Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Nhân tố cơ bản tác động quan hệ nga eu từ 2008 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (463.68 KB, 40 trang )

BỘ NGOẠI GIAO

HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO
-----------------------

TIỂU LUẬN
CÁC NHÂN TỐ CƠ BẢN TÁC ĐỘNG ĐẾN
QUAN HỆ EU – NGA TỪ NĂM 2008 ĐẾN NAY


MỤC LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
***

Viết tắt

Viết đầy đủ

EU

WTO

European Union
Partnership and
Co-operation Agreement
European Commission
North Atlantic Treaty Organization
International Monetary Fund


Group of 7/8
Sodruzhestvo Nezavisimykh Gosudarstv
Organization for Economic
Co-operation and Development
World Trade Organization

APEC

Asia-Pacific Economic Cooperation

PCA
EC
NATO
IMF
G7/G8
SNG
OECD

SCO
ASEAN
MERCOSUR
ISIS

Shanghai Cooperation Organization
Association of Southeast Asian Nations
Mercado Común del Sur
Islamic State in Iraq and Syria

Tiếng Việt
Liên minh châu Âu

Hiệp định Đối tác và Hợp tác toàn diện
Ủy ban châu Âu
Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương
Quỹ Tiền tệ Quốc tế
Nhóm G7/G8
Cộng đồng Các quốc gia Độc lập
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
Tổ chức Thương mại Thế giới
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á –
Thái Bình Dương
Tổ chức Hợp tác Thượng Hải
Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á
Khối Thị trường chung Nam Mỹ
Tổ chức Nhà nước Hồi giáo Tự xưng
IS


MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, quan hệ giữa EU và Nga đã xấu đi nhanh chóng kể từ khi xảy ra
khủng hoảng Ukraine cũng như vụ việc Nga sáp nhập bán đảo Crimea, mà theo EU là một hành
động trái luật pháp quốc tế. Rõ ràng là kể từ sau khi Tổng thống Nga Medvedev lên nắm quyền,
chính sách mềm mỏng hơn với EU của ông so với người tiền nhiệm Putin đã làm cho quan hệ
EU – Nga có bước phát triển mới. Tuy nhiên, quan hệ song phương giữa hai bên hiện nay đã
xuống đến mức thấp nhất kể từ sau Chiến tranh Lạnh. Vậy nguyên nhân nào đã làm cho quan hệ
này thay đổi như vậy? Có những nhân tố nào đã tác động đến quan hệ EU – Nga?
Thắc mắc trên đây chính là động lực thôi thúc người viết lựa chọn đề tài nghiên cứu:
“Các nhân tố cơ bản tác động đến quan hệ EU - Nga từ năm 2008 đến nay”. Câu hỏi nghiên cứu
xuyên suốt chính là: “Các nhân tố cơ bản tác động đến quan hệ EU – Nga từ năm 2008 đến
nay là gì?”. Theo đó, người viết đặt ra giả thuyết nghiên cứu như sau: “Các nhân tố cơ bản tác
động đến quan hệ EU – Nga từ năm 2008 đến nay bao gồm nhân tố Mỹ, năng lượng, nội bộ

EU, quyền lực và vùng ảnh hưởng, lòng tin và cuối cùng là những khác biệt về giá trị”.
Người viết lựa chọn mốc thời gian từ năm 2008 đến nay là vì giai đoạn này đã chứng
kiến những biến động to lớn trong quan hệ EU - Nga. Vào năm 2008, toàn thế giới đã phải trải
qua cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ, trong đó cả Mỹ, EU, Nga, Nhật đều lún sâu vào suy
thoái, đặc biệt là EU khi phải đối mặt với một loạt các cuộc khủng hoảng về nợ công, người nhập
cư, niềm tin… Điều đó đòi hỏi tất cả các nước lớn nói trên phải có những bước đi thận trọng hơn
nhằm vực dậy nền kinh tế sau năm 2008, EU và Nga cũng như vậy. Nhận thấy những tiềm năng
trên nhiều lĩnh vực như thương mại, năng lượng nếu thắt chặt hơn nữa quan hệ song phương, cả
hai phía EU và Nga đã có những động thái thân thiện với nhau hơn so với những giai đoạn trước
đó. Về phía Nga, năm 2008 đánh dấu sự chào đón Tổng thống mới lên nhậm chức, Medevedev,
hứa hẹn rằng nước Nga sẽ thực hiện một chính sách đối ngoại mới mẻ nhằm lấy lại và khẳng
định vị thế cường quốc của nước Nga. Thật vậy, trong bài phát biểu của mình về tầm nhìn quan
hệ giữa Nga với các nước phương Tây nhân chuyến thăm của mình tới Đức (tháng 6 năm 2008),
Tổng thống Medevedev đã khẳng định rằng, sau gần một thế kỷ biệt lập, nước Nga đang quay trở
lại nền chính trị và kinh tế toàn cầu. Sau một thời gian dài mất phương hướng kể từ khi Liên Xô
sụp đổ, Nga đã bắt đầu con đường tìm lại vị trí cường quốc, mà bước đi đầu tiên chính là cuộc
chiến 5 ngày tại Gruzia ngay trong năm 2008. Kể từ đây, giai đoạn mới đã chứng kiến cuộc
khủng hoảng tồi tệ nhất trong quan hệ EU – Nga. Cùng với chiến tranh Gruzia, khủng hoảng
chính trị tại miền Đông Ukraine và việc Nga sáp nhập bán đảo Crimea vào lãnh thổ nước mình
chính là ba vấn đề nổi bật nhất trong quan hệ EU – Nga từ năm 2008 đến nay, dẫn đến sự xói


mòn lòng tin nghiêm trọng trong quan hệ song phương khiến cho cả hai đều chưa thoát ra được
những lệnh trừng phạt và biện pháp trả đũa kéo dài.
Dựa vào câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu, người viết đặt ra mục tiêu nghiên
cứu là chứng minh quan hệ EU - Nga từ năm 2008 đến nay cơ bản bị chịu tác động bởi các nhân
tố gồm Mỹ, năng lượng, nội bộ EU, quyền lực và vùng ảnh hưởng, lòng tin và những khác biệt
về giá trị.
Trên cơ sở đó, nhiệm vụ nghiên cứu của người viết sẽ là lần lượt nêu và phân tích tác
động của các nhân tố nêu trong giả thuyết nghiên cứu nhằm chứng minh vai trò chi phối của

chúng lên quan hệ song phương EU - Nga.
Về phạm vi nghiên cứu, trước hết là không gian nghiên cứu, người viết thu hẹp không
gian trong tương tác quan hệ EU - Nga. Còn đối với thời gian nghiên cứu, người viết giới hạn
khoảng thời gian trong giai đoạn từ năm 2008 đến nay.
Về phương pháp nghiên cứu, người viết sử dụng phương pháp lịch sử, phân tích và tổng
hợp lý thuyết. Còn về cách tiếp cận lý luận quan hệ quốc tế, người viết sử dụng cả ba lăng kính
của chủ nghĩa hiện thực, tự do và kiến tạo để phân tích.
Về bố cục, bài tiểu luận được chia làm hai phần chính. Phần I là phần khái quát chung
bao gồm tổng quan quan hệ EU - Nga từ năm 1991 đến năm 2007 và những nét chính về bối
cảnh quan hệ song phương trong giai đoạn từ 2008 đến nay. Phần II là phần phân tích những
nhân tố cơ bản chi phối quan hệ EU - Nga trong giai đoạn từ năm 2008 đến nay, bao gồm: Thứ
nhất, nước Mỹ; thứ hai, năng lượng; thứ ba, nội bộ EU; thứ tư, quyền lực và vùng ảnh hưởng;
thứ năm, lòng tin và cuối cùng là những khác biệt về giá trị.
Cuối cùng, vì được làm trong khoảng thời gian có hạn, bài tiểu luận chắc chắn vẫn còn
nhiều thiếu sót. Người viết rất mong nhận được những ý kiến đóng góp từ phía người đọc để bài
tiểu luận được hoàn thiện hơn.


NỘI DUNG CHÍNH
I. Khái quát chung:
1. Tổng quan quan hệ EU - Nga từ năm 1991 đến năm 2007:
Năm 1991, Chiến tranh Lạnh kéo dài gần 4 thập kỷ đến hồi kết thúc, đối kháng giữa hai
siêu cường Mỹ - Xô không còn, trật tự thế giới hai cực sụp đổ. Kết quả là thế giới bước vào thời
kỳ quá độ sang trật tự đa cực, Liên Xô tan rã thành 15 nước cộng hòa nhỏ hơn, nước Nga trở
thành quốc gia kế thừa của Liên Xô theo luật pháp quốc tế. Các khu vực như châu Âu, Trung
Đông, Bắc Phi, Trung Á… chìm trong các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo. Trong bối cảnh đó,
hầu hết các quốc gia thành viên của EU vẫn còn đang dang dở trong quá trình phát triển kinh tế,
chính trị, quân sự; còn Nga thì suy thoái kinh tế nặng nề.
Do EU vẫn chưa có chính sách, chiến lược chung trong quan hệ với Nga nên nhìn chung,
mức độ thăng trầm, lên xuống trong quan hệ giữa EU và Nga phụ thuộc vào đường lối của các

đời Tổng thống Nga đối với EU. Như vậy, quan hệ EU – Nga trong giai đoạn 1991 – 2007 có thể
được chia theo các mốc nhiệm kỳ của các đời Tổng thống Nga từ Yeltsin đến Putin.
1.1 Giai đoạn 1991 – 1996:
Đầu tiên, giai đoạn năm 1991 đến 1996 là nhiệm kỳ đầu của Tổng thống Nga Yeltsin.
Trong nhiệm kỳ này, Yeltsin thi hành đường lối thân phương Tây, ngả theo phương Tây, dùng
hình mẫu của phương Tây để xây dựng đất nước. Theo đó, Nga muốn được EU chấp nhận như là
một phần không thể tách rời của châu Âu, từ đó nhận được viện trợ kinh tế, tài chính lớn từ thể
chế này. Tuy nhiên, EU vẫn xem Nga là đối thủ, là kẻ bại trận sau Chiến tranh Lạnh, và muốn
Nga nhanh chóng xây dựng nền kinh tế thị trường và thể chế dân chủ theo hình mẫu phương
Tây. Chính bởi sự bất đồng trong cách nhìn nhận về nhau như vậy, hai bên đã không đạt được
những thành tựu hợp tác to lớn như đã kỳ vọng. Nhưng nhìn chung, đây vẫn là giai đoạn nồng
ấm trong quan hệ song phương EU – Nga.
Cụ thể, trong năm 1994, Nga và EU kí Hiệp định Hợp tác và Đối tác toàn diện (PCA).
Với hiệp định này, mối quan hệ giữa hai bên sẽ được thắt chặt hơn quan hệ hợp tác truyền thống,
cũng như nền tảng pháp lý cho mọi quan hệ EU - Nga sau này chính thức được thiết lập. Ngoài
ra, quan hệ giữa Nga và EU trong giai đoạn này cũng có nhiều điểm sáng. Ví dụ như trong hợp
tác kinh tế, EU trở thành đối tác thương mại chính (52%) và là nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất
của Nga (75%)1. Đối với EU, Nga là một trong những đối tác lớn sau Mỹ và Trung Quốc, Nga
1 Marina Lazareva, The European Union and Russia: History of the relationship and cooperation prospects:
truy cập ngày 10/04/2016.


còn chiếm tỉ trọng cao trong thị trường rau quả tươi và năng lượng cung cấp cho EU. Ngoài kinh
tế, hai bên còn hợp tác trong các vấn đề khác như bảo vệ nhân quyền, chống khủng bố, di cư, tội
phạm và môi trường, từ đó góp phần tăng cường ổn định trong khu vực. Ngoài ra, Nga cũng bày
tỏ nguyện vọng được gia nhập vào Cộng đồng châu Âu (EC), tiền thân của EU lúc bấy giờ. Tóm
lại, có thể nói rằng, giai đoạn 1991 – 1996 là giai đoạn “vàng son” trong quan hệ EU - Nga so
với các thời kỳ trước đó.
1.2 Giai đoạn 1996 – 1999:
Sang đến giai đoạn tiếp theo, cả EU và Nga đều nhận ra rằng mình đã nhầm lẫn vì đánh

giá triển vọng quan hệ song phương quá cao. Mặc dù Nga đã tỏ thiện chí muốn hợp tác với EU,
muốn phương Tây hoàn toàn tin tưởng và chấp nhận một nước Nga hoàn toàn mới, nhưng Nga
không nhận lại được những gì mà Nga kỳ vọng. Nga cũng lên án việc EU có những chính sách
kinh tế thương mại không công bằng đối với hàng hoá từ Nga. Do đó, sang đến nhiệm kỳ II của
mình, Tổng thống Nga Yeltsin đã triển khai đường lối cứng rắn hơn với EU, góp phần làm cho
quan hệ EU – Nga rơi vào khoảng thời gian khủng hoảng từ năm 1996 cho đến năm 1999.
Ngược lại, quá trình đổi mới chậm chạp từ phía Nga cũng đã khiến EU thất vọng. Cụ thể,
Phương Tây phản ứng rất dữ dội trước những cuộc tấn công vũ trang của Nga vào Chechnya,
cũng như liên tục lên án Nga vi phạm nhân quyền và sử dụng các hợp đồng năng lượng gây áp
lực lên quan hệ hai bên. Vì thế mà giữa EU và Nga luôn luôn tồn tại không khí căng thẳng.
Tuy nhiên, giai đoạn này cũng chứng kiến một số nỗ lực từ hai bên để cải thiện mối quan
hệ. Điển hình là các nước phương Tây đã nâng vai trò của Nga lên mức cao hơn trong việc hoạch
định chính sách của nhóm G7. Dù còn nhiều nghi ngại nhưng phần đông thành viên EU đều chấp
thuận việc Nga trở thành quốc gia thành viên thứ 39 của Hội đồng Châu Âu vào năm 1996. Vào
thời điểm đó, vị thế của Nga trong Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cũng không ngừng tăng lên.
1.3 Giai đoạn 2000 – 2007:
Từ sau khi Vladimir Putin nhậm chức Tổng thống Nga năm 2000, mối quan hệ giữa Nga
và phương Tây được giữ ở trạng thái đôi bên cùng có lợi, chính sách đối ngoại với EU của Nga
cũng trở nên thực dụng hơn. Theo đó, những mâu thuẫn, xung đột có thể còn tồn tại nhưng sẽ
được kiềm chế trong tương quan trao đổi lợi ích với nhau. Đối với những lĩnh vực hợp tác được
với EU, Nga vẫn sẽ hợp tác. Nhưng đối với những vấn đề thuộc chủ quyền, lãnh thổ, Nga sẽ rất
cứng rắn và không nhượng bộ.
Chẳng hạn, về chính trị, có hai vấn đề nổi bật trong quan hệ EU – Nga chính là vấn đề
mở rộng EU về phía đông và vấn đề Kaliningrad. Thứ nhất, năm 2004, sau khi EU mở rộng về
hướng đông với việc kết nạp thêm 8 nước thành viên, trong đó có ba quốc gia vùng Baltic thuộc
không gian hậu Xô Viết, lãnh thổ Nga đã tiếp giáp với tất cả 5 quốc gia thành viên của EU, nâng


tổng độ dài đường biên giới chung giữa EU và Nga lên tới hơn 2000km. Việc này đã khiến Nga
phản đối kịch liệt vì giờ đây tỉnh Kaliningrad thuộc Nga kẹt giữa Ba Lan và Litva đã bị bao vây

tứ phía bởi các nước thành viên EU mà từ đó làm nảy sinh những lo ngại về vấn đề chủ quyền
của Nga tại tỉnh này. Để đáp trả, Nga đe doạ sẽ không kí tiếp những điều khoản trong PCA với
các quốc gia thành viên mới của EU. Phía EU thì gián tiếp đe doạ sẽ trừng phạt Nga về kinh tế.
Cuối cùng, xung đột chỉ giảm xuống khi Nga đồng ý sẽ tiếp tục xem xét PCA và EU hứa sẽ xem
xét vấn đề EU mở rộng về hướng đông. Ngoài ra, EU cũng đã lôi kéo được ngày càng nhiều
quốc gia xung quanh với lời hứa về sự thịnh vượng nếu đi theo hình mẫu kinh tế của mình. EU
còn đề nghị mối quan hệ đặc biệt thân thiết với Belarus, Moldova, Ukraine, Georgia, Armenia,
Azerbejan, những quốc gia thuộc vùng ảnh hưởng truyền thống của Nga. Như vậy, rõ ràng là
những xung đột về chính trị giữa hai bên vẫn còn làm cho quan hệ tồn tại nhiều căng thẳng.
Tuy nhiên, về kinh tế, quan hệ hai bên đã có những bước tiến quan trọng. Cụ thể là trong
quan hệ thương mại song phương, nổi bật nhất là vào năm 2000, Nga đã xuất khẩu sang thị
trường châu Âu tới 63% trên tổng lượng khí gas xuất khẩu ra bên ngoài 2. Không chỉ vậy, cả hai
bên đều trở thành những thị trường xuất nhập khẩu chiếm tỉ trọng lớn trong nền kinh tế của nhau.
Ngoài ra, hợp tác giữa EU và Nga cũng chứng kiến một dấu mốc mới khi 4 không gian chung
EU – Nga được thiết lập năm 2003, trong khuôn khổ Hiệp định PCA, bao gồm không gian kinh
tế và môi trường, không gian tự do, an ninh và công bằng, không gian an ninh đối ngoại, không
gian nghiên cứu và giáo dục. Như vậy, rõ ràng là mức độ phụ thuộc vào nhau về thương mại
giữa EU và Nga đang ngày càng tăng lên.
1.4 Tiểu kết:
Nhìn chung, giai đoạn 1991 - 2007 chứng kiến nhiều thăng trầm trong quan hệ giữa EU
và Nga. Chúng ta có thể tổng kết lại như sau: Trong khoảng thời gian đầu, ngay sau khi Liên Xô
tan rã năm 1991, Nga tuyên bố phát triển đất nước theo thể chế tư bản chủ nghĩa phương Tây, từ
đó mà mối quan hệ EU - Nga nhận được rất nhiều kì vọng rằng sẽ trở nên ngày một bền chặt.
Tuy nhiên, đến nhiệm kì II của Tổng thống Boris Yeltsin (1996 - 1999), những thất vọng, bất
đồng quan điểm về chính trị, kinh tế, nhân quyền đã kéo mối quan hệ song phương xuống đến
mức khủng hoảng. Cho đến khi Tổng thống Putin nhậm chức, những chính sách thực dụng của
Putin đối với EU, vừa hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị vừa đấu tranh trong lĩnh vực
chủ quyền, lợi ích quốc gia, mối quan hệ giữa EU và Nga mới được kéo lại mức tương đối ổn
định, có chuyển động lên xuống nhưng với biên độ không lớn, mặc dù không thể nồng ấm như
giai đoạn nhiệm kỳ đầu của Tổng thống Yeltsin.


2 Marina Lazareva, The European Union and Russia: History of the relationship and cooperation prospects:
truy cập ngày 10/04/2016.


2. Bối cảnh giai đoạn 2008 – nay:
2.1 Bối cảnh thế giới:
Trong giai đoạn từ năm 2008 đến nay, các xu thế chủ đạo của thế giới sau Chiến tranh
Lạnh nhìn chung vẫn tiếp tục được duy trì. Thứ nhất, quan hệ quốc tế hiện nay vẫn tuân theo xu
thế hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và hợp tác phát triển. Các quốc gia, đặc biệt là các nước
lớn, đều không muốn sử dụng vũ lực đối với nhau, luôn muốn cho quan hệ của mình với các
nước khác trên thế giới được giữ ổn định, hợp tác lâu dài, nếu có xung đột thì sẽ giải quyết bằng
các biện pháp hòa bình và tránh không để những mâu thuẫn đó bùng phát thành khủng hoảng hay
chiến tranh. Tương tự như vậy, Nga và EU cũng luôn cố gắng giữ cho quan hệ song phương vừa
hợp tác, vừa đấu tranh, nhưng luôn đảm bảo tính ổn định, lâu dài, không muốn kéo dài bất kỳ
một cuộc “Chiến tranh Lạnh” nào giữa hai bên, và càng không muốn sử dụng các biện pháp quân
sự để giải quyết xung đột.
Thứ hai, xu thế thiết lập trật tự đa cực trong các quốc gia ngày càng được củng cố. Theo
đó, các nước lớn hiện nay như Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, EU đều hợp tác với nhau,
trong chừng mực nào đó đều muốn tăng cường vị thế của mình, tạo ra các đối trọng, thiết lập trật
tự thế giới đa cực, chống lại trật tự đơn cực trong đó chỉ có mình nước Mỹ đóng vai trò nước bá
quyền. Hòa chung nhịp chảy của xu thế đó, EU và Nga vẫn đang hợp tác với nhau trên nhiều lĩnh
vực để củng cố trật tự đa cực hơn nữa.
Thứ ba, các vấn đề toàn cầu hiện nay đang ngày càng trở nên nghiêm trọng mà bất kỳ
một quốc gia riêng lẻ nào cũng không thể tự mình giải quyết được. Do đó, xu thế hợp tác đa
phương để cùng giải quyết các vấn đề toàn cầu vẫn đang giữ vị trí chủ đạo. Không tách biệt mình
khỏi xu thế chung đó, EU và Nga vẫn đang tiếp tục hợp tác với nhau trong việc chống khủng bố,
bảo vệ môi trường, giải quyết vấn đề người nhập cư…
2.2 Bối cảnh EU và Nga:
Do đặc thù hội nhập của châu Âu, khi nghiên cứu bối cảnh khu vực châu Âu, chúng ta có

thể sử dụng bối cảnh của EU và Nga để thay thế. Vì vậy, người viết đã gộp những nội dung cần
thiết về bối cảnh khu vực châu Âu giai đoạn từ năm 2008 đến nay vào trong phần bối cảnh EU
và Nga.
2.2.1 Bối cảnh EU:
Trong giai đoạn từ năm 2008 đến nay, EU đã đạt những thành tựu đáng kể trong việc hội
nhập khu vực. Hiệp ước Lisbon được thông qua vào 1/12/2009 đã góp phần tăng cường hiệu quả
các hoạt động của EU khi trao cho thể chế này tư cách pháp nhân, cải tổ cơ chế vận hành khi xóa
bỏ cơ chế 3 trụ cột lúc trước, phân định cụ thể và rõ ràng thẩm quyền của EU trong các lĩnh vực


khác nhau. Ngoài ra, EU cũng kết nạp thêm thành viên mới (Croatia năm 2013), và có thêm một
thành viên gia nhập khu vực đồng tiền chung châu Âu (Litva năm 2014).
Tuy nhiên, trong giai đoạn này, EU cũng phải đối mặt với nhiều thách thức. Về kinh tế,
ba cuộc khủng hoảng gồm khủng hoảng lương thực, khủng hoảng năng lượng và khủng hoảng tài
chính đã làm rung chuyển các nền kinh tế của thế giới, trong đó có EU. Nền kinh tế của 27 nước
thuộc Liên minh châu Âu (EU) cũng đứng trên bờ vực suy thoái, đi kèm theo đó là lạm phát, thất
nghiệp tăng cao. Tiếp sau là các cuộc khủng hoảng nợ công trong khu vực đồng tiền chung,
khiến nền kinh tế của “lục địa già” chưa thể phục hồi, thậm chí cho đến nay vẫn đang trong tình
trạng đình trệ, mặc dù những gói cứu trợ, những biện pháp cải cách đã liên tục được đưa ra 3.
Năm 2008, GDP của EU đạt mức 19012,8 tỉ USD, nhưng sang đến năm 2009, GDP đã giảm từ
hơn 2000 tỉ xuống còn 17005,4 tỉ USD. Cho đến năm 2014, nền kinh tế của liên minh vẫn chưa
được phục hồi hoàn toàn sau khủng hoảng, tổng GDP đạt mức 18514,2 tỉ USD 4. Chưa hết, hậu
quả của lệnh trừng phạt mà EU áp đặt lên Nga sau khủng hoảng Ukraine và việc sáp nhập bán
đảo Crimea đã làm chính EU thiệt hại nặng nề.
Không chỉ dừng lại ở đó, EU những năm gần đây cũng phải đối mặt với cuộc khủng
hoảng người nhập cư và các cuộc tấn công khủng bố nghiêm trọng chưa từng có. Tính đến cuối
năm 2014, có gần 60 triệu người nộp đơn xin tị nạn tại châu Âu, chủ yếu đến từ Trung Đông và
Bắc Phi, gần gấp 3 lần so với 10 năm trước 5. Rất nhiều cuộc tấn công khủng bố đã được thực
hiện ở châu Âu, tiêu biểu là cuộc tấn công tại Paris (13/11/2015) làm khoảng 130 người chết và
tại Brussel (tháng 3 năm 2016) làm hơn 30 người thiệt mạng, gây chấn động thế giới. Tình trạng

người nhập cư ồ ạt và khủng bố hoành hành như vậy đã gây ra nhiều hệ luỵ tiêu cực lên đời sống
chính trị, xã hội, văn hoá của châu Âu, cũng như nội bộ EU bị chia rẽ. Hy Lạp đe dọa ra khỏi
khu vực đồng tiền chung châu Âu. Nước Anh thì sắp tiến hành trưng cầu dân ý về việc ra đi hay
ở lại. Có thể nói rằng, EU đã và đang phải đối mặt với những thách thức cực kỳ to lớn mà nếu
không được giải quyết sớm sẽ nguy hại đến sự tồn tại và phát triển của toàn bộ liên minh, cũng
như niềm tin của người dân châu Âu vào thể chế 28 thành viên này.

3 Nguyễn Trung, Thế giới năm 2008 - một số vấn đề quân sự, chính trị nổi bật, Tạp chí Quốc phòng toàn dân,
/>truy cập ngày 10/04/2016.
4 Trading economics, European Union GDP, truy cập ngày
10/04/2016.

5 Hồng Phúc, Châu Âu điêu đứng vì cuộc khủng hoảng người tị nạn, Báo An ninh Thủ đô,
truy cập ngày
10/04/2016.


2.2.2 Bối cảnh Nga:
Tương tự như EU, trong giai đoạn từ năm 2008 đến nay, Nga đã đạt được nhiều thành
tựu, đặc biệt là khôi phục được vị thế nước lớn của mình, song cũng phải đối mặt với nhiều thách
thức trên nhiều lĩnh vực khác nhau.
Về kinh tế, Nga đã đạt được nhiều thành tựu như lọt vào nhóm 10 nền kinh tế lớn nhất thế
giới, trở thành thành viên Không gian kinh tế thống nhất với Belarus và Kazakhstan, gia nhập
WTO (2012) và tiến tới gia nhập OECD. Tuy nhiên, sự sụt giảm của giá dầu cùng các biện pháp
trừng phạt của Mỹ và châu Âu đang là những thách thức lớn cho nền kinh tế Nga khi đồng ruble
Nga mất giá còn tổng thiệt hại của Nga đã lên tới 25 tỷ euro trong năm 20156.
Về chính trị, vai trò và vị thế của Nga trên trường quốc tế đã có những thay đổi rõ rệt.
Quan hệ Nga – phương Tây không còn là chủ nợ - con nợ mà đã tiến tới hợp tác bình đẳng trong
mọi lĩnh vực kinh tế và chính trị. Vai trò của Nga trong việc giải quyết các vấn đề khu vực và
quốc tế cũng được đề cao hơn. Nga cũng đã cải thiện, mở rộng quan hệ với các tổ chức quốc tế

và khu vực trong khuôn khổ hợp tác song phương và đa phương. Nước Nga đã trở thành thành
viên trọng yếu của nhiều tổ chức kinh tế hoặc có quan hệ thương mại với nhiều liên minh khu
vực như G8 (về sau là G7), SNG, APEC, SCO, ASEAN, Liên đoàn Ả Rập, Liên minh châu Phi,
MERCOSUR… Tóm lại, nước Nga đã lấy lại vị thế cường quốc, củng cố sức mạnh và tầm ảnh
hưởng của mình. Song, trong giai đoạn từ 2008 đến nay, chiến tranh Gruzia, khủng hoảng miền
đông Ukraine và việc sáp nhập bán đảo Crimea vẫn là hố sâu trong quan hệ Nga – phương Tây.
Tuy các biện pháp trừng phạt mới chỉ dừng ở mức độ kinh tế nhưng đây là một nguy cơ lớn đối
với Nga trong khi yếu tố chính trị quan trọng của Nga là năng lượng đang dần dần mất vị thế do
việc dỡ bỏ lệnh cấm vận đối với Iran, Mỹ phát triển công nghệ khai thác dầu đá phiến…
Về văn hóa – xã hội, các chương trình xã hội được triển khai như xây dựng cơ sở pháp lý
cho cải cách chế độ bảo đảm lương hưu, bảo đảm y tế, cải cách chế độ giáo dục, cải cách nhà ở,
thực thi chính sách dân số, tạo thêm việc làm cho người dân. Cùng với đó, sau những biến cố
chính trị với phương Tây, Nga đã huy động được tinh thần đoàn kết của nhân dân cũng như sự
tín nhiệm của họ với chính quyền.
Về an ninh – quốc phòng, nước Nga đạt nhiều thành tựu đáng nể. Quân đội Nga với quân
số rất lớn và có khả năng sẵn sàng chiến đấu và sức mạnh vượt trội, được trang bị các vũ khí
hiện đại bậc nhất. Không những thế, Nga còn sở hữu kho vũ khí hạt nhân lớn nhất thế giới, có
hạm đội tàu ngầm tên lửa đạn đạo đứng thứ hai và là nước duy nhất ngoài Mỹ có một lực lượng
6 Tuấn Phương, Nền kinh tế Nga trước “sóng gió” của giá dầu thế giới, Tạp chí Cộng sản,
truy cập ngày 10/04/2016.


máy bay ném bom chiến lược hiện đại. Tuy nhiên, mặc cho những nỗ lực hiện đại hóa quốc
phòng, Nga vẫn chưa bắt kịp được với một số loại vũ khí của các nước thành viên EU như tàu
chiến Mistral của Pháp. Thêm vào đó, đà tụt dốc kinh tế khiến ngân sách quốc phòng không thể
tăng như trước, thậm chí phải cắt giảm.
II. Các yếu tố nền tảng tác động đến quan hệ EU – Nga từ năm 2008 đến nay:
Như vậy, thông qua việc điểm lại những nét cơ bản về bối cảnh diễn ra quan hệ EU –
Nga từ năm 2008 đến nay, chúng ta sẽ có thể nghiên cứu và phân tích tác động của các nhân tố
quan trọng chi phối cặp quan hệ EU – Nga một cách dễ dàng hơn. Trong khuôn khổ của bài tiểu

luận, các nhân tố đuợc đề cập bao gồm nhân tố Mỹ, năng lượng, nội bộ EU, quyền lực và vùng
ảnh hưởng, lòng tin và cuối cùng là những khác biệt về giá trị giữa EU và Nga. Cuối cùng, người
viết sẽ đánh giá mức độ tác động, tầm quan trọng của các nhân tố nói trên và mối quan hệ biện
chứng giữa chúng trong quan hệ EU – Nga.
1. Mỹ:
Từ trước đến nay, Mỹ luôn đóng một vai trò chiến lược đặc biệt quan trọng trong chính
sách đối ngoại của EU và Nga. Đối với EU, Mỹ có một sự gắn kết đặc biệt cả về chính trị khi cả
hai là đồng minh thân cận suốt từ thời Chiến tranh Lạnh; về kinh tế khi hai bên phụ thuộc chặt
chẽ vào nhau, là một trong những đối tác thương mại và đầu tư lớn nhất của nhau; và về an ninh
– quốc phòng khi hầu hết thành viên của EU đều đồng thời là thành viên của khối NATO do Mỹ
đứng đầu. Còn đối với Nga, Mỹ vẫn luôn chiếm một vị trí quan trọng trong thứ tự ưu tiên chính
sách đối ngoại của Nga, chỉ sau các nước thuộc không gian hậu Xô Viết và EU. Từ năm 2008
đến nay, trong cả ba vấn đề chính trị tiêu biểu gồm Chiến tranh Gruzia năm 2008, khủng hoảng
miền Đông Ukraine và sáp nhập Crimea năm 2014, EU đều cùng với Mỹ lên án và phán đối Nga,
thậm chí còn tiến hành trừng phạt kinh tế đất nước này. Ngược lại, trong quá trình giải quyết
những vấn đề này, Nga luôn luôn phải cân nhắc đến từng phản ứng, động thái của Mỹ bên cạnh
việc xử trí quan hệ của mình với EU. Hơn nữa, dù thế nào thì trong quan hệ EU – Nga, lợi ích
quốc gia của Mỹ vẫn luôn xuất hiện ở một mức độ nào dù ít hay nhiều. Như vậy, chúng ta có thể
dễ dàng nhận thấy rằng, nhân tố có tác động đáng kể đến quan hệ EU – Nga, cả về mặt tích cực
lẫn tiêu cực.
Thứ nhất, về mặt tích cực, trước hết, Mỹ sẽ là nhân tố góp phần làm cho quan hệ EU –
Nga không đi đến đổ vỡ. Chúng ta cần nhớ rằng, một đặc điểm quan trọng trong quan hệ giữa
các nước lớn sau Chiến tranh Lạnh chính là vừa hợp tác vừa kiềm chế, hợp tác nhưng không dẫn
đến liên minh, còn kiềm chế, xung đột sẽ không dẫn đến chiến tranh hay đổ vỡ. Cũng mang đặc
điểm như vậy, cặp quan hệ Nga – Mỹ sẽ rất khó có thể bị cắt đứt, mà EU lại theo lập trường của
Mỹ, nên quan hệ EU – Nga cũng khó đổ vỡ theo. Ở phía Mỹ, rõ ràng là Mỹ cần đến Nga trong


việc giải quyết các vấn đề như vấn đề hạt nhân Iran, nội chiến Syria, chống khủng bố… Quan
trọng hơn là, răn đe hạt nhân (nuclear deterrence) cùng với cân bằng sợ hãi (balance of terror) đã

khiến cho Mỹ kiềm chế và khó có thể tính đến biện pháp quân sự trong việc giải quyết các vấn
đề trong quan hệ với Nga. Vì vậy, chính bởi ý muốn của bản thân, Mỹ sẽ giữ EU theo lập trường
của mình ở một mức độ cứng rắn có giới hạn để kết quả là không dẫn đến đụng độ quân sự giữa
các bên.
Ngoài ra, Mỹ cũng đồng thời là một trong những chất xúc tác quan trọng thúc đẩy EU –
Nga xích lại gần nhau nhằm tạo ra đối trọng với chính Mỹ. Về phía EU, dù là đồng minh thân
cận, EU vẫn không muốn bị phụ thuộc vào Mỹ mà vẫn giữ được độc lập, tự chủ của mình, nhất
là trong quan hệ với nước Nga. Hòa cùng với xu thế đa cực hóa, EU – Nga cần hợp tác với nhau,
thúc đẩy sự hình thành trật tự thế giới đa cực, chống lại viễn cảnh một thế giới đơn cực bị Mỹ chi
phối.
Thứ hai, về mặt tiêu cực, ý đồ muốn thông qua EU để kiềm chế Nga của Mỹ sẽ góp phần
gây ra những xung đột, căng thẳng, chia rẽ trong quan hệ EU – Nga. Rõ ràng, việc Mỹ thiết đặt
hệ thống phòng thủ tên lửa của mình trên địa phận của hai nước sát sườn Nga là Ba Lan và Cộng
hòa Czech đã gây mối bất hòa khó hóa giải giữa EU và Nga, góp phần tăng thêm những hiểu
lầm, làm tổn hại đến lòng tin trong quan hệ song phương EU – Nga. Ngoài ra, Mỹ muốn chia rẽ
quan hệ EU – Nga cũng là vì muốn duy trì vai trò của mình trong việc giải quyết các công việc
của châu Âu. Mỹ luôn coi châu Âu là một địa bàn chiến lược để đáp ứng tham vọng bá quyền thế
giới của mình. Nếu như một liên minh Nga – EU hình thành, vị trí của Mỹ ở châu Âu sẽ bị đe
dọa. Chính vì vậy, việc thi hành chính sách vừa thúc đẩy quan hệ EU – Nga để không dẫn đến đổ
vỡ, lại vừa tìm cách chia rẽ cặp quan hệ này nhằm không cho nước Nga mạnh lên cũng như bản
thân không bị gạt khỏi châu Âu đối với Mỹ rất quan trọng.
Như vậy, có thể nói rằng, nhân tố Mỹ gây ra những tác động đáng kể đến quan hệ EU –
Nga, theo cả hai hướng, thúc đẩy cùng với kìm hãm quan hệ song phương. Tuy nhiên, dù có tác
động lớn như thế nào, nhân tố Mỹ vẫn chỉ là nhân tố bên ngoài và không phải là nhân tố quyết
định tiến trình phát triển của cặp quan hệ EU – Nga. Bởi lẽ, lúc nào cũng theo Mỹ không phải là
một sự lựa chọn sáng suốt của EU, nhất là trong quan hệ đối với Nga. Lợi ích của EU trong quan
hệ với Nga là độc lập và khác biệt so với lợi ích của Mỹ, chứ không hề trùng khớp hoàn toàn.
Thứ nhất, rõ ràng là EU và Nga có sự gần gũi về mặt địa lý, chứ không hề ngăn cách xa như Mỹ
với Nga. Và như vậy, vấn đề an ninh khiến EU phải cân nhắc kỹ lưỡng hơn Mỹ khi xử trí quan
hệ với Nga. Thứ hai, về kinh tế, EU và Nga đều là những đối tác thương mại hàng đầu của nhau.

Như vậy, lợi ích về kinh tế, thương mại của EU trong quan hệ với Nga lớn hơn Mỹ, và do đó
mức độ bị tổn thương nếu phá bỏ quan hệ với Nga của EU cũng cao hơn. Do đó, xét cả hai điểm
trên, có thể kết luận rằng, EU không thể chống đối Nga mạnh mẽ như Mỹ, cũng như không được


để Mỹ chi phối quá nhiều quan hệ của chính bản thân khối mình với nước Nga. Tuy nhiên, ảnh
hưởng của Mỹ là đáng kể, và chúng ta luôn phải tính đến nhân tố này trong các nghiên cứu, phân
tích về quan hệ EU – Nga.
2. Năng lượng:
Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng, cũng giống như các giai đoạn trước, từ năm
2008 đến nay, các vấn đề tồn tại xung quanh quan hệ EU – Nga đều ít nhiều có bóng dáng của
yếu tố năng lượng. Tiêu biểu nhất có thể kể đến chính là cuộc chiến 5 ngày tại Gruzia (2008) khi
mà cả hai bên đều có tham gia vào quá trình giải quyết xung đột. Theo đó, chỉ cần nhìn vào vị trí
chiến lược của quốc gia nhỏ bé này, chúng ta có thể hiểu tại sao xung đột ở đây lại trở thành một
vấn đề trong quan hệ EU – Nga. Đây chính là nơi trung chuyển dầu khí từ Trung Á đến châu Âu,
đồng thời cũng là ngã tư cung cấp dầu lửa ở vùng biển Caspi cho các nước EU 7. Như vậy, chúng
ta cần phân tích kỹ lưỡng nhân tố này khi nghiên cứu về cặp quan hệ EU – Nga.
Nằm trong khu vực có khí hậu lạnh giá và mùa đông rất khắc nghiệt, lại là một nền kinh
tế công nghiệp hóa cao, không có gì khó hiểu khi nhu cầu tiêu thụ dầu lửa và khí đốt của EU lại
chiếm đến 18,6% và 17% của thế giới 8. Trong khi đó, ngay cạnh EU có một nhà cung cấp năng
lượng dồi dào, lại nằm ngay trên lục địa châu Âu, đó chính là Nga. Mặc dù trong những năm gần
đây, EU đã và đang không ngừng nỗ lực giảm bớt sự lệ thuộc năng lượng vào Nga khi nhập khẩu
dầu lửa từ Na Uy, Mỹ hay mới đây nhất là Iran, nhưng nhìn chung mức độ lệ thuộc vào nguồn
cung dầu từ Nga của EU vẫn còn lớn. Do vậy, hợp tác năng lượng giữa EU – Nga đóng vai trò
cực kỳ quan trọng trong quan hệ song phương. Với tổng chiều dài hệ thống dẫn dầu lên tới
150.000 km, phân bố rộng khắp và xuyên suốt lãnh thổ châu Âu, Nga đã cung cấp khoảng 1/3
lượng dầu và 1/5 lượng khí đốt của mình cho EU. Xuất khẩu năng lượng còn chiếm tới 70% tổng
kim ngạch xuất khẩu và hơn 50% thu nhập tài chính của Nga 9. Như vậy, một bên có nhu cầu
năng lượng rất lớn, còn một bên lại dựa chủ yếu vào nguồn thu từ năng lượng, mà cả hai lại gần
gũi nhau về mặt địa lý. Chính những lý do này đã thúc đẩy hai bên hợp tác trên lĩnh vực năng

lượng. Nói cách khác, mức độ tùy thuộc lẫn nhau (interdependence) giữa EU và Nga về năng
lượng là rất lớn, và như thế mức độ tổn thương (vulnerability) của mỗi bên khi phá bỏ mối tương

7 PGS. TS. Vũ Dương Huân (2008), “Xung đột quân sự ở Nam Ossestia: Nguyên nhân, phản ứng quốc tế và triển
vọng tình hình”, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, 8 (95).

8 Thông tấn xã Việt Nam (2008), “Châu Âu bị gạt ra ngoài lề”, Tài liệu tham khảo chủ nhật, (37).
9 Hà Ngọc, Thuộc tính chính trị của dầu mỏ và nền kinh tế Nga, Năng lượng Việt Nam,
truy cập ngày 10/04/2016.


thuộc này cũng lớn theo. Để từ đó, nhân tố năng lượng có tác động đáng kể lên quan hệ song
phương, cả về tích cực lẫn tiêu cực.
Thứ nhất, về mặt tích cực, nhân tố năng lượng đã giúp tăng cường hợp tác giữa hai bên,
bởi lẽ nguồn năng lượng từ phía Nga giúp bảo đảm an ninh năng lượng, nghĩa là đảm bảo nguồn
cung và giá cả ổn định, để phát triển kinh tế xã hội cho cả hai phía, cũng như đáp ứng những lợi
ích khác của cả hai trong quan hệ đối với nhau. Trước hết, đối với Nga, một đối tác gần gũi tiêu
thụ năng lượng lớn như EU giúp Nga thu được lợi nhuận khá lớn về tài chính cho quốc gia, cũng
như tranh thủ được hỗ trợ về vốn, công nghệ, khoa học – kỹ thuật của các nước châu Âu. Ngược
lại, đối với EU, nguồn năng lượng từ Nga giúp duy trì nguồn cung và giá cả dầu lửa, khí đốt ổn
định trong khu vực, phục vụ nền kinh tế công nghiệp hóa cao của mình. Sự gần gũi về khoảng
cách địa lý cũng giúp cho việc vận chuyển trao đổi năng lượng giữa hai phía trở nên dễ dàng
hơn.
Do vậy, cả hai bên đều đặt tầm quan trọng của việc hợp tác trong lĩnh vực năng lượng lên
hàng đầu. Chẳng hạn, vào tháng 5 năm 2008, Nga và EU đã ký “Tuyên bố hợp tác năng lượng”,
theo đó, Nga cam kết đảm bảo năng lượng cho EU ít nhất trong vòng 20 năm kể từ ngày ký.
Ngoài ra, trong chuyến thăm Đức (tháng 11/2010), Thủ tướng Nga Putin đã thảo luận với Thủ
tướng Đức Merkel về triển vọng hợp tác kinh tế, thương mại song phương, quan hệ hợp tác giữa
Nga và EU, trong đó có lĩnh vực hợp tác năng lượng và việc thành lập tổ hợp tác năng lượng
chung nhằm thiết lập quan hệ bình đẳng và cân đối giữa các bên cung cấp, tiêu thụ, vận chuyển

và quá cảnh năng lượng. Ngoài ra, trong các Hội nghị Thượng đỉnh EU – Nga thường niên, chủ
đề an ninh năng lượng luôn là vấn đề được quan tâm thảo luận nhiều. Chính bởi những lợi ích to
lớn nhờ việc hợp tác trong lĩnh vực năng lượng như vậy đã giữ cho quan hệ hai bên không đi đến
căng thẳng quá mức mà dẫn đến khủng hoảng hay chiến tranh, bởi lẽ những thiệt hại về lợi ích
kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực chủ chốt là năng lượng, sẽ là rất lớn cho cả hai bên.
Thứ hai, về mặt tiêu cực, nhân tố năng lượng nhiều lúc lại làm tăng thêm căng thẳng
trong quan hệ EU – Nga. Trước hết, những trục trặc liên quan đến việc mua bán năng lượng giữa
hai bên sẽ gây ra những đình trệ trong tiến trình hợp tác EU – Nga. Chẳng hạn, cho đến thời
điểm cuối năm 2011, sau các cuộc đàm phán kéo dài, Nga và EU vẫn chưa ký kết được Hiệp
định Đối tác và Hợp tác toàn diện (PCA) mới nhằm thay thế cho Hiệp định cũ đã hết thời hạn
vào năm 2006. Do đó, việc Nga chưa ký Hiến chương năng lượng đã khiến EU bất an. Tiếp theo,
việc đơn phương sử dụng yếu tố năng lượng làm công cụ để đạt lợi ích riêng của mỗi bên cũng
sẽ gây ra căng thẳng kéo dài cho quan hệ EU – Nga. Theo chủ nghĩa tân tự do thể chế, sự tùy
thuộc lẫn nhau gây ra hậu quả tiêu cực lên quan hệ giữa hai chủ thể khi các bên chỉ quan tâm đến
lợi ích tương đối của mình, và không còn nghĩ đến lợi ích chung hay lợi ích tuyệt đối. Trường
hợp của EU và Nga cũng vậy. Chỉ cần một phía đặt nặng tư lợi bản thân, tác động tiêu cực sẽ lan


tỏa đến cả hai bên trong mối quan hệ EU – Nga, do lợi ích chung cho cả hai bên không được
đảm bảo. Chẳng hạn, trong việc trừng phạt Nga, EU cùng với Mỹ tác động làm hạ giá dầu nhằm
khiến cho kinh tế Nga suy thoái rồi sẽ bị “khuất phục” trong vấn đề Ukraine. Rõ ràng, việc sử
dụng “con bài” năng lượng để gây sức ép đối với nhau thay vì nghĩ đến lợi ích chung như đã
phân tích ở trên đã làm cho quan hệ hai bên EU – Nga bị tổn hại nghiêm trọng. Tóm lại, những
trục trặc trong quan hệ mua bán năng lượng cũng như việc lợi dụng năng lượng làm “con bài”
chính trị để mặc cả với nhau giữa EU và Nga đã đào ra những hố sâu ngăn cách, khiến cho hai
đối tác quan trọng nhất châu Âu khó xích lại gần nhau một cách chặt chẽ.
3. Nội bộ EU:
Vì EU có tới 28 thành viên, nên để phát huy sức mạnh tập thể trong quan hệ với Nga, sự
đoàn kết nội bộ chính là một nhân tố rất quan trọng. Tuy nhiên, cũng chính vì có số lượng thành
viên ngày một lớn, EU ngày càng phải đối mặt với những mâu thuẫn, bất đồng gia tăng trong nội

bộ, đặc biệt là trong cách nhìn nhận về nước Nga. Trong nội bộ EU tồn tại các nhóm ngầm hiểu
có những quan điểm khác nhau về nước Nga bao gồm nhóm “mềm mỏng” do có những lợi ích
kinh tế - chính trị - xã hội quan trọng trong quan hệ với Nga; nhóm “cứng rắn” cực lực phản đối
những động thái của nước Nga do bị ảnh hưởng bởi cái nhìn tiêu cực về Liên Xô trong quá khứ;
nhóm “trung dung” kêu gọi tránh tình trạng chiến tranh giữa EU và Nga.
Thứ nhất, khi nhắc đến nhóm “mềm mỏng”, chúng ta có thể kể đến Italia, Hungary,
Slovakia – nước luôn đặt Nga ở vị trí ưu tiên trong chính sách đối ngoại 10; Pháp, Đức – hai nước
hợp tác kinh tế chặt chẽ nhất với Nga trong EU chủ yếu thông qua việc buôn bán vũ khí, công
nghệ và ngược lại mua dầu mỏ, khí đốt từ Nga cũng như có mối liên kết về tài chính – ngân
hàng. Ngoài ra, trong những nỗ lực mới đây của Tổng thống Nga Putin nhằm thúc đẩy quan hệ
với các nước thành viên EU, ngăn chặn sự kéo dài việc thực hiện các lệnh trừng phạt của phương
Tây, các lợi ích kinh tế, hợp tác thương mại đã làm cho Nga và Hy Lạp, Síp, Cộng hòa Czech
xích lại gần nhau hơn.
Thứ hai, đối với nhóm “trung dung”, cái tên đầu tiên phải kể đến chính là Phần Lan –
nước phương Tây có biên giới lên đến 1300 km với Nga, từng giúp Đức chống Liên Xô trong
Thế chiến II và không là thành viên NATO. Đối với những rắc rối trong quan hệ EU – Nga do
cuộc khủng hoảng Ukraine nhất là sau khi Nga sáp nhập Crimea, nước này dường như không
chịu nhiều ảnh hưởng, thậm chí vẫn duy trì quan hệ tốt với Nga. Trong “Thông điệp Năm Mới”
ngày 1/1/2015, khi đề cập đến mối quan hệ với Nga, Tổng thống Phần Lan Niinistö cho biết
10 Thông tấn xã Việt Nam, Slovakia tăng cường hợp tác với Liên bang Nga, Báo Vietnam+,
truy cập ngày 10/04/2016.


“Chúng tôi sẽ tiếp tục duy trì sự hợp tác chặt chẽ”. Tuy nhiên, ông cũng đưa ra một tuyên bố
“nước đôi” khi lưu ý rằng Phần Lan cũng ủng hộ quan điểm của EU liên quan đến cuộc khủng
hoảng chính trị và nội chiến ở Ukraine và tình trạng Crimea. Một nước nữa cũng có thể xếp vào
nhóm “trung dung” chính là Anh. Nước này dường như luôn gắn liền với Mỹ nên trong các vấn
đề chính trị liên quan đến Nga, Anh hầu hết đều có cùng quan điểm với siêu cường này. Tuy
nhiên, hợp tác kinh tế - tài chính giữa Anh và Nga lại khá sâu rộng. Vì vậy, chính sách của nước
này trong quan hệ với Nga lại có phần trung dung, tuy ngoài mặt vẫn thể hiện sự ủng hộ Mỹ.

Thứ ba, nhóm “cứng rắn” với Nga có thể kể đến như các nước Cộng hòa vùng Baltic
(trước đây thuộc Liên Xô cũ, sau đã tách ra và gia nhập EU năm 2004) gồm Litva, Latvia,
Estonia cùng với Ba Lan (trước đây thuộc khối liên minh quân sự do Liên Xô lãnh đạo,
Warsaw). Những nước này đều có một điểm chung đó là đều có tiền thân là các nước xã hội chủ
nghĩa Đông Âu thuộc Liên Xô. Sau khi tuyên bố độc lập, tách khỏi Liên Xô, các nước này cho
đến nay vẫn luôn tỏ thái độ phản đối các động thái, hành vi của Nga.
Với ba nhóm như trên, nội bộ EU đã bị phân hóa sâu sắc trong quan điểm, cách nhìn
nhận đối với nước Nga. Chẳng hạn, trong phản ứng đối với chiến tranh 5 ngày tại Gruzia năm
2008, trong khi các nước vùng Baltic và Ba Lan ủng hộ chủ quyền của Gruzia, phê phán Nga
kịch liệt, thậm chí còn cùng ký vào Tuyên bố kêu gọi EU và NATO chống lại Nga thì các nước
như Pháp, Đức, Ý, Phần Lan, Síp… phản đối việc làm cho EU trở thành một liên minh đối đầu
với Nga. Điển hình là Pháp, với đường lối mềm mỏng, Tổng thống Pháp đã rất tích cực làm
trung gian hòa giải cho hai bên Nga và Gruzia, kết quả là cuối cùng hai bên xung đột đã ký vào
giải pháp 6 điểm do Tổng thống Pháp đề nghị (15/08/2008). Còn nước Anh thì về cơ bản cùng
với Mỹ lên án gay gắt nước Nga11.
Chung quy lại, các nhóm này không thống nhất quan điểm về chính trị rằng Nga là đối
tác hay là mối đe dọa của EU. Còn về kinh tế, mỗi nước thành viên lại có lợi ích kinh tế khác
nhau đối với Nga, có nước thu được nhiều lợi ích như Đức, Pháp, Anh…, có nước thu được ít.
Như vậy, có thể nói rằng, chừng nào EU còn tồn tại những mâu thuẫn như trên thì chừng đó EU
vẫn chưa thể xây dựng một chiến lược chung trong đường lối đối ngoại với nước Nga. Và điều
này gây ra những tác động cả về tích cực lẫn tiêu cực lên quan hệ song phương Nga – EU.
Thứ nhất, về tác động tích cực, rõ ràng là là việc có một số nước như Pháp, Đức, Ý chủ
trương mềm mỏng với Nga, lại là những nước có tiếng nói trong EU, sẽ giữ cho quan hệ tổng thể
của EU với Nga không quá căng thẳng mà dẫn đến đổ vỡ. Ví dụ về vai trò trung gian hòa giải
của Pháp trong việc giải quyết căng thẳng của Chiến tranh Gruzia chính là một minh chứng điển
11 PGS. TS. Vũ Dương Huân (2008), “Xung đột quân sự ở Nam Ossestia: Nguyên nhân, phản ứng quốc tế và triển
vọng tình hình”, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, 8 (95).


hình. Ngoài ra, trong vấn đề trừng phạt nước Nga sau khủng hoảng Ukraine và vụ việc sáp nhập

Crimea, nội bộ EU cũng thể hiện sự chia rẽ. Trong khi các nước vùng Baltic kêu gọi kéo dài
trừng phạt với Nga thì một số khác lại bắt đầu bày tỏ sự không đồng tình. Thủ tướng Hungary
cho rằng EU đang tự bắn vào chân mình. Tổng thống Slovakia thì cho rằng cấm vận sẽ phản tác
dụng mà chẳng mang lại lợi ích gì cho EU. Tổng thống Pháp thì lên tiếng kêu gọi EU và Mỹ dỡ
bỏ lệnh trừng phạt đối với Nga. Thủ tướng Cộng hòa Séc, Thủ tướng Phần Lan, hay ngay cả Ba
Lan, một nước luôn có lập trường cứng rắn với nước Nga, cũng tỏ thái độ mềm mỏng hơn và tỏ ý
không đồng tình việc kéo dài trừng phạt 12. Những sự bất đồng như thế này càng khiến cho EU
thận trọng hơn trong việc đưa ra các hành động gây tổn hại quan hệ của cả khối với nước Nga.
Bên cạnh đó, một tác động tích cực khác của nhân tố nội bộ EU lên quan hệ EU – Nga có
thể kể đến chính là chính nhờ sự bất đồng của các thành viên EU trong quan hệ với Nga, Mỹ sẽ
không thể nào chi phối được liên minh này một cách hoàn toàn, cũng như không thể lôi kéo EU
chống đối Nga cùng với mình trong thời gian dài. Do vậy, trong tương lai, có thể EU sẽ độc lập
hơn, từ đó, quan hệ EU – Nga cũng có thể được cải thiện do sự giảm xuống của lợi ích quốc gia
Mỹ.
Thứ hai, về tác động tiêu cực, trước hết, chắc chắn là việc có một số nước như Ba Lan và
3 nước vùng Baltic luôn chống đối Nga sẽ làm cho quan hệ EU – Nga luôn tồn tại những mâu
thuẫn tiềm ẩn và nhiều khi làm kéo dài tình trạng đối đầu giữa Nga với EU. Dù sao thì các nước
này vẫn có những tiếng nói nhất định giúp hình thành nên chính sách chung của EU đối với Nga.
Trên hết, EU vẫn đề cao tính đoàn kết, thống nhất trong toàn liên minh, vì vậy, đây sẽ là vật cản
lớn cho quan hệ EU – Nga trong quá trình tiến đến một tương lai tốt đẹp hơn.
Tiếp theo, chính do những bất đồng của một số thành viên EU với Nga, mà chủ yếu là
những nước Đông Âu có vị trí gần với Nga, đó sẽ là cơ hội tốt để Mỹ, thông qua NATO, ngày
càng gia tăng sự hiện diện quân sự của mình ở những nước này, làm cho Nga cảm thấy bị đe dọa
về an ninh. Để đáp trả và phòng vệ, Nga chắc chắn cũng sẽ thực hiện nhiều cuộc tập trận hơn,
tăng ngân sách quốc phòng, cũng như tiến hành các hoạt động quân sự khác nữa. Tình thế lưỡng
nan về an ninh (security dilemma) như vậy, cộng thêm tình thế “hòa bình bên miệng hố chiến
tranh” sẽ dẫn đến tình trạng khủng hoảng khi cả hai bên đều đã sẵn sàng cho một cuộc đụng độ
quân sự. Khi đó, quan hệ EU – Nga chẳng những sẽ căng thẳng hơn mà còn có nguy cơ nổ ra
một trận chiến mà cả hai bên đều biết chắc rằng sẽ lan rộng trở thành Chiến tranh thế giới mới,
lặp lại lịch sử đau thương của thế kỷ XX.

12 Tatia Dolidze (2015), “EU Sanctions Policy towards Russia: The Sanctioner - Sanctionee’s Game of Thrones”,
CEPS working document, 1 (402): truy cập
ngày 10/04/2016.


4. Quyền lực và vùng ảnh hưởng:
Kể từ sau khi Liên Xô tan rã đến nay, vấn đề quyền lực và cạnh tranh quyền lực giữa Nga
với EU vẫn luôn luôn làm căng thẳng quan hệ giữa hai bên, đặc biệt là ở vùng không gian hậu
Xô Viết, vùng Capcado, vùng biển Caspi và Biển Đen - những khu vực ảnh hưởng truyền thống
của Nga. Trong tất cả các động thái liên quan đến vùng không gian hậu Xô Viết và các vùng ảnh
hưởng ở Đông và Trung Âu của Liên Xô cũ, Nga luôn thể hiện mục đích của mình chính là ngăn
chặn và đẩy lùi việc mở rộng ảnh hưởng của phương Tây hay EU mà lấn sang “sân sau” của
Nga. Đó chính là lý do vì sao Nga lại phản ứng mạnh mẽ trước kế hoạch triển khai hệ thống
phòng thủ tên lửa ở một số nước như Ba Lan, Cộng hòa Séc… của Mỹ, hay việc EU cùng với
Mỹ khuyến khích Gruzia, Ukraine gia nhập EU và NATO13.
Từ năm 2008 đến nay, giữa hai bên không thể tránh khỏi một cuộc cạnh tranh quyền lực
và vùng ảnh hưởng, tiêu biểu là qua cuộc chiến 5 ngày tại Gruzia (2008), nội chiến tại Ukraine
và việc Nga sáp nhập bán đảo Crimea (2014). Trong quan hệ EU – Nga, quyền lực và vùng ảnh
hưởng là không thể tách rời. Bởi lẽ, cả hai bên đều mang vị thế cường quốc, mà cường quốc lại
đặc trưng bởi ba yếu tố quan trọng gồm sức mạnh, tư duy và ảnh hưởng. Muốn giữ được cương
vị nước lớn, cả hai đều cần các vùng ảnh hưởng, nói cách khác là các nước vừa và nhỏ phù thịnh
(bandwagon) xung quanh. Trớ trêu là, cả EU và Nga đều cùng nằm ở châu Âu, lại có đường biên
giới trực tiếp. Do vậy, các vùng ảnh hưởng tiềm năng chồng lấn lên nhau là chuyện không thể
tránh khỏi. Ở đây, trong bài tiểu luận này, để phù hợp với bối cảnh quan hệ EU – Nga, chúng ta
sẽ xem xét khái niệm quyền lực với nghĩa là sức mạnh quân sự cũng như khả năng gây ảnh
hưởng của một chủ thể lên các chủ thể khác trong hệ thống quốc tế, nghĩa là gắn liền với việc
thiết lập vùng ảnh hưởng.
Theo lý thuyết của chủ nghĩa hiện thực, các quốc gia trong hệ thống quốc tế không ngừng
theo đuổi quyền lực. Chính môi trường vô chính phủ vả thế lưỡng nan về an ninh đã đẩy các
quốc gia vào một cuộc chạy đua quyền lực không có hồi kết. Các quốc gia có thể theo đuổi

quyền lực vì bản chất tham vọng thống trị kẻ khác của con người theo trường phái hiện thực cổ
điển, hoặc cũng có thể theo đuổi quyền lực để bảo đảm an ninh cho mình theo trường phái hiện
thực cấu trúc. Soi vào trường hợp của Nga và EU, rõ ràng là cuộc đua cạnh tranh quyền lực vẫn
đang tiếp diễn gay gắt. Mục đích của cuộc cạnh tranh này có vẻ như nghiêng về bảo đảm an ninh
nhiều hơn là phản ánh bản chất ích kỷ muốn thống trị kẻ khác. Bởi lẽ, Đông Âu cũng như các
nước cộng hòa thuộc Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG) vốn được xem là vùng “vành đai an
ninh” tối quan trọng với nước Nga, giúp tạo một lá chắn khiến cho EU không thể tiến sát đến
biên giới của nước Nga. Bởi vì cả Nga và EU đều đã có vị thế cường quốc, nên rất dễ hiểu tại sao
13 PGS. TS. Vũ Dương Huân (2008), “Xung đột quân sự ở Nam Ossestia: Nguyên nhân, phản ứng quốc tế và triển
vọng tình hình”, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, 8 (95).


vùng ảnh hưởng, hay “sân sau” lại vô cùng quan trọng với cả hai. Cùng với đặc điểm địa lý là
cùng nằm trên lục địa châu Âu, sự va chạm, đụng độ giữa hai bên trong vấn đề cạnh tranh ảnh
hưởng là không thể tránh khỏi. Nhưng dù vì mục đích gì, cuộc đua quyền lực và cạnh tranh ảnh
hưởng giữa hai bên cũng gây ra những tác động, cả tích cực lẫn tiêu cực lên quan hệ song
phương EU – Nga.
Thứ nhất, về tác động tích cực, rõ ràng là cuộc chạy đua sức mạnh quân sự (chạy đua vũ
trang) giữa Nga và EU tạo ra một giới hạn nhất định cho hành động của mỗi bên. Theo đó, cả hai
luôn phải dè chừng nhau và không dám có những động thái quá mạnh mẽ làm căng thẳng xung
đột trong quan hệ song phương lên cấp độ khủng hoảng hay chiến tranh 14. Chẳng hạn, mặc dù
chạy đua vũ trang và răn đe nhau căng thẳng từ năm 2008 đến nay như vậy nhưng giữa Nga và
các nước thành viên EU vẫn chưa có một cuộc đụng độ nào, nếu có chỉ là đụng độ giữa Nga và
Thổ Nhĩ Kỳ khi chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ bắn hạ một chiếc máy bay SU – 24 của Nga làm một
phi công người Nga thiệt mạng năm 2015, mà Thổ Nhĩ Kỳ cũng chưa phải là thành viên EU, chỉ
liên hệ với các nước thành viên của thể chế này thông qua NATO. Dù thế nào, cả Nga và EU đều
hiểu ảnh hưởng khu vực và toàn cầu của mối quan hệ song phương EU – Nga, theo đó, nếu như
giữa hai bên xảy ra chiến tranh, cuộc chiến sẽ nhanh chóng lan rộng quy mô trở thành một cuộc
chiến tranh thế giới mới. Đó là một viễn cảnh mà không có bất kỳ một quốc gia nào, đặc biệt là
các nước lớn, mong đợi xảy ra.

Thứ hai, về tác động tiêu cực, chắc chắn là cuộc chạy đua sẽ luôn khiến cho quan hệ EU
– Nga rơi vào căng thẳng với mâu thuẫn khó dung hòa. Chúng ta có thể thấy, vai trò của Nga
trong cuộc nội chiến ở Ukraine cũng như việc Nga sáp nhập bán đảo Crimea mà EU cho là trái
phép đã làm quan hệ EU – Nga xấu đi và xuống đến mức thấp nhất kể từ sau Chiến tranh Lạnh
đến nay. Tháng 3 năm 2014, EU chính thức thông qua các biện pháp trừng phạt Nga vì hành
động đe dọa đến toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine. Cũng trong năm đó, vào tháng 8, Nga đã thực
hiện biện pháp đáp trả khi Tổng thống Putin tuyên bố cấm nhập khẩu các mặt hàng lương thực từ
EU bao gồm trái cây, rau thịt, gia cầm, cá, sữa… 15 Đến tháng 6 năm 2015, EU tuyên bố kéo dài
các biện pháp trừng phạt kinh tế với Nga thêm 6 tháng nhằm gây sức ép lên Nga sau việc sáp
nhập Crimea mà EU cho là “trái phép”16.
14 Mô hình các cấp độ xung đột trong quan hệ quốc tế của Michael S. Lund, bao gồm 5 cấp độ: Hòa bình bền vững
(Durable Peace), Hòa bình ổn định (Stable Peace), Hòa bình bất ổn định (Unstable Peace), Khủng hoảng (Crisis) và
Chiến tranh (War).

15 Ezekiel Pfeifer, The Long Winter Ahead for EU-Russia Relations, truy cập ngày 10/04/2016.

16Delegation

of
the
European
Union
to
Russia,
Chronology
of
bilateral
truy cập ngày 10/04/2016.

relations:



Mục đích cốt lõi của các biện pháp này là nhằm khuất phục lẫn nhau, giành chiến thắng
trong cuộc đua tranh giành ảnh hưởng tại địa bàn cụ thể chính là Ukraine. Nga không muốn
Ukraine nối gót các nước thuộc vùng ảnh hưởng truyền thống của Nga lúc trước gia nhập EU,
còn EU thì khuyến khích Ukraine gia nhập thể chế, tiến gần hơn đến biên giới của nước Nga.
Trong vấn đề Crimea, Nga muốn bảo toàn vị trí chiến lược của Hạm đội Biển Đen, nhờ đó giúp
Nga có điều kiện thuận lợi trong cuộc đua tranh giành ảnh hưởng với phương Tây ở châu Âu.
Còn phía EU thì lo sợ động thái sáp nhập này của Nga là một biểu hiện của chủ nghĩa Đại Nga
bành trướng, rất có thể trong tương lai, Nga sẽ tiếp tục “động đến” lãnh thổ của các nước thành
viên EU. Như vậy, tình hình ở miền Đông Ukraine không phải là mục đích chính trong cuộc
“mặc cả” giữa EU và Nga, mà điều cả hai quan tâm hơn chính là Ukraine sẽ theo bên nào, sẽ là
vùng ảnh hưởng của bên nào, phương Tây hay Nga. Cũng tương tự như vậy, việc Nga có được
phép sáp nhập bán đảo Crimea hay không, Ukraine có thể lấy lại Crimea hay không không phải
mối quan tâm chính của cả hai. Điều quan trọng là EU lo cho an ninh của chính mình, và Nga
cũng vậy. Tất cả không gì khác hơn là một cuộc tranh giành ảnh hưởng không ai chịu nhường ai.
Ngoài ra, chạy đua quyền lực thể hiện qua chạy đua vũ trang cũng làm cho cả EU và Nga
tiêu tốn nhiều tiền của vào việc trang bị vũ khí. Trong những năm qua, Nga đã tiến hành cải tiến
các loại vũ khí hạt nhân của mình, thực hiện rất nhiều các cuộc tập trận quân sự như là một thông
điệp răn đe và bảo đảm an ninh gửi tới EU. Nga còn tuyên bố sẽ thực hiện gần 4000 đợt huấn
luyện và tập trận quân đội trong tương lai17. Ngược lại, EU cũng không ngừng cải thiện vũ khí
hạt nhân của mình (hai nước thành viên là Anh và Pháp) nhằm đối trọng lại với Nga. Do không
có lực lượng quân đội chung nên mọi động thái quân sự của các nước thành viên EU đều được
thể hiện qua hoạt động của khối NATO. Phía NATO cũng đã lên kế hoạch thực hiện đến 270
cuộc tập trận trong tương lai18. Ngay trong năm 2015, NATO đã tiến hành nhiều hơn các cuộc
tập trận ở châu Âu, mở đầu là ở Đông Âu trong khuôn khổ kế hoạch “Lá chắn Liên minh”, trong
đó có cuộc tập trận với Ukraine trên Biển Đen, các cuộc tập trận hải quân ở Địa Trung Hải, Đại
Tây Dương và vùng Biển Baltic19.
Hơn nữa, chạy đua quyền lực trên lĩnh vực chính trị cũng có thể gây thiệt hại, ảnh hưởng
đến các lĩnh vực khác trong quan hệ song phương, làm cho quan hệ đã xấu đi lại còn xấu hơn.

17 Thanh Bình, Đằng sau việc Nga mua vũ khí của châu Âu, Tin Mới, truy cập ngày 10/04/2016.

18 Năng lượng mới, Châu Âu xét lại chính sách đối đầu với Nga, truy cập ngày 10/04/2016.

19

Tuyết
Minh,
Quan
hệ
Nga
phương
Tây
ấm
trở
lại?,
Báo
Đà
Nẵng,
truy cập ngày
10/04/2016.


Những thiệt hại về kinh tế sau một loạt các hành động trả đũa lẫn nhau kể từ khủng hoảng
Ukraine đến nay giữa EU và Nga đã trở thành minh chứng rõ nhất. Năm 2014, người nông dân
châu Âu đã phải hứng chịu tổn thất từ lệnh cấm nhập khẩu hàng nông sản của Nga khoảng 13 tỷ
Euro. Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu Kinh tế Áo, các nước thành viên EU chịu thiệt hại
nặng nề hơn Nga. Nếu như EU tiếp tục duy trì trừng phạt với Nga, Ý sẽ mất hơn 200.000 việc
làm, tăng trưởng kinh tế giảm 0,9%; Pháp mất gần 150.000 việc làm, tăng trưởng kinh tế giảm
0,5%. Estonia sẽ mất khoảng 16% việc làm, còn tăng trưởng kinh tế Đức sẽ giảm hơn 1%... Phía

Nga cũng đang lâm vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng, chịu thiệt hại hàng trăm tỷ USD 20.
Như vậy là từ căng thẳng trong quan hệ chính trị, quan hệ kinh tế, đầu tư, thương mại… giữa EU
và Nga cũng đang bị kéo xuống theo.
Tuy vậy, dù thế nào, quan hệ hai bên cũng không thể quá bị tổn thương vì nhân tố này.
Bởi lẽ, ngoài việc nó có tác động tích cực như đã phân tích ở trên ra thì giữa Nga và các nước
thành viên EU cũng có mức độ hợp tác quân sự đáng kể, và điều này mang lại lợi ích cho cả hai
bên. Do đó, cả phía EU và Nga cũng sẽ không để chiến tranh làm tổn hại đến những lợi ích này.
Chẳng hạn, EU và Nga đã ký nhiều hợp đồng mua bán vũ khí, như thỏa thuận mua tàu chiến
Mistral Pháp của Nga, thỏa thuận hợp tác giữa Nga với công ty chế tạo tàu hải quân Damen
Schelda của Hà Lan, với xưởng đóng tàu Navantia của Tây Ban Nha, với hãng sản xuất DCNS
của Pháp21…
Tóm lại, nhân tố quyền lực và cạnh tranh ảnh hưởng gây ra cả tác động tích cực lẫn tiêu
cực lên quan hệ EU – Nga như đã phân tích ở trên. Một mặt, thế chạy đua căng thẳng đã kiềm
chế hai bên trong việc thực hiện các hành động hung hăng và mất kiểm soát đối với nhau. Mặt
khác, cũng chính thế chạy đua như vậy lại khiến cho quan hệ luôn rơi vào trạng thái cảnh giác,
dè chừng lẫn nhau, gây ra thiệt hại cho cả các lĩnh vực khác trong quan hệ, cũng như tiêu tốn tiền
của vào các hoạt động quân sự. Cho dù thế nào, đây cũng vẫn là nhân tố nội tại rất quan trọng tác
động đến quan hệ song phương EU – Nga.
5. Lòng tin:
Để có thể hợp tác được với nhau, giữa EU và Nga cần phải có lòng tin. Vậy lòng tin là
gì? Về cơ bản, lòng tin là sự trông đợi của một quốc gia vào một dạng hành vi nào đó của một

20 Bích Đào, EU- Mỹ kéo dài lệnh trừng phạt Nga, cả hai bên “đều thua”, Đài Tiếng nói Việt Nam,
truy cập ngày
10/04/2016.
21 Thanh Bình, Đằng sau việc Nga mua vũ khí của châu Âu, Vietnamnet,
truy cập ngày
10/04/2016.



quốc gia khác22, trong đó nhấn mạnh mức độ liên lạc, giao tiếp và sự tin cậy lẫn nhau sẽ mang
đến ít rủi ro nhất và lợi ích lớn hơn cho tất cả các bên 23. Theo đó, lòng tin giữa hai hay nhiều
quốc gia chịu tác động của các vấn đề lịch sử cũng như mức độ tương đồng lợi ích giữa các bên,
trong đó lợi ích quốc gia được thể hiện qua ý chí và mong muốn của giới lãnh đạo, và có thể
được chia thành lợi ích sống còn, lợi ích chiến lược dài hạn, lợi ích quan trọng và những lợi ích
khác ngắn hạn hơn24. Đến lượt mình, lòng tin lại gây ra những tác động đáng kể trong quan hệ
giữa các chủ thể trong hệ thống quốc tế.
Như đã biết, hợp tác và xung đột chính là hai quá trình biện chứng của quan hệ quốc tế.
Không nằm ngoài lý thuyết đó, quan hệ EU – Nga cũng có hợp tác đan xen lẫn xung đột. Còn
mức độ hợp tác hay xung đột đến đâu còn phụ thuộc vào lòng tin giữa hai bên. Như vậy, rõ ràng,
lòng tin chính là một nhân tố quan trọng để lại những tác động lớn mà chúng ta không thể bỏ qua
khi nghiên cứu và phân tích về quan hệ EU – Nga.
Một mặt, mức độ tương đồng về lợi ích trong lòng tin làm cho hai bên EU – Nga xích lại
gần nhau. Chúng ta có thể phân tích lợi ích của Nga và EU trong quan hệ đối với nhau rồi tổng
hợp lại để thấy được mức độ tương đồng lợi ích EU – Nga lớn đến đâu.
Thứ nhất, đối với Nga, về kinh tế, với chiến lược phát triển nền kinh tế tri thức của Tổng
thống Putin, Nga rất cần đến công nghệ, khoa học – kỹ thuật tiên tiến của EU để tiếp tục phát
triển nền kinh tế nước nhà. Hơn nữa, Nga cũng rất cần nguồn doanh thu từ việc bán dầu cho các
nước EU. Về chính trị, với việc tăng cường quan hệ với EU, gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa
EU và Nga, Nga có thể tạo ra một lực đối trọng với Mỹ, ngăn cản Mỹ “dùng” EU làm bàn đạp để
kiềm chế Nga, bởi lẽ một khi lợi ích của EU trong quan hệ với Nga nhiều hơn của Mỹ, EU sẽ
không thể không nghĩ cho bản thân mình mà nhất trí với Mỹ chống đối Nga một cách mạnh mẽ.
Về văn hóa – xã hội, tiếp tục mối quan hệ với EU sẽ giúp Nga bảo đảm quyền và lợi ích của
người dân Nga sống tại các nước thành viên EU, cũng như thu hút thêm nhiều nguồn nhân lực
chất lượng cao từ EU đến Nga học tập, làm việc và sinh sống. Hơn nữa, gia tăng ràng buộc lẫn
nhau với EU, Nga có thể ngăn chặn việc EU tiếp tục sử dụng các giá trị châu Âu như dân chủ,
nhân quyền áp đặt lên nước Nga. Về an ninh – quốc phòng, rõ ràng là với sự gần gũi về mặt địa
22 Vũ Lê Thái Hoàng (2008), “Lòng tin và quan hệ tin cậy lẫn nhau trong quan hệ quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu
Quốc tế, số 75.


23 Vũ Lê Thái Hoàng (2008), “Lòng tin và quan hệ tin cậy lẫn nhau trong quan hệ quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu
Quốc tế, số 75.

24 Aaron M. Hoffman (2002), “A Conceptualization of Trust in International Relations”, European Journal of
International Relations, 8 (3), p. 384-93.


lý với EU, việc Nga hợp tác với EU nhằm đảm bảo an ninh chung cho cả hai bên, cũng như bảo
đảm ảnh hưởng của Nga ở vùng vành đai an ninh không gian hậu Xô Viết truyền thống là một
điều không thể tránh khỏi khi mà đường biên giới chung giữa EU và Nga đang ngày càng tăng
lên khi EU kết nạp các thành viên mới.
Thứ hai, đối với EU, về kinh tế, Nga rõ ràng là một thị trường lớn hấp dẫn các nhà đầu tư
của EU, đồng thời còn là nguồn cung năng lượng ổn định cho các nước thành viên. Về chính trị,
cũng giống như lợi ích của Nga đã phân tích ở trên, EU cũng cần tăng cường quan hệ với Nga
hơn để tạo thế đối trọng với Mỹ, tránh không để bị chịu áp lực quá nhiều từ phía Mỹ, cũng như
để bảo đảm lợi ích độc lập của mình trong quan hệ với nước Nga. Về văn hóa – xã hội, củng cố
quan hệ với Nga sẽ giúp châu Âu bảo vệ quyền và lợi ích của công dân mình đang làm việc và
sinh sống tại Nga, cũng như phổ biến những giá trị dân chủ, nhân quyền của mình trên toàn châu
Âu. Về an ninh – quốc phòng, rõ ràng là từ khi EU kết nạp thêm các thành viên Đông Âu, giữa
EU và Nga đã tồn tại biên giới trực tiếp, và đến này đường biên giới chung giữa EU và Nga đã
kéo dài đến 2.700 km. Điều này đòi hỏi cả Nga và EU phải hợp tác với nhau nhiều hơn nhằm
đảm bảo an ninh biên giới cho cả hai. Hơn nữa, những hoạt động quân sự của NATO, trong đó
hầu hết các nước EU đều là thành viên, cũng cần có sự trao đổi giữa EU và Nga nhằm tránh gây
ra những hiểu lầm trong việc bảo đảm an ninh cho cả hai phía. Ngoài ra, EU cũng cần đến Nga
với vai trò quan trọng trong trận tuyến chống khủng bố, tiêu biểu là chống lại Tổ chức Nhà nước
Hồi giáo tự xưng IS tại Syria hiện nay.
Như vậy, từ việc phân tích lợi ích của hai bên trong quan hệ song phương, chúng ta có
thể thấy rằng, EU và Nga chia sẻ mức độ tương đồng lợi ích đáng kể trên nhiều lĩnh vực, cả về
kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội lẫn an ninh – quốc phòng. Do đó, sự hợp tác giữa EU và Nga
sẽ trở nên dễ dàng hơn nếu hai bên đều nhận thức được tầm quan trọng của việc đạt được lợi ích

chung từ việc hợp tác với đối phương, nhất là khi hai bên đều cùng nằm ở châu Âu, có những sự
gần gũi về mặt địa lý và chia sẻ một số nét văn hóa chung.
Mặt khác, các vấn đề lịch sử lại gây ra những sự nghi kỵ khó có thể giải quyết, làm cho
quan hệ EU – Nga nhiều lúc vẫn còn tồn tại mâu thuẫn và xung đột. Nga và các nước thành viên
EU đã từng có lịch sử dài chống đối nhau, từ việc các nước phương Tây can thiệp vào nội chiến
Nga sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất, Liên Xô có Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại chống phát xít
Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, gần bốn thập kỷ đối đầu trong Chiến tranh Lạnh, cho
đến những xích mích đầu thế kỷ XXI như việc EU mở rộng ra vùng ảnh hưởng của Nga, vấn đề
Nam Tư, Kosovo…, đặc biệt là sự hờ hững của EU trước chính sách thân phương Tây của Nga
những năm đầu sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Chính bởi những quá khứ khó phai mờ nói
trên, EU luôn xem Nga là một mối đe dọa, khi mà chính sách đối ngoại của nước này rất thất


thường, khó đoán25. Hơn thế, EU chịu ảnh hưởng bởi tư duy của Mỹ, luôn muốn kiềm chế Nga,
không để Nga lấy lại vị thế siêu cường của Liên Xô trong quá khứ. Ngược lại, Nga cho rằng, EU
cùng với Mỹ đang ngày càng tiến sát đến biên giới phía Tây và phía Nam, từ Biển Baltic tới Biển
Đen nhằm kiềm chế, cô lập Nga ở châu Âu. Hơn nữa, Nga cũng hiểu rằng, thực hiện một chính
sách ngả theo phương Tây là không thể. Những nghi kỵ như thế này rất khó có thể hóa giải bởi
cả hai không thể chắc chắn những hành động trong lịch sử có thể lặp lại trong tương lai hay
không. Sự không chắc chắn về hành vi của đối phương (uncertainty), cộng thêm tác động lấn át
của các vấn đề lịch sử lên sự tín nhiệm (credibility) của mỗi bên đã làm cho cả EU và Nga không
thể xây dựng lòng tin đối với nhau lên một cấp độ mới.
Sự không tin tưởng lẫn nhau, coi nhau là mối đe dọa đến an ninh của mối bên được thể
hiện rõ nhất qua những cuộc “đối đầu” ở khu vực Kaliningrad – một tỉnh của Nga nằm xen giữa
và tiếp giáp với Ba Lan và Litva. Kể từ khi xảy ra khủng hoảng ở miền Đông Ukraine, các nước
thành viên EU trong khuôn khổ NATO đã cùng với Mỹ huy động lực lượng đến Ba Lan và vùng
biển Baltic nhằm kiềm chế và đe dọa Nga. Đáp lại, trong năm 2014, Nga cũng đã cho tiến hành
10 cuộc tập trận quy mô lớn liên tiếp ở Kaliningrad để đe dọa NATO. Những hành vi đáp trả qua
lại này đã thể hiện rất rõ sư không tin tưởng trong cách nhìn của EU và Nga về nhau.
Qua những phân tích nói trên, và dựa vào hai tiêu chí gồm tác động của các vấn đề lịch

sử và mức độ tương đồng về mặt lợi ích, chúng ta có thể nhận định rằng lòng tin giữa EU và Nga
đang ở cấp độ thứ ba, vừa hợp tác vừa cảnh giác 26. Tuy nhiên, lòng tin giữa hai bên đang có dấu
hiệu đi xuống khi nó đã bị xói mòn kể từ sau khủng hoảng Ukraine và việc Nga sáp nhập bán
đảo Crimea vào nước mình đến nay.
Rõ ràng, vấn đề lòng tin là một nhân tố cực kỳ quan trọng trong quan hệ song phương EU
– Nga. Một mặt, những lợi ích chung góp phần thúc đẩy hai bên xích lại gần nhau. Mặt khác, tác
động của các vấn đề lịch sử lại làm gia tăng sự nghi kỵ, gây ảnh hưởng tiêu cực đến quyết định
đối ngoại của các nhà lãnh đạo hai bên. Ngoài ra, lòng tin là một nhân tố chủ quan, xuất phát từ
bên trong quan hệ của hai bên, lại là tiền đề để hai bên đi tới hợp tác, và cũng là nguyên nhân
nảy sinh xung đột. Do vậy, có thể khẳng định rằng, lòng tin chính là nhân tố quan trọng nhất tác
động đến quan hệ EU và Nga.

25 Stefan Meister (2013), “EU - Russia Relations and the Common Neighbourhood: The Ball is on the EU’s Side”,
DGAP Analyse, 8 (7): truy cập ngày 10/04/2016.
26 Vũ Lê Thái Hoàng (2008), “Lòng tin và quan hệ tin cậy lẫn nhau trong quan hệ quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu
Quốc tế, số 75.


×