VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
VIỆN NGHIÊN CỨU RAU QUẢ
BÁO CÁO KHOA HỌC TỔNG KẾT
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
ĐỀ TÀI: NGHIÊN CỨU SẢN XUẤT THỬ GIỐNG NHÃN CHÍN MUỘN
VÀ XOÀI ĂN XANH TẠI LÀO CAI
Cơ quan quản lý: Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Lào Cai
Cơ quan chủ trì thực hiện: Viện nghiên cứu Rau quả
Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Quốc Hùng
Thời gian thực hiện: 30 tháng (từ tháng 7/2012 đến 12/2014)
Hà Nội, tháng 7 năm 2015
1
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
VIỆN NGHIÊN CỨU RAU QUẢ
BÁO CÁO KHOA HỌC TỔNG KẾT
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
ĐỀ TÀI: NGHIÊN CỨU SẢN XUẤT THỬ GIỐNG NHÃN CHÍN MUỘN
VÀ XOÀI ĂN XANH TẠI LÀO CAI
Cơ quan quản lý: Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Lào Cai
Cơ quan chủ trì thực hiện: Viện nghiên cứu Rau quả
Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Quốc Hùng
Những người thực hiện: TS. Đào Quang Nghị
ThS. Đinh Thị Vân Lan
ThS. Nguyễn Thị Hiền
ThS. Ngô Xuân Phong
ThS. Đào Kim Thoa
ThS.. Đào Thị Liên
KS. Nguyễn Hữu Lý
ThS. Đào Thu Hằng
Hà Nội, tháng 7 năm 2015
2
DANH MỤC CÁC SẢN PHẨM ĐÃ HOÀN THÀNH
TT
Tên sản phẩm
I
II
III
1
2
3
4
5
Mô hình trống mới (1,0
ha nhãn chín muộn và 1,0
ha xoài ăn xanh)
Mô hình ghép cải tạo
nhãn, xoài kém hiệu quả
bằng nhãn chín muộn và
xoài ăn xanh.
9 báo cáo chuyên đề
Chuyên đề 1: Điều tra
đánh giá thực trạng sản
xuất nhãn, xoài tại Bảo
Thắng và thành phố Lào
Cai
Chuyên đề 2:. Đánh giá
khả năng sinh trưởng, khả
năng ra hoa, đậu quả,
năng suất, chất lượng và
tình hình sâu bệnh hại
của giống nhãn chín
muộn trên địa bàn Lào
Cai
Chuyên đề 3. Đánh giá
khả năng sinh trưởng,
khả năng ra hoa, đậu
quả, năng suất, chất
lượng và tình hình sâu
bệnh hại của các giống
xoài ăn xanh trên địa bàn
Lào Cai
Chuyên đề 4: Xây dựng
bản hướng dẫn ghép cải
tạo thay thế giống nhãn
Chuyên đề 5: Xây dựng
bản hướng dẫn ghép cải
tạo thay thế giống xoài
Đơn vị
đo
Mức chất lượng
Mô hình Mô hình các giống mới đạt năng
suất, chất lượng và mang lại hiệu
quả cao
Mô hình Mắt ghép đạt tỷ lệ sống > 70%,
nhanh cho hiệu quả.
Chuyên
đề
Đánh giá cụ thể về giống trồng,
diện tích, năng suất, sản lượng
và thực trạng áp dụng các kỹ
thuật thâm canh nhãn, xoài tại
Bảo Thắng và thành phố Lào
Cai
Khối lượng,
quy mô sản
phẩm tạo ra
Tổng diện tích
2 ha
Nhãn: 160 cây
Xoài: 100 cây
01
01
Chuyên
đề
Đánh giá đầy đủ về khả năng
sinh trưởng ra hoa, đậu quả và
năng suất cũng như tình hình
sâu bệnh gây hại trên các giống
nhãn thử nghiệm
01
Chuyên
đề
Chuyên
đề
Chuyên
đề
Đánh giá đầy đủ về khả năng
sinh trưởng ra hoa, đậu quả và
năng suất cũng như tình hình sâu
bệnh gây hại trên các giống xoài
thử nghiệm
Thay thế được 100 cây nhãn
giống cũ bằng giống nhãn chín
muộn.
Bản hướng dẫn kỹ thuật ngắn
gọn, dễ hiểu, dễ áp dụng trong
điều kiện của địa phương
Thay thế 100 cây xoài giống cũ
bằng giống xoài ăn xanh
Bản hướng dẫn kỹ thuật ngắn
gọn, dễ hiểu, dễ áp dụng trong
3
01
01
6
7
8
9
III
Chuyên đề 6: Nghiên
cứu ứng dụng các biện
pháp kỹ thuật thâm canh
nhãn chín muộn trên địa
bàn Lào Cai
Chuyên đề 7: Nghiên
cứu ứng dụng các biện
pháp kỹ thuật thâm canh
xoài ăn xanh trên địa bàn
Lào Cai
Chuyên đề 8: Xây dựng
bản hướng dẫn kỹ thuật
trồng và chăm sóc nhãn
chín muộn
Chuyên đề 9: Xây dựng
bản hướng dẫn kỹ thuật
trồng và chăm sóc xoài
ăn xanh
01 Bài báo khoa học:
Đánh giá khả năng sinh
trưởng, phát triển và
năng suất của một số
giống nhãn chín muộn và
xoài ăn xanh trên địa bàn
tỉnh Lào Cai
Chuyên
đề
Chuyên
đề
Chuyên
đề
Chuyên
đề
Bài báo
điều kiện của địa phương
Đánh giá đầy đủ về ảnh hưởng
của các công thức bón phân,
phòng trừ sâu đục quả và xác
định được công thức phù hợp
cho giống nhãn thử nghiệm.
Đánh giá đầy đủ về ảnh hưởng
của các công thức bón phân,
phòng trừ sâu bệnh tổng hợp và
xác định được công thức phù
hợp cho giống xoài thử nghiệm.
Bản hướng dẫn kỹ thuật trồng
và chăm sóc nhãn chín muộn cô
đọng, xúc tích, dễ áp dụng, làm
tăng năng suất 15 - 20% so với
không áp dụng.
Bản hướng dẫn kỹ thuật trồng và
chăm sóc xoài ăn xanh cô đọng,
xúc tích, dễ áp dụng, làm tăng
năng suất 15 - 20% so với không
áp dụng
Phản ánh được các kết quả
nghiên cứu thu được của đề tài
4
01
01
01
01
Được đăng trên
tạp chí Nông
nghiệp và Phát
triển nông thôn
Mục lục
5
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở nước ta, tổng diện tích cây ăn quả cả nước khoảng 786.200 ha, sản lượng ...
tấn. Trong đó, cây nhãn và cây xoài là một trong những loại cây ăn quả quan trọng
được xếp vào nhóm các cây ăn quả chủ lực với diện tích 85.232 ha đối với cây xoài,
sản lượng đạt 678.479 tấn và 77.959 ha đối với cây nhãn, sản lượng đạt 552.207 tấn
(Số liệu của Cục Trồng trọt, 2013). Diện tích hai loại cây này chiếm 20,8% tổng diện
tích cây ăn quả của cả nước.
Các giống nhãn, xoài nổi tiếng vùng miền như: nhãn lồng Hưng Yên, nhãn
muộn Hà Tây, Nhãn Tiêu da bò, xoài cát Hòa Lộc, xoài tượng,.... Đến nay, đã có
nhiều cải tiến về các giống nhãn, xoài phục vụ nhu cầu ngày càng cao của thị trường
tiêu dùng. Những giống nhãn chín muộn như PHM99-1.1, HTM1, Xòai ăn xanh như
VRQ-XX1, GL4... đang được phát triển mạnh ở nhiều địa phương trong cả nước.
Lào Cai là một tỉnh phía Đông Bắc, với đặc trưng địa hình bị chia cắt mạnh
nên tạo ra các tiều vùng sinh thái khác nhau, phù hợp với nhiều đối tượng cây ăn quả:
đào, mận , lê đến cam quýt, nhãn, xoài, dứa...
Theo số liệu của Cục Trồng trọt, năm 2013, tổng diện tích cây ăn quả của Lào
Cai là 7.510 ha, sản lượng trên 530 ngàn tấn. Trong đó, diện tích Mận là 733ha, sản
lượng 2.785 tấn; chuối: 1.377ha, sản lượng 32.861 tấn; cây có múi 532ha, sản lượng
1.558 tấn; nhãn 1.376ha 3.906 tấn, xoài 337 ha, 823 tấn. Như vậy, năng suất các loại
cây ăn quả nói chung, cây nhãn, cây xoài nói riêng đang ở mức rất thấp.
Trên địa bàn Lào Cai có diện tích nhãn và xoài tương đối tập trung ở một số
huyện vùng thấp, đặc biệt là Bảo Thắng, Bảo Nhai, Bảo Yên và Thành phố Lào Cai.
Tuy nhiên, một trong những nguyên nhân dẫn đến năng suất thấp, hiệu quả thấp là do
đa phần là các giống cũ hoặc cây được nhân giống bằng hình thức gieo hạt. Diện tích
nhãn có năng suất cao, chất lượng tốt rất ít. Mặt khác, người dân chưa quan tâm đúng
mức trong việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, mức độ đầu tư thâm canh còn thấp nên
hiệu quả kinh tế của các vườn nhãn còn rất thấp. Do vậy, cần có những giống mới với
các kỹ thuật tiến bộ, phù hợp, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn cho người sản xuất.
Việc Nghiên cứu sản xuất thử giống nhãn chín muộn và xoài ăn xanh tại Lào
Cai sẽ tạo cơ sở cho việc phát triển các giống cây ăn quả mới có giá trị, từng bước
nâng cao năng suất, chất lượng, tạo sản phẩm quả an toàn và tăng hiệu quả kinh tế
cho người trồng không những trên địa bàn Lào cai mà còn trên các địa bàn khác có
điều kiện sinh thái tương tự.
2. MỤC TIÊU
2.1. Mục tiêu tổng quát:
Phát triển các giống cây ăn quả mới: nhãn PHM99-1.1 và xoài GL4 trên địa
bàn Lào Cai, cải thiện năng suất, tạo sản phẩm quả chất lượng, đảm bảo an toàn vệ
sinh thực phẩm và nâng cao thu nhập cho người nông dân.
2.2. Mục tiêu cụ thể:
6
- Xây dựng được 2,0 ha mô hình các giống mới: 01ha nhãn chín muộn và 1,0ha
xoài ăn xanh năng suất, chất lượng và đạt hiệu quả cao.
- Hoàn thiện được một số biện pháp kỹ thuật thâm canh nhãn chín muộn và
xoài ăn xanh phù hợp với điều kiện Lào Cai.
- Xây dựng được mô hình (200 cây) ghép cải tạo thay thế giống nhãn, xoài kém
hiệu quả bằng các giống nhãn chín muộn và xoài ăn xanh.
- Tập huấn được 2 lớp kỹ thuật ghép cải tạo thay thế giống và sản xuất và nhãn,
xoài theo VietGAP cho 100 nông dân.
3. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
3.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài
3.1.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ nhãn, xoài trên thế giới
Cây nhãn (Nephelium longana.L.) là một trong 3 loài có giá trị dinh dưỡng và
kinh tế cao nhất thuộc họ bồ hòn (Sapindaceae) là nhãn, vải và chôm chôm. Trung
Quốc là nước có diện tích trồng nhãn nhiều nhất thế giới với diện tích trồng nhãn đạt
444 000 ha và sản lượng 495 800 tấn vào năm 2010. Trong đó, Phúc Kiến là nơi trồng
nhiều và lâu đời nhất, chiếm 48,7% diện tích của cả nước.
Tại Đài Loan, đến năm 1998, diện tích trồng nhãn chỉ đạt 11 808 ha và tổng sản
lượng 53 385 tấn. Đến năm 2012, diện tích trồng tăng không đáng kể nhưng tổng sản
lượng tăng hơn 2 lần, đạt tới 110 925 tấn.
Ở Thái Lan, nhãn được trồng chủ yếu ở vùng Đông Bắc và Đồng bằng miền
Trung. Năm 2000, tổng diện tích nhãn đạt 82 240 ha và sản lượng 358 000 tấn. Thái
Lan là nước xuất khẩu nhãn lớn nhất thế giới, khoảng 50% tổng sản lượng nhãn của
cả nước. Sản phẩm xuất khẩu bao gồm nhãn quả tươi, nhãn sấy khô, nhãn đông lạnh
và nhãn đóng hộp.
Các khu vực sản xuất xoài chủ yếu trên thế giới hiện nay là Châu Á - Thái Bình
Dương, Trung - Nam Mỹ và Châu Phi, Trong khoảng 20 năm trở lại đây, sản lượng
xoài bình quân của thế giới đạt khoảng 18 triệu tấn và mức tăng sản lượng hàng năm
khoảng 2- 3%. Theo thống kê của FAO, trong năm 1980, sản lượng xoài của vùng
Châu Á - Thái Bình Dương đạt 12,1 triệu tấn, bằng 14% tổng sản lượng cây ăn quả
trong vùng, chiếm 78% sản lượng xoài của thế giới. Ấn Độ là nước có diện tích và
sản lượng xoài lớn nhất. Vùng Trung - Nam Mỹ có sản lượng xoài chiếm 13%, chủ
yếu tập trung ở Mêhicô và Braxin. Các nước Châu Phi và các nước khác chiếm
khoảng 10% sản lượng.
Năm 1995, sản lượng xoài của cả thế giới đạt 18,495 triệu tấn, trong đó Ấn Độ
chiếm 54,07% (khoảng 10 triệu tấn), tiếp đến là Trung Quốc chiếm 6,38% khoảng
1,18 triệu tấn, sau đó là Mêhicô 1,09 triệu tấn, Pakixtan 0,839 triệu tấn, Thái lan 0,62
triệu tấn, Braxin 0,4 triệu tấn,…(FAO 1996). Đến 2005, sản lượng xoài của thế giới
đạt 27,966 triệu tấn. Sản lượng xoài của Ấn Độ chỉ tăng chút ít, đạt 10,8 triệu tấn.
Trong khi đó Trung Quốc, nước mà vùng trồng xoài được đặc trưng bởi điều kiện á
7
nhiệt đới có mùa đông lạnh lại có sản lượng tăng rất mạnh, đạt tới 3,573 triệu tấn, xếp
thứ 2 sau Ấn Độ và gấp 2 lần sản lượng xoài của Mêhicô, nước có sản lượng đứng
thứ 3 là 1,8 triệu tấn.
3.1.2. Những nghiên cứu về giống nhãn, xoài và các giống được trồng chủ yếu
trên thế giới:
Cây nhãn có lịch sử trồng trọt lâu đời và chủ yếu được trồng bằng hạt nên trong
tự nhiên, tồn tại nguồn gen rất đa dạng và phong phú. Cây nhãn còn là loại cây ăn quả
lâu năm nên công tác nghiên cứu tuyển chọn giống tốt trong sản xuất được chú trọng
ở hầu khắp các nước trồng nhãn trên thế giới.
Trung Quốc hiện lưu giữ khoảng 400 mẫu giống nhãn khác nhau và đã tuyển
chọn được 40 giống nhãn trồng với mục đích thương mại. Những giống tuyển chọn
có thời chín và thu hoạch tập trung từ cuối tháng 7 đến cuối tháng 9 và được chia
thành các nhóm chín sớm, chín chính vụ và chín muộn. Các giống nhãn trồng nổi
tiếng như Đại Ô Viên, Trữ Lương, Quảng Nhãn, Thạch Hiệp, Ô Long Linh, Đông
Bích, Băng Đường Nhục.
Ở Thái lan, các giống nhãn chủ lực cho sản xuất thương mại gồm có E-Daw, SiChompoo, Haew, Biew-Kiew, Dang, Baidum, Talub Nak, Phestakon và Chom Pu.
Các giống nhãn kể trên có thời gian chín và thu hoạch sớm, từ tháng 6 đến cuối tháng
8.
Đài Loan là khu vực trồng nhiều nhãn trên thế giới, đồng thời cũng là nơi có
nguồn gen cây nhãn rất phong phú. Nhiều giống nhãn tốt đã được tuyển chọn từ trong
sản xuất và đang được phát triển quy mô lớn như Nhãn vỏ phấn, Nhãn vỏ đỏ, Nhãn
vỏ xanh và Nhãn tháng 10. Đáng chú ý là bộ giống nhãn của Đài Loan có thời gian
chín kéo dài từ tháng 7 đến tháng 12 nên giá trị hàng hoá rất cao. Các giống kể trên
được trông nhiều tại Đài Nam, Đài Trung và Cao Hùng.
Đối với cây xoài, hiện nay, số lượng các giống xoài được trồng trên thế giới
khoảng trên 1.500 giống khác nhau, trong đó Ấn Độ đã có trên 1.100 giống (Trần Thế
Tục, 1997). Các giống được trồng phổ biến như Cecil, Faizason, Himsagar, Zardalu,
Krishnabhog, Fazli, Keser, Rajapuri, Jamadar, Bangalora, Meelum, Mulgoa..., đặc
biệt một số giống chất lượng cao, có giá trị xuất khẩu như Madoe, Pairi, Gedong,
Alphonso, Mammouth, Bombay Green…
Ở Australia, một số giống xoài được trồng phổ biến và có giá trị kinh tế cao
gồm Haden, Irwin, Kent, Zill, Kensington Pride,.... Ngoài ra còn một số giống xuất
khẩu được phát triển mạnh ở các nước như Kent, Haden, Malina (Mexico); Okrong,
Namdokmai, Rat, Tongdum, (Thái Lan); Ngowe, Boribo, Aplle (Kênya); Carabao,
Pico (Philippin); Golek, Arumanis, Godong (Indonesia); Tokboon, Kuala Selangor,
Maha (Malaixia), xoài Hoa Tím, Quế Hương, xoài Mang, xoài Nanh Voi Hồng, xoài
Xanh Vỏ chín muộn (Trung Quốc).
3.1.3. Kết quả nghiên cứu biện pháp kỹ thuật nhân giống nhãn, xoài và ứng dụng
trong việc ghép cải tạo, thay thế giống
8
Trước đây, cây nhãn được nhân giống chủ yếu bằng gieo hạt, rất lâu được thu
hoạch và chất lượng vườn nhãn không đồng đều. Vì thế, nhân giống bằng gieo hạt đã
được thay thế dần bởi nhân giống bằng chiết cành và gần đây là phương pháp ghép.
Cho đến nay phương pháp nhân giống nhãn bằng ghép đã và đang được áp dụng với
quy mô lớn ở hầu khắp các nước và vùng trồng nhãn trên thế giới.
Nhiều kết quả nghiên cứu khẳng định sự không tương tác giữa chồi ghép và gốc
ghép là một vấn đề lớn. Trong số 1844 cây nhãn ghép được theo dõi ở Trung Quốc,
có tới 708 cây (38,4%) có các biểu hiện xung khắc như chân voi, chân hương hoặc
sinh trưởng kém. Nhiệt độ khi ghép trong khoảng từ 20-30 0C thích hợp đối với ghép
nhãn, tỷ lệ ghép thành công cao và cây ghép sinh trưởng khoẻ.
Kết quả nghiên cứu của WongKaichoo (1992) chỉ ra rằng tuổi của gốc ghép có
ảnh hưởng rất lớn đến kết quả ghép. Tỷ lệ cây ghép bật mầm đạt đến 75% nếu tuổi
của gốc ghép là 6 tháng. Giá trị tương ứng đạt được chỉ là 60% trong trường hợp tuổi
của gốc ghép già hơn, đến 18 tháng. Thời vụ ghép nhãn thích hợp nhất là vào vụ xuân
và vụ thu. Tuổi của cây gốc ghép đạt tỷ lệ sống và bật mầm cao nhất là khoảng 12
tháng. Phần lớn các kết quả nghiên cứu đều khẳng định tốt nhất là sử dụng cây gốc
ghép và cây cành ghép của cùng một giống. Có rất nhiều phương pháp ghép nhãn
nhưng đạt hiệu quả cao hơn cả là phương pháp ghép đoạn cành.
Cây xoài được nhân giống bằng nhiều hình thức. Tuy nhiên, phương pháp ghép
vẫn được khuyến cáo sử dụng. giống ‘Turpentine’ là giống thuộc nhóm đa phôi
thường được sử dụng làm gốc ghép xoài ở Florida bởi có khả năng sinh trưởng khoẻ
của cây con. Mắt ghép tốt là những mắt có độ tuổi từ 3 - 4 tuần và ở vị trí trong
khoảng 30 cm từ đỉnh sinh trưởng trở xuống. Phương pháp ghép thường dùng là ghép
đoạn cành. Đoạn mắt ghép có 2 - 3 mắt ngủ phía trên vết cắt.
Để thay thế giống mà không phải phá huỷ cây để trồng mới, các kỹ thuật ghép đã
được áp dụng cho rất nhiều loại cây ăn quả trong đó có cây nhãn, và xoài. Việc ghép
cải tạo thường được áp dụng: đối với cây lớn, đốn thấp xuống theo chủ ý, ghép vào
các chồi bật từ gốc; Đối với cây có bộ tán vừa phải, ghép trực tiếp lên các đầu cành.
Một cây gốc ghép có thể ghép nhiều giống khác nhau.
3.1.4. Kết quả nghiên cứu biện pháp kỹ thuật sản xuất nhãn, xoài
Kỹ thuật bón phân
Bón phân được xem là khâu kỹ thuật quan trọng trong kỹ thuật thâm canh để
nâng cao năng suất và chất lượng quả. Bón phân dựa vào tính chất nông hoá - thổ
nhưỡng, yêu cầu dinh dưỡng của cây, quy luật sinh trưởng, phát triển, năng suất dự
kiến thu được và vào tuổi cây. Một số nước đã ứng dụng kỹ thuật bón phân cho cây
dựa trên phân tích chuẩn đoán dinh dưỡng lá như ở Israel, Australia, Florida - Mỹ.
Ở Trung Quốc, vườn nhãn cao sản 11-12 tấn quả/ha cần bón 22,5 tấn nước phân
và 15 tấn phân chuồng kết hợp với 180 kg urea, 225 kg supe lân và 300 kg kaliclorua.
Khi phân tích 1000 kg quả tươi thì thấy rằng cây lấy đi của đất 4,01-4,08 kg N; 1,461,58 kg P2O5 và 7,54-8,96 kg K2O, tương ứng với tỷ lệ N: P: K là 1: 1,28-1,37: 1,769
2,15. Từ kết luận trên đây, người ta đề nghị bón cho vườn nhãn cao sản theo liều
lượng 2,7 kg urea, 3,5 kg supe lân và 3,0 kg kaliclorua. Trong sản xuất có thể căn cứ
vào năng suất vụ quả trước để bón. Thông thường, cứ thu hoạch 100 kg quả thì lượng
phân bón sẽ là 2 kg N, 1 kg P2O5 và 2 kg K2O.
Đối với cây xoài, nghiên cứu và phân tích nhu cầu dinh dưỡng của cây xoài tại
Sabour Roy et.al (1951) đã đưa ra đề nghị mức phân bón nền hàng năm 726g N - 0,4
P2O5 - 6,71 K2O. Tuy nhiên nhu cầu nitơ tăng gấp đôi nếu cây sai quả. Mức bón này
được áp dụng cùng với 90,8kg phân chuồng, 1,82kg thầu dầu, 4,54kg bột xương,
0,908kg (NH4)2SO4, 13,62kg tro bếp.
Một nghiên cứu khác dựa vào lượng dinh dưỡng cây tiêu hao trong một khối
lượng quả tại Saharapur (Singh;1962) đã chỉ ra rằng thêm vaò 20kg NPK và Mg với
tỉ lệ (6:3:10:3) sẽ bù lại lượng dinh dưỡng đã tiêu hao để sản xuất 1.000kg quả xoài.
Tuy nhiên, khi điều tra thực tế sản xuất ở những vùng khác nhau thấy lượng bón đề ra
là quá thấp. Lượng NPK được hấp thụ cho 1000kg quả được ước tính khoảng 0,98 1,5kg N; 0,25 - 0,57 kg P2O5; 1,37 - 2,19 kg K2O (Zhaong et.al, 1994).
Phun 0,5kg P2O5 - 1kg N - 1kg K2O - 3% urê sau khi cắt tỉa làm tăng sản lượng
xoài đáng kể (Mallick et.al,1985). Malhi and Nijjar (1985) đưa ra công thức 100g N 200g P2O5 - 200g K2O/cây 1 năm tuổi sẽ cho hiệu suất tốt nhất và công thức này
cũng được Dayal và Misra, Chausa (1985) đề xuất.
Phòng trừ sâu bệnh hại nhãn, xoài
Giống như nhiều loại cây ăn quả khác, cây nhãn cũng bị tấn công bởi nhiều loại
sâu bệnh hại. Theo các tài liệu của Trung Quốc, sâu hại nhãn chủ yếu gồm có bọ xít,
rày hại hoa, xén tóc đốm sao, xén tóc mai rùa, ngài nhỏ vằn chéo, bướm ngài sáp nâu
vàng, rệp sáp, sâu đục cành, nhện lông nhung. Các loại bệnh nguy hiểm là sương mai,
đốm lá, héo cành, muội đen, tổ rồng rồng. Ngoài ra ở một số vùng, cây nhãn còn bị
các loại mối, chuột và dơi tấn công và gây hại.
Ở Thái Lan, phòng trừ bọ xít hại nhãn bằng biện pháp sinh học đã được áp dụng
rộng rãi và đạt kết quả tốt. Conopomorpha Cramella được xác định là đối tượng gây
hại nguy hiểm cho quả nhãn ở Đài Loan. Theo Huang. JC và Hsich. FK (1989), loài
côn trùng này có khả năng sinh sản rất nhanh. Trung bình, một con cái đẻ 114,1 quả
trứng/lần và tỷ lệ nở đạt tới 97%. Sau khi nở, ấu trùng đục vào quả, ăn hạt và cùi quả
gây nên hiện tượng rụng quả. Một số loại bệnh mới hại nhãn là cháy lá Pestalotiopsis
Panciseta, đốm lá Ascochyta longan, xám lá Phomopsis guiyuan và đốm nâu
Marssonina euphoriac.
Ở Trung Quốc, Đài Loan cũng như nhiều nước trồng nhãn khác, bọ xít được xác
định là đối tượng gây hại nguy hiểm. nhiều nước trồng nhãn. Áp dụng phòng trừ tổng
hợp IPM, sử dụng thiên địch và thuốc hoá học một cách hợp lý là những biện pháp
phòng trừ bọ xít đạt hiệu quả cao.
Trong các loài sâu bệnh gây hại cho xoài có 2 loài được coi là tàn phá nặng nhất
đó là rầy và rệp sáp. Rầy gây hại trong suốt mùa hoa cho đến tháng 2 rầy ở ẩn dưới
10
đường nứt vỏ quả và hoạt động trở lại vào thời gian ra hoa. Phòng trừ bằng cách phun
một số dung dịch malathion (0,15%); enrin (0,04%); carbaryl (0,15%);
phosphomidon (0,05%)…Phun bắt đầu chùm hoa và bắt đầu giai đoạn quả.
Bệnh hại xoài phải kể đến bệnh phấn trắng: Phổ biến tất cả các vùng trồng
xoài, thậm trí có thể gây mất mùa sợi nấm bùng phát trong giai đoạn mang hoa
(Schoeman 1996). Nấm phát triển ở nhiệt ẩm thấp nhiệt độ thấp nhất hoạt động 11-14
o
C cao nhất 27-31oC. (Schoeman, 1996). Có biện pháp kiểm soát phòng trừ kịp thời
phun giai đoạn trước khi nở hoa bột lưu huỳnh (0,1%); bavistin (0,1%); benlate
(0,1%).
Bệnh thán thư hại xoài: Bệnh nấm này gây hại rộng rãi đặc biệt là ở khu vực có
lượng mưa và độ ẩm cao. Gây hại ở lá, cụm hoa, chồi, quả. Khi nấm gây hại xuất
hiện các vết thối đen. Phòng trừ là phun hỗn hợp Bordeaux (3:3:50); bilitoxor
phitolan (0,3%), bavistin (0,1%); benlate (0,1%) ba lần/năm.
3.1.5. Nghiên cứu thúc đẩy quá trình ra hoa, đậu quả và tăng năng suất nhãn,
xoài
Hạn chế lớn của sản xuất nhãn hiện nay là năng suất thấp và sản lượng không ổn
định do nhãn ra hoa cách niên và tỷ lệ đậu quả kém. Theo Nghê Diệu Nguyên và Ngô
Tố Phần, áp dụng các biện pháp kỹ thuật có thể khắc phục hiện tượng kể trên. Đối với
cây có thể hoặc đã ra lộc đông nên dùng các biện pháp cắt đứt rễ, làm lộ rễ, khoanh
vỏ, bấm ngọn hoặc dùng thuốc, có thể dùng một biện pháp hoặc áp dụng tổng hợp các
biện pháp để xử lý ức chế lộc đông sinh trưởng, đồng thời để nâng cao tỷ lệ đậu quả
trong thời gian cây nở hoa có thể thả ong, thụ phấn nhân tạo, lắc hoa sau mưa, phun
nước khi khô hạn, cắt bớt chùm hoa. Ở Thái Lan, các tác giả Pichai – Kongpitak,
Pongthep - Akratanakul và Savitree - Malaiphan (1986) thấy rằng sử dụng ong mật và
côn trùng để thụ phấn đã làm tăng tỷ lệ đậu quả nhãn.
Một số kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy nếu trong quá trình ra hoa, đậu quả
áp dụng các biện pháp kỹ thuật như tỉa hoa, tỉa chùm hoa, tỉa quả, phun thuốc kích
thích có tác dụng làm tăng tỷ lệ đậu quả, khối lượng quả và năng suất nhãn. Các loại
phân thiên nông đã hạn chế được sự rụng quả non, phân Komix làm tăng khối lượng
quả. Màu sắc vỏ quả của những cây được xử lý sáng đẹp hơn. Ngoài ra còn có thể
dùng hoá chất riêng rẽ hoặc hỗn hợp để bảo vệ quả. Thời kỳ quả non sau khi hoa cái
nở rộ 21 ngày, phun 2,4 D nồng độ 5 ppm hỗn hợp với Gibberelin nồng độ 20 ppm có
tác dụng giảm đáng kể tỷ lệ rụng quả.
Kỹ thuật cắt tỉa cành, khoanh thân, khoanh cành, sử dụng chất điều hoà sinh
trưởng, phân vi lượng... làm tăng khả năng ra hoa, đậu quả, chống rụng quả, ra hoa
quả trái vụ, khống chế lộc đông.....Những nghiên cứu này đã được tiến hành ở các
nước như Trung Quốc, Thái Lan, Israel,, và Đài Loan... Các chất điều tiết sinh trưởng
và phân bón qua lá được sử dụng riêng rẽ hoặc kết hợp với những kỹ thuật trên là
KClO3, NaClO3, NaOCl, Ca(ClO3)2, GA3 và Ethrel. Hiệu quả nhất là KCLO3,
Ca(CLO3 )2, GA3 và Ethrel.
11
Chen và cộng sự (1984) thấy rằng phun GA 3, nồng độ 100 mg/ lít và Ethrel nồng
độ 500 - 1000mg/lít vào thời kỳ phân hoá mầm hoa đã làm tăng khả năng ra hoa, kích
thước hoa và số lượng hoa cái và làm giảm số lá dị hình trên chùm hoa. Năng suất
trung bình của các công thức thí nghiệm trong 2 năm là 7,5 tấn/ ha đối với phun GA 3
và 5,5 tấn/ ha đối với phun Ethrel so với đối chứng không phun chỉ đạt 2,8 tấn/ha.
Đối với xoài, sự ra hoa, đậu quả của xoài có thể điều chỉnh bằng việc sử dụng
các hoá chất. Ethephon làm tăng khả năng ra hoa và đậu quả khi sử dụng vào cuối
năm trên cây trưởng thành (Nakasone and Paull, 1998). Bondad abd Apostol, 1979)
sử dụng KNO3 10 và 40 ppm phun trên giống Carabao và Pahutan khi lộc bật ra hơn
một tháng đã làm quá trình ra hoa được tốt hơn. Sử dụng Paclobutrazol tưới vào đất
hoặc phun trên lá cũng là tăng khả năng phân hoá mầm hoa (Nagao and Nishina,
1993). Một số chất như GA3 (1000ppm phun khi ra hoa), NAA (100 ppm phun sau tắt
hoa) cũng làm tăng khả năng đậu quả và năng suất của xoài.
3.2. Những nghiên cứu trong nước:
3.2.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ nhãn, xoài của Việt Nam
Tính đến năm 2010, tổng diện tích nhãn của cả nước đạt 89.500 ha với tổng sản
lượng 590.600 tấn, phân bổ ở 8 vùng sản xuất bao gồm Đồng bằng Nhãn là cây ăn
quả được chú trọng phát triển ở hầu khắp các vùng miền trong cả nước. Theo số liệu
thống kê của Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp (2010), các vùng trồng có
diện tích lớn là Đồng bằng sông Cửu Long (37.200 ha), Tây Bắc (14.000 ha và Đồng
bằng sông Hồng (11.800 ha). Trong số trên 60 tỉnh thành trồng nhãn trong cả nước,
tỉnh Sơn La có diện tích trồng nhãn lớn nhất là 11.300 ha. Trong đó, diện tích cho thu
hoạch là 10.700 ha, sản lượng 19.400 tấn/năm.
Năng suất nhãn bình quân của cả nước hiện rất thấp, chỉ đạt 7,18 tấn/ha. Vùng
Đồng bằng sông Cửu Long đạt năng suất cao nhất (10,9 tấn/ha). Vùng Đông bắc đạt
năng suất 2,98 tấn/ha, chỉ đngs trên có Tây Bắc (2,0 tấn/ha). Trong đó, Lào Cai có
diện tích nhãn đạt 1.500 ha với sản lượng 3.800 tấn, tập trung ở các huyện Bảo
Thắng, Bảo Yên, thành phố Lào cai...
Sản xuất nhãn của nước ta phục vụ nhu cầu tiêu thụ quả tươi ở trong nước là
chính nên giá trị hàng hoá không cao. Những năm được mùa, quả nhãn được mất giá
và khó tiêu thụ. Những năm trước đây, sản phẩm nhãn sấy khô được bán sang Trung
Quốc bằng con đường tiểu ngạch. Trước đây, cây nhãn đa số đều được nhân giống
bằng phương pháp gieo hạt, đặc biệt là các tỉnh miền núi phía Bắc nên cây rất cao,
năng suất không ổn định, quả nhỏ, chất lượng quả kém, mã quả xấu và sâu bệnh phá
hại nặng, do vậy hiệu quả kinh tế của các vườn nhãn rất thấp.
Đối với cây xoài, năm 2007, tổng diện tích xoài của nước ta là 85,2 ngàn ha, sản
lượng đạt434,9 ngàn tấn. Đến năm 2008, diện tích cũng chỉ ở mức 85,5 ngàn ha với sản
lượng 509,2 ngàn tấn. Chủ yếu xoài được trồng tại các tỉnh miền Nam với diện tích 73,4
ngàn ha, sản lượng 471,4 ngàn tấn năm 2008. Trong khi đó, diện tích xoài ở miền Bắc chỉ
đạt 12,1 ngàn ha, sản lượng 37,7 ngàn tấn (bằng 8% sản lượng xoài của miền Nam).
12
3.2.2. Các nghiên cứu về giống nhãn, xoài và các giống đang được trồng phổ biến
Ở miền Bắc có 2 nhóm giống chính là nhãn cùi và nhãn nước. Các giống
thuộc nhóm nhãn cùi là: nhãn lồng, Giống đường phèn, Giống Hương Chi. Ngoài ra
còn có các giống bàm bàm, cùi và cùi điếc. Các giống thuộc nhóm nhãn nước bao
gồm: nhãn nước, nhãn thóc (nhãn trơ, nhãn cỏ). Các giống nhãn trồng phổ biến ở
miền Nam gồm có tiêu da bò, xuồng cơm vàng, tiêu lá bầu. Ngoài ra còn có nhãn
long và nhãn giống da bò.
Ở các tỉnh miền Nam, hiện có khoảng gần 100 giống xoài được trồng ở các hộ gia
đình (Trung tâm cây ăn quả Long Định, 1998), trong đó có 21 giống có nhiều đặc
điểm quý về năng suất và phẩm chất như giống xoài cát Hoà Lộc, Cát Trắng, Cát
Đen, Xoài Bưởi. Năm 1995, Công ty Giống cây trồng TP HCM thu thập được 11
giống xoài từ Thái Lan.
Miền Bắc có khoảng trên 60 giống xoài do Viện Nghiên cứu Rau quả thu thập
từ các vùng trong nước và nước ngoài. Hiện có rất nhiều giống đang được trồng khảo
nghiệm, khu vực hoá và tuyển chọn. Một số giống được Bộ NN&PTNT công nhận
như giống xoài GL1, GL2, GL6. Đến nay, Bô Nông nghiệp đaX công nhận tạm thời
được giống xoài ăn xanh chất lượng VRQ-XX1, đặc biệt là giống GL4, là giống có
khả năng sinh trưởng tốt, quả hình bầu dài, khi chín có màu xanh vàng, vai quả tím
hồng, thịt quả màu vàng, tỷ lệ thịt quả 81,8- 82,7%, hạt mỏng với ưu thế nổi bật của
xoài GL4 là có thể sử dụng cho ăn chín và cả ăn xanh. Ở giai đoạn quả già (sau tắt
hoa 80 ngày) có thể sử dụng cho ăn xanh, vỏ quả xanh hơi vàng, thịt quả vàng nhạt,
giòn và ngọt, chất khô 22-24%, đường tổng số 8,0-9,6%, vị chua khá, Vitamin C 5356 mg/100g, không chát, tanin 0,12-0,14.
Những năm gần đây, Viện Nghiên cứu Rau quả đã tuyển chọn được một số
giống nhãn chất lượng theo các thời vụ: chín sớm, chính vụ, chín muộn nhằm rải cụ
thu hoạch, nâng cao hiệu quả sản xuất. Kết quả điều tra tuyển chọn giống của Viện
Nghiên cứu Rau quả đã tuyển chọn được bộ giống gồm 15 giống nhãn thuộc các
nhóm chín sớm, chín chính vụ và chín muộn từ các tỉnh Hưng Yên, Lào Cai, Yên Bái.
Trong đó có 3 giống chín muộn: PHM99-1.1, PHM99-2.1 và MTM1 (có thời gian thu
hoạch có thể kéo dài từ đầu tháng 9 đến đầu tháng 10) đã được công nhận giống tạm
thời và được phép sản xuất thử quy mô lớn ở các vùng trồng nhãn phía Bắc.
Đặc điểm của giống PHM99-1.1 là giống nhãn được tuyển chọn ở Hưng Yên,
được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận là giống cho sản xuất thử tại vùng Đồng
bằng sông Hồng và Trung du miền núi phía Bắc (Quyết định số 1147 QĐ/BNNKHCN ngày 19 tháng 4 năm 2006.). Giống PHM99-1.1 có đặc điểm:
+ Cây sinh trưởng khỏe, lá màu xanh sáng, phiến lá to, mỏng, khả năng phân
cành trung bình, tán hình bán cầu, chùm quả dạng chổi xể, quả hình tròn, hơi thuôn,
vỏ quả màu nâu, bề mặt có gai nỏi rõ; cùi dầy, ráo, giòn, dễ tách và có màu trắng đục.
+ Khối lượng quả: 11,8 – 12,5 g (80 - 85 quả/kg).
+ Tỷ lệ thịt quả: 68 – 70%
13
+ Độ Brix: 20 - 21%
+ Hương thơm vị ngọt
+ Thời gian thu hoạch: 15/8 - 10/9.
Giống nhãn HTM1 được tuyển chọn tại xã Đại Thành - huyện Quốc Oai - Hà
Tây (cũ). Cây sinh trưởng khoẻ, phân cành mạnh, giai đoạn kiến thiết cơ bản có 4 - 5
đợt lộc/năm. Lá màu xanh nhạt, hơi bóng, mép lá ít lượn sóng, phiến lá rộng, mỏng.
Chùm hoa dạng chùm dâu da, to, có nhiều nhánh nhỏ. Quả vẹo, màu vàng nâu, bề
mặt vỏ quả nhẵn, vỏ mỏng. Xuất hiện hoa từ đầu đến giữa tháng 2 và đậu quả từ đầu
đến giữa tháng 4. Khối lượng quả: 11,0 – 11,5 g (87 - 90 quả/kg). Tỷ lệ thịt quả: 66 –
68%. Độ Brix: 21 - 22%. Thời gian thu hoạch: 25/8 - 20/9. Giống nhãn HTM1 được
Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận giống chính thức tháng 01/2011.
Đặc điểm của giống xoài GL4: Là giống nhập nội từ Đài Loan được Bộ
NN&PTNT công nhận là giống sản xuất thử cho các tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng
và Trung du miền núi phía Bắc (Quyết định số 365/QĐ-TT-CTT về việc công nhận
giống cây trồng nông nghiệp, ngày 22/9/2010), ưu điểm của giống này là quả to, mẫu
mã đẹp, hạt mỏng, ngọt đậm, thơm và có thể ăn xanh, rất phù hợp với xu thế tiêu
dùng hiện nay. Các giống này cũng chưa được trồng thử một cách bài bản trên địa
bàn Lào Cai.
Giống xoài ăn xanh VRQ-XX1 có khả năng sinh trưởng, phát triển tốt. Sau
trồng 3 năm cây cao trung bình 1,60-2,0m; đường kính tán đạt 1,80-2,20m. Thời gian
ra hoa tập trung vào 2 đợt từ cuối tháng 2 đến cuối tháng 4. Quả khá to, hình thuôn
dài, khối lượng trung bình 300-400g/quả. Tỷ lệ thịt quả đạt trên 70% là tỷ lệ khá cao.
Khi quả còn xanh vỏ quả màu xanh sáng, thịt trắng ngà, mịn, chắc, ăn ngọt và giòn.
Lúc chín vỏ quả có màu vàng, thịt quả màu vàng đậm, ăn ngọt và thơm, ít xơ.
3.2.3. Kỹ thuật nhân giống và ứng dụng trong việc ghép cải tạo thay thế giống
Ở Việt Nam đã ứng dụng thành công phương pháp nhân giống cây ăn quả, trong
đó có nhãn, xoài bằng kỹ thuật ghép đoạn cành. Đây là kỹ thuật ghép đạt hiệu quả cao
nhất so với các kỹ thuật ghép khác như ghép mắt, ghép cành bên và ghép nêm... Tuy
nhiên mức độ thành công của kỹ thuật này cũng phụ thuộc rất lớn vào các yếu tố như
thời tiết khí hậu, giống gốc ghép, kỹ thuật chăm sóc trước và sau khi ghép.
Ngô Hồng Bình, Hồ Huy Cường (2006) đã cải tạo thay thế giống xoài bằng
phương pháp ghép (ghép thấp, ghép cao) đã làm tăng hiệu quả kinh tế lên nhiều so
với đối chứng. Trên cây nhãn, Đào Quang Nghị, Đỗ Đình Ca (2006) sử dụng phương
pháp ghép đoạn cành ghép trực tiếp lên đầu cành vào tháng 7 - 8 đạt tỷ lệ ghép sống
75,1 - 82,3%. Khả năng sinh trưởng của cành ghép tốt.
Ứng dụng phương pháp ghép trong nhân giống, các kỹ thuật ghép cải tạo đối với
cây nhãn, xoài đã và đang được Viện Nghiên cứu Rau quả hoàn thiện. Ứng dụng các
kết quả nghiên cứu, nhằm thay thế các giống cũ bằng các giống mới có nhiều ưu điểm
hơn hoặc rải vụ thu hoạch, nhiều chương trình cấp Bộ và nhiều địa phương đã ghép
14
cải tạo thay thế giống thành công trên các đối tượng: vải (ở Bắc Giang, Quảng Ninh),
nhãn (ở Hưng Yên, Hoà Bình, Sơn La), Xoài (ở Hà Nội, Vĩnh Phúc)...
3.2.4. Kết quả nghiên cứu biện pháp kỹ thuật sản xuất nhãn, xoài
Kỹ thuật bón phân cho nhãn
Viện nghiên cứu cây ăn quả miền Nam đã kết luận: năng suất nhãn tăng lên
một cách có ý nghĩa ở công thức bón phân NPK cao 450 - 240 - 330; 350 - 180 - 270,
(N - P2O5 - K2O g/cây/vụ) + phân hữu. Các công thức bón lượng kali cao và bón thêm
phân hữu cơ đã làm gia tăng độ Brix (%), màu sắc vỏ trái cũng sáng đẹp hơn.
Lượng phân bón thay đổi tuỳ thuộc vào tuổi cây, tình trạng sinh trưởng và phát
triển của cây, vào độ phì nhiêu của đất. Tuỳ theo từng nơi mà thay đổi dạng phân cho
phù hợp. Theo quy trình của Viện Nghiên cứu Rau quả, có thể áp dụng lượng phân
bón như sau:
Lượng phân bón cho nhãn ở thời kỳ kiến thiết cơ bản:
Chủng loại phân bón (kg/cây/năm)
Tuổi cây
Phân chuồng
Đạm urê
Lân supe
Kalicloru
Cây 1 năm
Cây 2 năm
Cây 3 năm
30 - 50
30 - 50
50 - 70
0,1 - 0,2
0,2 - 0,3
0,3 - 0,5
0,7 1,0
1,0 - 1,2
1,2 - 1,5
0,2 - 0,3
0,2 - 0,3
0,3 - 0,5
Lượng phân bón cho nhãn ở thời kỳ mang quả:
Lượng phân bón theo tuổi cây (kg/năm)
Loại phân
Cây 4 - 6 năm tuổi Cây 7 - 10 năm tuổi Cây trên 10 tuổi
Phân chuồng
30 - 50
50 - 70
70 - 100
Đạm urê
0,3 - 0,5
0,8 - 1,0
1,2 - 1,5
Supe lân
0,7 - 1,0
1,5 - 1,7
2,0 - 3,0
Kaliclorua
0,5 - 0,7
1,0 - 1,2
1,2 - 2,0
Kỹ thuật bón phân cho xoài:
Theo quy trình kỹ thuật trồng và chăm sóc xoài của Viện Nghiên cứu Rau quả,
lượng bón cho cây xoài cụ thể:
- Đối với cây trong thời kỳ kiến thiết cơ bản: bón vào hai đợt: tháng 3 - 4: rắc
phân NPK (14:14:14) trên mặt đất phân diện tích quanh tán với lượng 0,5 - 0,6
kg/cây. Sau đó dùng cuốc xới nhẹ mặt đất để phân lọt xuống dưới rồi tủ rơm rác lên
trên mặt; tháng 8: dùng 30 - 50 kg phân chuồng hoai mục cộng 0,5 - 0,8 kg NPK (tỷ
lệ 14: 14: 14) bón sâu cách mặt đất 10 cm xung quanh gốc cây theo độ rộng của tán.
- Đối với cây trong thời kỳ kinh doanh: có thể bón phân làm nhiều đợt trong
năm, nhưng đợt bón quan trọng nhất là đợt bón sau thu quả, nhằm cung cấp kịp thời
dinh dưỡng cho cây tái tạo đợt lộc thu. Bón theo rãnh sâu 20 cm, rộng 20 cm xung
15
quanh gốc theo hình chiếu của tán. Sau khi bón phân, lấp đất kín, dùng rơm rác, cỏ
khô phủ lên trên và tưới ẩm ngay. Ngoài ra có thể bón thêm 1 - 2 đợt vào tháng 4
nhằm hạn chế quá trình rụng quả non và tháng 5 – 6 nhằm tăng cường quá trình lớn
của quả.
Lượng phân bón sau thu quả cho xoài
Lượng phân bón (kg/cây/năm)
Tuổi
Phân
Đạm urê
Lân supe
Kaliclorua
cây
chuồng
4–5
50
0,60
1
0,5
6–7
50
0,70
1.5
0,6
8–9
50
0,80
2
0,7
>10
50
1
2
0,8
* Phòng trừ sâu bệnh hại :
Các biện pháp kỹ thuật phòng trừ, quản lý sâu bệnh hại cũng đã được các cơ
quan nghiên cứu như Viện Bảo vệ thực vật, Viện nghiên cứu Cây ăn quả miền Nam,
Viện nghiên cứu Rau quả và Trung tâm nghiên cứu cây ăn quả Phủ Quỳ tiến hành ở
các vùng trồng nhãn từ những năm 1997 - 1998. Kết quả đã phát hiện 12 loại bệnh và
38 loại sâu hại. Các đối tượng gây thiệt hại đáng kể nhất là bọ xít, rệp sáp, sâu đục
quả, sâu đục thân, sâu tiện vỏ, bệnh sương mai. Việc sử dụng các loại thuốc bảo vệ
thực vật để phòng và trừ các loại sâu bệnh đã mang lại hiệu quả phòng trừ rõ rệt, góp
phần làm tăng năng suất và chất lượng của quả nhãn.
Nguyễn Xuân Hồng (2006) với những nghiên cứu cho thấy, bọ xít ( Tessaratoma
papillosa Drury) và bệnh do nấm Phytopthora sp. gây hại nặng nhất trên nhãn.
Trên cây xoài, có nhiều đối tượng sâu, bệnh gây hại. Trong đó, ruồi đục quả
(Dacus dosalis), rệp vẩy (Idioscopus sp.), bệnh thán thư (Colletotrichum
gloesporioides), bệnh đốm đen vi khuẩn (Xanthomonas campestris). Bùi Quang Đãng
(2006) đã báo cáo, sử dụng biện pháp bao quả đã làm giảm tỷ lệ sâu bệnh hại trên
quả, tăng năng suất thương phẩm và cải thiện mã quả.
* Các biện pháp kỹ thuật làm tăng khả năng ra hoa, đậu quả, năng suất và phẩm
chất nhãn, xoài
Sử dụng KClO3 riêng rẽ hoặc kết hợp khoanh cây, cành xử lý cho nhãn ra hoa
trái vụ hoặc ra hoa đồng loạt đã được thực hiện tại Viện cây ăn quả miền Nam và một
số vùng trồng nhãn ở Đồng bằng sông Cửu Long. Ở miền Bắc, sử dụng chất điều tiết
sinh trưởng, trong đó có KClO3 kết hợp với các biện pháp cơ giới đã góp phần quan
trọng khắc phục hiện tượng ra hoa, quả không ổn định ở cây nhãn.
Theo Trần Thế Tục (1999) biện pháp làm tăng khả năng đậu hoa, đậu quả của
vải, nhãn tốt nhất là phun các chất kích thích sinh trưởng như NAA, GA 3, Axit Boric.
Có thể dùng riêng rẽ hay dùng hỗn hợp các nguyên tố vi lượng với các chất kích thích
16
sinh trưởng phun khi hoa bắt đầu nở và khi hoa nở rộ có tác dụng làm tăng tỷ lệ đậu
quả, giảm tỷ lệ rụng quả non.
Nghiên cứu sử dụng các chế phẩm sinh học cũng như các loại phân vi lượng
bón qua lá: kích phát tố hoa trái Thiên nông, Atonic, Bayfolan, Orgamin, Spray - N Grow (SNG), Bill’s perfect fertilize (BPF) và FITO vv.. để làm tăng tỷ lệ đậu quả,
tăng cường phẩm chất quả cũng được Viện nghiên cứu Rau quả, Viện cây ăn quả
miền Nam thực hiện và đạt kết quả tốt khi ứng dụng tại một số vùng trồng nhãn ở
Hưng Yên và Đồng bằng sông Cửu Long.
Bùi Quang Đãng (2006) cũng đã báo cáo: sử dụng komix đã làm tăng khả năng
sinh trưởng của cành xoài; Xử lý 1g ai/m đường kính tán không làm ảnh hưởng đến
sinh trưởng của cành mẹ, hoa nở rộ vào đầu tháng 3, năng suất cao hơn nhiều so với
đối chứng không xử lý; Xử lý GA 3 100 ppm trên giống GL6 vào đầu tháng 1 đã làm
tăng tỷ lệ cành ra hoa đạt tới 95,38% và làm tăng năng suất; Xử lý α - NAA 60 ppm
cho xoài GL6 khi tắt hoa làm năng suất tăng 27,2% so với đối chứng.
Các biện pháp kỹ thuật thâm canh các giống mới nhãn và xoài, đặc biệt là kỹ
thuật ghép cải tạo đã và đang được áp dụng rộng rãi và đạt hiệu quả cao ở nhiều địa
phương. Tuy nhiên trên địa bàn tỉnh Lào cai, chưa có những nghiên cứu hoàn thiện để
quy trình phù hợp với điều kiện cụ thể của Lào Cai. Các kỹ thuật tiến bộ mới chưa
được phổ biến rộng rãi tới người sản xuất. Do vậy trình độ sản xuất cây ăn quả của
người dân cũng bị hạn chế và có phần lạc hậu.
4. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Nội dung nghiên cứu
Nội dung 1: Điều tra, đánh giá thực trạng sản xuất nhãn, xoài tại Bảo Thắng và
thành phố Lào Cai
- Đánh giá thực trạng về giống trồng, diện tích, năng suất, sản lượng nhãn,
xoài
- Đánh giá thực trạng áp dụng các kỹ thuật thâm canh nhãn, xoài: bón phân,
phòng trừ sâu bệnh, mức đầu tư...
Nội dung 2: Xây dựng mô hình sản xuất giống nhãn chín muộn và xoài ăn xanh
tại Lào Cai
Thực hiện các hoạt động:
- Trồng mới 1,0 ha nhãn chín muộn (cây 1 năm tuổi tính từ khi xuất vườn).
Trong đó: 440 cây PH99M-1.1 và 60 cây nhãn HTM1. Tổng số 500 cây
- Trồng mới 1,0 ha xoài ăn xanh (cây 1 năm tuổi tính từ khi xuất vườn). Trong
đó 440 cây xoài GL4 và 60 cây xoài VRQ-XX1. Tổng số 500 cây.
- Đánh giá khả năng sinh trưởng, khả năng ra hoa, đậu quả, năng suất, chất
lượng và tình hình sâu bệnh hại của các giống nhãn chín muộn trên địa bàn Lào Cai
- Đánh giá khả năng sinh trưởng, khả năng ra hoa, đậu quả, năng suất, chất
lượng và tình hình sâu bệnh hại của giống xoài ăn xanh trên địa bàn Lào Cai
Địa điểm thực hiện: Huyện Bảo Thắng và thành phố Lào Cai
17
Nội dung 3: Xây dựng mô hình ghép cải tạo thay thế giống nhãn và xoài kém hiệu
quả bằng giống nhãn chín muộn và xoài ăn xanh tại tại Bảo Thắng, Lào Cai
Thực hiện các hoạt động:
- Xây dựng mô hình ghép cải tạo giống nhãn kém hiệu quả bằng giống nhãn
chín muộn. Tổng số 100 cây.
- Xây dựng mô hình ghép cải tạo giống xoài chất lượng thấp bằng giống xoài
ăn xanh. Tổng số 100 cây
- Xây dựng bản hướng dẫn ghép cải tạo thay thế giống nhãn
- Xây dựng bản hướng dẫn ghép cải tạo thay thế giống xoài
Địa điểm thực hiện: Huyện Bảo Thắng
Nội dung 4: Nghiên cứu ứng dụng một số biện pháp kỹ thuật sản xuất nhãn chín
muộn và xoài ăn xanh trên địa bàn Lào Cai (thực hiện trên mô hình trồng mới ở
nội dung 1)
Thực hiện các hoạt động:
+ Nghiên cứu ứng dụng một số biện pháp kỹ thuật thâm canh nhãn chín muộn
trên địa bàn Lào Cai
+ Nghiên cứu ứng dụng một số biện pháp kỹ thuật thâm canh xoài ăn xanh trên
địa bàn Lào Cai
+ Xây dựng bản hướng dẫn kỹ thuật trồng và chăm sóc nhãn chín muộn
+ Xây dựng bản hướng dẫn kỹ thuật trồng và chăm sóc xoài ăn xanh.
Nội dung 5: Tập huấn kỹ thuật ghép cải tạo thay thế giống và kỹ thuật trồng,
chăm sóc nhãn, xoài theo VietGAP
Tổ chức 2 lớp tập huấn cho nông dân, mỗi lớp 50 người về kỹ thuật trồng, chăm
sóc và ghép cải tạo nhãn, xoài.
4.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm và kỹ thuật sử dụng
* Phương pháp điều tra: Điều tra thu thập số liệu thứ cấp qua các tài liệu thống
kê từ các cơ quan quản lý, cơ quan chuyên môn về lĩnh vực thống kê, nông nghiệp.
Thu thập số liệu sơ cấp theo phương pháp điều tra nhanh nông thôn có sự tham gia
của người dân (PRA) và phỏng vấn trực tiếp người sản xuất.
* Các nghiên cứu, đánh giá về sinh trưởng, phát triển được bố trí, theo dõi theo
các phương pháp chuẩn. Để có thể đánh giá kết quả trong thời gian thực hiện đề tài,
cây giống được sử dụng trồng thử nghiệm là cây 1 năm tuổi tính từ khi xuất vườn.
- Đánh giá khả năng sinh trưởng, khả năng ra hoa, đậu quả, năng suất, chất
lượng và tình hình sâu bệnh hại của giống nhãn chín muộn, trên địa bàn Lào Cai:
Theo dõi đánh giá trên các vườn mô hình, mỗi vườn 30 cây/giống.
- Đánh giá khả năng sinh trưởng, ra hoa, đậu quả, năng suất, chất lượng và tình
hình sâu bệnh hại của giống xoài ăn xanh trên địa bàn Lào Cai:
Theo dõi đánh giá trên các vườn mô hình, mỗi vườn 30 cây/giống. Đối chứng là
giống được trồng đại trà ở địa phương.
18
Trên cơ sở các vườn mô hình, nghiên cứu ứng dụng và hoàn thiện một số biện
pháp kỹ thuật phù hợp với điều kiện Lào Cai:
- Bố trí các thí nghiệm nghiên cứu ứng dụng một số biện pháp kỹ thuật thâm
canh nhãn chín muộn trên địa bàn Lào Cai:
- Thí nghiệm nghiên cứu biện pháp kỹ thuật bón phân cho nhãn chín muộn 2
năm tuổi gồm 3 công thức được bố trí theo khối ngẫu nhiên đầy đủ (RCB). Mỗi công
thức 3 cây, nhắc lại 3 lần. Tổng số 36 cây):
Công thức 1 (đối chứng): Theo quy trình trồng và chăm sóc nhãn của Viện
Nghiên cứu Rau quả (Công thức nền): 30 kg Phân chuồng + 0,3kg ure + 1,2kg
supelân + 0,3kg Kaliclorua.
Công thức 2: nền + 2 kg phân hữu cơ vi sinh + 0,05kg Ure
Công thức 3: nền + 2 kg phân hữu cơ vi sinh + 0,1kg Ure
Công thức 4: nền + 2 kg phân hữu cơ vi sinh + 0,15kg Ure
Thời kỳ bón: Toàn bộ lượng phân vô cơ được chia 4 lần bón, chủ yếu để thúc
các đợt lộc, toàn bộ lượng phân chuồng được bón làm 1 lần vào cuối năm. Phân hữu
cơ vi sinh được sử dụng là phân hứu cơ vi sinh Sông Gianh.
Cách bón: Hoà với nước tưới hoặc bón trực tiếp.
- Hoà các loại phân vô cơ với nước và tưới cho cây theo hình chiếu tán cây.
- Bón trực tiếp: Khi trời mưa rào có thể rắc phân xung quanh hình chiếu tán cây.
- Phân chuồng: Xẻ rãnh quanh hình chiếu tán cây để bón.
- Thí nghiệm nghiên cứu biện pháp kỹ thuật bón phân cho nhãn chín muộn 3
năm tuổi gồm 4 công thức được bố trí theo khối ngẫu nhiên đầy đủ (RCB). Mỗi công
thức 3 cây, nhắc lại 3 lần. Tổng số 36 cây):
Công thức 1 (đối chứng): theo quy trình trồng và chăm sóc nhãn của Viện
Nghiên cứu Rau quả (Công thức nền): 30 kg Phân chuồng + 0,5g ure + 1,5g supelân
+ 0,5g Kaliclorua.
Công thức 2: nền + 2 kg phân hữu cơ vi sinh + 0,1kg Kaliclorua
Công thức 3: nền + 2 kg phân hữu cơ vi sinh + 0,2kg Kaliclorua
Công thức 4: nền + 2 kg phân hữu cơ vi sinh + 0,3kg Kaliclorua
Thời kỳ bón: Toàn bộ lượng phân bón được chia làm 3 lần bón trong năm. Phân
hữu cơ vi sinh được sử dụng là phân hứu cơ vi sinh Sông Gianh.
- Lần 1: Bón thúc hoa vào cuối tháng 2 - đầu tháng 3. Bón 30% phân đạm, 20%
kali và 10 - 20% phân lân.
- Lần 2: Bón thúc quả vào tháng 4 - 5. Bón 40% phân đạm và 40% phân kali.
- Lần 3: Bón sau thu hoạch quả vào giữa tháng 9. Bón toàn bộ lượng phân vi
sinh, 80 – 90% phân lân và lượng phân đạm, kali còn lại.
Cách bón:
- Đất ẩm, rải phân theo hình chiếu tán cách gốc 50 cm, sau đó tưới nước để
hoà tan phân.
19
- Khi trời khô hạn, hoà tan phân trong nước để tưới hoặc rải phân theo hình
chiếu tán, xới nhẹ đất và tưới giữ ẩm.
- Thí nghiệm nghiên cứu biện pháp phòng trừ sâu đục quả cho nhãn chín muộn
Thí nghiệm gồm 3 công thức. Mỗi công thức 3 cây, nhắc lại 3 lần. Tổng số 27 cây):
Công thức 1(đối chứng): phun nước lã
Công thức 2: Selecron 500 ND
Công thức 3: Regrent 800WG
Thuốc được phun 5 lần: Lần 1 sau tắt hoa, 4 lần tiếp theo vào giữa các tháng 4,
5, 6 và 7.
- Bố trí các thí nghiệm nghiên cứu ứng dụng một số biện pháp kỹ thuật thâm canh
xoài GL4 trên địa bàn Lào Cai:
- Thí nghiệm nghiên cứu biện pháp kỹ thuật bón phân cho xoài ăn xanh 2 năm
tuổi gồm 4 công thức bố trí theo khối ngẫu nhiên đầy đủ (RCB). Mỗi công thức 3 cây,
nhắc lại 3 lần. Tổng số 36 cây):
Công thức 1 (đối chứng): theo quy trình trồng và chăm sóc xoài của Viện
Nghiên cứu Rau quả (Công thức nền): 20 kg phân chuồng + 0,3 kg ure + 0,5 kg supe
lân + 0,2 kg kaliclorua.
Công thức 2: nền + 2 kg phân hữu cơ vi sinh + 0,05kg Ure
Công thức 3: nền + 2 kg phân hữu cơ vi sinh + 0,1kg Ure
Công thức 4: nền + 2 kg phân hữu cơ vi sinh + 0,15kg Ure
Toàn bộ lượng phân vô cơ được chia làm 5 lần bón dưới dạng dung dịch tưới xung
quanh gốc cây. Phân hữu cơ vi sinh được sử dụng là phân hứu cơ vi sinh Sông Gianh.
Lượng phân vi sinh được rắc đều trên mặt đất dưới tán cây vào tháng 4.
- Thí nghiệm nghiên cứu biện pháp kỹ thuật bón phân cho xoài ăn xanh 3 năm
tuổi: gồm 4 công thức bố trí theo khối ngẫu nhiên đầy đủ (RCB). Mỗi công thức 3
cây, nhắc lại 3 lần. Tổng số 36 cây):
Công thức 1 (đối chứng): theo quy trình trồng và chăm sóc xoài (tiêu chuẩn
ngành 10TCN 487-2001) (Công thức nền): 20 kg phân chuồng +
0,5 kg ure + 0,75 kg supe lân + 0,35 kg kaliclorua
Công thức 2: nền + 2 kg phân hữu cơ vi sinh + 0,1kg Kaliclorua
Công thức 3: nền + 2 kg phân hữu cơ vi sinh + 0,2kg Kaliclorua
Công thức 4: nền + 2 kg phân hữu cơ vi sinh + 0,3kg Kaliclorua
Mỗi công thức 3 cây, nhắc lại 3 lần. Phân hữu cơ vi sinh được sử dụng là phân
hứu cơ vi sinh Sông Gianh. Toàn bộ lượng phân được chia làm 4 lần bón:
Lần 1: Sau thu hoạch, bón 100% lượng phân chuồng +100% phân hữu cơ vi
sinh + 60% lượng ure + 60% lượng supelân và 40% kaliclorua
Lần 2: Đầu tháng 11, bón 40% lượng supe lân + 30% lượng kaliclorua
Lần 3: khoảng 3 tuần sau khi đậu quả, bón 20% lượng ure + 15% lượng kaliclorua
Lần 4: 10 tuần sau đậu quả bón toàn bộ lượng phân còn lại.
20
Bón vôi với lượng 500 kg/ha vào cuối mùa nắng bằng cách rải vôi đều trên mặt
đất và xới đất để vôi phân tán đều vào trong tầng đất mặt.
- Thí nghiệm nghiên cứu hiệu quả của pháp kỹ thuật phòng trừ một số loại
bệnh cho xoài
Thí nghiệm gồm 5 công thức bố trí theo khối ngẫu nhiên đầy đủ (RCB). Mỗi
công thức 3 cây, nhắc lại 3 lần. Tổng số 27 cây):
Công thức 1: phun Score 250EC
Công thức 2: phun Ridomil MZ72
Công thức 3(đối chứng): Để tự nhiên
Phun vào các đợt lộc (khi lộc xuất hiện được 5 - 7 ngày); khi nhú hoa được 5 10 ngày; sau tắt hoa 5 - 7 ngày và sau tắt hoa 30 ngày.
Các mô hình ghép cải tạo nhãn, xoài được thực hiện dựa vào việc ứng dụng các
kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Rau quả trong những năm gần đây. Cây
được ghép cải tạo thay thế có độ tuổi từ 5 năm trở lên. Ghép bằng hai phương pháp
ghép trực tiếp và ghép gián tiếp. Ghép trực tiếp là phương pháp ghép thay thế giống
cho những cây có bộ tán còn vừa phải, có thể ghép trực tiếp lên đầu cành (thay tán)
có đường kính 1,5 - 2,5 cm. Ghép gián tiếp được áp dụng cho cây có bộ khung tán
lớn, không thể hoặc khó khăn trong việc ghép trực tiếp lên đầu cành bằng cách cưa
đốn làm thấp bộ khung của cây. Sau đó ghép lên chồi bật ra từ cây gốc ghép.
4.3. Xử lý số liệu
Số liệu được xử lý thống kê bằng phần mềm EXCEL và IRRISTAT 5.0
5. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
5.1. Kết quả điều tra, đánh giá thực trạng sản xuất nhãn, xoài tại Bảo Thắng và
thành phố Lào Cai
5.1.1. Một số điều kiện chung về khí hậu, đất đai tại vùng nghiên cứu
* Điều kiện khí hậu
Lào Cai là tỉnh vùng cao biên giới, nằm chính giữa vùng Đông Bắc và vùng
Tây Bắc của Việt Nam, cách Hà Nội 296 km theo đường sắt và 345 km theo đường
bộ. Diện tích tự nhiên: 6.383,88 km2 (chiếm 2,44% diện tích cả nước). Do Địa hình
Lào Cai rất phức tạp, phân tầng độ cao lớn, mức độ chia cắt mạnh đã tạo ra những
tiểu vùng khí hậu khác nhau. Về cơ bản, Lào Cai có khí hậu nhiệt đới gió mùa, song
do nằm sâu trong lục địa bị chia phối bởi yếu tố địa hình phức tạp nên diễn biến thời
tiết có phần thay đổi, khác biệt theo thời gian và không gian. Đột biến về nhiệt độ
thường xuất hiện ở dạng nhiệt độ chênh lệch trong ngày lên cao hoặc xuống thấp quá
(vùng Sa Pa có nhiều ngày nhiệt độ xuống dưới 00C và có băng hoặc tuyết rơi).
Khí hậu Lào Cai chia làm hai mùa: mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 10,
mùa khô bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình nằm ở vùng
cao từ 150C - 200C (riêng Sa Pa từ 140C – 160C và không có tháng nào lên quá 20 0C),
lượng mưa trung bình từ 1.800mm - >2.000mm. Nhiệt độ trung bình nằm ở vùng thấp
21
từ 230C – 290C, lượng mưa trung bình từ 1.400mm - 1.700mm. Sương mù thường
xuất hiện phổ biến trên toàn tỉnh, có nơi ở mức độ rất dày. Trong các đợt rét đậm, ở
những vùng núi cao và các thung lũng kín gió còn xuất hiện sương muối, mỗi đợt kéo
dài 2 - 3 ngày. Vì có nhiều tiểu vùng khí hậu khác nhau Lào Cai thích hợp cho phát
triển nhiều loại cây ăn quả từ các loại cây nhiệt đới (dứa, xoài,) á nhiệt đới (nhãn,
vải, cây có múi) đến cây ộn đới (mận, đào, lê...).
Ở thành phố Lào Cai và huyện Bảo Thắng có khí hậu gió mùa chí tuyến, á
nhiệt đới có mùa đông lạnh và khô, chia làm hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 4 đến
tháng 9, mùa khô từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình 22,8 0C và
lượng mưa 1792 mm. Sự phân hoá về nhiệt độ, lượng mưa và độ ẩm trên địa bàn
thành phố không lớn. Nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất cũng chỉ là 16 0C, biên độ
dao động nhiệt năm là 110C, trong năm có trung bình 1 ngày có sương muối. Đây là điều
kiện khí hậu khá thuận lợi cho phát triển các cây ăn quả như nhãn, xoài, chuối, dứa...
*. Điều kiện đất đai:
Lào Cai có điều kiện đất đai đa dạng bao gồm 10 nhóm, 30 loại đất, phù hợp
với nhiều loại cây trồng khác nhau. Do địa hình chia cắt nên phân đai cao thấp khá rõ
ràng, trong đó độ cao từ 300m - 1.000m chiếm phần lớn diện tích toàn tỉnh. Điểm cao
nhất là đỉnh núi Phan Xi Păng trên dãy Hoàng Liên Sơn có độ cao 3.143m so với mặt
nước biển, Tả Giàng Phình: 3.090m. Dải đất dọc theo sông Hồng và sông Chảy gồm
thành phố Lào Cai - Cam Đường - Bảo Thắng - Bảo Yên và phần phía đông huyện
Văn Bàn thuộc các đai độ cao thấp hơn (điểm thấp nhất là 80 m thuộc địa phận huyện
Bảo Thắng), địa hình ít hiểm trở hơn, có nhiều vùng đất đồi thoải, thung lũng, là địa
bàn thuận lợi cho sản xuất nông lâm nghiệp hoặc xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng.
Thành phố Lào Cai nằm trong khu vực thung lũng sông Hồng, được tạo bởi
hai dãy núi Con Voi và Hoàng Liên Sơn. Địa hình có xu thế dốc dần từ Tây Bắc Đông Nam và bị chia cắt nhỏ bởi các sông suối, khe tụ thuỷ, đồi núi... Ranh giới
thành phố nằm ở cả hai bên bờ sông Hồng, xung quanh có các dãy đồi núi bao bọc.
Phần địa hình đồi núi chiếm 60% diện tích của thành phố tập trung ở các xã Tả Phời
và Hợp Thành, một phần của Vạn Hoà và Đồng Tuyển có độ cao trung bình từ 80 100 m so với mực nước biển, độ dốc trung bình 12-18 0. Đỉnh cao nhất có độ cao
1.260 m ở phía Tây Nam thành phố. Phần địa hình thấp nằm ở ven sông Hồng và
giữa các quả đồi, phân bố chủ yếu ở khu vực các phường nội thành và các xã ngoại
thành như Cam Đường và một phần Vạn Hoà, Đồng Tuyển với độ dốc trung bình từ
6-90, độ cao trung bình từ 75-80 m so với mực nước biển.
Địa hình Bảo Thắng là một dải thung lũng hẹp chạy dài ven sông Hồng có phía
Tây là dải núi thấp của dãy Phan-Xi-Păng – Pú Luông và Đông là của dãy thượng
nguồn sông Chảy án ngữ. Đất đai Bảo Thắng chủ yếu là đất lâm nghiệp. Đất canh tác
22
ít, tập trung ở các thung lũng ven sông, suối còn lại là đất Feralít thuận lợi cho nhiều
loại cây trồng, đặc biệt thicha hợp cho nhiều loại cây ăn quả.
Bên cạnh những thuận lợi về địa hình, khí hậu, đất đai, thành phố Lào Cai và
huyện Bảo Thắng còn là đầu mối giao thông có đường sông, đường bộ, đường sắt toả
đi khắp các khu vực Bắc Nam, thuận lợi phát triển kinh tế thương mại và du lịch.
5.1.2. Diện tích sản lượng các loại cây ăn quả trên địa bàn tỉnh Lào Cai và định
hướng phát triển đến 2020.
Lào Cai có tiềm năng đất đai, khí hậu rất đa dạng, thích hợp cho phát triển cả
cây ăn quả nhiệt đới và cây ôn đới. Năm 2010 tổng diện tích cây ăn quả là 7.300 ha,
phân bố tại tất cả các huyện, thành phố: Lào cai 473ha, Bát Xát 637 ha, Mường
Khương 1.103ha, Bảo Yên 512ha, Sa Pa 350ha và Văn Bàn 661ha.
Năm 2011, diện tích cây ăn quả của Lào cai tăng lên đến 7.510ha. Trong đó các
loại cây ăn quả nhiệt đới và á nhiệt đới chính (cây có múi, nhãn, vải, xoài, chuối dứa)
chiếm 5.116,3ha. Cây ôn đới (đào mận lê, hồng...) và các loại cây ăn quả khác chiếm
2.393,7ha.
Cây ăn quả có diện tích lớn nhất là cây nhãn với diện tích 1.414,6ha, chiếm
18,8% tổng diện tích cây ăn quả của toàn tỉnh, được trồng chủ yếu ở Bảo Thắng và và
Bắc Hà. Tiếp đến là cây chuối: 1.192,4ha, chiếm 15,9% được trồng chủ yếu ở Bát
Xát, Bảo Thắng, Mường Khương, thành phố Lào Cai. Cây dứa 918,6ha, chiếm
12,2% được trồng chủ yếu ở Mường Khương và Bảo Thắng. Cây xoài chỉ có 351,5
ha, chiếm 4,7% được trồng chủ yếu ở Bảo Thắng và rải rác ở hầu hết các huyện của
Lào Cai.
Đối với cây xoài, Lào cai cũng đã phát triển cây xoài ở các huyện vùng thấp:
Bảo Yên, Bảo Thắng, Bảo Nhai, thành phố Lào cai... với diện tích khoảng 400 ha vào
năm 2008, sản lượng khoảng 700 tấn (Số liệu Cục Trồng trọt). Tuy nhiên, tương tự
như nhãn, đa số các giống xoài là các giống cũ hay là cây nhân giống bằng hạt nên
chất lượng không đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu ngày càng cao của người tiêu dùng.
Do vậy, đến 2011, diện tích xoài trên toàn tỉnh chỉ còn 351,5 ha với năng suất 24,5
tạ/ha (30%) năng suất xoài bình quân của cả nước.
Tuy diện tích cây ăn quả của Lào Cai khá lớn nhưng chỉ có ít loại cây có những
diện tích trồng tập trung lớn như chuối, dứa, nhãn, mận tam hoa. Còn lại các cây ăn
quả khác có diện tích trồng còn manh mún, không tập trung, vùng trồng chưa đủ lớn
để có nguồn sản phẩm phục vụ cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu .
Theo Quy hoạch tổng thể phát triển nông nghiệp tỉnh Lào Cai đến năm 2020 và
định hướng đến năm 2030, diện tích cây ăn quả của toàn tỉnh phấn đấu đạt mức 9.800
ha. Trong đó, diện tích cây ăn quả nhiệt đới và á nhiệt đới chính chiếm 6.500 ha. Còn
3.300ha là cây ăn quả ôn đới và cây khác. Theo đó, đến năm 2020, diện tích cây ăn
quả nhiệt đới và á nhiệt đới chính (cam quýt, nhãn, vải, xoài, chuối, dứa) của huyện
Bảo Thắng sẽ đạt 2.160ha, của thành phố Lào Cai sẽ đạt 250ha.
23
24
Bảng 1. Diện tích cây ăn quả của Lào Cai và định hướng phát triển đến 2020
(Số liệu điều tra thu thập năm 2012)
Địa
phương
Tổng DT cây ăn quả
2011
CAQ á nhiệt đới và nhiệt đới chính
2010
Tổng
Cây có Nhãn
múi
Toàn tỉnh
7.296, 7.510,
0
0
470,0 446,4
639,0 789,0
1.103, 1.290,
0
1
Lào Cai
Bát Xát
Mường
Khương
Xi
Ma
Cai
205,0 281,0
Bắc Hà
1.000,
0 985,0
Bảo
2.357, 2.181,
1.414,
531,6
6
49,9
60,5
5,0
76,0
Vải
Xoài
Chuối
Định hướng đến 2020
CAQ
ôn
đới và
CAQ
khác
Dứa
Tổng
diện
tích
CAQ
á
nhiệt
đới và
nhiệt
đới
chính
CAQ
ôn đới
và cây
khác
707,6
69,0
92,9
351,5
24,0
51,1
1.192,4
117,0
305,3
918,6
33,0
56,4
2.393,7
159,0
315,1
9.800
400
1.200
6.500
250
650
3.300
150
370
4,0
272,0
698,0
1.555,7
1.770
1.260
510
37,2
2,0
204,1
515
60
455
1.400
2160
420
2160
980
113,2
661,0
625,1
106,4
25,0
25,0
37,2
0,0
4,5
76,0
106,4
182,0
714,1
8,0
374,2
32,0
199,5
25
26,0
274,9