Mẫu B16. BCTK-BNN
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
TRUNG TÂM GIỐNG CÂY TRỒNG VÀ CN NÔNG NGHIỆP
BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI CẤP BỘ
ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU TUYỂN CHỌN GIỐNG VÀ BIỆN PHÁP
CANH TÁC VẢI CHÍN SỚM CÓ GIÁ TRỊ KINH TẾ
CAO TẠI TỈNH BẮC GIANG VÀ HẢI DƯƠNG
Thuộc chương trình nâng cao chất lượng, an toàn sản phẩm nông nghiệp
và phát triển khí sinh học (QSEAP)
Cơ quan chủ quản: Bộ Nông nghiệp và PTNT
Cơ quan chủ trì: TT Giống cây trồng và CNNN
Chủ nhiệm đề tài: TS. Trần Danh Sửu
Thời gian thực hiện: 12 tháng : 10/2014 – 10/2015
HÀ NỘI - 2015
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
TRUNG TÂM GIỐNG CÂY TRỒNG VÀ CN NÔNG NGHIỆP
BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI CẤP BỘ
ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU TUYỂN CHỌN GIỐNG VÀ BIỆN PHÁP
CANH TÁC VẢI CHÍN SỚM CÓ GIÁ TRỊ KINH TẾ CAO
TẠI TỈNH BẮC GIANG VÀ HẢI DƯƠNG
Thuộc chương trình nâng cao chất lượng, an toàn sản phẩm nông nghiệp và
phát triển khí sinh học (QSEAP)
Cơ quan chủ quản: Bộ Nông nghiệp và PTNT
Cơ quan chủ trì: TT Giống cây trồng và CNNN
Chủ nhiệm đề tài: TS. Trần Danh Sửu
Thời gian thực hiện: 12 tháng : 10/2014 – 10/2015
HÀ NỘI -2015
2
THÔNG TIN CHUNG CỦA ĐỀ TÀI
Nghiên cứu tuyển chọn giống và biện pháp canh tác vải chín sớm có giá
trị kinh tế cao tại tỉnh Bắc Giang và Hải Dương
Thuộc Chương trình nâng cao chất lượng, an toàn sản phẩm nông nghiệp và phát triển
khí sinh học (QSEAP)
Tên đề tài:
Cơ quan chủ quản: Bộ nông nghiệp và PTNT
Cơ quan chủ trì: Viện Nghiên cứu Rau quả
Chủ nhiệm đề tài: TS. Trần Danh Sửu
Thời gian thực hiện: Từ 10/2014 – 10/2015
DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI THAM GIA THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
TT
Họ và tên
Cơ quan/Tổ chức
1
Trần Danh Sửu
Trung tâm Giống cây trồng và Công nghệ nông nghiệp
2
Hoàng Thị Nga
Trung tâm Giống cây trồng và Công nghệ nông nghiệp
3
Nguyễn Thị Tuyết
Trung tâm Giống cây trồng và Công nghệ nông nghiệp
4
Nguyễn Văn Dũng
Trung tâm Giống cây trồng và Công nghệ nông nghiệp
5
Đào Quang Nghị
Trung tâm Giống cây trồng và Công nghệ nông nghiệp
6
Nguyễn Thị Bích Hồng Trung tâm Giống cây trồng và Công nghệ nông nghiệp
7
Nguyễn Thị Hiền
Trung tâm Giống cây trồng và Công nghệ nông nghiệp
DANH MỤC CÁC SẢN PHẨM CỦA ĐỀ TÀI
STT
I
II
III
III-1
III-2
IV
V
VI
Những sản phẩm giao nộp
Báo cáo Kết quả điều tra, đánh giá hiện trạng sản xuất giống vải
chín sớm tại Hải Dương và Bắc Giang
Giống vải chín sớm có năng suất, chất lượng khá được cơ quan có
thẩm quyền tại địa phương chấp nhận đưa vào sản xuất thử
Quy trình kỹ thuật canh tác cho giống vải chín sớm được cơ quan
có thẩm quyền tại địa phương ban hành
Quy trình ghép cải tạo thay thế giống vải bằng giống Lai Thanh Hà
Quy trình trồng và chăm sóc vải chín sớm Lai Thanh Hà
Mô hình quy mô thâm canh và ghép cải tạo thay thế giống giống
bằng giống vải chín sớm Lai Thanh Hà tại Bắc Giang
Mô hình thâm canh giống vải chín sớm Lai Thanh hà tại Hải
Dương
Tập huấn kỹ thuật sản xuất giống vải chín sớm được tuyển chọn
Số lượng
1
1
1
1
1,5ha
1,5ha
160 lượt người
Lời cảm ơn
Đề tài thực hiện thành công trong một thời gian ngắn, ngoài sự nỗ lực của các
chuyên gia thực hiện đề tài còn có sự hỗ trợ tích cực của các cơ quan chuyên môn, các cơ
quan quản lý về nông nghiệp và chính quyền địa phương ở các tỉnh Hải Dương và Bắc
Giang.
Có được kết quả này, Trung tâm Giống cây trồng và Công nghệ nông nghiệp xin
trân trọng cảm ơn:
- Viện Nghiên cứu Rau quả đã cho kế thừa các kết quả nghiên cứu về cây vải chín
sớm trong những năm gần đây và giúp đỡ về chuyên môn trong quá trình thực hiện.
- Sở Nông nghiệp và PTNT các tỉnh Hải Dương và Quảng Ninh đã phối hợp cùng
với Trung tâm bình tuyển, công nhận cây đầu dòng giống vải chín sớm được tuyển chọn;
Đã tổ chức thẩm định và ban hành quy trình kỹ thuật trên cơ sở kết quả nghiên cứu hoàn
thiện quy trình của Trung tâm nhằm mục đích nhân giống và sản xuất thử tại địa phương.
- Phòng Nông nghiệp và PTNT Lục Ngạn, Phòng Nông nghiệp và PTNT Thanh
Hà, UBND các xã Quý sơn, Thanh Hải (huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang) và UBND xã
Thanh Cường ( huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương) xã đã nhiệt tình giúp đỡ Trung tâm
trong quá trình triển khai các nội dung của đề tài tại địa phương.
Nhân dịp này, Trung tâm Giống cây trồng và Công nghệ nông nghiệp cũng xin
trân trọng cảm ơn Ban quản lý các dự án QSEAP, Vụ Khoa Công nghệ- Bộ Nông nghiệp
và PTNT nhiệt tình hướng dẫn về thủ tục hành chính, tạo điều kiện để Trung tâm hoàn
thiện thuyết minh, thực hiện đề tài cũng như hoàn thiện báo cáo đúng theo các quy định
của nhà nước.
Ngày 01 tháng 12 năm 2015
Giám đốc Trung tâm
4
Tóm tắt kết quả thực hiện đề tài
Đề tài: Nghiên cứu tuyển chọn giống và biện pháp canh tác vải chín sớm có giá
trị kinh tế cao tại tỉnh Bắc Giang và Hải Dương, Thuộc chương trình nâng cao chất
lượng, an toàn sản phẩm nông nghiệp và phát triển khí sinh học (QSEAP) được thực hiện
trong thời gian từ 10/2014 - 10/2015 tại các tỉnh Bắc Giang và Hải Dương trên cơ sở kế
thừa các kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Rau quả trong những năm gần đây trên
cây vải chín sớm lai Thanh Hà.
Đề tài đã đạt được các kết quả chính như sau:
- Tuyển chọn được giống vải lai Thanh Hà có năng suất cao, chất lượng tốt phục
vụ phát triển, rải vụ thu hoạch. Giống đã được Sở Nông nghiệp và PTNT Bắc Giang và
Hải Dương cho phép nhân giống để sản xuất thử ở địa phương bằng việc công nhận 15
cây đầu dòng tại huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang và huyện Thanh Hà tỉnh Hải Dương.
- Nghiên cứu hoàn thiện quy trình sản xuất giống vải chín sớm lai Thanh Hà, làm
cho vải lai Thanh Hà ra hoa đậu quả ổn định, cải thiện chất lượng quả, chín sớm 10 - 15
ngày so với giống vải thiều Thanh Hà. Quy trình được Sở Nông nghiệp và PTNT Bắc
Giang và Hải Dương ban hành để khuyến cáo cho sản xuất.
- Nghiên cứu hoàn thiện quy trình ghép cải tạo thay thế giống vải bằng giống vải
chín sớm lai Thanh Hà. Quy trình áp dụng làm tỷ lệ ghép sống đạt trên 84%, tăng khả
năng sinh trưởng các đợt lộc, nhanh ra hoa, đậu quả. Quy trình đã được Sở Nông nghiệp
và PTNT Bắc Giang ban hành phục vụ sản xuất.
- Đề tài đã xây dựng 3,0 ha mô hình sản xuất giống vải chín sớm lai Thanh Hà.
Trong đó: 2,0 ha mô hình thâm canh, 1,0 ha mô hình ghép cải tạo thay thế giống bằng
giống vải lai Thanh Hà. Cây trong cac mô hình sinh trưởng khỏe. Mô hình thâm canh 2,0
ha đạt hiệu quả cao hơn 16,5 - 33,6% so với đối chứng, chất lượng quả được cải thiện.
Mô hình ghép cải tạo 1,0 ha, cành ghép bật mầm khỏe.
- Đã đào tạo và tập huấn kỹ thuật cho 160 lượt người về thực hành nông nghiệp tốt
và kỹ thuật sản xuất vải chín sớm.
5
MỤC LỤC
1.1.2. Những nghiên cứu trong nước................................................................15
2.3.1. Phương pháp tiến hành và bố trí thí nghiệm........................................30
- Thời gian thu hoạch: sớm hơn so với vải thiều ≥10 ngày.............................30
- Năng suất: cao hơn từ 15 - 20% so với đại trà...............................................30
- Chỉ tiêu về phẩm chất quả:..............................................................................30
Khối lượng quả: > 28 gam/quả.........................................................................30
Tỷ lệ phần ăn được: > 70%..............................................................................30
Độ Brix: > 17,0%..............................................................................................30
Bảng 3.18. Mức độ nhiễm một số loại sâu bệnh chủ yếu................................53
6
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Các giống vải chủ lực của một số nước trên thế giới..............................11
Bảng 2.2. Hàm lượng dinh dưỡng thích hợp cho đất trồng vải tính theo khối lượng. Error:
Reference source not found
Bảng 3.1: Diện tích, năng suất và sản lượng vải qua các năm ở Bắc Giang.....Error:
Reference source not found
Bảng 3.2. Các giống vải trồng tại Bắc Giang.......Error: Reference source not found
Bảng 3.3: Diện tích và sản lượng các giống vải ở Bắc Giang năm 2014..........Error:
Reference source not found
Bảng 3.4. Thực trạng áp dụng quy trình kỹ thuật của các hộ tại các địa phương
..............................................................................Error: Reference source not found
Bảng 3.5. Tình hình sử dụng phân bón và thuốc BVTV cho vải tại một số huyện
của Bắc Giang.......................................................Error: Reference source not found
Bảng 3.6. Diện tích, năng suất và sản lượng vải qua các năm ở Hải Dương....Error:
Reference source not found
Bảng 3.7. Các giống vải trồng tại Hải Dương......Error: Reference source not found
Bảng 3.8: Diện tích và sản lượng các giống vải ở Hải Dương năm 2014.........Error:
Reference source not found
Bảng 3.9. Thực trạng áp dụng quy trình kỹ thuật của các hộ tại các địa phương
..............................................................................Error: Reference source not found
Bảng 3.10: Tình hình sử dụng phân bón và thuốc BVTV cho vải tại Thanh Hà
..............................................................................Error: Reference source not found
Bảng 3.11. Đặc điểm hình thái của giống vải Lai Thanh Hà Error: Reference source
not found
Bảng 3.12. Khả năng sinh trưởng về khung tán của giống vải Lai Thanh Hà (Số
liệu năm 2014)......................................................Error: Reference source not found
7
Bảng 3.13. Một số đặc điểm về lá, hoa, quả của giống vải Lai Thanh Hà........Error:
Reference source not found
Bảng 3.14. Khả năng ra hoa, đậu quả và thu hoạch của giống vải Lai Thanh Hà
..............................................................................Error: Reference source not found
Bảng 3.15. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của giống vải Lai Thanh Hà
..............................................................................Error: Reference source not found
Bảng 3.16. Một số chỉ tiêu về chất lượng quả của các giống vải tuyển chọn....Error:
Reference source not found
Bảng 3.17. Kết quả đánh giá một số chỉ tiêu cảm quan..Error: Reference source not
found
Bảng 3.18. Mức độ nhiễm một số loại sâu bệnh chủ yếu trên giống vải lai
Thanh Hà...........................................................Error: Reference source not found
Bảng 3.19. Danh sách cây đầu dòng tuyển chọn tại Bắc Giang và Hải Dương Error:
Reference source not found
Bảng 3.20. Đặc điểm sinh trưởng bộ khung tán của các cây đầu dòng (Số liệu theo
dõi năm 2015).......................................................Error: Reference source not found
Bảng 3.21. Thời gian và khả năng sinh trưởng các đợt lộc của các cây đầu dòng
..............................................................................Error: Reference source not found
Bảng 3.22. Khả năng ra hoa, đậu quả của các cây đầu dòng.Error: Reference source
not found
Bảng 3.23. Năng suất thực thu của các cây đầu dòng.....Error: Reference source not
found
Bảng 3.24. Một số chỉ tiêu về chất lượng quả của các cây đầu dòng................Error:
Reference source not found
Bảng 3.25. Mức độ nhiễm một số loại sâu bệnh hại chính của các cây đầu dòng
..............................................................................Error: Reference source not found
8
Bảng 3.26. Ảnh hưởng của cắt tỉa đến tình hình ra lộc...Error: Reference source not
found
Bảng 3.27. Ảnh hưởng của cắt tỉa đến khả năng ra hoa, đậu quả và năng suất.Error:
Reference source not found
Bảng 3.28. Ảnh hưởng của liều lượng phân bón đến khả năng ra hoa, đậu quả và
năng suất quả vải lai Thanh Hà............................Error: Reference source not found
Bảng 3.29. Ảnh hưởng của liều lượng phân bón đến chất lượng quả vải lai Thanh Hà
..............................................................................Error: Reference source not found
Bảng 3.30. Kết quả điều tra một số sâu hại chính trên hoa, quả vải qua các giai
đoạn sau phun thuốc.............................................Error: Reference source not found
Bảng 3.31. Kết quả điều tra tình hình bệnh hại trên quả vải qua các giai đoạn sau
phun thuốc............................................................Error: Reference source not found
Bảng 3.32. Ảnh hưởng của thời gian bảo quản mắt ghép đến tỷ lệ ghép sống. Error:
Reference source not found
của cành ghép.......................................................Error: Reference source not found
Bảng 3.33. Ảnh hưởng của số lượng mầm trên đoạn mắt ghép đến tỷ lệ ghép sống
và khả năng sinh trưởng của cành ghép................Error: Reference source not found
Bảng 3.34. Ảnh hưởng của một số chế phẩm dinh dưỡng qua lá đến kích thước các
đợt lộc...................................................................Error: Reference source not found
Bảng 3.35 Ảnh hưởng của một số chế phẩm dinh dưỡng qua lá đến khả năng ra
hoa, đậu quả và năng suất vải lai Thanh Hà ghép cải tạo.....Error: Reference source
not found
Bảng 3.36. Ảnh hưởng của một số chế phẩm dinh dưỡng qua lá đến các chỉ tiêu
chất lượng quả......................................................Error: Reference source not found
Bảng 3.37. Quy mô và địa điểm xây dựng mô sản xuất vải lai Thanh Hà........Error:
Reference source not found
9
Bảng 3.38. Lượng phân bón thời kỳ cho thu hoạch tính theo tuổi cây..............Error:
Reference source not found
Bảng 3.39 Lượng phân bón thời kỳ cho thu hoạch.........Error: Reference source not
found
Bảng 3.40. Thời gian chín và năng suất quả ở các vườn mô hình vải lai Thanh Hà Error:
Reference source not found
Bảng 3.41. Chất lượng quả của vải chín sớm lai Thanh Hà ở các vườn mô hình
..............................................................................Error: Reference source not found
Bảng 3.42. Hiệu quả kinh tế ở các vườn mô hình Error: Reference source not found
10
1. Đặt vấn đề
Cây vải (Litchi chinensis Sonn.) là cây ăn quả Á nhiệt đới có giá trị dinh dưỡng và
giá trị kinh tế cao trên thế giới, đồng thời là một trong những loại cây ăn quả chủ lực, có
diện tích trồng trọt tập trung lớn nhất ở miền Bắc. Tính đến năm 2014, sản lượng vải trên
thế giới đạt khoảng 2,6 triệu tấn. Trong đó, các nước trồng vải tập trung, với sản lượng
lớn là Trung Quốc: 1.482.000 tấn, Ấn Độ: 624.000 tấn, Madagasca: 100.000 tấn. Một số
nước như: Đài Loan, Thái Lan, Nam Phi, Úc, Mỹ… có trồng vải nhưng diện tích còn nhỏ
và sản lượng thấp.
Theo số liệu của Cục Trồng trọt - Bộ Nông nghiệp và PTNT, đến năm 2014, tổng
diện tích vải của cả nước đạt trên 70 ngàn ha với sản lượng đạt khoảng 300 ngàn tấn,
đứng thứ 3 trên thế giới (chỉ sau Trung Quốc và Ấn Độ). Tập trung chủ yếu tại 2 tỉnh:
Bắc Giang với diện tích trên 33 ngàn ha, sản lượng đạt trên 190 ngàn tấn; Hải Dương với
diện tích 11 ngàn ha, sản lượng 48 ngàn tấn.
Với đặc thù giống vải trồng ở miền Bắc tập trung vào giống vải chín chính vụ
thiều Thanh tích (chiếm trên 90% diện tích). Đây là giống có chất lượng tốt, sản lượng
lớn, nhưng thu hoạch trong một thời gian quá ngắn (chủ yếu tập trung trong tháng 6
dương lịch) nên đã gây nên tình trạng khó khăn trong bố trí lao động cho thu hoạch, vận
chuyển, bảo quản, chế biến và tiêu thụ, làm giảm hiệu quả kinh tế của người trồng vải.
Trong những năm gần đây để bổ sung vào cơ cấu giống vải giúp rải vụ, kéo dài
thời gian cho thu hoạch, một số giống vải chín sớm đã được Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn công nhận là giống chính thức, phục vụ cho phát triển trong sản xuất như:
Các giống Bình Khê, Yên Hưng cho tỉnh Quảng Ninh và các tỉnh vùng núi phía đông
Bắc; giống Phúc Hòa cho tỉnh Bắc Giang và một số tỉnh trung du miền núi phía Bắc. Tuy
nhiên do đặc thù mỗi giống chỉ thích nghi trong một phạm vi sinh thái nhất định nên nhu
cầu về tuyển chọn giống vải chín sớm cho các vùng trồng tại miền Bắc vẫn ngày càng
được quan tâm, đặc biệt là một số tỉnh trồng vải chủ lực như Bắc Giang và Hải Dương.
Hiện tại, 2 tỉnh Bắc Giang và Hải Dương đã có chủ trương thay thế khoảng 15 20% diện tích vải thiều chính vụ bằng các giống vải sớm được tuyển chọn. Đây là những
giống có khả năng cho thu hoạch sớm hơn vải thiều từ 15 - 20 ngày, có khả năng cho
năng suất cao, chất lượng khá tốt, chống chịu được sâu bệnh hại nên nó không chỉ mang
lại hiệu quả kinh tế cao mà còn góp phần rải vụ thu hoạch, giảm thiểu đáng kể sự thất
thoát sản phẩm và sự căng thẳng về lao động do phải thu hoạch vải một cách quá tập
trung gây nên.
Bên cạnh đó, cũng có tâm lý lo ngại phát sinh từ thực tế khi phát triển các giống vải
chín sớm, đó là số lượng giống chín sớm có năng suất, chất lượng tốt chưa nhiều và còn
bộc lộ một số hạn chế như: tỷ lê đậu quả chưa cao, năng suất chưa ổn định qua các năm;
chất lượng còn hạn chế do các yếu tố kỹ thuật tác động chưa được đáp ứng.
Việc “Nghiên cứu tuyển chọn giống và biện pháp canh tác vải chín sớm có giá trị
kinh tế cao tại tỉnh Bắc Giang và Hải Dương” sẽ xác định được một số giống vải chín
sớm mới và đề xuất các biện pháp kỹ thuật phù hợp, góp phần phát triển các giống vải
này đáp ứng yêu cầu rải vụ thu hoạch và mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người trồng.
11
2. Mục tiêu
2.1. Mục tiêu chung
Tuyển chọn và phát triển được giống vải chín sớm, có năng suất cao, chất lượng
khá, có giá trị hàng hóa, thích hợp cho các tỉnh Bắc Giang và Hải Dương.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Tuyển chọn được 1 - 2 giống vải chín sớm (sớm hơn 15 ngày so với vải chính vụ)
có năng suất cao, chất lượng khá, có giá trị hàng hóa, thích hợp cho các tỉnh Bắc Giang
và Hải Dương (được Bộ NN&PTNT công nhận hoặc được Sở NN và PTNT chấp nhận
đưa vào sản xuất).
- Hoàn thiện được quy trình trồng và chăm sóc cho các giống tuyển chọn.
- Xây dựng được 3ha mô hình trình diễn giống và ứng dụng các kết quả nghiên
cứu tại Bắc Giang và Hải Dương, làm hiệu quả kinh tế tăng 15 - 20%.
- Tập huấn được cho 80 lượt người nắm được được kỹ thuật sản xuất giống vải
tuyển chọn.
12
Chương I. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Một số kết quả nghiên cứu về tuyển chọn giống vải trong và ngoài nước
1.1.1. Những nghiên cứu ngoài nước
Trung Quốc được coi là nước có số lượng giống vải nhiều nhất trên thế giới, với
trên 200 giống. Trong đó, các giống quan trọng được tập trung phát triển và sử dụng cho
công tác chọn tạo có gần 100 giống, được phân thành 3 nhóm chính:
- Các giống vải thương phẩm đang phát triển rộng: 33 giống
- Các giống vải địa phương trồng còn ít: 20 giống
- Các giống vải quý hiếm mang tính đặc thù: 22 giống
Các giống này thường có thời gian cho thu hoạch vào giữa tháng 6 đến giữa tháng
7. Đặc biệt, ở Trung Quốc, thời gian cho thu hoạch có thể kéo dài đến cuối tháng 7, sang
đầu tháng 8, vì vậy tạo nên lợi thế so sánh với các nước có các giống vải cho thu hoạch
sớm hơn, giúp rải vụ thu hoạch và có giá bán cao.
Ở tỉnh Quảng Đông, các giống vải được trồng mang tính chất thương mại là:
Baila, Baitangying, Heiye, Feizixiao, Gwiwei, Nuomici và Huaizhi với diện tích mỗi
giống lên đến trên 20.000 ha. Hai giống Gwiwei và Nuomici được trồng rộng rãi nhất,
với diện tích lên đến trên 60.000 ha mỗi giống.
Ở tỉnh Vân Nam, giống Lanzhu được xem là giống trồng chính với diện tích xấp
xỉ 25.000 ha. Các giống mới được chọn tạo có năng suất, phẩm chất tốt, hạt lép là: giống
HôngHu (khối lượng quả trung bình 24 g/quả, tỷ lệ ăn được 79%, đường tổng số >
18,5%, năng suất cao và ổn định); giống Dongguan Seedlesss là giống chín sớm, có khả
năng thích nghi cao với điều kiện môi trường, khối lượng quả lớn: 35,3 - 62,0 g/quả, tỷ lệ
quả hạt lép cao trên 90%, đường tổng số > 17%; tỷ lệ ăn được > 80% (Nghê Diệu
Nguyên và Ngô Tố Phần, 1998), (Hong và Li, 2000), (Minas và cộng sự, 2002), (Zhao và
Zhu, 2000).
Theo Gosh, 2000, Gosh và Mitra, 2000, Gosh và cộng sự, 2000, ở Ấn Độ, vải
được trồng tập trung ở các bang vùng phía Đông, chiếm trên 60% tổng diện tích. Các
bang ở phía Bắc Ấn Độ, diện tích vải chiếm khoảng 16%. Các bang trồng vải chủ yếu của
Ấn Độ là: Bihar (chiếm trên 74% diện tích), West Belgan, Tripura, Asam và Uttaranchal.
Các giống trồng quan trọng là: Shahi, Bombai, China, Deshi, Calcutta, Rose Scented, và
Mazaffarpur. Hai giống lai mới được chọn tạo là H - 73 và H - 105 có tiềm năng cho
năng suất cao, đang được phát triển mạnh trong sản xuất.
Ở Thái Lan, các giống chính được trồng là Haak Yip, Taiso, Wai Chee (tên địa
phương là Baidum, Hong Huey và Kim Cheng). Các giống vải trồng của Thái Lan được
phân thành 2 nhóm: nhóm vải Nhiệt đới và nhóm vải Á nhiệt đới. Nhóm vải Nhiệt đới
trồng có tính thương mại, thích hợp ở các tỉnh vùng miền Trung Thái Lan có các tháng
mùa đông ấm áp. Có khoảng 20 giống thuộc nhóm này; nhóm vải Á nhiệt đới được trồng
chủ yếu ở các tỉnh vùng Bắc Thái Lan nơi có mùa đông mát mẻ hơn. Có khoảng 10 giống
13
thuộc nhóm này. Giống Kom được coi là giống quan trọng của nhóm vải Nhiệt đới, giống
Hong Huay là giống chủ đạo của vùng Á nhiệt đới (Anupunt và Sukhvibul, 2003),
(Chinawat và Suranant, 2000).
Bảng 2.1. Các giống vải chủ lực của một số nước trên thế giới
TT
Tên nước
Tên giống
San Yee Hong, Baitangying, Fay Zee Siu, Bah Lup, Wai chee, Haak
1 Trung Quốc Yip, Kwai Mi, No Mai Chi, Souey Tung, Tai So, Brewster Baila,
Heiye, Guiwei, Huaizhi, HongHu, Dongguan Seedlesss
Ajhuli, Bedana, Shahi, Bombai, China, Deshi, Calcutta, Rose
2 Ấn độ
Scented, Green, Kasba, Longia, Purbi, và Mazaffarpur.
3 Thái Lan
Tai So, Wai chee, Baidum, Chacapat và Kom
4 Đài Loan
Haak Ip, Sah Keng, Yu Her Pau, No Mai Chi, Sa Ken và Kwai Mi.
5 Australia
Fay Zee Siu, Tai So, Bengal, Wai Chi, Kwai May Pink, và Salathiel
6 Nam Phi
Tai So, Bengal,
7 Madagascar Tai So
8 Mauritius
Tai So
9 Mỹ
Tai So và Kaimana
Rajshahi, Madrajie, Mongalbari, Bombai, Kadmi, Bedana, Kalipuri,
10 Banglades
China - 3.
Mujafpuri, Raja Saheb, Deharaduni, China, Calcuttia, Pokhara,
11 Nepal
Udaipur, Tanahu, Chitwan, Kalika và Gorkha.
12 Philippines
Mauritius, Sinco
Nguồn: Campbell (2009)
Theo Dixon và cộng sự, 2003, Greer và Campbel, 1990, Menzel và Greer, 1986,
có khoảng trên 40 giống vải được trồng ở Australia. Các giống hiện tại đang được trồng ở
Bắc Queensland là Kwai May Pink, Fay Zee Siu và Souey Tung… Kwai May Pink là
giống trồng phổ biến ở miền Trung, miền Nam Queensland và Bắc New South Wales
cùng với 2 giống Salathiel và Wai Chi. Các giống quan trọng nhất hiện nay là Tai So,
Haak Ip, Kwai May Pink, Bosworth N03, Wai Chi, Fay Zee Siu, Salathiel.
Giống vải trồng chủ yếu của Đài Loan là: Hak Ip, Yu Her Pau, No Mai Chi, Sa
Ken, Kwai Mi. Trong đó, Hak Ip là giống trồng phổ biến nhất (chiếm khoảng trên 90%
diện tích trồng trọt), giống Yu Her Pau (chiếm 10%) được trồng ở phía Nam và No Mai
Chi được trồng ở miền Trung (Teng, 2003).
Theo Campbell và Ledesma (2003), Crane và cộng sự (2003), Goren và cộng sự
(2000), Greer (1990), Knight (2000), Richard và cộng sự (2000), các nước có tham gia
trồng vải nhưng với diện tích nhỏ và sản lượng thấp là các vùng Florida, Hawaii, Pueto
Rico, California của nước Mỹ; Island; Israel; Đài Loan và vùng Nhiệt đới châu Mỹ...
(bảng 2.1).
14
1.1.2. Những nghiên cứu trong nước
Trong nước, công tác nhập nội giống cũng đã được tiến hành từ những năm đầu
thập kỷ 80 của thế kỷ 20 (trong phạm vi nghiên cứu và trao đổi không chính thức, một số
giống vải tốt của Trung Quốc đã được đưa sang khảo nghiệm tại Phú Thọ từ những năm
60). Vào những năm 1989 – 1992, tập đoàn 7 giống vải có nguồn gốc từ Trung Quốc,
Australia được nhập nội và trồng tại Nông trường quốc doanh Lục Ngạn. Kết quả khảo
nghiệm và đánh giá cho thấy, 3 giống có triển vọng là Swei Tung, Sum Yee Hong và Fay
Zee Siu song đều là giống chín chính vụ (Phạm Minh Cương và cộng sự, 2000).
Tập đoàn 5 giống vải: Mỏ gà, Phi Tử Tiếu, Tam Nguyệt Hồng, Hắc Diệp và Bạch
Đường Anh đã được nhập nội và đánh giá tại Viện Nghiên cứu Rau quả từ những năm
1997. Kết quả cho thấy: giống vải Mỏ gà có khả năng sinh trưởng tốt, ra quả đều qua các
năm, khối lượng trung bình quả: 25 – 30g, tỷ lệ ăn được xấp xỉ 80% (tương đương các
giống hạt lép trồng tại Trung Quốc).
Ngoài ra, các giống vải ưu tú, hạt lép của Trung Quốc như Đại Hồng, Diệp Xuân 1,
Diệp Xuân 2... cũng đã được nhập về Việt Nam thông qua các cơ quan quản lý, sản xuất
nông nghiệp như Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn các tỉnh: Bắc Giang, Quảng
Ninh, Yên Bái...và đang tiếp tục được theo dõi, đánh giá.
Theo Trần Thế Tục (1998), (2004), các giống vải của nước ta có thể phân chia theo
thời vụ thu hoạch, đặc điểm sinh trưởng hoặc phẩm chất quả. Ở miền Bắc Việt Nam các
nhóm giống và giống vải được phân chia như sau:
- Theo thời vụ có: nhóm vải chín sớm, nhóm vải chín chính vụ và nhóm vải chín
muộn.
- Theo đặc điểm sinh trưởng và phẩm chất quả có: nhóm vải chín sớm, nhóm vải
chính vụ và nhóm vải chín muộn.
* Các giống vải chín sớm: là các giống vải có thời gian chín từ 5/5 đến 30/5 hàng
năm trong điều kiện các tỉnh phía Bắc, Việt Nam. Có đặc điểm: chùm hoa có phủ một lớp
lông thưa màu nâu, khối lượng trung bình quả đạt 30 - 40g, tỷ lệ phần ăn được 65 - 72%,
quả hình tim hay hình trứng, vỏ quả khi chín có màu xanh vàng hay đỏ sẫm, ăn có vị
ngọt, hơi chua. Các giống này thường có năng suất khá cao, có khả năng thích ứng rộng
hơn các giống chính vụ và chín muộn. Một số giống thuộc nhóm này là: Hùng Long, Yên
Hưng, Yên Phú, Phúc Hoà, Bình Khê.
Nhưng năm gần đây, Viện Nghiên cứu Rau quả đã điều tra đánh giá các giống vải
chín sớm tại các tỉnh phía Bắc. Ngoài các giống đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT công
nhận, giống vải chín sớm Lai Thanh hà là giống có triển vọng. Ở Hải Dương, giống này
được gọi là vải Tàu Lai (không phải do lai tạo), ở Bắc Giang giống này có nguồn gốc từ
Thanh Hà, Hải Dương đưa sang nên người dân gọi là vải Lai Thanh Hà. Theo Sở Nông
nghiệp và PTNT Bắc Giang, diện tích giống vải Lai Thanh Hà hiện tại ở Bắc giang đã lên
đến 1.200 ha và đang mang lại hiệu quả cao cho bà con nông dân.
* Các giống vải chính vụ: là các giống vải có thời gian chín tập trung trong khoảng
từ 1/6 đến 30/6 trong điều kiện các tỉnh phía Bắc, Việt Nam. Có đặc điểm: chùm hoa có
phủ lớp lông màu trắng, khối lượng quả trung bình đạt 18 - 25g, tỷ lệ phần ăn được 68 -
15
82%, quả hình cầu, vỏ quả khi chín có màu đỏ tươi, ăn có vị ngọt thanh, cùi ráo, vị thơm,
năng suất khá cao, ổn định. Các giống thuộc nhóm này là: Thiều Thanh Hà, Thiều Phú
Hộ, Thiều Lục Ngạn.
* Các giống vải chín muộn: hiện đã phát hiện được một số dòng chín muộn. Các
dòng này có thời gian chín trong khoảng thời gian từ 30/6 đến 10/7 trong điều kiện các
tỉnh phía Bắc, Việt Nam. Có đặc điểm: chùm hoa có phủ lớp lông thưa, màu trắng, khối
lượng quả trung bình đạt từ 25 - 35g, tỷ lệ phần ăn được đạt 66 - 75%, quả hình tim hoặc
hình cầu, vỏ quả khi chín có màu đỏ tươi hoặc đỏ sẫm, vị ngọt, năng suất đạt xấp xỉ các
giống vải chính vụ, ít có hiện tượng ra quả cách năm. Các dòng vải thuộc nhóm này chủ
yếu được phát hiện tại Thanh Hà (Hải Dương) và Lục Ngạn (Bắc Giang).
Giai đoạn 2000 - 2010, Với mục tiêu tuyển chọn được các giống chín sớm, cho
năng suất cao, chất lượng khá, ổn định, mang lại hiệu quả kinh tế cao, Viện Nghiên cứu
Rau quả đã tuyển chọn được một số giống vải có thời gian chín sớm hơn so với vải thiều
từ 10 - 30 ngày như: Hùng Long, Bình Khê, Yên Hưng, Yên Phú. Các giống này đã được
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận là giống chính thức, được phổ biến
rộng trong sản xuất tại các tỉnh Phú Thọ, Quảng Ninh, Hưng Yên và hiện đang được
trồng thử nghiệm, ghép cải tạo thay thế giống để đánh giá tại Bắc Giang và một số tỉnh
khác.
Hướng nghiên cứu chọn tạo giống vải trong nước hiện tại và tương lai là tiếp tục
đánh giá, chọn lọc và cải tiến tập đoàn giống hiện có; chọn tạo giống theo hướng lai hữu
tính, gây đột biến (bao gồm cả xử lý đột biến bằng tác nhân vật lý và hoá học) để có được
bộ giống phong phú, có năng suất cao, phẩm chất tốt bao gồm các giống chín sớm, chính
vụ, chín muộn để kéo dài thời gian cho thu hoạch, bên cạnh đó là nhập nội các giống vải
ưu tú (vải hạt lép, không hạt) từ các nước có điều kiện sinh thái tương đồng để khảo
nghiệm, đánh giá, chọn lọc và đưa vào sản xuất thay thế các giống cũ.
Như vậy, tập đoàn giống vải của các nước trên thế giới và Việt Nam rất phong phú
nhưng chủ yếu là các giống chín chính vụ và chín muộn (thời gian chín tập trung từ đầu
tháng 6 đến giữa tháng 7). Các giống chín sớm có mặt với diện tích còn rất hạn chế. Do
vậy, nếu bổ sung được một số lượng thích hợp các giống vải chín sớm thông qua việc
đánh giá tuyển chọn giống bản địa ưu tú và chọn tạo giống mới sẽ góp phần rải vụ thu
hoạch, nâng cao hiệu quả trồng trọt, đáp ứng thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước.
1.2. Một số kết quả nghiên cứu về kỹ thuật sản xuất vải trong và ngoài nước
1.2.1. Những nghiên cứu ngoài nước
1.2.1.1. Nghiên cứu về kỹ thuật cắt tỉa
Ở tất cả các nước trồng vải trên thế giới đều có những nghiên cứu về các biện
pháp cắt tỉa, tạo hình và đều nhằm mục đích tạo cho cây có bộ khung tán cân đối, thuận
lợi cho quang hợp, hạn chế sâu bệnh hại, dễ chăm sóc, quản lý, làm tăng năng suất, phẩm
chất quả.
Phương pháp cắt tỉa nhìn chung tương đối giống nhau. Tùy theo từng loại cây mà
phương pháp cắt tỉa có thể là tạo tán mở hình phễu hay tạo tán hình rẻ quạt... Ngoài việc
16
cắt tỉa cành, ở Trung Quốc còn sử dụng biện pháp cắt ngắn chùm hoa nhằm hạn chế tiêu
hao dinh dưỡng, giúp cho quá trình đậu quả và phát triển của quả tốt hơn.
Theo Hertslet (1989), đốn, cắt tỉa, tạo hình có thể coi như là các kỹ thuật điều chỉnh
sinh trưởng và phát triển của cây trồng nói chung và cây vải nói riêng. Muốn biết cắt tỉa vào
lúc nào, những cành nào nên cắt bỏ thì phải có những nghiên cứu cụ thể, dựa trên các nguyên
lý chung sau đây:
+ Sự phát triển của các bộ phận trên mặt đất và dưới mặt đất có sự cân bằng theo
tỷ lệ nhất định đối với từng loài cây trồng. Nếu phá vỡ sự cân bằng này, cây sẽ tự thiết
lập lại một cân bằng mới, dựa vào đặc điểm này ta có thể thay lộc, cành mới hay phục
tráng lại bộ rễ.
+ Những cành ở trên mặt tán có hiện tượng ưu thế ngọn, kìm hãm sự phát triển của
các cành phía dưới. Phá vỡ hiện tượng ưu thế ngọn sẽ tạo điều kiện cho các cành phía
dưới phát triển.
+ Theo lý luận về giai đoạn phát dục của các vị trí cành trên cây, sự phát dục giảm
dần từ cành ngọn xuống cành ở dưới. Vì vậy, cần tạo cho cây có bộ tán phân bố đều. Mặt
khác, thông qua cắt tỉa sẽ làm tăng khả năng ra hoa, đậu quả của cây.
Nguyên tắc cắt tỉa: Theo Cục hợp tác nghiên cứu về sản xuất Nông nghiệp Úc
(2001), nguyên tắc cắt tỉa với các đối tượng cây như sau:
+ Đối với cây vải trẻ: thời kỳ này cây vải mới cho quả nên cắt tỉa nhẹ, để lại nhiều
cành. Nói chung, chỉ cắt bỏ những cành đã mất khả năng quang hợp, cành la sát mặt đất
và một số ít cành mọc sít nhau, cành tăm, cành sâu bệnh. Thời kỳ này chỉ cắt tỉa khoảng
10% số cành.
+ Đối với cây vải trưởng thành: giai đoạn này cây vải đã chuyển sang thời kỳ sai
quả, tiêu hao nhiều dinh dưỡng vì vậy nên cắt tỉa nặng, để dinh dưỡng tập trung cho
những cành còn lại, thúc đẩy lộc thu phát triển, bảo đảm chắc chắn sang năm có quả.
Thời kỳ này cắt tỉa khoảng 20 - 30% số cành.
- Đối với cây vải già: căn cứ vào khả năng sinh trưởng và tình hình ra quả vụ trước
để xác định mức độ cắt tỉa nặng hay nhẹ. Cây có nhiều cành, cành yếu thì cắt tỉa nặng,
làm giảm sinh trưởng để tập trung dinh dưỡng ra lộc mới mập và khoẻ hơn. Trọng tâm thời
kỳ này là phục tráng và trẻ hóa bộ tán lá.
Phương thức cắt tỉa:
+ Cắt tỉa cành: thời gian cắt tỉa tiến hành trước khi nhú lộc xuân là thích hợp. Sau
khi cắt tỉa, trong năm sẽ ra 2 - 3 đợt lộc để khôi phục tán. Ở thời kỳ này, nếu cần phục
tráng cây, có thể phải hủy bỏ 1 - 2 vụ quả tiếp theo để tập trung dinh dưỡng tái tạo lại
thân, cành và bộ tán.
+ Thay rễ mới: việc thay rễ mới cũng được coi là một biện pháp cắt tỉa. Bộ rễ có
tác dụng quyết định đối với sinh trưởng của cây. Nếu bộ rễ già cỗi, năng lực hấp thu kém,
lộc mới sinh trưởng cũng kém, mức độ nặng dẫn đến rụng lá thậm chí cây bị chết khô.
17
Cắt đứt rễ cũ sẽ thúc đẩy phát sinh nhiều rễ mới, nâng cao khả năng hấp thu, tạo cơ sở vật
chất cho cành sinh trưởng. Biện pháp hữu hiệu nhất là làm đứt rễ đúng mức và cải tạo
đất.
Theo Menzel (2002), đốn tạo hình cho các giống như: Tai So, Kwai May Pink
trong thời kì cành sinh trưởng mạnh hoặc tạo những cành mẹ, người ta cắt đi xấp xỉ 15
cm trong vụ xuân (ở lộc xuân năm thứ 2). Việc tăng số lượng của chồi ở các điểm cắt sẽ
tạo ra số lượng lớn hoa và quả, giảm bớt sự rủi ro khi cành bị điều kiện ngoại cảnh xấu
tác động. Với những giống phân cành dày như: Kwai May Pink, Wai Chi thì cắt đi xấp xỉ
10 - 20% số cành trong tán ở năm thứ 3.
Mặc dù đã được đốn tỉa nhưng với những giống như: Tai So thì cành vẫn có khả
năng bị bẻ gẫy (cành yếu). Để giảm bớt sự rủi ro này, người trồng vải ở Australia đã dùng
biện pháp: treo cành to, nặng vào thân chính để chống cành bị chẻ ra. Biện pháp này cũng
rất phù hợp với các giống ở Châu Á (Simpson và cộng sự, 1992).
Theo Nghê Diệu Nguyên và Ngô Tố Phần (1998), khi cắt tỉa, bắt đầu tiến hành từ
cành to trong tán trở ra. Sau khi cắt tỉa xong, giữ cho các cành xung quanh tán phân bố
đều, tầng lá dầy. Khi ánh sáng chiếu xuống dưới tán chỉ thấy đốm sáng bằng đồng xu là
vừa. Sau khi cắt tỉa, mầm bất định ở gần vết cắt của cành mọc ra làm rối loạn hình dạng
tán, tiêu hao dinh dưỡng. Cần vặt bỏ kịp thời những chồi này (tỉa chồi).
Ảnh hưởng của gió, bão cũng là một trong những yếu tố cần chú ý đối với một số
giống vải. Theo Nakasone và cộng sự (1998), việc đốn tỉa cho các cây còn trẻ sẽ tạo cho
chúng một cấu trúc khoẻ mạnh, hạn chế đến mức thấp nhất ảnh hưởng của gió bão và làm
tăng diện tích mang quả. Với những giống có cành dài như: Fay Zee Siu, Tai So... cành
rất dễ bị chẻ ra khi gặp gió. Với những giống phân cành ngắn và dày, ví dụ như: Wai chi,
No Wai Chi, gặp gió bão có thể bị bẻ gãy ở phần sát mặt đất. Cần quan tâm chăm sóc cho
cây thường xuyên trong suốt 4 năm đầu tiên, tỉa bỏ những cành yếu, cành mọc trong tán
và những cành có phần vỏ sát vào nhau.
1.2.1.2. Nghiên cứu về kỹ thuật bón phân
Số TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Bảng 2.2. Hàm lượng dinh dưỡng thích hợp cho đất trồng vải
tính theo khối lượng
Loại dinh dưỡng
Khoảng tối thích
pH
5,5 - 6,0
Mùn (%)
1-3
Độ dẫn điện (dS/m)
<2
Clo (mg/kg)
< 250
Natri(meq/100g)
< 1,0
Đạm Nitơrát (mg/kg)
10 - 50
Phốt pho (mg/kg)
100 - 300
Kaly (meq)
0,5 - 1,0
Magiê (meq)
2-4
18
10
11
12
13
14
Canxi (meq)
Đồng (mg/kg)
Kẽm (mg/kg)
Mangan (mg/kg)
Bo (mg/kg)
3-5
1-3
2 - 15
10 - 50
1-2
Nguồn: Menzel.C - 2002
Tiến hành phân tích đất trong nhiều năm và nghiên cứu khả năng sinh trưởng phát
triển của cây vải, Menzel (2002) cho thấy: lượng phân bón cho vải được xác định tuỳ
thuộc vào tuổi cây, tình trạng sinh trưởng, khả năng cho quả và hàm lượng dinh dưỡng
trong đất của từng năm, đồng thời xác định hàm lượng các chất dinh dưỡng thích hợp cho
đất trồng vải.
Với cây vải trong thời kỳ chưa cho quả, bón phân chủ yếu tập trung nuôi cây và thúc đẩy
sự sinh trưởng của thân cành, nguyên tắc bón phân của thời kỳ này là nên bón làm nhiều
lần và bón lượng ít cho mỗi lần. Năm thứ nhất do bộ rễ hẹp, tán nhỏ nên bón: 20 - 25g
Urê, 15 - 20 g KCl và 50 - 70 g Lân Supe. Từ những năm sau, lượng bón tăng lên 40 60% so với năm thứ nhất tuỳ thuộc vào trạng thái sinh trưởng của cây, loại phân và tính
chất đất (Menzel và cộng sự, 2002).
Cũng theo Menzel và Simpson (1989), khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa dinh
dưỡng cho đất trồng vải đã đưa ra khoảng tối thích về dinh dưỡng cho đất với cây vải
trưởng thành, trong đó, ngoài các yếu tố về đa lượng, các nguyên tố vi lượng đặc biệt là
Bo không những là yếu tố bắt buộc mà còn chiếm tỷ lệ cao hơn hẳn các nguyên tố khác.
Từ lâu, ở các vùng trồng vải truyền thống của Trung Quốc như Quảng Tây, Phúc
Kiến, Quảng Châu đã có tập quán bón phân phân hữu cơ cho vải . Ở Ấn Độ, theo tài liệu
“The Litchi” 1989 của tác giả R.M. PanDey, ngoài bón phân hữu cơ người ta còn kết hợp
bón phân vô cơ theo độ tuổi cây. Đối với cây 1 tuổi, bón 60 kg phân hữu cơ, 350 g đạm,
225 g lân và 60 g Kali.
Theo H.Y.Nakasone, R.E.Paull (1997), ở Trung Quốc, trên đất đỏ Bazan, lượng
bón hàng năm cho vải từ 300 đến 400 gam Ure cộng với 100 gam Superphosphate và 25 50 kg phân hữu cơ/cây. Trong khi đó, ở Australia, lượng bón hàng năm cho cây vải 5
năm tuổi là 150 gam ure, 300 gam Superphosphate và 150 - 200 gam Sunphat kali cho
một lần bón. Lượng bón này được tăng dần 20 - 30% mỗi năm cho tới khi cây đạt 15
năm tuổi.
Qua phân tích đối với quả vải nếp và Hoài chi, Nghê Diệu Nguyên và Lý Quang
Minh cho biết: để có được 100 kg quả thì cây vải phải lấy đi từ đất 0,14 - 0,16 kg N, 0,03
kg P2O5 và 0,13 - 0,15 kg K2O. Đối với cây trên 30 tuổi thì lượng bón để đạt 100 kg quả
vải tươi là 1,38 kg N, 0,8 kg P 2O5, 1,5 kg K2O. Nguyên tắc bón bất luận nhiều lần hay ít
lần, chủ yếu xoay quanh thúc hoa, thúc quả và thúc lộc.
Bón phân dựa vào tính chất nông hoá - thổ nhưỡng, nhu cầu dinh dưỡng của cây
ăn quả... Một số nước đã áp dụng công nghệ tin học xác định hàm lượng dinh dưỡng dựa
19
trên phân tích lá, phân tích đất để bón phân cho cây ăn quả như ở Israel, Đài Loan, Nhật
Bản...
1.2.1.3. Nghiên cứu về dinh dưỡng qua lá
Biện pháp bổ sung các loại dinh dưỡng qua lá được sử dụng rộng rãi ở tất cả các
nước trên thế giới. Có rất nhiều loại chế phẩm dinh dưỡng với các nguyên tố đa, vi lượng
có thể phối trộn với một số chất điều tiết sinh trưởng. Ở Trung Quốc, phun dinh dưỡng
lên lá thường dùng: urê 0,3 - 0,5%, Kalidihydrogen Photphat 0,3 - 0,4%, KCl 0,3 - 0,4%;
tro bếp 1 - 3% hoặc dung dịch Surperphotphat ngâm lộc 1 - 3%. Thời gian lá non, nụ và
quả non nên phun nồng độ thấp, khi lá già và quả lớn thì phun nồng độ cao hơn. Đây là
phương pháp nhằm giúp cây hấp thu dinh dưỡng trực tiếp qua lá nhằm tăng khả năng tích
luỹ trong cây, thúc đẩy các đợt lộc trong năm của cây nhanh thành thục.
Theo Lương Xương, sau khi rữa hoa, thời kỳ gộp hạt và thời kỳ hạt bại dục, dùng
dung dịch 0,2 % Kali dihydrogen photphat, thêm 0,8% ure + 0,1% sunphat Magie phun
lên lá làm tăng tỷ lệ đậu quả 13,1% so với đối chứng.
1.2.1.4. Nghiên cứu về các chất điều hoà sinh trưởng trên cây vải
- Nghiên cứu về các chất kích thích sinh trưởng
Auxin tổng hợp đã được sử dụng để điều khiển sinh trưởng và ra hoa vải ở Florida
và Hawai vào những năm 1950 - 1960 (Menzel, 2002). Ở Hawaii, phun NAA trên cây vải
vào mùa thu thúc đẩy quá trình ra hoa (Shigeura, 1984; Bonner và Liverman, 1953).
Khan và cộng sự (1976) đã dùng GA 100 ppm, NAA 20 ppm, 2,4,5 - TP 10 ppm phun
trên giống vải Rose Scente vào giai đoạn quả bằng hạt đậu làm giảm rụng quả. Trên
giống Early Seedless và Calcuttia, phun IAA 20 ppm làm giảm rụng quả, GA3 50 ppm có
tác dụng giữ quả tốt và GA3 100 ppm làm tăng kích thước của quả (Singh và Lal, 1980).
R.A. Stern, D. Stern, H. Miller, Xu Huafu và S. Grazit năm 1999 xử lý trên hai
giống vải Feizixiao và Heiye khi quả được khoảng 2 gam: 67 ppm 2,4,5 - TP; 50 ppm
3,5,6 - TPA hoặc có thể phối hợp: phun 2,4,5 - TP lần thứ nhất, 4 ngày sau phun tiếp
3,5,6 - TPA đã làm năng suất/cây của cả hai giống tăng đáng kể. Giống Feizixiao từ 1,3
kg/cây tăng lên xấp xỉ 3,6 kg/cây, giống Heiye từ 1,0 kg/cây tăng lên 3,1 kg/cây. Không
có sự khác nhau giữa các công thức xử lý. Tất cả 3 công thức trên đều làm khối lượng
quả của giống Feizixiao (từ 21,5 gam đến 28 gam, tăng xấp xỉ 30%). Khối lượng quả của
giống Heiye cũng tăng 20% với công thức xử lý là 3,5,6 - TPA.
Để làm giảm kích thước hạt hay sản xuất quả không hạt, Kadman và Gzit (1970)
sử dụng 2,4,5 - Trechlorophenoxypropionic acid (2,4,5 - TP) ngăn ngừa rụng quả ở mức
độ cao. Ngoài ra còn làm cho trên 75% quả vải có hạt nhỏ. Tuy nhiên, khi hoa nở, xử lý
2,4,5 - TP lần thứ nhất, sau đó phun phối hợp 2,4,5 - TP và GA thì có tới 50 - 100% số
quả lớn hơn khi chỉ xử lý một lần trước đó và 90 - 100% số quả không có hạt.
Theo Mitra và cộng sự (2003), việc sử dụng chất điều hoà sinh trưởng nhìn chung
có ảnh hưởng tốt đến khả năng đậu quả, duy trì quả và làm tăng khối lượng quả. Tuy
nhiên, sử dụng với hàm lượng khác nhau sẽ cho kết quả khác nhau và tùy thuộc vào bản
20
chất từng giống:
- Tăng đậu quả: IAA 20 mg/l.
- Chống rụng quả: GA3 50 mg/l
- Tăng khối lượng quả: GA3 100 mg/l.
Gibberelline có nhiều tác dụng đối với cây ăn quả như thúc cho cây con phát triển,
cây lớn mọc nhiều mầm mới, nâng cao tỷ lệ đậu quả, kích thích quả lớn nhanh, phòng vỏ
quả suy thoái, làm cho quả chín chậm lại. Tuy nhiên, tùy thuộc từng loại cây ăn quả khác
nhau, hiệu quả cũng khác nhau. Khi phun GA 3 50 ppm cho vải ở thời kỳ hoa cái nở và
thời kỳ quả non có tác dụng tăng tỷ lệ đậu quả và thúc quả lớn. Ở nồng độ 50 - 100 ppm,
phun 1 lần khi hoa nở giúp nâng cao tỷ lệ đậu quả và tăng khối lượng quả. Phun GA 3 vào
thời kì quả lớn với nồng độ 25 - 50 ppm có tác dụng thúc quả lớn.
Theo Stern và cộng sự (1999), xử lý trên hai giống vải Feizixiao và Heiye khi quả
được khoảng 2 gam bằng 2,4,5 - TP 67 ppm; 3,5,6 - TPA 50 ppm hoặc có thể phối hợp
phun 2,4,5 - TP lần thứ nhất, 4 ngày sau phun tiếp 3,5,6 - TPA đã làm năng suất quả/cây
của cả hai giống tăng đáng kể. Giống Feizixiao từ 1,3 kg/cây tăng lên xấp xỉ 3,6 kg/cây,
giống Heiye từ 1,0 kg/cây tăng lên 3,1 kg/cây. Không có sự khác nhau giữa các công thức
xử lý về khối lượng quả. Ở cả 3 công thức trên đều làm khối lượng quả của giống
Feizixiao (từ 21,5 gam đến 28,0 gam) tăng xấp xỉ 30% so với đối chứng. Khối lượng quả
của giống Heiye cũng tăng 20% với công thức xử lý là 3,5,6 - TPA.
Theo Nakasone và Paull (1998), để làm giảm kích thước hạt hay sản xuất quả
không hạt sử dụng 2,4,5 - Trechlorophenoxypropionic acid (2,4,5 - TP). Ngoài việc ngăn
ngừa rụng quả ở mức độ cao, chất này còn làm cho trên 75% số lượng quả vải có hạt nhỏ.
Khi hoa nở, xử lý 2,4,5 - TP lần thứ nhất, sau đó phun phối hợp 2,4,5 - TP và GA thì 50 100% số quả tăng so với khi chỉ xử lý một lần trước đó và 90 - 100% quả không có hạt.
- Nghiên cứu về các chất ức chế sinh trưởng.
Trong các chất ức chế sinh trưởng, Ethrel, có tác dụng diệt và khống chế ra lộc
đông của cây vải, kìm hãm sinh trưởng, xúc tiến phân hoá mầm hoa giúp cây vải ra hoa
đậu quả tốt hơn. Ghosh và cộng sự (1986) xử lý Ethrel nồng độ 1,25 đến 2,5 ml/l làm cho
hoa ra sớm hơm 7 - 13 ngày và làm tăng số lượng hoa cái. Sanyal và cộng sự (1996) cũng
cho biết, khi xử lý Ethrel 1ml/l trên giống vải Bombai đã làm 70% số cành ra hoa. S.K.
Mitra và Sanyal (2000) cũng cho thấy việc xử lý TIBA làm tăng số lượng hoa lưỡng tính
và tăng tỷ lệ nẩy mầm của hạt phấn.
Một trong các biện pháp để khắc phục những yếu tố hạn chế trong sản xuất vải ở
Trung Quốc là sử dụng Ethrel, Paclobutrazol và B9 để ức chế sinh trưởng và thúc đẩy
phân hoá mầm hoa (Zhiyuan Huang, Yungu Zhang, Longhua Li, Aimin Guo, Zhiyong
Cai và Yun Li, 2000). Theo Nirmala Ramburn, phun Paclobutrazol 500 ppm + Ethrel
1000 ppm có thể làm tăng khả năng ra hoa của giống Tai So trồng ở Mauritius.
Ở Trung Quốc, năm 1984, Khâu Tự Đức dùng Malein Hydrazit (MH) 1.000 1.500 ppm phun lên quả sau khi hoa nở 7 - 13 ngày đã làm cho hạt quả vải Hoài Chi bé tí
21
tẹo, hiệu quả đạt 73 - 100% và nâng cao phẩm chất quả. Theo Trang Vương Bích và cộng
sự, ở Phúc Kiến năm 1988 căn cứ vào dự báo thời tiết sẽ thuận lợi cho việc ra hoa muộn
của vải đã dùng Ethrel + MH ở các nồng độ khác nhau để khống chế chùm hoa, làm giảm
lượng hoa trên chùm, tăng tỷ lệ hoa cái và tỷ lệ đậu quả.
Theo Bosse và cộng sự (2001), Mitra và cộng sự (2000), xử lý ethrel nồng độ 1,25
đến 2,50 ml/l làm cho hoa ra sớm hơn 7 - 13 ngày và làm tăng số lượng hoa cái. Khi xử
lý ethrel (1 ml/l) trên giống vải Bombai đã làm 70% số cành ra hoa, đặc biệt vào những
năm mất mùa sẽ làm tăng năng suất giống vải này một cách đáng kể.
Theo Mitra và cộng sự (2003), việc xử lý TIBA cho vải làm tăng số lượng hoa
lưỡng tính và tăng tỷ lệ đậu quả.
Theo Xuming Huang và cộng sự (2003), một trong các biện pháp để khắc phục
những nhân tố hạn chế trong việc sản xuất vải ở Trung Quốc là sử dụng ethrel,
paclobutrazol và B9 để ức chế sinh trưởng và thúc đẩy phân hoá mầm hoa.
Zhiyuan Huang và cộng sự (1999), phun paclobutrazol 500 ppm + ethrel 1.000
ppm đã làm tăng khả năng ra hoa của giống vải Tai So trồng ở Mauritius.
Theo Nghê Diệu Nguyên và Ngô Tố Phần (1998), ở Phúc Kiến căn cứ vào dự báo
thời tiết, muốn vải ra hoa muộn thuận lợi thì dùng ethrel + MH ở các nồng độ khác nhau
để khống chế chùm hoa, làm giảm lượng hoa trên chùm, tăng tỷ lệ hoa cái và tăng tỷ lệ
đậu quả.
* Nghiên cứu về Bảo vệ thực vật
Sâu bệnh hại vải có rất nhiều loài. Theo thống kê của Hoàng Vĩnh Ngọc và Lưu
Vĩnh Chính, ở Phúc Kiến, Trung Quốc có 69 loài sâu hại và ở Triết giang chỉ riêng bọ
hung đã có trên 19 loài. Sâu hại vải phát sinh và gây hại phổ biến nhất là bọ xít, sâu đục
quả, nhện lông nhung, xén tóc, rệp sáp. Biện pháp phòng trừ đối với bọ xít có thể bắt
trưởng thành, bắt diệt trứng, dùng các loại thiên địch như ong, nấm ký sinh... hoặc sử
dụng thuốc hóa học.
Theo Menzel (2002), các loại sâu bệnh gây hại chủ yếu trên vải ở các nước Châu Á
và Thái Bình Dương bao gồm: sâu đục quả, sâu cuốn lá, rệp hại hoa và quả non, bọ xít,
nhện, rơi hại quả, ruồi đục quả; các loại bệnh: sương mai, thán thư, nấm hại rễ và tuyến
trùng.
1.2.2. Những nghiên cứu trong nước
1.2.2.1. Nghiên cứu về kỹ thuật cắt tỉa
Cắt tỉa, tạo hình để tạo cho cây có bộ khung cân đối, tán cây có khả năng hấp thu
tốt nhất ánh sáng mặt trời, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chăm bón, phòng trừ sâu bệnh,
điều tiết sinh trưởng. Đã có những nghiên cứu về cắt tỉa được tiến hành trên vải chín
sớm: Cắt tỉa tạo hình cho cây trong giai đoạn kiến thiết cơ bản, cắt tỉa cho cây đang thời
kỳ kinh doanh. Cắt tỉa theo phương pháp bấm đầu cành sau thu hoạch và quy trình của
Viện Nghiên cứu Rau quả có tác dụng điều chỉnh số lộc hữu hiệu, chất lượng cành lộc,
22
làm tăng khả năng ra hoa, tăng số chùm quả/cây, tăng số quả/chùm và làm tăng năng suất
vải.
Nguyễn Văn Dũng (2009): Cắt tỉa theo phương pháp bấm đầu cành (cắt bỏ các đầu
cành ở vị trí 1 - 2 cm từ phần bẻ quả hoặc đỉnh sinh trưởng) và quy trình của Viện
Nghiên cứu Rau quả (sau thu hoạch cắt tỉa toàn bộ các cành sâu bệnh, cành tăm, cành
vượt, tỉa bỏ bớt cành thu kém chất lượng, tỉa hoa vụ xuân) giúp rút ngắn thời gian hoàn
thành một đợt lộc từ 3 - 5 ngày, làm tăng chất lượng lộc, diện tích lá, khả năng đậu quả
và làm tăng năng suất vải từ 24,6 - 29,4% so với đối chứng không cắt tỉa.
Nguyễn Văn Nghiêm, Nguyễn Văn Dũng, Đào Quang Nghị (2006 - 2007) đã cải
tiến biện pháp cắt tỉa trên vải chín sớm Yên Hưng và Yên Phú từ 3 lần cắt tỉa chỉ còn 2
lần, lần 1 sau thu hoạch 15 ngày, lần 2 vào giữa tháng 11 đã tiết kiệm được công lao
động, khả năng ra hoa, đậu quả tốt, năng suất không sai khác so với phương pháp cũ và
cao hơn nhiều so với đối chứng.
1.2.2.2. Nghiên cứu về kỹ thuật bón phân
Ở Việt Nam, theo quy trình bón phân cho vải chín sớm của Viện Nghiên cứu Rau
quả, lượng phân bón cho cây ở các thời kỳ chưa cho quả và cho quả như sau:
Lượng phân bón thời kỳ chưa cho quả tính theo tuổi cây/năm
Tuổi cây
Lượng phân bón
Phân chuồng (kg/cây) Đạm Urê (g/cây) Lân Supe (g/cây) Kaliclorua
(g/cây)
1 năm
-
100
300
100
2 năm
20-30
150
450
150
3 năm
30-50
250
700
250
Lượng phân bón thời kỳ cho quả tính theo tuổi cây
Tuổi cây
Lượng phân bón (kg/cây/năm)
Phân chuồng
Đạm Urê
Lân Supe
Kaliclorua
4 - 6 40 - 50
0,65
1,00
1,00
7-9 -
0,90
1,30
1,40
10 - 12
60 - 70
1,80
2,50 2,00
13 - 15
-
1,40
2,10 2,10
>15
2,20
3,00
3,40
-
1.2.2.3. Nghiên cứu về dinh dưỡng qua lá
23
Các nghiên cứu về sử dụng dinh dưỡng qua lá trên cây vải ở nước ta hiện còn ít.
Để cung cấp dinh dưỡng cho cây, người ta thường sử dụng biện pháp, bón phân
vào đất, kết hợp phun dung dịch phân trên lá. Tuy nhiên, trong một số trường hợp bộ rễ
yếu hoặc điều kiện ngoại cảnh bất thuận ảnh hưởng đến hấp thu cũng như khi cây cần
gấp bổ sung một nguyên tố nào đó thì bón phân trên lá phát huy kết quả tốt. Ví dụ: vụ
đông và đầu vụ xuân do đất khô hạn nhiệt độ thấp, năng lực hoạt động của rễ kém, hấp
thu phân chậm thì bón phân trên lá có tác dụng hỗ trợ cho cây sinh trưởng tốt hơn. Trong
thời kỳ phân hoá mầm hoa hoặc trong thời gian hoa phát triển và thời kỳ quả non, bón
phân lên lá sẽ tăng khả năng ra hoa, đậu quả.
Theo Nguyễn Văn Dũng (2009), khi nghiên cứu ảnh hưởng của một số chất điều
tiết sinh trưởng và dinh dưỡng qua lá đến khả năng ra hoa, đậu quả, năng suất, phẩm chất
vải chín sớm cho thấy: Sử dụng các chất điều tiết sinh trưởng và dinh dưỡng qua lá có tác
động tốt đến năng suất, chất lượng vải cụ thể là:
- Phun GA3 nồng độ 50 ppm làm tăng tỷ lệ đậu quả, tăng số lượng quả đậu/chùm
lên 31,8% và tăng năng suất 45,4%, không thay đổi đáng kể chất lượng quả.
- Phun Bo 0,1% + Urê 10g/lít rút ngắn được thời gian thành thục lộc thu 7 ngày,
tăng tỷ lệ đậu quả, tăng năng suất 53,7% so với đối chứng. Trong đó, phun Bo 0,1% +
Urê 10g/lít tăng hàm lượng đường tổng số, vitamin C, chất khô, giảm hàm lượng axit,
nâng cao phẩm chất quả vải.
1.2.2.4. Nghiên cứu về các chất điều hoà sinh trưởng trên cây vải
Theo Phạm Minh Cương (1998), phun α- NAA 20 ppm + 2,4D 10 ppm làm giảm
rụng quả, tăng tỷ lệ đậu quả, tăng năng suất và chất lượng của hai giống vải thiều Thanh
Hà và thiều Phú Hộ . Trong khi đó, phun GA3 50 ppm chỉ có tác dụng làm tăng tỷ lệ đậu
quả của giống vải thiều Thanh Hà, còn đối với giống vải thiều Phú Hộ thì số quả tăng so
với đối chứng là không có ý nghĩa. Phun IAA 20 ppm làm số quả đậu của giống vải thiều
Phú Hộ tăng 40% so với đối chứng.
Theo Trần Thế Tục (2004) tác dụng của Gibberellin đối với cây vải là thúc đẩy
các đợt lộc phát triển, nâng cao tỷ lệ đậu quả, làm cho quả lớn nhanh, giúp quả chín
muộn, hạn chế rụng quả. Nguyễn Văn Dũng (2005) cũng đã khẳng định: phun GA3 50
ppm tăng cường được khả năng giữ quả, tăng khối lượng quả và tăng năng suất của giống
vải chín sớm Yên Hưng.
Nguyễn Quốc Hùng, Đào Quang Nghị (2005) xác định sử dụng Paclobutrazol liều
lượng 5 - 20gam ai/cây 7 năm tuổi để tưới gốc và phun qua lá giống vải Bình Khê tại
Uông Bí - Quảng Ninh làm tăng khả năng ra hoa, tăng tỷ lệ hoa cái, tăng tỷ lệ đậu quả và
làm năng suất tăng 19,8 - 43,1% so với đối chứng ở năm đầu tiên.
Theo Nguyễn Văn Dũng (2009): Các nồng độ xử lý ehrel: 400ppm, 600ppm,
800ppm và 1000ppm đều có khả năng diệt lộc đông cao hơn so với đối chứng. Nồng độ
800 ppm diệt được 95,6% lộc đông, làm tăng tỷ lệ C/N giúp cây ra hoa thuận lợi. Xử lý
ethrel cũng giúp tăng tỷ lệ đậu quả cao hơn so với đối chứng. Công thức xử lý 800 ppm
24
đạt tỷ lệ đậu quả 0,32% cao hơn so với đối chứng 28,1%. Đồng thời giúp tăng năng suất
quả so với đối chứng ở tất cả các công thức, đặc biệt ở công thức phun 800 ppm đạt năng
suất cá thể 29,85kg/cây, tăng 47,8% so với đối chứng và không làm giảm phẩm chất quả.
Để ức chế sinh trưởng sinh dưỡng của cây vải chín sớm trong vụ đông, Nguyễn
Văn Nghiêm, Nguyễn Văn Dũng, Đào Quang Nghị (2006-2007) dùng Ethrel 600 ppm
phun hai lần vào cuối tháng 10 và giữa tháng 11 cho các cây có thế sinh trưởng khỏe, đã
ức chế hoàn toàn lộc đông và làm cho tỷ lệ cành ra hoa đạt trên 92%.
1.2.2.5. Những nghiên cứu về bảo vệ thực vật
Kết quả điều tra thành phần sâu bệnh hại vải tại các vùng sản xuất của Nguyễn
Xuân Hồng và Viện Bảo vệ Thực vật cho thấy có nhiều đối tượng gây hại trên cây vải:
sâu ăn lá, sâu đục thân, đục cành, đục quả vải, bọ xít, nhện lông nhung, rệp sáp; bệnh
sương mai, bệnh do nấm phytophthora… Trong đó các đối tượng gây hại chính là sâu
đục quả và bọ xít.
Thuốc Dipterex, Sherpa và Regent đều cho hiệu lực trừ bọ xít rất cao, tỷ lệ sâu
chết sau 7 ngày là 91,3 - 95,5%. Phòng trừ bọ xít giai đoạn bọ xít non tuổi 1 - 3, giai đoạn
bọ xít ra rộ tháng 3 - 5 cho hiệu quả phòng trừ tốt nhất, ngăn chặn được nguồn bọ xít
chuyển sang gây hại quả
Nguyễn Văn Nghiêm, Nguyễn Văn Dũng, Đào Quang Nghị (2006-2007) đã tiến
hành nghiên cứu hiệu lực của một số loại thuốc đối với sâu đục quả vải. Kết quả cho
thấy, các loại thuốc thí nghiệm cũng đạt hiệu quả phòng trừ cao nhất tại thời điểm sau
phun 7 ngày, từ 71,3-94,3%. Trong đó, thuốc Sherpa đạt 94,3%, tiếp đến thuốc Regent
91,7%.
Đối với bệnh hại vải có khoảng trên 40 loài. Bệnh gây hại tương đối nặng cho vải
là bệnh sương mai (mốc sương), bệnh thối chua, bệnh loét, bệnh đốm tảo. Ở một nghiên
cứu khác, Nguyễn Văn Nghiêm và Đào Quang Nghị cho thấy, hiệu lực phòng trừ bệnh
sương mai trên vải chín sớm của Anvil 5SC cao nhất, tiếp đến là Rhidomil MZ 72 và
Zineb 80WP.
1.2.2.6. Nghiên cứu về ghép cải tạo thay thế giống vải
Trong giai đoạn từ 2005 trở về trước, diện tích vải chủ yếu là giống vải thiều,
chiếm đến trên 99% diện tích. Các giống chín sớm cũng đang được tuyển chọn nhưng
chưa phát triển được nhiều trong sản xuất. Trước thực trạng đó, Viện Nghiên cứu rau quả
đã có nhiều nghiên cứu về biện pháp ghép cải tạo nhằm thay thế nhanh một phần diện
tích vải chính vụ sang giống vải chín sớm, tăng hiệu quả cho người sản xuất.
Vũ Mạnh Hải, Ngô Hồng Bình, Đào Quang Nghị đã khuyến cáo kỹ thuật ghép cải
tạo cho cây vải có bộ tán vừa phải (từ 7 năm tuổi trở xuống), kỹ thuật ghép cải tạo cho
cây vải có bộ tán lớn (từ 8 năm tuổi trở lên). Các nghiên cứu cũng đã xác định kỹ thuật
đốn tỉa cành, định cành gốc ghép, định cành ghép, xác định vị trí ghép, kích thước cành
ghép cũng như chăm sóc trước và sau ghép. Tuy nhiên, một số kỹ thuật còn chưa được
25