đồng thời kiên quyết phê phán các trào lu t tởng lợi dụng chủ nghĩa duy tâm
để tuyên truyền xuyên tạc chống lại Đảng, Nhà nớc và nhân dân ta hiện nay.
Với tinh thần kế thừa tinh hoa t tởng văn hoá nhân loại chúng ta phải biết kế
thừa có chọn lọc những yếu tố tích cực hợp lý của t tởng duy vật, đồng thời
khắc phục những hạn chế, tiêu cực của nó trong đời sống xã hội cũng nh trong
quân đội ta hiện nay. Phải có quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể
và thái độ đúng đắn với t tởng duy vật mặc dù nó còn thô sơ mộc mạc và phép
biện chứng còn sơ khai, coi đó nh là nền văn hoá văn minh nhân loại. Đánh
giá đúng đắn cả ảnh hởng tích cực và tiêu cực đối với xã hội. Nói về quan
điểm, phơng pháp xem xét đánh giá sự vật hiện tợng, Hồ Chí Minh chỉ rõ:
Phải xem xét toàn diện, xem xét quá khứ, nhất là xem xét hiện tại để hiểu
biết và suy đoán về tơng lai... có thế mới nhận định tình hình, nhận xét sự việc
đúng đắn12. Chống kế thừa tràn lan vô nguyên tắc, đồng thời chống thái độ
phủ định sạch trơn hoặc thổi phồng những ảnh hởng tiêu cực của dòng triết
học Hy Lạp cổ đại.
Khắc phục có hiệu quả, từng bớc xoá bỏ những ảnh hởng tiêu cực của t tởng đó đối với đời sống xã hội Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên việc xoá bỏ
những ảnh hởng tiêu cực đó đòi hỏi phải có thời gian, không nóng vội chủ
quan đốt cháy giai đoạn.
Nắm vững lý luận và phơng pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, t tởng
Hồ Chí Minh nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị cho mỗi cán bộ đảng viên đặc
biệt là lực lợng vũ trang trong nhận thức cũng nh trong hành động, trong mỗi
việc làm. Đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm, xét lại trong nhận thức cũng nh
trong hành động trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là trong lực lợng vũ trang hiện nay. Nh Ăngghen đã từng viết: một dân tộc muốn đứng
vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có t duy lý luận.
11
12
Ăng ghen, chống Đuy- rinh, Nxb, ST, HN, 1984, tr 301.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1989, tr 264.
15